ASOKA: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Tuyển tập các bài viết về vua A Dục
Mục
lục
Phật
Giáo và A-dục Vương. K. R. Norman (Nguyên Tâm dịch)
Hoàng
đế Asoka, Con người của hòa bình và tình nhân bản. Minh
Chi
Đại
đế Asoka và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Thích Quảng
Đại
Đại
đế Asoka Maurya và những pháp dụ khắc trên đá Trần Trúc-Lâm
Hoàng
đế Asoka giã từ chinh chiến với nỗi thống khổ của người
thắng trận. Trần Hương Lan
Trường
ca Kalinga. Trúc Thiên
Phật
Giáo và A-dục Vương
K.
R. Norman
Nguyên
Tâm dịch
QUAN
ĐIỂM CHUNG ĐƯƠNG THỜI VỀ A-DỤC VƯƠNG
Trước
đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học
giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau
đây:
“Khái
niệm thành lập nên Sàsana hay Phật giáo ở một quốc gia
riêng biệt hoặc ở một nơi nào đó, lần đầu tiên do chính
A-Dục Vương thai nghén nên. Ông ta là vị vua đầu tiên chấp
nhận Phật giáo như là một quốc giáo, và khởi đầu cho
một cuộc chinh phục tâm linh vĩ đại gọi là Dhamma-vinaya…
Như một nhà chinh phục và cai trị mà thường thiết lập
chính quyền ở những quốc gia bị chinh phục do chính mình
bằng chính trị, cũng vậy A-Dục Vương có lẽ đã nghĩ đến
việc thành lập nên cái gọi là sàsana ở những quốc gia
bị ông ta chinh phục”.
Trong
một vài tác phẩm khác tôi cũng bắt gặp cùng một lập luận
như vậy: “A-Dục Vương là vị vua Phật giáo đầu tiên”, “A-Dục
Vương được gắn liền với Phật giáo đại chúng, và với
việc tiến hành rất nhiệt tâm những hoạt động tôn giáo
như hành hương và chiêm bái các Xá-lợi qua vấn đề ông
ta quan tâm đến việc xây dựng ngôi bảo tháp và điện thờ”,
rồi thì “A-Dục Vương là nhân vật chính trị và tâm linh
vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ xưa”.
Những
lời bình luận như vậy là theo kiểu mà như A-Dục Vương
đã được miêu tả trong các tác phẩm viết về Nguyên thủy
Phật giáo. Tôi đã cũng bỏ ra một quãng thời gian rất dài
của đời mình để nghiên cứu về các bia ký của A-Dục
Vương, song từ các bia ký ấy không khi nào tôi có thể tìm
thấy được chân dung một con người hoàn toàn trùng khớp
với những gì mà chúng ta đã viết về ông ta cả. Chính vì
lẽ đó, hôm nay tôi muốn khảo chứng lại vai trò mà A-Dục
Vương đã đóng trong lịch sử Phật giáo, và tôi cũng xin
chia xẻ những gì chúng tôi biết về ông ta qua các văn bản
Phật giáo với nguồn thông tin mà chúng tôi có thể lấy được
từ các bia ký của ông.
DỊCH
PHẨM BIÊN NIÊN SỬ PÀLI
Chắc
hẳn là mọi người ai ai cũng biết về A-Dục Vương thông
qua nguồn thông tin về vị vua nầy trong Biên Niên Sử tiếng
Pàli, là đặc biệt là trong bộ Mahàvamsa, mặc dầu rất nhiều
cùng câu chuyện được kể với chi tiết rõ ràng hơn trong
các nguồn tư liệu bằng tiếng Sanskrit và Trung Quốc.
Trong
bộ Mahàvamsa có ghi rằng sau khi phụ thân ông, Bindusàra, băng
hà thì A-Dục Vương đã giết 99 trong số 100 người anh em
của mình, chỉ còn để sót lại một mình Tissa mà thôi và
ông nghiễm nhiên trở thành người trị vì độc tôn cõi Diêm-phù-đề
(Jambudvìpa). Thế rồi sau khi nghe vị Sa-di Ni-câu-thuật (Nigrodha)
thuyết giảng, ông thắm nhuần Tam quy và Ngũ giới…và trở
thành một vị Ưu-bà-tắc (Upàsaka). Chúng ta cũng được biết
rằng A-Dục Vương là người hộ trì vững chắc cho Phật
giáo, ngăn chặn không cho bất kỳ tôn giáo nào bành trướng
cả. Ông đã ngưng không bố thí thức ăn hằng ngày cho 60.000
vị Bà-la-môn mà trước đây cha ông đã từng bố thí, và
thay vào đó cúng dường thực phẩm cho 60.000 vị Tỳ-kheo.
Ông còn ra lệnh cho xây dựng 84.000 ngôi tịnh xá (vihàra) ở
84.000 thị trấn, trong số đó ngôi tịnh xá nổi tiếng nhất
là ngôi tịnh xá do chính bản thân ông lập nên ở Pàtaliputra
– tịnh xá Asokàràma; và ông còn dựng các ngôi bảo tháp
(stùpa) ở những nơi mà Đức Phật đã đến viếng thăm.
Tư tưởng muốn trở thành người kế Pháp đã thuyết phục
đư?c ông cho phép người con trai Mahinda và cô con gái Sanghamittà
gia nhập tăng đoàn vào năm thứ 6 khi ông tại vị, và chính
sau nầy Mahinda đã được phái sang Srilanka (Tích Lan) với tư
cách là một nhà truyền giáo. Vào thời điểm phân chia bộ
phái Phật giáo trong Tăng đoàn thì chính đích thân ông lắng
nghe các vị Tỳ-kheo tỏ bày những quan điểm của họ và
có thể quyết định ai là thuộc phái chính thống và ai là
ngoại đạo. Sau khi cuộc phân phái đã được giải quyết
ổn thỏa, cuộc kết tập (sangìti) lần thứ III được tổ
chức dưới sự bảo trợ của ông.
Bộ
Mahàvamsa cho hay rằng vì những việc làm ác của ông nên mới
đầu người ta gọi ông là Candàsoka (A-Dục Vương hung bạo),
nhưng sao nầy nhờ những việc làm lương thiện của ông mà
ông được gọi là Dhammàsoka (A-Dục Vương mộ đạo). Dĩ
nhiên, sự thay đổi tên gọi cũng muốn nhấn mạnh đến sự
khác nhau giữa một A-Dục Vương không biết gì về Phật giáo
và A-Dục Vương với tư cách là một Phật tử vậy.
VỀ
CHÍNH BẢN THÂN A-DỤC VƯƠNG
Chúng
ta có thêm một số thông tin về A-Dục Vương khi đọc các
trụ đá của ông ta.
Tỷ
dụ như, câu chuyện ông quay về với Phật giáo được ghi
lại trong Biên Niên Sử hình như có chút gì đó hơi khác với
thông điệp ông ghi trên trụ đá. Lịch sử đầu tiên A-Dục
Vương để tâm đến Phật giáo được kể lại trong bức
Đạo dụ khắc trên đá (Minor Rock Edict) đầu tiên. Nhưng trái
lại, tôi như vừa mới nhấn mạnh ở trên, theo nguồn tư
liệu Pàli, thì A-Dục Vương đã hồi tâm về với Phật giáo,
đã cho xây dựng 84.000 tịnh xá, rồi thì cho phép người con
trai và người con gái mình gia nhập vào Tăng đoàn trong suốt
6 năm tại vị của ông; tuy nhiên, chúng ta có thể cân nhắc
từ những lời lẽ của A-Dục Vương rằng ông hồi tâm về
với Phật giáo chỉ sự thật xảy ra đúng ngay sau cuộc chiến
tranh ở Kalinga. Hơn nữa trong bức Đạo dụ thứ 13, ông còn
nhấn mạnh rằng việc ấy chỉ xảy ra khi ông được tôn
phong 8 năm. Việc ông hồi tâm có thể cho là đúng vì ông
hối hận, cũng không phải vì ông giết anh chị em mình; việc
này hình như bị phản bác lời xác chứng mà ông đã viết
cho anh chị em mình trong Đạo dụ thứ 5. Thật ra lý do ông
hồi tâm là vì việc ông đã đưa đi đày ải 150.000 người,
việc ông giết 100.000 người và cái chết của rất nhiều
người ở thành Kalinga. Bộ Biên Niên Sử quả là không biết
tí gì về vụ tàn sát đẫm máu này. Vào thời điểm mà ông
ban hành Đạo dụ thì ông đã là một cư sĩ Phật tử trong
hơn hai năm rưỡi rồi, bao gồm cả một năm khi ông chưa thực
sự thuận thành cho lắm – Điều này có nghĩa rằng sau khi
ông đã hồi tâm về với Phật giáo thì ông vẫn chưa phải
là một Phật tử nhiệt tâm – và rồi hơn một năm sau khi
ông đã thuận thành, hộ trì Tăng đoàn với nhữngh kết quả
tốt đẹp. Ông nói rằng: “tôi đã có tiến bộ tốt”. Khi
ông ban hành Đạo dụ đầu tiên thì cũng đúng vào thời điểm
ông tại vị năm thứ 11. Ông ban hành Đạo vị thứ 3 vào
năm thứ 12, vậy thì Đạo dụ đầu tiên và thứ 2, mặc dù
không ghi niên đại, ắt là được ban hành trong cùng một
năm này hay là vào năm thứ 11 vậy.
Tuy
nhiên, như câu chuyện có liên quan trong Đạo dụ đầu tiên
thì chẳng có bằng chứng trực tiếp nào chứng tỏ đó là
Giáo đoàn Phật giáo mà ông tham gia. Mặc dù trong một đoạn
văn của Đạo dụ (Đạo dụ ở Maski) mà ông diễn tả như
là một Budhasake. Hultzsch đã dịch từ này là “(Tôi là) Buddha-Sakya”
(Phật Thích Ca). Dường như có lẽ sự ghép chữ Budh được
thực hiện bởi một người viết ở địa phương để “chỉnh
lại” từ upàsake (Ưu-bà-tắc) mà A-Dục Vương đã thảo ra.
Điều đáng chú ý là từ Budhasake hay tiếng tương của nó
không hề xuất hiện trong bất cứ đoạn văn khác của Đạo
dụ đầu tiên. Tất cả của những đoạn văn khác đều có
chữ upàsaka.
Chắc
hẳn là người khắc Đạo dụ biết được rằng chẳng có
một dấu hiệu nào nhắc đến bộ phái mà A-Dục Vương tham
gia để trở thành một Ưu-bà-tắc, mà ông ta cũng muốn cho
được sự tình rõ ràng đối với các đọc giả sau này,
nên đã ghép chữ “Buddha” vào trước chữ upàsáka, rồi khắc
lên trụ đá.
Tuy
nhiên, sự xác chứng về A-Dục Vương trở thành một Phật
tử được công nhận qua việc ông đến viếng thăm cây Bồ-đề,
việc này được diễn tả trong Đạo dụ thứ 8 ban hành lúc
ông được tôn phong 10 năm. Đây chắc hẳn là một trong những
kết quả đầu tiên sau khi ông hồi tâm trở về với Phật
giáo, và điều này có lẽ cũng trùng khớp với cuộc viếng
thăm Tăng-già mà nhờ đó đã cải thiện đời sống tôn giáo
của ông.
Thật
vậy, chúng ta có thể đoan chắc rằng đối với A-Dục Vương,
thì Tăng-già có nghĩa là Tăng-già Phật giáo, bởi vì ngay
trong Đạo dụ thứ 11, khi ông tổng kết hết những thành
tựu của mình, ông tuyên bố rằng ông đã thiết lập những
vị “Đại quan” (Mahamatra) có đức độ để trông coi về vụ
việc của Tăng chúng, của các vị Bà-là-môn, các vị Ajìvika
(Tà mạng ngoại đạo), Kỳ-na giáo đồ và các giáo phái khác
thì có ghi rõ tên, nhưng Tăng-giàđây phải là Tăng-già Phật
giáo.
Thế
thì chẳng còn nghi ngờ gì rằng A-Dục Vương là một cư sĩ
Phật tử, nhưng cũng không có lý do gì mà tin rằng tâm trí
ông lại gắn liền với tôn giáo khác, và chúng ta có thể
thấy trong Đạo dụ thứ 6 là ông tôn kính tất cả các bộ
phái bằng nhiều hình thức khác nhau; và theo ông thì hình
thức hay nhất là đích thân đến viếng thăm họ. Như chúng
ta thấy, pháp hành của ông là đạo đức trái với tâm linh,
cho nên nếu nói cho công bằng thì ông ta cũng có thể là tín
đồ Kỳ-na giáo vậy.
PHÁP
HÀNH CỦA A-DỤC VƯƠNG
Các
Đạo dụ cung cấp khá nhiều thông tin về cách mà A-Dục Vương
truyền bá Pháp (dhamma) của mình. Đó là dhammathambhas “những
cột trụ pháp”, dhammalipi “văn thư pháp”, dhammamgala “tế lễ
pháp”, dhammadàna “bố thí pháp”, dhammanuggaha “nhiếp thọ pháp”,
dhammayàtras “những cuộc lữ hành pháp”, dhammasavana “nghe pháp”,
dhammamahàmàtras “những vị đại thần pháp”, dhammavijaya “chinh
phục pháp”.
Vấn
đề là phải biết xem thử pháp của A-Dục Vương có giống
với pháp của Đức Phật hay không. Ông ta thể hiện rõ sự
khác nhau giữa sự thực hành và thành lập thông thường,
và lối giải thích về pháp của chúng. Một cột trụ là
một thamdha. Nó trở thành một cột trụ pháp nếu pháp của
A-Dục Vương được khắc lên đó. Cũng đã có những vị
đại quan trước thời A-Dục Vương, nhưng chính ông là người
đầu tiên thành lập nên những vị đại quan pháp để truyền
bá pháp của mình. Trước thời ông, các vị vua cũng đã từng
thực hành những chuyến lữ hành. Riêng ông thì thành lập
các cuộc lữ hành để ông có thể thực hành pháp của mình
trong suốt những chuyến lữ hành ấy. Người ta đã từng
tiến hành tất cả những loại tế lễ trong trường hợp
bị đau ốm, tại những cuộc đám cưới, để cầu xin con,
hay cầu xin an toàn trước khi lên đường v.v… Tuy nhiên, tế
lễ pháp lại là phương thuốc trị bệnh thích hợp cho những
người dân nô lệ và đầy tớ, kính trọng các bậc tôn sư,
là sự tự chế ngự đối với các xin vật sống, sự rộng
lượng đối với những vị Sa-môn và Bà-la-môn v.v…
Pháp
của A-Dục Vương còn được giải thích rõ ràng trong nhiều
bia ký, tỷ dụ như dưới một hình thức vắn tắt trong bản
Đạo dụ thứ hai như sau: “Hãy vâng lời cha mẹ mình; vâng
lời người lớn tuổi; có từ tâm với sinh vật sống; nói
sự thật”. Người ta bảo rằng tất cả những điều này
phù hợp với sự tự nhiên của cổ nhân (porana pakati), một
diễn dịch của thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên là “trở về
với nguyên sơ”. Ở một nơi khác, trong bản Đạo dụ thứ
3, có xuất hiện một lối giải thích hơi rộng về vấn đề
trên như sau “Vâng lời cha mẹ là tốt; hào phóng với bạn
bè, người thân quen và bà con họ hàng, với các vị Sa-môn
và Bà-la-môn là tốt; có tiết độ trong tiêu dùng, trong tài
sản là tốt”.
Một
loạt Đạo dụ trên các trụ đá mà chúng ta thường gọi
là Đạo dụ Trụ đá (Pillar Edicts), nhằm giải thích về pháp
A-Dục Vương, với một bản tường thuật chính bản thân
ông đã tuân theo pháp ấy như thế nào; đó là bằng cách
ông đã trồng nhiều cây để tạo bóng râm hai bên đường
đi, rồi đào giếng và tạo những nơi cấp nước cho người
và súc vật. Đạo dụ một nói về sự cai trị bằng pháp;
Đạo dụ 2 nhấn mạnh rằng pháp gồm có ít tạo tội, làm
nhiều điều thiện, thể hiện lòng từ bi, bố thí nói thật
và trong sạch tâm linh. A-Dục Vương đã làm nhiều việc thiện
bằng cách không sát sanh. Đạo dụ 3 nói về thiện và ác
và minh chứng rằng ác là hung bạo, tàn nhẫn, phẫn no, kiêu
căng và thèm khát. Đạo dụ 4 nhấn mạnh đến nhu cầu và
bình đẳng công lý và việc cải tạo các tù nhân. Đạo dụ
5 thì ngăn cấm việc giết hại một số sinh vật mà có nêu
rõ tên. Đạo dụ 6 nhấn mạnh rằng mục đích chính là đem
lại hạnh phúc cho tất cả. Mọi giáo phái đều được tôn
kính, đặc biệt là những giáo phái đích thân ông đến viếng
thăm. Đạo dụ 7 như là một bản tổn kết những việc mà
A-Dục Vương đã làm. Ông giải thích lý do vì sao các vị
vua ngày xưa đã tìm cách tăng cường pháp. Riêng A-Dục Vương
quyết định thực hiện pháp ấy bằng cách thuyết giảng
và dạy dỗ, rồi ông thành lập nên các cột trụ pháp (dhammathambaha)
và đại quan pháp (dhammamahàmàtras) để đưa quyết định
của ông thành thực tiễn. Các vị đại quan pháp gắn liền
với tất cả giáp phái. Pháp một lần nữa được định
nghĩa như là: vâng lời cha mẹ, vâng lời sư trưởng, kính
trọng người già, cư xử thích hợp với các vị Sa-môn và
Bà-la-môn, với người nghèo, nô lệ và đầy tớ. Pháp ấy
càng ngày càng gia tăng là nhờ vào hiến pháp của A-Dục Vương,
tỷ dụ như nói về việc không giết hại thứ vật, đó cũng
là vì thái độ tâm linh… vì lương tâm cá nhân (nijhati).
Ở
một nơi khác như trong Đạo dụ khắc trên đá lớn cho ta
biết rằng người ta phải vâng lời và tuân theo pháp ấy.
Món quà mà pháp ấy đem lại được xem như là phương thuốc
chữa bệnh thích hợp cho những người nô lệ, vâng lời cha
mẹ, v.v…, rộng lượng với các vị Sa-môn và Bà-la-môn,
bất sát sanh. Chính pháp ấy đem lại công đức vô lượng.
A-Dục
Vương gọi các Đạo dụ của ông là những văn thư pháp (dhammalipi)
và chúng ta có thể đọc rồi thấy rõ ràng trong mỗi văn
thư ấy chứa đựng pháp gì. Pháp đó dành riêng cho vấn đề
đạo đức, đó cũng là lý do vì sao chúng ta thường dịch
từ dhammalipi là “huấn dụ về đạo đức”. A-Dục Vương đã
cho phổ biến pháp của mình thật rộng rãi, rồi thiết lập
nên những vị đại quan pháp để giám thị pháp ấy, cho dựng
những cột trụ pháp để khắc pháp ấy lên, và phái các
vị sứ giả (duta) để đem pháp ấy đi tuyên truyền khắp
Ấn Độ và thậm chí đến tận miền Tây Hy Lạp. Trong một
chừng mực nào đó thì có thể nói rằng những tư tưởng
đạo đức này hoàn toàn phù hợp với những lời dạy về
đạo đức của Phật giáo, ngoài ra chẳng có cái gì thuần
túy Phật giáo trong tư tưởng ấy cả. Đối với sự nhấn
mạnh về bất sát sanh (ahimsà) thì tư tưởng ông giống hệt
Kỳ-na giáo. Quả thật vậy, người ta đã lập nên một bản
so sánh tương đương về danh sách tên các sinh vật không được
giết hại ghi trên Đạo dụ thứ 5 và danh sách các sinh vật
trong Thánh thư Kỳ-na giáo.
Chúng
ta thấy rằng, trong Đạo dụ ở Bairàt, dưới tên riêng của
mình là Priyadasi, A-Dục Vương chào mừng Tăng-già và cầu
chúc Tăng-già hưng long. Ông ta nói rằng đức tin của ông
vào Phật, Pháp và Tăng thật vĩ đại biết bao. Rõ ràng là
trong bản văn này, từ Dhamma (Pháp) có nghĩa thường dùng như
là một trong ba yếu tố của Tam Bảo (Triratna), nhưng thật
ra pháp mà A-Dục Vương ám chỉ đến không giống pháp của
Đức Phật. Vì lẽ đó, đoạn trích dẫn mà tôi có đưa ra
ở phần đầu bài diễn thuyết này về việc thiết lập nên
cái gọi là sànana ở những quốc gia mà ông ta đã chinh phục
bằng tâm linh, hình như dựa trên sự hiểu lầm về bản chất
pháp của A-Dục Vương.
SỰ
CHINH PHỤC VÀ CÁC SỨ GIẢ CỦA A DỤC VƯƠNG
Cũng
một đoạn trích dẫn ấy hình như là sai lầm khi đề cập
đến các quốc gia đã bị A-Dục Vương chinh phục bằng tâm
linh, nếu như pháp của ông ta là pháp chinh phục (dhammavijaya).
Theo như tôi biết thì A-Dục Vương đã bành trướng đế quốc
mình bằng sức mạnh, nhưng sau đó lại nghĩ ra được nguyên
tắc chiến thắng bằng đạo đức, và rồi truyền thừa nguyên
tắc ấy cho hậu duệ của ông ta.
Theo
tôi thì nguyên tắc chủ đạo của A-Dục Vương là bất sát
sanh (ahimsa), hay nói cho đúng ra thì đó là kết quả sự hối
hận của ông sau cuộc tàn sát đẫm máu ở Kalinga. Đạo dụ
đầu tiên của ông ban ra hầu hết toàn bộ liên quan đến
việc nghiêm cấm sát sanh trong đời thường, gồm cả việc
giết súc vật để tế lễ và ăn thịt.
Trong
Đao dụ thứ 13 ông kể đến câu chuyện sau chiến thắng ở
Kalinga thì chết chóc và khổ đau xảy ra như thế nào, chính
điều đó đã cắn rứt lương tâm ông và ông thiết tha mong
mỏi có đạo đức (dhamma-pháp). Song điều làm A-Dục Vương
đau lòng là chính những người tuân thủ theo pháp của ông
ta, trong đó bao gồm cả các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thì chính
họ lại chịu khổ đau. Lúc bấy giờ, điều ông muốn là
một cuộc chinh phục bằng pháp, bao gồm cả sự an ninh cho
mọi loài, sự tự chế ngự, tính trầm tĩnh và hòa nhã. Các
sứ giả được phái đi khắp nơi để thuyết giảng pháp
này, gồm cả những vương quốc miền Tây Hy Lạp. Cuộc chinh
phục bằng đạo đức (dhamma) của ông được công bố với
hy vọng rằng hậu duệ của ông sẽ không nghĩ rằng đó là
chiến thắng bằng quân sự, bằng vũ trang mà thường dẫn
đến thảm sát giống như ở Kalinga. Chiến thắng như vậy
sẽ mang tính nhẫn nại (khantil) và trừng phạt nhẹ (lahudandatà).
A-Dục Vương cầu mong sao cho những người dân trụ ngụ trong
rừng núi (giống như ông ta) có thể ăn năn (những việc làm
sát sanh xưa kia?) và chấm dứt sát hại (trong tương lai).
Và
theo tôi thì chắc chắn những vị sứ giả được phái đến
các Vương quốc Hy Lạp kia không phải là được giao cho sứ
mạng truyền bá Phật giáo. Dường như họ được phái đến
để nhằm tận lực thuyết phục các nhà cai trị ở các nước
lân bang rằng họ cũng nên từ bỏ đi tham vọng chinh phục
bằng chiến tranh, mà nên thiết lập một vương quyền hòa
bình và an định, trên cơ sở nguyên tắc pháp của A-Dục
Vương. Theo tôi việc A-Dục Vương cho tăng cường các phái
đoàn sứ giả đến Hy Lạp, quả là một sai lầm vậy. Cố
nhiên chúng ta cũng chẳng có bằng chứng nào về phía Hy Lạp
cho biết rằng có bao nhiêu phái đoàn sứ thần đã đến nước
này vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên.
PHẬT
GIÁO CỦA A DỤC VƯƠNG
Thật
quá rõ ràng từ những điều tôi vừa mới nói về pháp của
A-Dục Vương mà những ai cho rằng ông ta đã làm cho Phật
giáo trở thành quốc giáo, thì quả thật quá rộng về nhận
định. Trong các Đạo dụ của mình, A-Dục Vương đề cập
rất ít hay thậm chí là chẳng nói gì về Phật giáo cả.
Ông chẳng hề đề cập đến giáo lý căn bản của Phật
giáo như là Luân hồi (samsàra), giải thoát (mokkha), Niết-bàn
(nibbàna), Vô ngã (anatta), Bát Chánh Đạo, hay Tứ Diệu Đế.
Một trong những Đạo dụ riêng khác có nhấn mạnh rằng mục
tiêu mà ông nhắm đến là vì hạnh phúc của tất cả; và
nhiều bia ký khác cũng có ghi lời tuyên bố rằng mục đích
chính của ông là muốn cho dân chúng ông được sống trong
hạnh phúc trên cõi thế, trên trời và ở các thế giới khác
nữa. Ông ta khoe khoang rằng ông đã hòa lẫn con người với
chư thiên. Tôi đưa ra điều này là để muốn nói rằng ông
đã thành công trong việc đưa con người lên Thiên giới, mà
nơi đó dĩ nhiên rồi một lúc nào đó họ cũng được tái
sanh làm chư thiên. Theo tôi thì điều này lại hoàn toàn khác
với giáo lý tái sanh luân hồi vô tận của Phật giáo.
Sự
thất bại chung của ông là lý giải Phật giáo khác đi rất
nhiều. Chắc có lẽ vì vô minh hay chăng, mặc dù ông đã nghiễm
nhiên là một vị cư sĩ Phật giáo, song ông chẳng có một
chút hiểu biết gì về giáo lý Phật giáo cả. Có lẽ ông
cũng hiểu biết về Phật giáo, nhưng ông lại nghĩ rằng Phật
giáo thường biệt đãi một giáo phái nào đó quá mức, và
như thế nó sẽ phá hủy tính không thiên vị mà ông nhắm
đến để bày tỏ một nơi nào đó. Cũng có thể là ông cho
rằng Phật giáo không thích hợp cho việc ông ban hành Đạo
dụ, hay nói trắng ra, là không phù hợp cho việc ông muốn
lưu bố cái gọi là pháp hành cá nhân của ông, mà pháp này
mục đích đem lại hòa bình cho đế quốc ông và có thể
làm cho thần dân ông được sống trong tinh thần hài hòa bình
đẳng với nhau.
Một
trong những giải thích hơi kỳ lạ mà tôi đã có đề cập
qua là quan điểm cho rằng những gì A-Dục Vương truyền đạt
trong các Đạo dụ của mình chính là giai đoạn mà trong đó
Phật giáo chính là thời kỳ của ông ta. Hultzsch cho rằng:
“Pháp của A-Dục Vương được đồng ý khắp nơi dưới hình
thức đạo đức Phật giáo mà đạo đức ấy là bảo tồn
trong… Kinh Pháp Cú. Ở đây, chúng ta thấy rằng Phật giáo
đang còn tuổi ấu thơ vậy…”. Ông ta còn nói thêm rằng:
“Trong một quan điểm trọng chính mà các bia ký của A-Dục
Vương khác với Kinh Pháp Cú là không phản ánh giai đoạn
khởi nguyên hình thành nên thần học và siêu hình học Phật
giáo như đã diễn đạt trong kinh này. Ông chẳng biết tý
gì về giáo lý Niết-bàn, thế mà giả định trước đức
tin Ấn Độ giáo cho rằng phần thưởng của việc tu tập
theo pháp của ông là sẽ được hạnh phúc trong đời này
và phước báo cho đời sau “. Ông Hultzsch đã nêu lên một
vấn đề rất lý thú về bản chất của siêu hình học Phật
giáo. Có thể rằng giáo lý Niết-bàn là thuộc vào giai đoạn
phát triển sau này của Phật giáo chăng? Tôi chẳng tin vấn
đề lại như vậy, và vì lẽ đó tôi nghĩ rằng lý do mà
ông Hultzsch đưa ra sự thất bại của A-Dục Vương khi đề
cập đến Niết-bàn là không đúng.
Ở
một khía cạnh khác, vấn đề có vẻ giống hệt với những
gì đã được tìm thấy ở Srilanka và được Richard Gombrich
miêu tả nên. Richard tường thuật rằng: “Nhưng hầu hết người
dân Tích Lan không muốn Niết-bàn… họ chỉ bảo rằng họ
chỉ muốn sanh lên Thiên giới mà thôi”. Vâng ít nhất là mấy
người này cũng hiểu rõ về Niết-bành. Còn A-Dục Vương
thì chưa từng bao giờ nghe đến điều ấy cả. Mặc dù lời
tuyên bố của những người dân làng kia nghe có vẻ lạ thật,
nhưng thật ra nó lại hoàn toàn trùng khớp với lời tuyên
bố mà chúng ta có thể tìm thấy ở cuối Kinh Xà Dụ (Alagaddùpamasutta)
của Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikàya), ở đó đức Phậ tuyên
bố rằng những vị Tỳ-kheo nào tu tập đúng pháp với pháp
có tín tâm, thì sẽ được chánh giác (sambdhi); còn những
ai chỉ có tín tâm vào Phật và kính quý Ngài thì người ấy
sẽ được sanh lên Thiên giới. Như vậy những người dân
làng này biết rất rõ về Niết-bàn, nhưng họ thích sanh lên
Thiên giới hơn vì họ kính quýĐức Thế Tôn. Còn A-Dục Vương
thì chẳng thể hiện sự kính quý nào đối với Đức Thế
Tôn cả. Đối với ông ta, sanh lên Thiên giới làn nhờ làm
những điều như đã quy định trong pháp của ông. Như ông
đã từng đặt câu hỏi trong Đạo dụ thứ 9 rằng: “Còn có
điều gì hơn là được sanh lên Thiên giới chăng?”
VỀ
ĐẠO DỤ Ở BAIRÀT
Sự
thể hiện mạnh nhất về mối liên hệ của ông với Phật
giáo là ở trong Đạo dụ ở Bairàt mà tôi đã đưa ra trước
đây, và chúng ta cũng nên lưu ý rằng điểm duy nhất mà ông
có đề cập đến giáo lý Phật giáo là ở trong Đạo dụ
viết cho Tăng-già này. Trong Đạo dụ này ông nói rằng tất
cả những gì do Đức Phật thuyết giảng đều là đúng, và
ông có giới thiệu 6 tên bản kinh cho Tăng-già. Ông cho giáo
lý của Đức Phật là diệu pháp (saddhamma), mà có lẽ đó
cũng là một việc làm cố ý muốn phân biệt pháp của Đức
Phật với pháp của ông. Chúng ta cũng hy vọng rằng A-Dục
Vương có thuyết giáo cho những người hồi tâm cải giáo.
Có một vấn đề mà chúng ta vẫn chưa thể biết chắc chắn
về tính đồng nhất của một số văn bản, song vì đôi khi
chúng ta cũng thấy được rằng các luận sớ, tỷ dụ như
về bộ Kinh Tập (Sutta-nipàta), thì có nhiều văn bản dưới
nhiều tên khác nhau. Nên có lẽ chúng ta cũng không lấy làm
ngạc nhiên gì khi chúng ta không tài nào nhận biết được
tất cả những bản mà A-Dục Vương đã chọn. Câu hỏi đặt
ra là liệu A-Dục Vương có khả năng kể rõ đích danh những
bản ấy hay không? Câu hỏi này ám chỉ muốn nói rằng có
một số Thánh điển đã thật sự hiện hữu trong thời ông
ta, song Thánh điển ấy thật quá phức tạp đến nỗi ngày
nay chúng ta chẳng tài nào giải quyết nổi.
Hoàng
Đế Asoka, Con Người của Hòa Bình
và
Tình Nhân Bản
Minh
Chi
Bất
cứ sử gia nào, dù là người phương Đông hay người phương
Tây, dù có thiện cảm hay không đối với đạo Phật, đều
phải thừa nhận đạo Phật đã tạo ra trong con người Asoka
một biến đổi thần kỳ: Asoka, con người tàn ác (candasoka),
sau khi theo đạo Phật đã trở thành Asoka, con người thiện
lành (dharmasoka), hay con người thân thiết với thần linh (devanampiya),
con người ai thấy đều vui mừng (pyadasi)…
Hoàng
đế Asoka (Hán dịch âm A-dục) trị vì trên một nước Ấn
Độ rộng lớn hơn bây giờ (trừ phần cực Nam của bán đảo),
vào khoảng những năm 274-237 trước Tây lịch (TL). Asoka là
cháu nội của Chandragupta, người sáng lập ra triều đại
Maurya (Hán dịch là Khổng Tước). Cha của Asoka là Bindusara,
có 16 người vợ và 101 con. Asoka chỉ có một người em trai
cùng mẹ là Tissa, về sau cũng xuất gia và chứng quả A la
hán.
Người
ta kể lại, được tin vua cha lâm bệnh nặng tại thủ đô
Pataliputra, Asoka lúc bấy giờ đang làm phó vương tại vùng
Tây Bắc Ấn, vội vã kéo quân về, giết sạch tất cả anh
em, trừ người em đồng mẹ là Tissa, và lên ngôi vua, vào
năm 329 trước TL. Nhưng lễ đăng quang chỉ được tổ chức
4 năm sau, vào năm 325 trước TL. Sự chậm trễ này nói lên
bầu không khí bẩt bình trong triều cũng như ở ngoài dân
chúng, trước hành động tàn bạo, làm mất nhân tâm của
Asoka lúc bấy giờ.
Vào
những năm đầu của triều đại mình, để củng cố thêm
vương quốc, Asoka đã mở chiến dịch đánh chiếm xứ Kalinga
(nay là Orissa). Trong cuộc chiến, 10 vạn người bị giết,
15 vạn bị bắt. Cảnh tang tóc của chiến tranh đã làm cho
Asoka vô cùng hối hận, và từ đó về sau trở thành rnột
Phật tử thuần thành, một vị hoàng đế của hòa bình, của
một tình cảm nhân bản, sâu sắc bao gồm cả người và loài
vật.
Sự
nghiệp vĩ đại của Asoka được ghi lại bằng chính các cáo
văn của ông, khắc trên các bia đá là trụ đá, do chính ông
dựng lên rải rác tại khắp nhiều nơi trên vương quốc rộng
lớn của ông, mà các nhà khảo cổ phương Tây và Ấn Độ
đã dần dần phát hiện được từ nửa cuối thể kỷ XIX
trở lại đây.
Lịch
sử cho biết Asoka đã bãi bỏ tội tử hình trong vương quốc
mình. Trong Dụ đá Kalinga, Asoka nói :
“Cũng
như tôi mong cho con cái tôi được hưởng mọi hạnh phúc và
an lạc ở đời này và đời sau, tôi cũng cầu mong cho tất
cả mọi người đều cũng được hưởng hạnh phúc và an
lạc như vậy.
Có
tình hình xảy ra là có một số ngườí bị bắt giam mà không
có lý do xác đáng gì, và rất nhiều người khác bị đau
khổ vô cùng.
Vì
vậy mà các người phải theo con đường trung đạo, có mực
thước. Nhưng sẽ không thể nào noi theo được con đường
trung đạo ấy, nếu các người còn làm nô lệ cho những tật
xấu như đố kỵ, không kiên nhẫn, tàn ác, nóng vội, thiếu
chuyên sâu, lười biếng và thụ động.
Các
người phải mong sao cho đừng phạm vào những tật xấu nói
trên.
Dụ
này được khắc ra ở đây, để cho các pháp quan trong thành
phố tránh không bắt giam dân chúng mà không có lý do xác đáng.
Và
cũng vì mục đích ấy mà cứ năm năm một lần, ta gửi các
phái viên đi công cán, những phái viên của ta phải có thái
độ từ ái, dễ thương, quan tâm đến sự sống thiêng liêng
của mọi loài.”
Dụ
trên đây cho chúng ta biết đường lối trị dân của Asoka:
Các pháp quan phải công minh, không được bắt giam người
mà không có lý do xác đáng. Vua quan tâm tới hạnh phúc của
toàn dân, như là quan tâm tới hạnh phúc của con cái mình
vậy. Asoka lên án mọi biểu hiện của đố kỵ, đàn áp,
lười biếng, thụ động, thiếu chuyên cần v.v…
Trong
Dụ thứ hai của 14 Dụ trên đá, Asoka viết:
“Trong
tầt cả mọi nơi của vương quốc ta và cũng vậy trong các
nước láng giềng, như các nước Cholas, Pandyas, Satyaputra, Keralaputra.
Trên
đảo Tambapanni (Lanka), trong vương quốc của vua Hy Lạp Antiochus,
và cả trong vương quốc láng giềng của vưong quốc của Antiochus.
Tại
khắp mọi nơi, ta đã cho dựng lên hai loại nhà thương, nhà
thương cho người và nhà thương cho súc vật.”
Copleston,
trong cuốn “Đạo Phật nguyên thủy và hiện đại” (Buddhism
Primitive and Present) thừa nhận rằng “Công lao xây dựng những
nhà thương đầu tiên chắc chắn là thuộc về đạo Phật”
. Nhưng cần nói thêm là ngoài những nhà thương đầu tiên
cho người, Asoka còn cho xây dựng những nhà thương cho súc
vật nữa! Chúng ta biết nhà thương sớm nhất do người Tây
phương xây dựng là nhà thương Diu ở Paris (Pháp) vào thế
kỷ thứ VII TL, nghĩa là khoảng 1.000 năm sau các nhà thương
của Asoka.
Lòng
thương yêu của Asoka đối với loài vật thật là có một
không hai. Dụ đầu tiên trong số 14 Dụ trên đá viết: “Ở
đây không một súc vật nào được giết và hiến tế.”
Trước
đây, trong bếp nhà vua, mỗi ngày, hàng trăm súc vật bị giết
thịt để làm món càri. Nhưng từ nay, sau khi đạo dụ thành
tín này được khắc trên đá, thì chỉ còn đưọc giết thịt
hai con công và một con nai mỗi ngày, nhưng đối với con nai
thì không thường xuyên. Nhưng từ nay trở đi thì cả ba súcvật
đó cũng sẽ không bị giết thịt.
Trong
Dụ thứ 5 trên trụ đá, Asoka viết:
“Ngay
cả rơm rạ, nếu có sinh vật ở trong đó, cũng không bị
đốt.
Rừng
cũng không được đốt, hoặc vì sai lầm, hoặc là vì hung
bạo và tàn ác đối với sinh vật.
Không
được nuôi sinh vật bằng sinh vật.”
Dụ
thứ hai trên đá cho biết, chính những Phật tử đã xây đựng
những nhà thương đầu tiên ở Châu Phi và Châu âu.
Nhà
thương cho các súc vật là sáng tạo riêng có của đạo Phật.
Các nhà thương súc vật hiện còn ở Ahmedabad, Surat và trong
nhiều thành phố khác ở Ấn Độ là những tổ chức còn
lại, hay là được xây theo mô hình của những nhà thương
súc vật dưới triều đại Asoka. Theo bác sĩ Cumsron, tác giả
cuốn Lịch sử y học, thì nhà thương súc vật hiện còn ở
Surat chính do Asoka đầu tiên xây dựng nên. Về nhà thương
đó, trong cuốn Quan cảnh xứ Ấn Độ, Hamilton viết như sau:
“Tổ
chức đáng được chú ý nhất ở Surat là nhà thương Cây
Đa (Banyan Hospital). Đó là một cái sân rộng , xung quanh có
tường cao bao bọc, và được chia thành những sân nhỏ tiện
nghi đối với súc vật. Súc vật ốm được chăm sóc rất
chu đáo ở đây, và nếu già yếu tàn tật, thì đây cũng
là nơi an dưỡng thật tốt cho chúng. Nếu một con vật bị
què chân, hay là bị thương tật, thì chủ nó đem nó đến
nhà thương và nó sẽ được chăm sóc rất chu đáo, không
phân biệt chủ nó thuộc quốc tịch hay đẳng cấp nào. Năm
1772, nhà thương đó chữa bệnh cho ngựa, lừa, bò cái, cừu,
dê, khỉ, gà, vịt, bồ câu và rất nhiều loại chim. Kể cả
một con rùa già, nghe nói đã an dưỡng ở đây từ 75 năm
nay.”
Cựu
Thủ tướng Ấn Độ Nerhu nói rằng: “Chính gương sáng của
Asoka và sự truyền bá của đạo phật đã khiến cho tập
quán ăn chay trở thành phổ biến trong dân chúng Ấn Độ.”
Yêu
quý con người, cỏ cây và loài vật tức là thương yêu và
trân trọng sự sống, bất cứ sự sống đó biểu hiện dưới
dạng gì, đó là đặc điểm riêng có của đạo Phật mà
vua Asoka đã thể hiện một cách sinh động và có hiệu quả
không những trong vương quốc của vua, mà còn trong các vương
quốc khác nữa, gần và xa, cả ở Châu Âu và Châu Phi. Điều
này nói lên uy tín lớn lao của vua Asoka, sức thuyết phục
của chính sách hòa bình và thành tín của vua đối với các
vương quốc khác, các vị vua khác.
Thi
hành một chính sách như vậy, Asoka đã thực hiện đúng theo
những lời khuyên của chính Đức Phật, khi Ngài tại thế,
trong kinh Cakkavatti Sihananda Suttta (Kinh Chuyển Luân Vương).
Đúng
như vậy, lý tưởng mà Asoka theo đuổi suốt đời mình là
“Đảm bảo hạnh phúc vật chất và tâm linh cho toàn thế giới
, bao gồm cả người và sức vật và các sinh vật khác, không
những trong vương quốc của nhà vua, mà trong cả thế giới
mà vua được biết hay là có quan hệ.” (Giáo sư Bhanhrkar).
Tiến sĩ Bhanhrakar cho biết rằng “Asoka đã sử dụng sứ quán
của nước mình tại triều đình các vua Hy Lạp đương thời
để phổ biến chánh pháp của Phật, phổ biến chính sách
cai trị nhân đạo của mình, cũng giống như vua sử dụng
các quan chức của mình để làm công việc đó ở trong nước…”.
Vì vậy , chúng ta không ngạc nhiên rằng đạo Phật đã ảnh
hưởng tới đạo Gia Tô không những trên bình diện lễ nghi
bên ngoài, mà cả trên bình diện lý thuyết và đạo đức
nữa.
Dụ
thứ 13 trên đá cho biết Asoka đã từ bỏ chiến tranh theo
chính sách hòa bình trong thời điểm và hoàn cảnh như thế
nào.
“Khi
vua Piyadasi, được các thần linh yêu mến, lên ngôi cách đây
6 năm, vua đã chinh phục vương quốc Kalinga, có đến 150 ngàn
người bị tù đày, 100 ngàn người bị giết, và một số
lớn hơn nữa bị chết sau đó. Nay vương quốc Kalinga đã
bị chinh phục rồi, trong lòng vua sinh ra mối quan tâm đối
với tôn giáo, lòng quí mến tôn giáo, muốn giải quyết vấn
đề tôn giáo. Và vua hối hận về cuộc chinh phục vương
quốc Kalinga. Trái lại, cuộc chinh phục bằng tôn giáo mà
hiện nay vua đang tiến hành, đem lại cho vua một sự thỏa
mãn rất lón. Nhưng sự thỏa mãn đó vẫn không đáng kể.
Vì vua cho rằng, chỉ sự thưởng phạt ở kiếp sống sau mới
quan trọng hơn.”
“Đạo
dụ về tôn giáo này được ghi lại bằng chữ viết, nhằm
mục đích sau này để cho cháu chắt ta sẽ không bao giờ tiến
hành một cuộc chinh phục quân sự nào nữa . Và nếu một
cuộc chinh phục quân sự là cần thiết, thì cháu chắt ta
phải tỏ ra có lòng từ ái, rộng lượng, chỉ trừng phạt
nhẹ, và phải thấy cuộc chinh phục tôn giáo là cuộc chinh
phục chân chính. Cuộc chinh phục tôn giáo đem lại kết quả
tốt trong kiếp sống này và trong các kiếp sống sau. Chúng
ta phải có niềm vui hỗ trợ cho tôn giáo. Bởi vì tôn giáo
đem lại kết quả tốt trong kiếp sống hiện nay và trong kiếp
sống sau này”…
Dụ
này còn cho biết Asoka tin ở thuyết tái sinh, là một trong
những chủ thuyết của triết lý đạo Phật. Từ nay, Asoka
trở thành một Phật tử thuần thành. Trong Dụ đá Virata nổi
tiếng (hiện nay được giữ lại trong Viện Bảo tàng Calcutta),
Asoka viết:
“Hỡi
các vị Thượng thủ tôn quý, các vị đã biết lòng quý trọng,
lòng tin tưởng của tôi đối với Phật, Pháp, Tăng lớn lao
đến dường nào!
Thưa
các vị Thượng thủ quý mến, mọi điều do Phật, đấng
chí tôn nói đều hay đẹp cả…”
Vua
muốn đích thân nêu gương sáng cuộc sống đạo hạnh của
vua cho mọi người noi theo. Trong Dụ trên trụ đá thứ VII,
Asoka viết:
“Tôi
có làm bất cứ một công việc thiện lành nào, thì dân chúng
noi theo gương tôi cũng làm và sẽ làm mọi công việc thiện
lành như vậy.
Và
dân chúng sẽ lớn lên với những đức tính vâng lời cha
mẹ, vâng lời thầy giáo, tôn trọng bậc lớn tuổi, tôn trọng
và có thái độ đúng đắn đối với các bậc Thánh, đối
đãi thân ái với những người nghèo và bệnh tật”.
Các
Dụ đá của Asoka nói chung, không chứa đựng những giáo nghĩa
cao siêu gì, mà chủ yếu là những lời khuyến cáo có tính
chất đạo đức: Tình thương người và súc vật, lòng bao
dung đối với mọi tín ngưỡng, không phải chỉ tín ngưỡng
Phật giáo… Tuy nhiên, trong Dụ Bhabra, có thể được công
bố vào năm thứ 13 của triều đại Asoka, vua có khuyến cáo
Tăng chúng nên nghiên cứu một số đoạn kinh Phật, mà chúng
ta có thể nhận biết như là một phần của Kinh tạng Pàli:
“Vua
Magadha gởi lời chào Tăng chúng, chúc Tăng chúng đưọc an
lạc và sức khỏe.
Các
Đại Đức kính mến, các Đại đức đã biết rõ lòng kính
trọng và lòng tin của tôi đối với Tam bảo, Phật, Pháp,
Tăng là sâu rộng đến dường nào.
Thưa
các Đại Đức, Thế Tôn nói mọi lời đều hay.
Thế
nhưng, thưa các Đại Đức, theo quan niệm của riêng tôi, thì
có thể chỉ ra một số văn kiện đặc biệt:
1.
Đề cao giới luật.
2.
Hành trạng của các bậc Thánh vĩ đại.
3.
Nỗi lo sợ điều có thể xảy ra.
4.
Bài ca của người ẩn sĩ.
5.
Đàm thoại về cuộc sống của người ẩn sĩ .
6.
Câu hỏi của Upatishya.
7.
Thuyết pháp cho Rahula đề tài tà kiến.
Tôi
mong rằng đông đảo Tăng Ni sẽ thường được nghe và suy
tư trên những bài kinh đó. Cả những cư sĩ cũng như vậy,
nam cũng như nữ.
Vì
lẽ đó, tôi cho ghi lại lời nói của tôi, để dân chúng
biết rõ tôi có ý định như thế nào.”
Dụ
trên được ghi bằng tiếng Magadhi. Văn kiện 1 “Đề cao giới
luật” chính là giới bổn Patimokka, văn kiện 3 “Mối lo sợ
điều có thể xảy ra” rút trong kinh Pancaka Nipata thuộc Anguttara
Nikàya (Tăng Chi Bộ kinh, cuốn III). Văn kiện “Đàm thoại về
cuộc sống của người ẩn sĩ”, nói tới cuộc sống không
còn dục vọng, cuộc sống trong đó cả ba nghiệp thân, khẩu,
ý đều được bình lặng. Upatisya hay Upatissa là Xá Lợi Phất
hay Sariputta, một trong những đệ tử lớn nổi danh của Phật.
Đức Phật trả lời Tôn giả Xá Lợi Phất về những nguy
cơ đe dọa người tu hành.
Bài
thuyết pháp cho Rahula (La Hầu La) có trong Trung Bộ kinh I, tr.414-420,
bản Anh ngữ.
Trong
một Dụ khác, Dụ Sarnath, ông có giọng nói không phải của
một Phật tử bình thường, mà là của một vị lãnh đạo
giáo hội. Trong Dụ, ông viết:
“Vâng,
đúng như vậy, ngay cả đối với tôi tớ và nông dân, cũng
phải cư xử như vậy.
Sự
tiến bộ của dân chúng trong chánh pháp được thực hiện
bằng hai con đường, bằng nghe thuyết giảng chánh pháp, và
bằng suy tư nội tâm.
Trong
hai biện pháp đó, thì biện pháp suy tư nội tâm cao cấp hơn
nhiều. Hiệu quả siêu việt của biện pháp suy tư nội tâm
được thể hiện trong sự tăng trưởng lòng tin đạo của
dân chúng, và trong việc hoàn toàn chấm dứt tệ giết hại
sinh vật.
Tôi
sẽ sử dụng các vị Tăng quan (Dharmamahamatras) để bày tỏ
mối quan tâm của nhà vua đối với các vị tu khổ hạnh cũng
như các vị tu tại gia, đối với tất cả mọi tín đồ các
tôn giáo. Tôi cũng dùng họ để đảm bảo cuộc sống hạnh
phúc an lạc của Tăng già. Tôi cũng dùng họ với mục đích
như vậy đối với Bà la môn, các vị tu khổ hạnh phái Ajivikas,
phái Nighantas, trên thực tế tức là đối với tất cả mọi
tu phái.
Họ
và các quan chức chủ yếu khác được giao nhiệm vụ phân
phối vật phẩm cúng dường của vua và các hoàng hậu, và
ngay tại triều, ở đây, tại kinh đô cũng như tại các tỉnh,
các quan chức nói trên sẽ thực hành các biện pháp khác nhau,
những biện pháp sùng tín đạo giáo và bố thí đem lại niềm
an lạc.
Tôi
cũng thu xếp để cho các quan chức đó giúp việc phân phối
vật phẩm cúng dường của con cái tôi, của các hoàng tử
và công chúa khác. Vâng, họ sẽ được dùng để thúc đẩy
mọi công việc thiện lành theo chánh pháp, để thúc đẩy
việc thực hành chánh pháp.
Họ
có chức trách thiêng liêng lo lắng để cho trong dân chúng
có được sự tăng trưỏng lòng nhân từ, tính trung thực,
lòng rộng lượng, trong sạch, từ hòa, thánh hạnh…
Chính
nhằm mục đích ấy mà đạo Dụ này được khắc lên đá,
bền lâu như mặt trời và mặt trăng để cho con cái, cháu
chắt tôi, mọi ngưòi nối dõi tôi sẽ theo đúng chánh pháp.
Bởi
vì những người theo đúng chánh pháp sẽ được hưởng hạnh
phúc trong đời này và cả trong những đời sau”.
Dụ
thứ 4 viết:
“Nay
do tôi thực hành chánh pháp, tiếng trống trận của chiến
tranh không còn vang lên nữa, mà thay vào là tiếng trống của
chánh pháp.”
Sau
trận chiến thắng Kalinga, Asoka đã vô cùng hối hận và long
trọng tuyên bố từ nay sẽ loại bỏ chiến tranh trong chính
sách của vương quốc mình, và thay vào đó, dùng chánh pháp,
dùng Phật pháp để chinh phục lòng người. Mà chánh pháp,
đúng như Asoka hiểu, tức là sự quan tâm đến đời sống
vật chất và tâm linh của tất cả mọi dân chúng, sự quan
tâm đến đời sống của mọi loài.
“Trong
tất cả mọi lúc, mọi nơi, tôi đều quan tâm đến tình hình
và công việc của toàn dân.
Dù
đang khi ăn, dù là ở trong phòng của hoàng hậu, trong phòng
ngủ của tôi, nơi đồng ruộng, trong xe hay trong viên, khắp
mọi nơi, các quan chức phải báo cáo cho tôi biết mọi công
việc của dân chúng, và tôi lúc nào cũng sẵn sàng giải quyết
công việc của dân chúng ở khắp mọi nơi.
Tôi
đã ra lệnh mọi công việc của dân chúng phải được báo
cáo cho tôi biết, ở khắp mọi nơi, bất cứ vào giờ nào.
Vì
rằng tôi không bao giờ thỏa mãn về sự cố gắng của bản
thân tôi. Đúng như vậy, bổn phận cao nhất của tôi là đảm
bảo cho toàn đất nước được hạnh phúc và an lạc. Không
còn chức trách nào cao quí hơn là đảm bảo hạnh phúc cho
toàn dân.
Và
nếu tôi có cố gắng hết sức mình: thì cũng là nhằm mục
đích trả món nợ của tôi đối với tất cả moi chúng sinh,
đảm bảo cho mọi loài được hưởng hạnh phúc trong đời
sống này và hạnh phúc của cõi trời trong kiếp sống tương
lai.
Chính
nhằm mục đích ấy mà tôi cho khắc lời Dụ này trên đá,
để cho chánh pháp mãi mãi lưu tồn, để cho con cái và cháu
chắt tôi có thể thực hành theo chánh pháp, vì hạnh phúc
và an lạc cho toàn đất nước.
Nhưng
đó là một mục đích khó thành tựu được, trừ phi là có
cố gắng hết sức, hết lòng mình”.
Dụ
trên cho thấy Asoka quan niệm chức trách, bổn phận của một
ông vua Phật tử phải như thế nào, cho thấy một vị vua
Phật tử, trước hết, phải toàn tâm toàn ý phục vụ cho
hạnh phúc và an lạc của toàn dân như thế nào.
Dụ
Maski (địa danh nơi tìm ra Dụ đá) viết:
“Thật
sự như vậy, từ nay trở đi, tôi phải lo lắng, đảm bảo
cho hạnh phúc vật chất và tâm linh cho toàn đất nước. Noi
theo con đường hòa bình, tôi sẽ dắt dẫn toàn thế giới
từ bỏ dục vọng đến với hòa bình.
Từ
ngày tôi gặp được Tăng chúng, tự tôi, tôi đã gắng sức
rất nhiều.
Hậu
quả tốt của sự cố gắng không phải chỉ dành riêng cho
các vĩ nhân. Nếu anh ta muốn, thì người bình thường cũng
có thể gắng sức mà vươn tới được cõi trời hạnh phúc
và an lạc.
Chính
vì mục đích ấy mà những lời này được công bố. Tất
cả mọi người, lớn cũng như bé, hãy cố gắng hết sức
mình.”
Dụ
Maski trên đây cho thấy Asoka coi trọng và thực hành đức
hạnh tinh tấn, siêng năng như thế nào. Một ông vua Phật
tử phải là một ông vua hết sức tích cực và chủ động
giải quyết mọi việc có ích lợi cho dân chúng trên cả hai
mặt vật chất và tâm linh, tinh thần. Asoka quan niệm như thế
nào là con đường hạnh phúc và an lạc. Dụ trên viết tiếp:
“Phải
biết vâng lời cha mẹ. Cũng như vậy, các thầy giáo và mọi
người xứng đáng phải được tôn kính. Phải thương yêu
mọi loài vật. Phải nói sự thật.
Đó
là những đức tính cao cả cần được thực hành và đề
cao.
Cũng
như vậy, học trò phải phục vụ thầy dạy, mọi người
quan hệ với nhau phải nhã nhặn và lịch sự.
Đó
là tín điều chân chính và cổ xưa, tín điều ấy sẽ giúp
sống thọ.
Vì
vậy dân chúng hãy hành động theo đúng tín điều này”.
Các
học giả phương Tây đánh giá cao các Dụ đá của Asoka
Các
Dụ đá của Asoka được tất cả mọi học giả phương Tây
đánh giá cao. Robert Blatchford trong cuốn “Thượng đế và người
láng giềng của tôi” (God and My Neighbor) đã viết rằng:
“…
Jesus và các Cha của nhà thờ chưa từng bao giờ cấm chế
độ nô lệ, chưa từng bao giờ cấm tệ kỳ thị tôn giáo,
cấm thái độ tàn ác đối với loài vật.
Còn
đạo Phật trên thực tiễn đã xóa bỏ nô lệ chế và tệ
khủng bố tôn giáo, dạy đức hạnh tiết độ, cuộc sống
trong sạch và lòng nhân hậu, và xây dựng được nền đạo
đức cao cấp hơn, đề cao tư tưởng toàn nhân loại đều
là anh em.
Các
Phật tử đã thực hành và truyền bá một tôn giáo nhân bản,
một tình huynh đệ bao quát toàn loài người trước kỷ nguyên
của Jesus. Mà không phải chỉ giảng thuyết mà còn thực hành,
đó là điều mà những người đạo Gia Tô không bao giờ thành
tựu được, trước kia cũng như hiện nay.
Và
hơn nữa, các Phật tử không truyền bá nhân hậu và huynh
đệ của họ bằng gươm giáo, cùm tra tấn, đinh đóng tay,
củi thiêu người. Các Phật tử đã giải phóng người nô
lệ và mở rộng lòng thương của họ, bao trùm cả loài vật.
Đạo
đức của người Phật tử không ghi lại trong sách. Nó được
ghi trên đá. Không có một lý lẽ nào có thể xóa bỏ các
Dụ đá của vua Asoka…”
Về
các phái đoàn truyền giáo dưới thời vua Asoka
Dưới
thời Asoka, các phái đoàn truyền giáo được gởi đến Hy
Lạp, Trung á, Sri Lanka và các xứ mang tên gọi chung là Suvannabumi
(nay là bán đảo Đông Dương).
Các
nhà khảo cổ đã tìm thấy dòng chữ khắc trên đá: Supurisasa
Moggaliputtatissa. Sapurisasa là con người thiện, con người lành.
Moggaliputtabssa là vị A la hán dưới thời vua Asoka đã lănh
đạo kỳ Đại hội kết tập kinh tạng lần thứ ba. Và sau
Đại hội này, nhiều phái đoàn truyền giáo của vua Asoka
được phái đến các nước ngoài.
Cuốn
Mahavamsa, tập biên niên sử của Sri Lanka, cho biết sau cuộc
Đại hội kiết tập lần thứ ba, bốn vị A la hán cùng với
Maijhima Thera được phái đến vùng núi Himalaya để truyền
giáo. Nhưng đến lúc sắp nhập Niết bàn thì cả bốn vị
này cùng với vị trưởng đoàn trở về xứ sở quê hương
của họ. Trong hai hộp đựng xá lợi tìm thấy ở bảo tháp
Sanchi, có khắc tên hai vị: Kassapagotta , vị đạo sư của
vùng Himalaya và Majjhimagotta. Majjhima Thera chính là vị trưởng
đoàn truyền giáo vùng Himalaya.
Đoàn
truyền giáo đi Sri Lanka cũng để lại nhiều dấu vết quan
trọng. Đoàn gồm bốn vị cao tăng Itthiya, Utthiya, Baddhiya,
Sambala và vị trưởng đoàn A-la-hán Mahinda. Dòng chữ khắc
được phát hiện thấy tại vùng Rohana, vùng phía Nam Sri Lanka,
ở nơi mang tên Rajagala , có dòng chữ khắc trên đá bằng
chữ Brahmi, cột đá dài tới 18 feet. Có chữ dài tới 1 foot
(*): “Ye ima dipa patamaya idiya agatana ulika (terana) hide teraha tube”.
Nghĩa: “Đây là bảo tháp, chứa xá lợi của các Thượng tọa
Itthiya và Mahinda đã đến đảo này bằng phép thần thông”.
(*)
foot là đơn vị chiều dài ở nước Anh, bằng 3 tấc rưỡi
Hai
cuốn sử biên niên Mahavamsa và Dipavamsa viết về Mahinda: “Ngài
đến trên không bằng phép thần thông”. Tất nhiên đối với
các bậc A-la-hán, bay trên không là chuyện dễ dàng.
Nhưng
Paranavitana, một trong những nhà khảo cổ học lớn nhẩt của
Sri Lanka, lại giải nghĩa đoạn câu: “Idiya Agatana” là “đến
đây, vì sự an lạc của những người dân Sri Lanka”. Có lẽ
vì ông cho rằng bấy giờ, ít người tin ở các phép thần
thông, nhưng ở một đoạn sau, ông viểt thêm “Nhưng có sự
giống nhau phần nào giữa điều tôi nói ở đây với câu
trong tập Mahavamsa: “Thượng tọa Mahinda đã bay trên không từ
xứ Vidisa đến”. Được biết sau khi Mahinda tịch, xá lợi
của ngài được chia cho nhiều nơi để cho nhân dân Sri Lanka
xây bảo tháp cúng dường. Bảo tháp đựng xá lợi của Mahinda
được tìm thấy tại một nơi cách hàng trăm dặm nơi hỏa
táng ngài tại Anuradhapura.
Mahintale
là nơi Mahinda trú ngụ lâu dài. Giáo sư Paranavitana nói rằng
hộp xá lợi phát hiện ở đây chắc chắn cũng là một hộp
xá lợi của Mahinda. Vua Asoka và vua Tissa ở Sri Lanka, người
đồng thời với Asoka là bạn thân. Vua Tissa gởi biếu Asoka
nhiều quà tặng, toàn là châu báu và ngọc quý. Theo yêu cầu
của Asoka, vua Tissa thực hành một lễ đăng quang lần thứ
hai với tên Devanampiya, nghĩa là thân thiết đối với Thần
linh. Cần nhắc rằng các vua Ấn Độ triều đại Maurya cũng
có cùng một danh xưng đó. Từ vua Devanampiya trở đi, trong
hàng nhiều thế kỷ, các vua Sri Lanka đều theo danh xưng như
vậy. Danh xưng này là một bằng cớ về sự du nhập sớm
của đạo Phật vào đất nước Sri Lanka. Một bằng cớ nữa
là cây Maha Bodhi (cây Bồ đề) ở Anuradhapura là một nhánh
của cây Bồ đề tại Maha Bodhi Gaya bên Ấn Độ (Bồ Đề
đạo tràng).
Giáo
sư Paranavitana, khi phân tích bia đá ở Rajagala đã khẳng định
là bia đá còn mang tên vị cao tăng Itthiya Thera, cùng đi với
Mahinda sang Sri Lanka.
Sri
Lanka hiện nay là trung tâm của Phật giáo Theravada, phổ biến
tại các nước Đông Nam Á. Mahinda – người đầu vào xứ này,
vốn là một đệ tử của cao tăng Moggaliputtatissa, thầy học
của Asoka đồng thời là vị lãnh đạo cuộc Đại hội kiết
tập kinh điển lần thứ ba. Ông là người biên soạn bộ
luận nổi tiếng Kathavatthu, là nòng cốt của Luận tạng (Abhidharma
Pitaka), được kiết tập ở kỳ Đại hội này.
Các
bia đá khắc bằng chữ Brahmi cho biết đạo Phật vào thời
kỳ này được tất cả mọi tầng lớp xã hội Sri Lanka nhiệt
liệt đón chào và tiếp thu. Các quan chức lớn trong triều
gọi là Upasikas và Upasakas, Hán dịch âm là Ưu-bà-di và Ưu-bà-tắc,
nghĩa là những Phật tử tại gia nữ và nam. Hoàng hậu Anuda
xuất gia và trở thành người lãnh đạo Ni giới của Sri Lanka.
Cho
đến nay đã phát hiện thấy có khoảng 1.200 bia đá khắc
chữ Brahmi, kể lại các sự kiện xảy ra ở Sri Lanka trong
thời gian từ thế kỷ IV trước TL đến thế kỷ I TL. Nội
dung các bia đó đã được địch ra và xuất bản. Chữ Brahmi
tương tự như thứ chữ khắc trên các bia và trụ đá của
vua Asoka. Các bia đá đó kể về lịch sử du nhập và truyền
bá đạo Phật ở Sri Lanka.
Lúc
bấy giờ, Sri Lanka đã có hai dân tộc là dân tộc Sinhalese
và dân tộc Tamil. Dân tộc Tamil từ lục địa Ấn Độ di
cư qua đây từ lâu đời. Họ tiếp thu đạo Phật và sống
yên ổn với dân tộc Sinhalese bản xứ. Các Phật tử người
Tamil cũng cúng dường cho Giáo hội nhiều quà tặng. Các kỷ
vật của họ thường kèm theo các dòng chữ khắc: “Damida Upasaka”,
“Damada Gahapathi”, nghĩa là “của Ưu bà tắc người Tamil…”.
Đạo Phật du nhập đến đâu cũng trở thành một nhân tố
đoàn kết mạnh mẽ ở đấy.
Về
5 vị vua Hy Lạp có ghi tên trên bia đá của Asoka
Tên
của 5 vị vua Hy Lạp ghi trên Dụ đá thứ 13 là:
1.
Antiochos Theos ở Xi-ri (Syria).
2.
Ptolemy Philadelphos ở Ai Cập
3.
Atigonos Gonatas ở Ma xê đoan (Macedonia).
4.
Magas ở Cyrène.
5.
Alexandre ở Epire.
Antiochos
Theos là cháu của Seleuceus, biệt hiệu Nikator, nghĩa là người
chiến thắng, vì Seleuceus đánh thắng nhiều trận và lập
ra vương quốc Xi-ri (Syria). Là bộ tướng của Alexandre đại
đế, Seleuceus đã nổi bật lên trong chiến dịch xâm lăng
Ấn Độ. Sau khi Alexandre đại đế qua đời, Seleuceus một
lần nữa vượt sông Indus, đánh quân đội của Chandragupta,
là ông nội của Asoka. Nhưng Seleuceus thua trận, phải ký hòa
ước với Chandragupta, gả con gái cho Chandragupta và nhường
cho ông này các tỉnh Aria, Arachosia, Paropanisadai và Credosia.
Nhưng
Seleuceus vẫn còn trị vì trên một vương quốc rộng lớn,
tàn dư của đế quốc của Alexandre đại đế. Tương truyền,
ông ta đã xây dựng 75 thành phố tại vương quốc của ông.
Kế vị Seleuceus là con trai ông, Antiochos Soter mà vương quốc
kéo dài từ bờ biển Bosphore và bờ Tây của Tiểu Á đến
Indus và từ Xi-ri đến các dãy núi Jaxartes và Pamir. Antiochos
Soter mất năm 261 trước TL, để lại ngôi cho con là Antiochos
II, được người Milesians suy tôn là Theos vì ông đã có công
giải phóng họ khỏi nạn áp bức của Timarchus, một bạo
chúa. Vị vua Hy Lạp được ghi tên trong Dụ đá thứ 13 của
Asoka chính là Antiochos này. Triều đại Antiochos không được
yên, vì phải chiến tranh liên tục với người Hy Lạp, và
ông ta cũng bị mất nhiều đất đai. Nhưng Asoka, vị hoàng
đế hùng mạnh nhất thời bấy giờ, đã giúp đỡ ông, và
cho xây dựng nhiều nhà thương cho người và súc vật tại
vương quốc của ông.
Những
phát hiện khảo cổ học gần đây cho biết các đoàn truyền
giáo của Asoka đã đến tận Ai Cập, Iran và Palestine (theo
Robert Blatchford trong “God and my Neighbour”). Sự kiện này nói
rõ “nguồn gốc Phật giáo” của đạo Gia Tô. Như Blatchford
viết: “Con đường truyền bá của đạo Phật đã được theo
dõi từng bước một từ Ấn Độ đến Jerusalem”. Kinh sách
Phật được tìm thấy nhiều trên đất đai thuộc đế quốc
Parthian (Ba Tư cũ), một đế quốc lớn nằm giữa Ấn Độ
và Palestine. Bactria và Đông bộ của đế quốc Parthian đầy
dẫy chùa chiền Phật giáo và người ta tìm thấy các đồng
tiền đúc, mang hình ảnh Phật với chữ khắc Hy Lạp.
Tên
vua Ptolemy trên Dụ dá của Asoka là Ptolemy Philadelphos, con của
Ptolemy Soter và hoàng hậu Berenice. Ptolemy Philadelphos lên ngôi
năm 285 trước TL. Ông đã tham chiến liên miên với Antiochos
II. Chiến tranh chỉ chấm dứt vào cuối triều đại ông bằng
một hiệp ước hòa bình. Ông gả con gái cho Antiochos Thera.
Euclid, nhà toán học nổi danh đã sống dưới thời vua Ptolem
này. Vương quốc của Ptolemy gồm có ngoài Ai Cập ra, một
bộ phận của Ethiopia, Libya và Arabia, còn có một số các
tỉnh ở Xi-ri, cùng với một số các đảo như Cyrus, Lycia,
Caria và Cyclades.
Lịch
sử cho biết chính các đoàn truyền giáo của Asoka đã đem
lại cho Ai Cập và Châu Âu mô hình lý tưởng của cuộc sống
khổ hạnh. V M.Flinders viết trong cuốn “Tôn giáo của Ai Cập
cổ đại”:
“Lịch
sử chứng minh rằng, Ai Cập và Châu Âu đã học được ở
các đoàn truyền giáo của Asoka lý tưởng của đời sống
khổ hạnh….
Nếp
sống khổ hạnh của những người ẩn sĩ được thiết lập
dưới thời vua Ptolemy và các tu sĩ ở đây chứng minh có một
lý tưởng sống mà lúc bấy giờ phương Tây chưa từng biết
tới”.
E.B.Hawell
trong cuốn “Lịch sử của nền thống trị Aryan” đã viết:
“Có thừa lý lẽ để chứng minh rằng các đoàn truyền giáo
của Asoka đã chuẩn bị môi trường từ đó nảy sinh ra Gia
Tô giáo và Hồi giáo sau này”.
Giáo
sư T.W.Rhys Dvids nói thêm: “Không phải quá lời khi nói rằng
toàn bộ những lời dạy đạo đức trong Phúc âm, nếu không
kể các đoạn có tính chất giáo điều, đều đã tồn tại
trong kinh sách Phật, xưa hơn sách Phúc âm hàng nhiều thế
kỷ. Thí dụ những chủ thuyết đạo đức tổng hợp lại
trong bài “Thuyết giảng trên núi”, tất cả những gì không
dính dáng tới tín điều thần quyền, đều đã có trong ba
tạng kinh điển của Phật giáo cả rồi”.
Vượt
qua Ai Cập, các sứ giả của Asoka lập các nhà thương cho
người và súc vật cũng như các công trình công lợi khác
tại xứ Cyrenaique, do vua Magas trị vì, vua này là “anh em cột
chèo” với Ptolemy Philadelphos. Ptolemy cưới con gái của Antiochos
Theos, và có con gái cũng đặt tên là Berenice.
Hai
vị vua Hy Lạp còn lại, được ghi tên trên Dụ đá số 13
là Antigonos Gonatas và Alexandre II. Gonatas là cháu nội của một
trong các vị tướng của Alexandre đại đế. Ông trị vì ở
xứ Ma-xê-đoan (Macedonia), nguyên trước đây là vương quốc
của Phi-líp, cha đẻ ra Alexandre đại đế. Các sứ giả của
Asoka cũng dựng ra ở đây những nhà thương cho người và
súc vật.
Alexandre
II là vua xứ Epire. Con trai của Pyrrhus và Lanassa, ông ta lên
ngôi năm 272 trước TL, ông chiến tranh với Antigonos Gonatas
và đánh đuổi Gonatas ra khỏi Ma-xê-đoan. Xứ Epire cũ hiện
nay là miền Nam của Albania. Epire từ Hy Lạp nghĩa là “Lục
địa”, lúc bấy giờ chỉ cho toàn bộ bờ biển phía Tây,
phía Bắc của vịnh Corinthe. Theo Aristotle, Epire là xứ sở
đầu tiên của dân Hellènes tức người Hy Lạp. Homere dùng
địa danh Epire để chỉ toàn bộ bờ biển phía Tây của Hy
Lạp. Epire phía Bắc giáp Illyria và Ma-xê-đoan, phía Đông giáp
Thessalia, phía Nam giáp vịnh Ambracian, phía Tây giáp biển Ionian.
Các tù trưởng bộ tộc Molossians, cuối cùng thống trị toàn
xứ Epire, tự xưng là con cháu của Achille, đã đánh chiếm
thành Troy và truyền ngôi vua cho Molossus, là người con trưởng
trong số ba người con của Achille, vợ là Andromaque, một nữ
nhân vật nổi tiếng đức hạnh trong bản anh hùng ca Illiad.
Lý
tưởng của Asoka đã thúc đẩy Asoka làm nên sự nghiệp vĩ
đại nhất là “lo lắng cho hạnh phúc vật chất và tâm linh
của toàn thế giới, bao gồm không những người mà cả súc
vật và nhũng loài vật khác, không những trong vương quốc
mình, mà cả trong toàn thế giới, mà ông được biết hay
là có quan hệ”.
Đại
đế Asoka và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp
Thích
Quảng Đại biên soạn
Cuộc
đời của Đại đế Asoka chiếm một vị trí vô cùng quan
trọng trong công cuộc hoằng dương Phật pháp, thế nhưng tiểu
sử, sự nghiệp cũng như hoàn cảnh xuất thế của ông từ
xưa chưa được xác minh và công bố rộng rãi. Người viết
bài này xin thu thập một số tư liệu để giới thiệu đôi
nét về vị Hoàng đế lỗi lạc này, hầu giúp độc giả
có được một cái nhìn xác đáng hơn về vai trò, vị trí
của Asoka trong lịch sử phát triển Phật giáo.
I.
Tiểu sử của Đại đế Asoka trước và sau khi tức vị:
Trước
đây, khi các nhà khảo cổ chưa khai quật được những thánh
tích và bia ký thì các nguồn sử liệu thường viết bị lệch
về dòng dõi, năm sinh của Đức Phật cũng như của Asoka.
Vì thế không xác nhận được rõ ràng về con người và thân
thế của Đại đế cũng như sự nghiệp vĩ đại của người.
Về sau, cách đây không lâu thì sự việc được sáng tỏ,
bởi đã phát hiện, khai quật được những Thánh tích, bia
ký do tự tay Đại đế Asoka khắc lên trên đá và bị vùi
sâu vào lòng đất. Lấy những bút ký đó đem so sánh vào
kinh luận thì có một số đồng nhưng cũng không tránh được
chỗ dị biệt mà ranh giới không quá xa. Âu đó cũng chỉ
là một trong những vấn đề quan trọng mà chúng ta tìm hiểu
sau đây:
1.
Thân thế:
Về
niên đại xuất thế của Đại đế Asoka có nhiều nguồn
sử liệu ghi chép khác nhau, nhưng đại khái là nằm trong khoảng
thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Căn cứ vào pháp sắc trên
bia đá lớn đã ghi rằng: “Các vua của năm vương quốc Hy
Lạp tại vị cùng đồng một số năm là 261 BC hoặc trong
khoảng 272 – 258 BC”. Do đó quán đảnh lên ngôi trong khoảng
270 BC. Như vậy năm sanh cách đó không bao xa. Theo các tài liệu
như: Tiểu sử Asoka, Asokava – dàna, Dviyavadanà hoặc Vamsathakàsinì
thì cho rằng: Ông nội của Asoka là Chandragupta (Chiên-đà-la
Cấp-đa), vị vua khai sáng vương triều Khổng Tước. Thân
phụ người là Bindusara (Tân-đầu Sa-ra). Thân mẫu là bà Àsokàvadàna
(A-dục Vi-đạt-na).
Triều
đại Khổng Tước trị vì được ba đời, nhưng hưng thịnh
và nổi bậc nhất là đến đời Asoka. Nhà vua lúc còn nhỏ
tính tình rất cuồng bạo, tướng tá lại không khôi ngô nên
không được vua cha yêu mến. Vả lại ngài là con thứ, là
1 trong 101 người con, thì làm sao được chiều chuộng như
những hoàng tử khác? Thế nhưng Asoka có tài xuất chúng, thông
minh và mưu mô hơn những hoàng tử kia.
2.
Hoàn cảnh đất nước trước khi tức vị:
Vào
đời ông nội của Asoka là Chandragupta đã nhiều lần đem
quân dẹp những trận quấy nhiễu của Đại đế Alexander
I và II ở nước Hy Lạp nằm về phía Tây Ấn. Đến đời
thân phụ của người là Bindusara khéo léo trị vì, hòa hiệp
thỏa thuận với vương quốc Hy Lạp, tạo thành nền văn minh
phồn thịnh cho Ấn Độ đương thời. Thế nhưng, ở giữa
vùng Bắc và Trung Ấn thường có những trận nhiễu loạn,
vua Bindusara phải tuyển chọn những người thông minh tài giỏi
trong hàng vương tử phong làm Thái thú để đi nhiếp loạn.
Đồng thời, vùng Tây Ấn là một nơi có địa thế rất hiểm
trở và quan trọng. Ở đấy có thành Ujjayant (Ô-xà-diễn-ni),
các nước phương Tây hay dòm ngó đến, bởi nơi đây có một
nền kinh tế tập trung, rất phong phú. Để chọn người ra
đó coi sóc, Asoka được bổ nhiệm làm Thái thú ở Bắc Ấn
và các vương tử đã phân bố bộ hạ cai trị thành Ujjayant.
Việc đi dẹp loạn của Asoka do Bindusara sai đi nhằm mục đích
là muốn để cho Asoka bị chết trong chiến trận. Thế nhưng
Asoka đã bình định được quân phản loạn, quyền uy và tiếng
tăm vang lừng.
Sau
đó vài năm, Asoka được tin cấp báo là phụ vương bị bệnh
nặng nên lập tức trở về Hoa Thị thành. Sau khi vua cha băng
hà, người kế vị là con trai trưởng Susima vào năm 272 BC.
Susima vì vụng về nhiếp chính nên khiến cho dân chúng nhiễu
loạn ở Takkasìla, ở trong triều lại tranh nhau ngôi vị và
kéo dài suốt bốn năm trường. Cuối cùng Asoka được thắng
lợi. Đồng thời được sự giúp đỡ của Tể tướng Ràdhagypta
cùng các nhân vật cao cấp trong triều đình, tất cả đã
đồng tình suy cử Asoka lên ngôi. Lúc ấy vào năm 268 BC, sau
Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn 218 năm.
Lại
có chỗ cho rằng Asoka trước khi lên ngôi đã giết tất cả
99 người anh em, và tính tình rất cuồng bạo. Khi lên ngôi
xong, vẫn còn giết những vị đại thần và phụ nữ, xây
dựng lao ngục, tàn hại nhân dân vô tội. Vì thế ông bị
nhân dân mỉa mai đặt tên là Candasoka (A-dục bạo ác). Nhưng
“Theo chương 4-5-6 của pháp sắc khắc trên vách đá lớn, chương
7 trong pháp sắc khắc trên trụ đá và trong pháp sắc của
Hoàng hậu đều chép rằng: Thời gian vua Asoka trị vì còn
có anh em, chị em. Cho nên những truyền thuyết trên có thể
do đời sau nói quá”. (Dẫn theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang,
quyển I, tr. 23).
3.
Asoka sau khi lên ngôi và gặp Phật pháp:
a/.
Sau khi lên ngôi: Asoka lên ngôi trong vòng 9 năm, vì mục đích
thống nhất toàn cõi Ấn Độ nên đem quân chinh phạt các
nước lân cận như Kalinga thuộc nam Ấn Độ (nước này là
một cường quốc, rất mạnh về kinh tế và quân sự) và
các nước khác như Peshàwar, Pùri, Ganja, Thàna, Bhopal, Hyderabàd,
Mysore, Bihàr, Afghanistan, Népal … Asoka đã chinh phục toàn bộ
cõi Ấn. Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, với sự đẫm
máu này, Đại đế thấy ghê tởm chiến tranh. Nhà vua thấy
cảnh chiến tranh như thế lấy làm buồn thảm và hối hận
về thảm họa đó. Biết bao nhiêu người dân vô tội bị
giết hại, cô nhi quả phụ phải bị tai ương. Vì thế Asoka
quyết định bỏ vũ lực, không động đến binh đao nữa.
Cuộc
chiến tranh kết thúc. Asoka đã thống nhất thiên hạ cõi Ấn
và một nửa nước Đại Hạ, phía Nam Án-đạt-la, phía Đông
đến bờ bi?n, dọc ngang mỗi chiều vài ngàn dặm, và lấy
Hoa Thị thành làm thủ đô.
Bởi
do hối hận cuộc chiến tranh đẫm máu, Asoka muốn được
sám hối và ăn năn những tội lỗi đã gây ra. Vì thế nhà
vua quyết định trở về quy y Phật đạo và trở thành một
Phật tử. Do tâm thành sám hối những tội lỗi đã gây ra
cũng như sự học hỏi Phật pháp được mở rộng, lòng tin
Tam bảo ngày càng tăng trưởng, nên nhà vua rất nhiệt tình
ủng hộ Phật pháp. Vào năm thứ 12 (sau khi tức vị) và trở
về sau, Asoka ban bố nhiều sắc lệnh chấn hưng Phật giáo.
Vua đã tự mình giữ gìn trai giới, bỏ sự săn bắn và ăn
chơi xa xỉ, mà còn hạ lệnh cấm sát sanh, bảo hộ các sinh
vật, tiết kiệm không phung phí, bỏ bớt xa hoa, thỉnh Tăng
cúng dường, thuyết pháp và tu tập. Nhà vua tại vị được
41 năm, thọ 70 tuổi. Những sự nghiệp của Asoka đối với
quốc gia Ấn Độ rất to lớn, nhưng đối với đạo Phật
càng to lớn hơn, điều này được trình bày rõ về sau.
b/.
Về năm tháng Asoka quy y Phật: Có nhiều thuyết nói khác nhau.
Nhưng căn cứ vào chương 8 của pháp sắc được khắc trên
đá lớn có ghi: “Quán đảnh lên ngôi hơn 10 năm thì đến
với Tam Bồ-đề”, nên biết vua trở thành Ưu-bà-tắc vào
khoảng năm thứ 7 sau khi lên ngôi. Vì trong vòng ba năm đầu
tuy đã quy y Tam bảo nhưng vua chưa dốc lòng tin Phật, sau đó
mới thân cận chư tăng và trở thành người Phật tử nhiệt
thành.
Từ
khi trở về quy y Tam bảo, nhà vua đem tất cả khả năng của
mình để phụng sự xã hội hầu chuộc lại tội lỗi ngày
xưa. Vì thế Asoka đã thi hành chính sách cai trị thích hợp
với quần chúng, bằng cách lồng giáo lý Đức Phật vào quốc
chính, dốc hết tâm lực vào việc giáo dục xã hội, ban bố
những điều lệ, những sắc lệnh rất phù hợp với nhân
dân, giảm bớt những khắt khe cho nhân dân, lấy lòng dân
làm lòng mình, dụng tinh thần bác ái ưa chuộng chân lý để
đem lại sự bình an hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời tôn
trọng tự do tín ngưỡng, khéo léo hòa giải những sự xung
đột của các giáo phái tôn giáo khác nhau, cấm những nghi
lễ giả dối, cung cấp vật dụng cho dân nghèo. Asoka quả
là một ông vua nhân từ, ít có trong lịch sử Ấn Độ. Ông
là một vị vua có công rất lớn đối với nền hòa bình
Ấn Độ thời bấy giờ.
II.
Sự nghiệp Asoka đối với Phật giáo:
Ngoài
những công cuộc cai trị đất nước, nhà vua còn tự mình
xin thọ giới Ưu-bà-tắc, nghe pháp, lễ Phật, tu tập. Đặc
biệt là đối với nền tảng chấn hưng Phật giáo, vua có
những sự nghiệp lớn lao như sau:
1.
Ban bố những sắc lệnh quan trọng:
Trong
sự nghiệp chấn hưng Phật giáo, từ năm thứ 12 cho đến
năm thứ 39, gần 28 năm nhà vua thường ban bố những sắc
lệnh rất quan trọng để chấn hưng Phật giáo. Những sắc
lệnh được khắc trên các bia đá, hang núi và các trụ đá
rải rác nhiều nơi trên cõi Ấn Độ được phát kiến bởi
các nhà khảo cổ gần đây. Những sắc lệnh này là những
mốc lịch sử quý báu cho các Sử gia cũng như sự tồn tại
của Phật giáo ngày hôm nay, đồng thời để biết được
Phật giáo thời bấy giờ ảnh hưởng đến giới vua chúa,
thế lực trong xã hội như thế nào; điển hình là các trụ
đá ở vườn Lâm-tỳ-ni (Lumpinivattu) và các bia ký, vách núi
khác.
Những
lời lẽ pháp sắc được khắc trên trụ đá, những bản
văn khắc trên bia ký cũng như vách núi phần nhiều ăn khớp
với những dữ kiện ghi trong Đại sử và Đảo sử của Tích
Lan. Niên đại của những bản khắc văn này vào khoảng năm
250 BC. Văn tự này là một thứ tiếng địa phương, gần với
tiếng Pàli và Sankrit. Hiện nay phát hiện có năm loại vách
đá lớn, bảy loại vách đá nhỏ, mười trụ đá, bài minh
khắc trong hang đá và bảng đá … Theo Từ Điển Phật Học
Huệ Quang, trong mười trụ đá được phát hiện có sáu trụ
cao từ 10 – 13m, kích cỡ không đồng nhau, trên mặt trụ có
khắc những pháp sắc của Asoka. Nội dung nói về việc tôn
trọng Phật pháp, khuyên làm việc lành, đoạn trừ các điều
ác, cấm sát sanh và làm những việc phước lợi nhân từ
bình đẳng … Đặc biệt, trên trụ đá có khắc sự tích
của Asoka … Còn bốn trụ đá kia chiều cao khoảng 7, 5m, ghi
lên những việc đích thân vua Asoka đảnh lễ các Phật tích
và các pháp sắc khác, như cấm phá hòa hiệp Tăng … Ngoài
những trụ đá còn có rất nhiều pháp sắc được khắc trên
vách đá lớn, nhỏ khác nhau và trải rộng khắp Ấn Độ.
Trên những bài minh có ghi tên của Asoka cũng như “Thiên Ái
Thiện Kiến” – niên đại của Asoka. Trong đó đa số những
pháp sắc trên đá nhỏ thì lấy tên Asoka, còn các loại pháp
sắc khác đều lấy tên niên hiệu là Thiên Ái Thiện Kiến.
Nói
chung, nội dung được khắc lên đá là những lời đúng với
lời dạy của Đức Phật cũng như lịch sử của Ngài, đồng
thời trong đó cũng có khắc lên ý nghĩa phục vụ mục tiêu
chính trị dựa trên nền tảng giáo lý Phật-đà để cai trị
nhân dân. Thực hiện chính sách khoan dung độ lượng với
nhân dân trên tinh thần Phật giáo.
2.
Truyền bá đạo Phật:
Asoka
năm thứ 13 – 14, nhà vua đã phái các nhà truyền đạo, các
bậc chánh pháp đại quan đi truyền bá giáo pháp khắp toàn
cõi Ấn và ra nước ngoài như Hy Lạp, Ai Cập, Siria, các nước
châu Phi và Viễn đông, các địa phương phương Đông, bờ
biển Địa Trung Hải, các nước phương Bắc, Nam. Đặc biệt
là Asoka cho con trai của mình là Mahinda xuất gia và truyền
đạo tại Tích Lan. Có thuyết viết, sau khi kết tập kinh điển
lần thứ ba xong, Mahinda đem cả Tam tạng Thánh điển Pàli
qua Tích Lan truyền giáo, và Mahinda là người dày công xây
dựng nền móng cho Thượng tọa bộ Nam phương Phật giáo.
3.
Từ thiện xã hội:
Công
việc từ thiện là một công việc được nhà vua rất chú
trọng đến. Asoka đã ban hành những sắc lệnh như: Trồng
các loại cây thảo dược để trị bệnh cho nhân dân, đào
giếng nước để cung cấp nguồn nước cho mọi người sinh
hoạt, bố thí các vật dụng cho những người nghèo đói.
Đặc biệt, nhà vua đã ra sắc lệnh tổ chức các “Thí liệu
viện” nhằm cung ứng cho việc trị bệnh và có nơi chốn cho
những kẻ già yếu, hoạn nạn, tật nguyền. Ngoài ra còn ban
hành sắc lệnh cho quan và dân mở hội “Thí vô già”. Hàng
năm thường cúng dường các bậc Phạm hạnh, đồng thời
đem giáo lý Phật-đà dạy dỗ cho dân chúng, phổ cập trong
xã hội bằng những hình thức như thực hành năm giới tại
gia, sống tri túc, hòa giải và an lạc. Điều đáng chú trọng
là đích thân nhà vua trai giới, khuyên mọi người không nên
sát sanh, dạy mọi người biết sống theo nếp sống văn hóa,
tôn trọng lẫn nhau, kính trọng những người già cả, cha
mẹ anh em, thương yêu kẻ tàn tật, tôi tớ, và khuyến khích
làm việc thiện.
Qua
đó cho chúng ta thấy rằng, con người Asoka là một con người
thấm nhuần chánh pháp, và là một vị vua có tâm Bồ-tát
vì lợi ích cho muôn dân, tấm lòng khoan dung không chút hẹp
hòi. Có như vậy mới thật là xứng đáng với địa vị của
một ông vua Phật tử. Công lao gầy dựng nền hòa bình an
lạc của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ thật là lớn lao
mà lịch sử không thể lãng quên được.
4.
Asoka chiêm bái Phật tích:
Ngoài
những công việc chính trị cũng như Phật sự ra, Asoka còn
dành thời gian để chiêm bái các Thánh địa – Phật tích.
Người đã thỉnh các bậc Cao tăng Thạc đức thuyết pháp
nhằm đáp ứng sở hành tu tập cho mọi người. Đặc biệt
Asoka đến chiêm bái Tứ Động Tâm – nơi di tích của bậc
Đại giác đã để lại, đến đâu vua ra lệnh khắc bia đá
để làm dấu ấn đến đó. Nhờ những dấu tích bia ký truyền
lại cho đến ngày nay mà Phật giáo nói chung và Phật giáo
Ấn Độ nói riêng có nơi y cứ một cách chính xác và thuận
tiện cho việc lưu truyền, tạo niềm tin vào chánh pháp được
rộng rãi và dễ dàng hơn. Tại Bồ-đề đạo tràng, Asoka
cho dựng những trụ đá lớn, trên đầu trụ còn có khắc
chạm hình sư tử. Nghệ thuật điêu khắc trên những đầu
trụ đá rất tinh xảo, cho đến ngày hôm nay giới điêu khắc
cũng phải kính phục.
Hơn
nữa, Đại đế Asoka còn cho xây dựng nhiều tự viện, bảo
tháp để tôn thờ xá-lợi của Phật. Theo Kinh A-dục Vương
quyển 1 nói: “Vua nhờ Tỳ-kheo Hải mà biết việc Phật huyền
ký, bèn đến thành Vương Xá lấy bốn thăng xá-lợi do vua
A-xà-thế chôn. Lại lấy hết xá-lợi chôn ở sáu chỗ khác
(sáu chỗ này có lẽ là nằm quanh vùng thuộc thành Vương
Xá hay thuộc các thành khác chưa được rõ), rồi làm 84.000
cái hộp báu, mỗi hộp bỏ một viên xá-lợi. Lại làm 84.000
chiếc bình báu, 84.000 cái lọng báu, 84.000 xấp lụa và xây
84.000 ngôi tháp để tôn thờ”. Việc này chúng ta có thể xác
nhận rằng đây là việc làm có thật; bởi vì Asoka là một
vị Hoàng đế đem hết tâm lực để vào việc hoằng truyền
Phật pháp. Công lao của Asoka đóng góp vào nền văn hóa Ấn
Độ, đặc biệt là đối với nền văn hóa Phật giáo là
vô cùng lớn lao. Thế nhưng cho đến ngày hôm nay, những ngôi
tháp này trải qua thời gian dài bị mai một, hầu như không
còn nữa. Vả lại, trong giai đoạn Phật giáo đang diễn ra
sự phân chia bộ phái, Asoka đã làm chấm dứt được sự
phân hóa trong nội bộ Phật giáo, đồng thời ông được
giới Phật giáo ghi nhớ nh?t là việc kết tập kinh điển
lần thứ ba mà sau đây chúng ta tìm hiểu đến.
5.
Kết tập kinh điển lần thứ ba:
Trong
lúc Phật giáo bắt đầu có sự phân hóa để đáp ứng việc
phát triển nên không tránh khỏi những bất đồng trong nội
bộ về một số kinh luận. Đại đế Asoka đã góp công chỉnh
đốn lại một phần nào. Tương truyền Asoka đã làm chấm
dứt tình trạng phân hóa của 60.000 tăng sĩ tại chùa Asoka
đã kéo dài 7 năm. Trước tiên, nhà vua ra lệnh chư tăng tại
chùa làm lễ Bố tát chung. Asoka đã cử các đại thần trong
triều đ?n tại chùa để đốc thúc việc thi hành vương lệnh.
Thế nhưng các vị Thượng tọa trưởng lão ở đây không
chịu hành lễ chung cùng với đại chúng vì cho đó là tà
giáo ngoại đạo. Điều này cho ta thấy, đây là nền tảng
phân phái chia rẽ thành Bộ phái về sau.
Sau
khi có một số vị Cao tăng bị chết oan, nhà vua đích thân
đến chùa để xem xét việc này. Asoka đã hỏi chư tăng do
đâu mà có sự cố này, và tội lỗi này có phải do nhà vua
gây ra không? Trước ý kiến bất đồng của chư tăng không
thể phân định được, Asoka sai sứ triệu thỉnh ngài Moggaliputtatisa
(Mục-liên-đế-tu tôn giả), bấy giờ đang ẩn tu tại núi
Ahoganga. Ngài từ chối, nhưng do sự khẩn thiết thưa thỉnh
đến lần thứ ba nên Ngài đã nhận lời. Ngài hạ sơn, xuôi
theo dòng sông Hằng đến thành Hoa Thị. Qua những nghi vấn
của Asoka, ngài Moggaliputta đã trả lời: “Không có tội lỗi
nếu không có ác tâm trong khi hành động”. Nhờ đây mà Asoka
gột sạch được những nghi ngờ cũng như hối hận. Nhân
đó nhà vua ra lệnh mở đại hội kết tập kinh điển tại
Hoa Thị thành kéo dài suốt 9 tháng.
Đại
hội kết tập được sự chủ tọa của ngài Moggaliputta, Asoka
ngồi sau một bức rèm chắn để nghe chư tăng trình bày về
các điểm sai khác trong giáo pháp. Đồng thời nêu lên 62 kiến
chấp của ngoại đạo mà Đức Phật đã nêu và lên án trong
Kinh Phạm Võng. Nhà vua nghe xong, phân biệt được đâu là
chánh, đâu là tà, là chơn, là ngụy. Từ đó Asoka ra lệnh
trục xuất một số Tăng sĩ vốn là ngoại đạo đội lốt
để phá hoại ra khỏi giáo đoàn, buộc họ trở về đời
sống cư sĩ. Lệnh này được khắc vào văn ở Kiều-thưởng-di
vào năm 26 và 27 niên hiệu Asoka trị vì.
Sau
khi thanh lọc xong, nhà vua cầu thỉnh ngài Moggaliputta chọn
lấy 1000 vị thông hiểu Tam tạng thánh điển để kết tập
lại kinh điển. Có lẽ tạng Luận được ghi đầu tiên là
vào dịp này, và cũng có thể do Moggaliputta là tác giả bộ
luận có tên “Sách Luận” hay “Thuyết Sự” nhằm bài xích các
tà thuyết.
Đại
hội kết tập kinh điển này lấy tên là “Hoa Thị thành kết
tập” và được ghi chép vào khoảng cách 236 năm sau Phật Niết-bàn,
tức là năm 250 trước Công nguyên, nhằm vào năm thứ 18 niên
hiệu Thiên Ái Thiện Kiến. Đại hội kết tập lại năm bộ
Nikàya và một số kinh luận khác.
III.
Nhận định:
1.
Asoka, cương vị một người lãnh đạo đối với đất nước:
Ngài
Huyền Trang đã nhận xét sau khi tham cứu các sử liệu đáng
tin cậy, Ngài viết: “Chính cảnh đau thương, tàn hại của
cuộc chiến Kalinga đã đánh thức Đại đế Asoka ra khỏi
giấc mơ quyền lực, quay về với chánh pháp. Đấy là giọt
nước mắt cuối cùng tràn đầy ly nước tỉnh giác”. Đúng
thế, sau khi lên làm vua, Asoka quay về đường chánh, quy y Tam
bảo, nên đã áp dụng triệt để giáo lý Phật-đà vào việc
cai trị đất nước. Ông đã lấy lòng nhân từ làm chính
yếu và việc thưởng phạt được phân minh, khuyến khích
giúp đỡ dân chúng, dùng chánh nghĩa để loại bỏ ác nghiệp.
Việc đối đãi vua tôi và thần dân không phân biệt giai cấp
hay chủng tộc, tín ngưỡng. Asoka đã gầy dựng cho xã hội
Ấn Độ một nền tảng hòa bình, hạnh phúc, ấm no. Công
lao ấy thật là lớn lao mà lịch sử đã khẳng định.
2.
Trách nhiệm của một Phật tử đối với đạo pháp:
Như
trên đã trình bày, sau khi quay về với chánh pháp, quy y Tam
bảo, thọ trì Ưu-bà-tắc giới, tu tập giới định tuệ,
nhà vua đồng thời là một Phật tử rất nhiệt thành, dốc
hết tâm lực để hoằng dương chánh pháp, đó là công việc
lớn lao nhất mà Đại đế đã nhận lãnh và hoàn thành trách
nhiệm một cách tốt đẹp (điều này đã được chứng minh
qua việc khắc ghi những pháp sắc trên những trụ đá, hang
đá, bia ký … làm mốc lịch sử cho Phật giáo), đồng thời
kết tập kinh điển, truyền bá giáo pháp phổ cập nhân gian.
Đặc biệt là phái người ra nước ngoài để truyền bá Phật
pháp, làm cho ngôi nhà Phật pháp được lan rộng ra cho đến
ngày hôm nay mang tính toàn cầu. Sáng kiến truyền bá Phật
pháp này rất quả cảm và trí tuệ.
3.
Những thành tựu của Asoka:
Asoka
đã xây dựng một đất nước được thành công trên mọi
lãnh vực như chính trị, xã hội, giáo dục, văn hóa. Ông
đã kiến tạo một xã hội yên bình an lạc và đem lại lợi
ích rất thiết thực cho nhân dân như chiến dịch trồng cây,
cung cấp nước sạch, xây dựng và bảo vệ môi sinh, sự sống
của hữu tình. Điều này trên bia ký của Đại đế vẫn
còn nghe rất thân thiết đối với thời đại cũng như nền
văn minh hiện tại. Chủ trương tôn trọng tín ngưỡng dân
gian, khoan dung, bất bạo động vẫn mãi mãi là những nét
đẹp của văn hóa loài người.
Thành
công xuất sắc nhất là việc truyền bá mạng mạch Phật
pháp bằng những dòng bia ký, kết tập kinh điển … Đại
đế đã cho xây dựng Phật tích, dựng những trụ đá khắc
ghi dấu ấn của sự hiện diện ngôi Tam bảo tại thế gian,
làm an lạc hạnh phúc cho cuộc đời. Hình thức tín ngưỡng
Phật pháp từ đây được phát triển. Tam tạng thánh điển
còn được giữ lại tại Tích Lan cho đến ngày hôm nay. Đây
là nguồn văn hóa lớn lao của nhân loại đã một thời làm
hưng thịnh tại xứ Ấn, chủ trương giới thiệu chánh pháp,
chánh trí, chánh hạnh và thống nhất các dị biệt giữa 18
bộ phái Phật giáo vì an lạc hạnh phúc cho đời.
Đại
đế Asoka đã từ giã cõi Ấn suốt cả 23 thế kỷ trôi qua
mà cuộc đời và sự nghiệp vẫn còn sáng mãi ở trần gian.
Đó là thành quả lớn nhất của Asoka đã đóng góp cho đời
lẫn đạo mà trang sử không bao giờ lãng quên được. Đúng
như lời người xưa đã tán thán:
“Mỗi
bước chân là một bản đạo ca hùng tráng,
Mỗi
bước chân là một trang sử oai hùng,
Mỗi
bước chân làm chấn động khắp non sông,
Mỗi
bước chân làm lợi ích muôn loài trên hoàn vũ”.
Tài
liệu tham khảo:
–
Từ Điển Phật Học Huệ Quang.
–
Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ (HT. Thanh Kiểm).
–
Sử Phật giáo Ấn Độ (tài liệu dạy các trường CBPH Đồng
Nai – Đại Tòng Lâm do Giáo thọ Thích Giải Quảng biên soạn).
–
Một số tài liệu khác.
đế Asoka Maurya
và
những pháp dụ khắc trên đá
Trần
Trúc-Lâm
PHẦN
I: DẪN NHẬP
Để
hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng
Đế Asoka không những đối với dân-tộc Ấn, mà còn đối
với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước
khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử Ấn
độ đương thời.
Lịch
sử Ấn Độ tồn tại rất lâu đời, đến cả 5 ngàn năm.
Một cách khái quát, nếu tính từ thời văn minh thung lũng
sông Indus cổ đại ở vùng tây bắc tiểu lục địa Ấn,
dựa vào những phát hiện khảo cổ ở Harappa và Mohenjo-Daro
thì nó đã xuất hiện khoảng 2, 500 năm TTL Nền văn minh này
kéo dài hơn một ngàn năm, đã được xem như là một trong
những nền văn minh cổ nhất của nhân loại, cùng với nền
văn minh Ai-cập và Mesopotamia (ở Iraq ngày nay). Nhiều sử gia
cho là giống dân Dravidian bản địa, vóc thấp, da sậm, mũi
rộng, tóc xoắn, đã dựng lên nền văn minh đó với lễ nghi
tôn giáo phát triển, thiết kế và kiến trúc đô thị ban
sơ có kế hoạch, biết dùng đồ đồng và thau, biết dệt
lông cừu và làm dấu mộc. tạc tượng vv…
Đến
khoảng 1,500 năm TTL, có giống Aryan, vóc lớn, da trắng, mũi
cao, nhiều râu, từ vùng Trung Á (ở mạn nam nước Nga ngày
nay) theo ngã Iran xâm chiếm vùng tây bắc (Punjab ngày nay). Họ
chuyển đổi từ lối sống du mục sang định cư nông nghiệp,
biết quí trọng súc vật, nhất là ngựa và bò cái, biết
chế tạo xe do súc vật kéo, biết làm lịch theo mặt trăng,
tôn sùng các đạo sĩ và thầy tế lễ vv, Đến khoảng năm
800 TTL họ đã chia thành nhiều tiểu vương cai trị hết vùng
đông bắc và nam Ấn. Họ đã đưa văn h?c, triết học, tôn
giáo, tổ chức xã hội Ấn đến tột đỉnh, tạo nên nền
văn minh Vedas, cốt lõi của Ấn giáo. Upanishads có lẽ được
kết tập giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 5 TTL.
Nhưng
cũng từ đó xã hội Ấn đãbị phân chia ra nhiều đẳng cấp
khác biệt, còn kéo dài đến ngày nay; đại để có bốn giai
cấp (varnas) từ cao đến thấp là Brahmans (Bà-la-môn: gồm
thầy tế lễ, trí giả), Kshatriyas (vương tướng), Vaisyas (thương
nhân, địa chủ) và Sudras (kẽ lao động, thợ thuyền, nghệ
nhân, gia nhân). Ba đẳng cấp trên dành cho người gốc Aryan,
được xem là tinh khiết, được quyền học kinh Vedas để
được tái sinh theo nghĩa tôn giáo (born again). Đẳng cấp thứ
ba dành cho dân gốc bản địa, không tinh khiết và không được
học kinh Vedas. Phải kể thêm một hạng người nữa khốn
khổ thấp kém nhất chẳng được xếp vào giai cấp nào, gọi
là Harijans hay Paraiyans (Hạng ghê tỡm), bao gồm những kẽ
làm nghề sát sinh súc vật, thuộc da. Nên nhớ là trong mỗi
đẳng cấp còn có sự phân chia ra rất nhiều thứ loại (jati)
tạm gọi là phường hay nghiệp đoàn. Theo thống kê năm 1901
đã có đến 2,378 phường như thế.
Đến
khoảng thế kỷ thứ 6 TTL, thời đức Phật Thích Ca còn tại
thế, đã nẩy sinh nhiều trường phái đòi cải cách những
quan nịệm bất công đối xử trong xã hội bắt nguồn từ
Vedas và còn thách thức cả Ấn giáo. Hai tôn giáo mới có
tầm nhìn khoan dung và cách mạng hơn đã xuất hiện: đó là
Phật giáo và Kỳ Na giáo (Janism). Trong giai đoạn này, đất
Ấn có khoảng 16 nước lớn nhỏ; và các vương quốc hùng
mạnh đều tập trung ở vùng bắc Ấn (vùng Bihar bây giờ)
như Avanti, Vaishali (Vệ-sá-lị), Kosala (Kiều-tát-la), Magadha
(Ma-Kiệt-Đà) vv…. Sau nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tương
tàn, Magadha dưới triều vua Bambisara (Tần-Bà-Sa-La, lại có
nơi dịch là Bình-Sa-Vương) thuộc giòng họ Haryanka thâu tóm
các lân bang trở nên một đế quốc khá rộng, đóng kinh đô
ở Rajagrha (Thành Vương Xá), cách Patna ngày nay khoảng 35 dặm
về phía đông nam.
Vua
Bambisara lên ngôi lúc 15 tuổi, trở thành một cư sĩ Phật
tử lúc 30 tuổi, và nhịệt tình hổ trợ đạo Phật. Ôâng
trị vì được 52 năm, đã xây 16 tịnh xá ở Vương Xá và
cúng dường Đức Thích Ca khu vườn trúc rộng lớn để Phật
cùng tăng đoàn cư ngụmà hoằng hoá. Khu vườn này được
nhắc đến nhiều lần trong Tam tạng kinh điển, đó là Tịnh
Xá Trúc Lâm (Venuvan-arama). Nhiều tác giả nghiên cứu về Phật
giáo đều cho rằng ngôn ngữ đức Thích Ca thuyết pháp thời
bấy giờ là tiếng Magadhi phổ thông.
Đến
khoảng năm 420 TTL triều đại Haryanka lại mất vào tay của
giòng họ Nanda, nhưng họ Nanda chỉ tồn tại được trong vòng
100 năm rồi bị giòng họ Maurya lật đổ.
Đầu
thế kỷ thứ 4 TTL, sau khi đánh bại quân Persians vào năm 326
TTL, Đại đế Alexander đã mở rộng đế quốc Hy lạp từ
phía Tây đến biên cương Ấn rồi dừng lại ở vùng sông
Bès (bây giờ là Lahore, Pakistan). Sau khi Alexander qua đời ở
Babylon vào năm 323 TTL, Chandragupta Maurya lúc bấy giờ đã lật
đổ triều đại Nanda vào năm 321 TTL đẩy lui nhiều đợt
quân xâm lăng của Seleucus Nicator I, kẻ kế vị Alexander ở
vùng Afghanistan, Baluchistan và Pakistan bây giờ, rồi mở rộng
bờ cõi xuống phía tây nam đến Gujatt và thung lũng Daccan.
Vua Chandragupta Maurya (trị vì từ 321 đến 298 TTL) đã dời
đô đến Pâtaliputrâ (Thành Hoa Thị; tức thành phố Patna ngày
nay) vốn là một pháo đài kiên cố trấn ngự ở châu thổ
giao tiếp của hai con sông chính là Ganga (Hằng Hà) và sông
Sona.
Sự
sinh hoạt và cai trị theo lối trung ương tập quyền và những
chính sách ngoại giao khéo léo của triều đại Chandragupta
Maurya đã được ghi lại trong cuốn Arthasastra bởi Kautilya
(còn được biết dưới tên Chanakya), là tể tướng của triều
ông. Ngoài ra nhiều đoạn của một báo cáo do sứ thần của
vua Seleucus tên là Megathenes ghi lại còn tồn tại đến nay
qua sự trích dẫn của các sử gia Hy-La. Đến đời vua Bindusàra
Maurya (trị vì từ 298 – 273 TTL) thì đế quốc này còn bành
trướng thêm nữa từ Kashmir ở phía bắc đến Karntaka ở
phía nam, và từ châu thổ sông Hằng ở phía đông sang đến
mạn nam và đông của xứ Afghanistan bây giờ. Đế quốc Maurya
đã nổi tiếng với những thành phố lớn phồn thịnh như
Takshasila, Ujjain, Vidisha, Tosali, và Suvarnagiri.
Đến
đời Hoàng Đế Asoka Maurya (còn được ghi là Ashoka, dịch
là A Dục Vương, hay A-du-Ca: có nghĩa là Vô Ưu), vị vua thứ
ba của triều đại Maurya, ông kế tiếp chính sách bá quyền,
và thâu tóm gần hết tiểu lục địa Ấn. Đế quốc của
ông hùng mạnh tột đỉnh và ông đã để lại cho hậu thế
một chứng liệu miên viễn bằng đá, dưới dạng những pháp
dụ, bởi nếu không thì những điều nói về vua Asoka chỉ
được biết qua những huyền thoại ghi lại trong những kỷ
yếu viết bởi các tăng sĩ Phật giáo ở Tích-Lan và Ấn như
các bộ Divyavadana, Asokavadana, Mahavamsa vv..
Hoàng
Đế Asoka Maurya sinh năm 304 TTL, lên ngôi năm 269 TTL lúc 35 tuổi,
trị vì được 38 năm và mất năm 232 TTL thọ 73 tuổi. Ông
là vị vua vĩ đại nhất của Ấn, và là vị hoàng đế đầu
tiên đã cai trị một đế quốc Ấn rộng lớn.
Dựa
vào bộ Mahàvamsa (Đại Sử) đã được biên soạn bởi tăng
già ở Tích-Lan thì ngay sau khi vua cha là Bindusàra băng hà vào
năm 273 TTL, đã có sự tranh dành ngôi vua rất gay gắt giữa
các hoàng tử trong 4 năm. Giai đoạn này Sử ghi là thời không
vua (Interregnum). Rốt cục Asoka, với sự hổ trợ đắc lực
của vài đại thần ở kinh đô Pâtaliputrâ (Thành Hoa Thị),
đã thành công và lên ngôi vào năm 269 TTL.
Tám
năm sau khi kế vị vua cha, hoàng đế Asoka xua quân đánh chiếm
nước Kalinga dọc vùng duyên hải mạn đôâng, nay là bang Orissa
vì xứ này giàu có nhờ quặng mo,õ sung túc nhờ vựa lúa,
vàvị trí hàng hải thuận lợi dẫn đến vùng thung lũng Krishna
đầy mõ vàng và đá quí. Chiến dịch thành công nhưng đẩm
máu. Theo các pháp dụ do ông sai khắc lên đá thì cuộc xâm
lăng này đã làm cho 150 ngàn nguòi bị bắt làm nô lệ hoặc
bị đầy ải, 100 ngàn quân sĩ bị giết, số thường dân
bị sát hại còn cao hơn nhiều lần.
Trước
trận Kalinga hai năm, có vẽ như là vua Asoka đã trở thành
một Phật tử sau khi nghe vị Sa-di Nigrodha (Ni-câu-thuật) thuyết
pháp, nhưng không mấy nhiệt tâm (xem Tiểu thạch pháp dụ
số 1), mãi đến sau khi chứng kiến thảm cảnh đau thương
của chiến dịch này ôâng quá xúc động và rất hối hận,
rồi từ đó quyết từ bõ chiến tranh xâm lấn và hồi tâm
để trở nên một Upàsaka (Ưu-bà-tắc: cư-sĩ Phật tử) thuần
thành. Suốt quảng đời còn lại ông đã kiên trì ứng dụng
Phật pháp vào việc trị nước một cách đầy nhân ái mà
ông gọi là dhammavijaya (pháp chinh phục), và đã ủng hộ Phật
giáo phát triển sâu rộng không những trên toàn đế quốc
ông cai trị mà còn truyền bá đến các nước lân bang. Những
sự kiện này xảy ra khoảng hai thế kỷ sau khi Đức Phật
Thích Ca nhập diệt.
Bộ
Mahavamsa – vốn được viết trong tinh thần tôn giáo với nhiều
huyền thoại với dụng ý răn đời đã muốn đề cao Asoka
từ khi trở thành Phật tử đã từ bõ quá khứ đầy ác nghiệp,
từ một Candàsoka (A-Dục Vương bạo chúa) trở thành Dhammàsoka
(A-Dục Vương mộ Pháp) – nên bộ này đã ghi rằng trong cuộc
tranh dành ngôi vua, Asoka đã giết 99 người trong số 100 anh
em của mình, chỉ còn để sót lại một người tên là Tissa.
Thực ra không có chứng cớ khả tín về điều này, vã lại
trong Đại thạch Pháp dụ số 5 được ban ra 11 năm sau khi
ông lên ngôi còn cho thấy vua Asoka nhắc đến anh chị em mình.
Các học giả tin rằng trong vụ tranh ngôi này chỉ có một
người anh (hay em) đã bị sát hại mà thôi. Hơn nữa với
thời gian trị vì của ông, ngoài hai sự kiện là tranh dành
ngôi vua và cuộc xâm lăng Kalinga trong 8 năm đầu, suốt quảng
30 năm còn lại ông đã trở thành một hoàng đế nhân từ
đem Chánh Pháp ra ứng dụng vào đời, chứ không tàn bạo
như Nero của La Mã hay Trụ Kịệt, Tần Thuỷ Hoàng của Trung
Quốc, nên vịệc gán cho ông xú danh Candasoka xem ra thiếu cơ
sở. Nhiều học giả nghiêm túc còn so sánh ông với những
vĩ nhân khác như Hammurabi của Babylon, Charlemagne của đế quốc
Tây Âu hậu La Mã hay Akbar của đế quốc Mogul.
Nhiều
cổ thư ở Tích-Lan đã ghi lại sự kiện là Asoka nhờ đã
áp dụng chính sách chinh phục ôn hoà bằng Chánh Pháp mà ông
đã khôn khéo ổn định đời sống chính trị toàn vùng và
nhiều lần dẹp yên các cuộc nổi loạn mà không đổ máu;
trong đó đáng kể là cuộc nổi loạn của dân ở thành Takshasila
thuộc vùng Gandhara chống lại sự áp bức hà khắc của quan
cai trị địa phương. Về sau Gandhara trở thành thịnh địa
của Phật giáo, mà từ đó phái Đại thừa phát triển qua
phương Đông.
Để
thần dân thông hiểu chính được những sự cải cách trong
chính sách cai trị mới và những nguyên tắc về đạo đức
ông đặt ra dựa theo Chánh Pháp cốt tạo dựng nên một xã
hội đầy nhân bản và công chính hơn, Asoka đã ra lệnh khắc
những pháp dụ này lên đá – có khi gọi là Lời ghi chánh
pháp (dharmalipi) , có khi lại gọi là pháp lệnh (dharma-sravana)
– đồng thời cho rao truyền rộng rãi khắp nơi trong nước.
Những pháp dụkhắc trên đá của vua Asoka đã minh họa được
hình ảnh của một vị minh quân luôn nhiệt tâm thực thi Chánh
Pháp của Phật dạy để mang lại cho trăm họ một đời sống
hiền hoà, no ấm phúc lợi, nhưng vẫn không cho biết thêm
chi tiết nào về cuộc đời của ông.
Sự
khai thị về các Pháp dụ của Asoka được xem như chỉ là
gần đây mà thôi. Người nghiên cứu đầu tiên lại là một
tu sĩ Thiên Chúa giáo, khi cha Tieffenthaler khảo sát những mảnh
của pháp trụ Meerut tại Delhi vào năm 1756, nhưng không hiểu
được nội dung. Mãi đến năm 1837 những pháp dụ của Asoka
mới được nhà khảo cổ James Prinsep giải ám mã lần đầu
tiên, rồi từ đó những pháp dụ được dịch thuật và in
ấn quảng bá khắp nơi.
Ban
đầu Prinsep thấy rằng những dụ này đã được ban ra bởi
một vị vua tự gọi mình là “Vua Piyadasi, Thiên tử” (phỏng
từ “Beloved-of-the-Gods, King Piyadasi”) hoặc “Devanampiya Piyadasi,
Thiên tử, Người Nhìn Xuống với Từ Tâm” (“Beloved-of-the-Gods,
He Who Looks On With Affection”). Các học giả phỏng đoán Vua Piyadasi
có thể là Vua Asoka, thường được xưng tụng trong các huyền
thoại Phật giáo. Cho mãi đến năm 1915, khi một pháp dụ khác
được tìm thấy với tên vua Asoka, người ta mới khẳng định
được rằng cả hai chính là một, đó là hoàng đế Asoka,
và từ đó, sau hơn hai ngàn năm bị quên lãng, những pháp
dụkhắc trên đá này của vua Asoka bỗng dưng làm sáng tõ
thêm về một con người vĩ đại của lịch sử Ấn và của
cả nhân loại, chứ không còn là một nhân vật chỉ đuọc
biết đến qua huyền thoại. Một câu ghi lại trên đá đã
phản ánh chiều hướng tâm linh của Asoka: “Tất cả thần
dân là con của ta. Vì là con của ta, họ phải được chu cấp
đầy đủ an sinh và phúc lợi trong đời này và đời sau,
như ta vẫn hằng mong.”
Theo
giáo sư Romila Thapar về môn Lịch sử Ấn cổ tại Đại học
Jawaharlal Nehru ở New Delhi thì hệ văn tự của các Pháp dụ
này được xem là văn hệ sớm nhất của Ấn có thể nghiên
cứu được. Văn hệ cổ hơn mà người ta khám phá ở Harappa
thuộc văn minh thung lũng sông Indus chỉ là những nét vẽ tượng
hình trên dấu mộc, vật trang sức và lọ gốm mà đến nay
vẫn chưa ai hiểu được ý nghĩa.
Những
pháp dụ khắc đá của vua Asoka đánh dấu thời kỳ chuyển
biến từ khẩu truyền sang văn tự của xã hội Ấn vì chúng
là những chữ tượng âm chứ không tượng hình như xưa. Nghiên
cứu kỹ những bia ký, người ta thấy Hoàng Đế Asoka cho ghi
lại Pháp dụ bằng bốn văn hệ cho ba ngôn ngữ khác nhau.
Phần quan trọng và chiếm đại đa số bia ký là ngôn ngữ
Prakrit – bấy giờ là ngôn ngữ đàm thoại phổ thông của
xứ Magadhi, tức là ngôn ngữ chính thức trong triều Asoka,
và phần còn lại bằng ngôn ngữ Hy-lạp và Aramaic.
Ngôn
ngữ Prakrit lại được viết dưới hai dạng văn hệ Brahmi
và Kharoshthi (gần với Sanscrit). Đa số pháp dụ được viết
theo văn hệ Brahmi, truyền bá rộng khắp đế quốc. Nhiều
học giả cho rằng văn hệ Brahmi do triều đại Maurya sáng
tạo bởi nhu cầu hành chánh trong việc cai trị một đế quốc
rộng lớn. Nó là dạng chuyển tiếp giữa Sanscrit xuất phát
từ vùng tây bắc Ấn (thường dùng trong giới thần học,
triết học, hoặc huyền học) và ngôn ngữ hiện đại Indo-European
của Ấn. Văn hệ Brahmi, dù vậy cũng bị biến dạng đôi
chút theo phát âm ở từng địa phương, ví dụ văn hệ để
viết tiếng Tamil ở vùng phía nam vốn cải biên từ hệ Brahmi.
Sự
sử dụng ngôn ngữ Prakrit trong các Pháp dụ cũng cho thấy
rằng Asoka muốn đem Chánh pháp ra ứng dụng với đời thường
chứ không chỉ để một số tăng lữ dùng để bàn luận
theo ngôn ngữ Sanscrit. Văn phong dùng thể nói chuyện rất bình
dân dễ hiểu và thuòng lập đi lập lại, cứ như Hoàng Đế
muốn trực tiếp nói với quần chúng, chứ không kiểu cách
cầu kỳ như các quốc vương khác đương thời hay xử dụng.
Qua đấy nhiều học giả đã nhìn thấy bản tính bộc trực
chân thật của Asoka.
Rất
ít bản khắc bằng văn hệ Kharoshthi và bằng ngôn ngữ Hy-lạp
và Aramaic. Những bản này chỉ thấy ở vùng tây bắc thuộc
Afghanistan bây giờ, nơi có nhiều dân nói được hai ngôn ngữ
ấy. Không rõ là những Pháp dụ thuộc loại này đã được
triều đình ra lệnh hay là do các quan cai trị địa phương
làm ra như là một bản dịch cho dân trong vùng, vốn đa chủng
hỗn tạp. Trên một trong những pháp dụ ở vùng này, Hoàng
Đế Asoka đã kể ra tên của 5 vị vua các nước phương tây
đồng thời có bang giao, nhờ vậy đã giúp nhiều cho vịệc
nghiên cứu sử đối chiếu. Đó là các vua Antiyoka (Anh ngữ:
Antiochos II Theos ở Syria: 261- 246 TTL), Turamaya (Ptolemy II Philadelphos
của Ai cập: 285 – 247 TTL), Antikini (Antigonos Gonatas của Macedonia:
278 – 239 TTL), Maka (Magas của Cyrene: 300 – 258 TTL) và Alikasudara
(Alexander của Epirus: 272 – 258 TTT).
Dựa
vào các bia ký bằng Hy ngữ vàAramaic này mà các nhà nghiên
cứu Tây phương hiễu được những từ tương tự ở bản
Prakrit. Nhưng cũng chính vì vậy đã gây khá nhiều ngộ nhận,
ví dụ từ dharma lại không có lấy một chữ gốc Hy và Aramaic
(và cả Anh ngữ ngày nay) tương đồng để dịch và ngay trong
các bản văn bằng Hy ngữ vàAramaic này cũng không có nơi nào
đề cập đến Đức Phật. Cho nên nhiều dịch giả phải
phỏng dịch ra như là: thương xót (piety), đức hạnh (virtue),
bổn phận thiêng liêng (sacred duty), hoặc dùng nguyên ngữ là
dharma dạy bởi Đức Phật (the dharma taught by the Buddha). Trong
bản khắc bằng Hy ngữ lại được ghi là eusebeia, với một
nghĩa rất tổng quát như vừa kể.
Chính
vì dựa vào những ngộ nhận này mà nhiều học giả Tây phương
nghi ngờ rằng chữ dharma Asoka đã dùng không phải mang một
nghĩa như Chánh pháp của đạo Phật mà là những khuyến dụ
về đạo đức xã hội nói chung. Có kẻ còn bảo rằng vì
trên những bia ký chẳng hề thấy Asoka đề cập đến giáo
lý căn bản của Phật giáo như là Luân hồi (samsàra), Giải
thoát (mokkha), Niết-bàn (nibbàna), Vô ngã (anatta), Bát Chánh
Đạo (atthangika-magga), hay Tứ Diệu Đế (cattari ariya-saccani)
nên đã giải thích chữ dharma theo lối suy diễn ngoại đạo
chủ quan của mình. Thật là đáng tiếc, vì họ quên rằng
dù Asoka đã trở thành một cư-sĩ Phật tử nhưng ông phải
cai trị một đế quốc rộng lớn như một minh quân, phải
công bằng với thần dân vốn đa dạng và đa tín ngưỡng,
ở một xã hội có nền văn hoá bao dung chứ không cuồng tín
độc tôn, độc thần. Asoka không thể nào dùng những ngôn
từ thuần Phật pháp để phủ dụ thần dân được.
Nhưng
qua một vài pháp dụ riêng cho tăng già ví dụ tiểu thạch
pháp dụ số 3 hay còn gọi là Pháp dụ Bairàt, thì không còn
nghi ngờ gì nữa về đức tin Phật giáo của Asoka. Trong dụ
này sau lời vấn an tăng già, ông xác định đức tin vĩ đại
của ông vào Phật, Pháp và Tăng. Ông bảo rằng tất cả pháp
do Đức Phật thuyết giảng đều là chân diệu pháp và ông
muốn nó được trường tồn. Ông còn cho ghi ra tên của 7
bản kinh để Tăng-già thường xuyên tu học.
Những
pháp dụ khắc đá nói chung nhắm vào nhiều thành phần là
các quan chức dưới triều, giới tăng già, và thần dân. Đối
với thành phần đầu thì ông quan tâm đến sự an sinh phúc
lợi của dân chúng, và kêu gọi các quan chức nên đề cao
đạo đức và nhịêm vụ xã hội để cai trị dân tốt hơn.
Ở thành phần giữa thì ông quan tâm đến việc tu tập của
tăng chúng và vịệc điều hành các tịnh xá. Ở thành phần
sau thì ông chỉ khuyến khích việc ăn ở theo Chánh pháp (Dharma).
Vua
Asoka còn thường xuyên tuần du thiên ha, gọi là những chuyến
vi hành Pháp (dhammayàtras) để giảng dạy Chánh pháp cho mọi
người. Ông còn ra lệnh cho các quan đại thần cũng nên làm
như thế. Hoàng Đế Asoka tự cho mình có trách nhiệm phải
giải nghĩa, công bố và rao giảng Chánh Pháp (Dharma). Với
sự minh mẫn siêu việt, Asoka đã chỉ ra trong đời thường,
nó là sự tương tác nhiều mặt của đời sống đạo đức:
Nó phản ánh những trách nhiệm và bổn phận của con người
tuỳ vào vị trí của mình trong xã hội; nó phản ánh cái
trật tự trong vũ trụ và chân lý cảm nhận được trong cái
trật tự đó; nó là mối dây ràng buộc con người trong gia
đình, xã hội, tôn giáo và đất nước; nó là cái tri kiến
cơ bản làm nền tảng cho sự thông cảm và an hoà, vốn được
biểu lộ khác nhau bởi các nền văn hoá và tôn giáo dị biệt;
nó là sự chỉ đạo cho hành động và sự tự giác và hạnh
phúc; nó chỉ đạt được bằng hành động, phát triễn thêm
bằng thực hành, và bảo vệ bằng luật lệ, và nhờ vậy
nó tạo nên cơ sở cho chính sách, giáo dục và công lý; nó
được khám phá bằng tự quán, thiền định, và chuyển hoá,
và nó đưa dần đến việc từ bõ những điều không thích
nghi với nó. Suốt thời trị vì, ông đã kiên trì thực thi
những tin tưởng của mình cho đến cuối đời khi ông đồng
hoá với quan niệm chakraqvartin, (Chuyển luân vương); tự cho
mình là một minh quân đang vận hành bánh xe chánh pháp khắp
nơi để bảo toàn sự an sinh phúc lợi cho mọi người.
Ôâng
lại đặt ra một bộ gọi là “Bộ thực thi Chánh pháp hay
Bộ Pháp Hành”, bổ nhiệm các quan đại thần gọi là dharmamahàmàtras
(Pháp đại thần) vào năm 257 TTL (theo dụ số V, 13 năm sau
khi ông lên ngôi) chuyên trông coi mọi công tác phúc lợi xã
hội của người dân, quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu
của phụ nữ, của dân sống ở biên cương, đến các cộng
đồng tôn giáo khác nhau và phải vô tư khi thi hành công lý.
Ôâng còn phủ dụ cho các quan chức các cấp nên thuyết phục
dân trong vịệc ứng dụng Chánh pháp vào đời sống thường
ngày hơn là ép buộc bằng lệnh lạc. Ôâng cũng uỷ thêm
quyền cho những phán quan ở khắp nơi để ngăn ngừa sự
chểnh mảng công tác, cũng như tránh việc đối xử dã man
với súc vật và giải quyết nhanh chóng những khó khăn gặp
phải. Pháp dụ còn liệt kê những thú rừng được triều
đình bảo vệ không được săn bán. Ông còn ra lệnh là những
việc khẩn cấp cần phải được đệ đạt đến ông ngay.
Những
thành tựu đáng kể còn được ca tụng đến bây giờ là
việc xây cất nhiều bệnh viện cho người và gia súc, cũng
như cho trồng nhiều khu vườn thảo dược, việc xây dựng
rộng rải một hệ thống đường sá với hàng cây đa và
xoài phủ bóng bên lề, với giếng đào và nhà nghỉ dọc
đường ở từng khoảng đều đặn cho khách lữ hành. Hệ
thống giao thông này đã làm cho việc thương mại và hành
chánh của đế quốc Maurya phát triễn thuận lợi nhiều mặt.
Đối
với thần dân ít khai ngộ thì Hoàng Đế Asoka khuyến khích
việc ứng dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày bằng
thực hành những giới đức chân thật (sace), từ bi, ôn hòa
(daya), tử tế với mọi người (samya pratipati) hơn là thường
bày trò cúng tế cầu xin ơn phước; nên thường bố thí (dana)
cho người nghèo khổ (kapana valaka), cho các vị tu hành, bạn
bè, thân nhân vv..; hạn chế sát sinh, không hành hạ súc vật
(avihisa bhutanam); không xa xỉ, không tham cầu, và tránh dữ
làm lành (apa vyayata apa bhadata) [tựa theo lời dạy trong Kinh
Tăng nhất A-hàm (Anguttara Nikaya, II:282)]; biết kính trọng các
bậc trưởng thượng như cha mẹ, ông bà, sư phụ, và cả
đối với bạn bè, tôi tớ và thầy cúng tế bà la môn [tương
tự lời dạy của Đức Phật trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya)
Đoạn 31]. Ông dạy rằng nếu làm được như thế thì sẽ
mang lại công đức vô lường.
Ông
không đề ra và bắt phải theo một nghi lễ tôn giáo độc
đoán nào, nhưng chỉ thuyết về Phật giáo riêng với giới
tăng già mà thôi. Đối với các tôn giáo khác đương thời,
gồm có Ấn giáo, Kỳ na giáo và giáo phái Ajivika chuyên tu
khổ hạnh, ông rất công bằng và khuyến khích sống đời
đạo hạnh (bhava sudhi), nhiệt tâm (usahena), tôn trọng lẫn
nhau, đề cao giá trị nội tâm (bahu sruta), tự chế (sayame)
và ngăn cấm việc xung đột tôn giáo. Ông đã không ngừng
học hỏi đàm đạo với các vị chân tu của các tôn giáo.
Về
hình thức thì các Pháp dụ đã được phân loại theo dạng
bề mặt đã được chạm khắc: mặt núi đá tảng, trụ đá
và hang động. Ngay cả bề mặt của vật liệu và nơi chốn
cũng hàm cái dụng công của nó, cho nên nội dung của Pháp
dụ cũng đổi thay tương ứng. Dựa vào các pháp dụ này mà
người ta có thể đoán được niên kỷ của các sự kiện
trong thời Asoka trị vì.
Có
thể phân biệt được hai giai đoạn các bia ký được tạo
ra. Giai đoạn đầu, 11 năm sau khi Asoka lên ngôi, các pháp dụ
đước khắc trên vách đá một cách thô thiển, và tuỳ vào
nội dung dài ngắn mà còn chia ra là Đại Thạch Pháp dụ (Major
Rock Edicts) và Tiểu Thạch Pháp dụ (Minor Rock Edicts). Những
Thạch Pháp dụ này thường được khắc trên những tảng
núi đá lớn đến nay đã bị hư hỏng khá nhiều. Lấy trường
hợp bia ký ở Sopara, chỉ vài mảnh của dụ VIII và IX còn
sót lại. Nhờ vào những văn bản khác còn được bảo quản
tốt mà người ta đọc được những đoạn bị mất ở những
pháp dụ bị hư hỏng.
Cho
đến nay người ta phát hiện có 14 đại thạch pháp dụ mang
nội dung rất rộng rãi từ việc hạn chế sát sinh đến cung
cấp các dịch vụ phúc lợi và y tế, rồi đến cuộc chiến
ở Kalinga và những tác dụng của nó. Lại thêm hai pháp dụ
Kalinga đựơc ban ra vào năm măm 259 TTL, có học giả còn gọi
là pháp dụ số 15 và 16. (mà nội dung tương tự như 3 pháp
dụ đã bị hư hõng, là các pháp dụ số XI: nói về việc
cứu tế và sự tương thân của nhân loại, số XII: nói về
sự khoan dung tôn giáo và XIII: nói về cuộc chíến tranh ở
Kalinga, sự hồi tâm của Asoka). Hai pháp dụ này cũng có lời
dành cho các quan cai trị vùng mới chiếm, nói về những vấn
đề đạo đức, thi hành công lý, vấn đề làm giảm căng
thẳng với lân bang và cải thiện hoà bình liên quốc.
Mười
bốn đại thạch pháp dụ kể trên được tìm thấy ở 6 nơi
khác nhau gồm: hai nơi gần biên giới phía tây của đế quốc
Maurya bên biển Ả Rập là Sopara thuộc bang Bombay và Girnar
thuộc bang Saurahtra; hai nơi gần biên giới tây bắc là Mansehra
và Shahbazgarhi ở vùng tây Pakistan; một nơi ở phía bắc là
Kalsi thuộc Uttar Pradesh và một ở phía nam Erragudi thuộc Andhra
Pradesh. Mười một đại thạch pháp dụ cùng với 2 pháp dụ
Kalinga còn được tìm thấy ở Dhauli và Jaugada thuộc Orissa,
gần bờ biển phía đông bên vịnh Bengal.
Những
Tiểu Thạch Pháp dụ có lẽ đã được ban ra vào năm 260 TTL
và là những Pháp dụ đầu tiên, cùng lúc với những chuyến
vi hành Pháp bắt đầu. Chúng tập trung hầu hết ở phía giữa
và nam của đế quốc gồm Tiểu Thạch Pháp dụ I, được
tìm thấy tại 7 nơi ở bắc Ấn và Hyderabad: là Bairat, Gavimath,
Maski, Palkigundu, Gujarra, Rupnath và Sahasram. Tiểu Thạch Pháp
dụ II được tìm thấy tại 5 nơi ở phía nam là Brahmagiri,
Jatinga-Ramesvara và Siddaoura thuộc bang Mysore, Erragudi và Rajula-Mandagiri
thuộc bang Andhra. Tiểu Thạch Pháp dụ III (pháp dụ dành cho
tăng già ban ra vào năm thứ 12 sau khi lên ngôi) được tìm
thấy ở Bairat.
Ở
giai đoạn sau, vào năm thứ 27 đến 28 dưới triều của hoàng
đế Asoka, những pháp dụ mới đươc khắc lên trên những
cột đá đánh chà bóng loáng, được dựng lên ở nhiều thành
phố quan trọng trong thung lũng sông Hằng và các đường lớn
trong đế quốc, thường được gọi là Thạch trụ Pháp dụ
(Pillar Edicts). Lúc ban đầu có lẽ có rất nhiều pháp trụ
được dựng lên, nhưng đến nay chỉ còn lại có 10 trụ mà
thôi. Mồi trụ trung bình cao khoảng từ 12 đến 15 thước,
nặng đến 50 tấn. Trên đầu mỗi trụ đều được điêu
khắc những hình tượng thật tinh xảo như sư tử gầm, con
bò thần hay con ngựa thánh vv.. Tất cả thạch trụ đều được
lấy từ các mõ ở Chunar, phía nam Varanasi và được kéo đến
nơi được dựng lên, nhiều khi xa cả hàng trăm dặm. Dù sau
bao nhiêu thế kỷ phơi giữa mưa nắng gió sương vậy mà nước
bóng láng vẫn còn sáng như gương, đủ nói lên chất lượng
cao tuyệt của nghệ thuật tạc đá của Ấn thời bấy giờ.
Hai
đại sư Trung quốc hành hương Tây trúc (Aán) là Pháp Hiển
(Fa Hien: 401 – 410 TL.) ghi là đã nhìn thấy 6 pháp trụ, và
Huyền Trang (Hiuen Tsang hay Yuan Chwang: 629 – 645 TL) thì đã thấy
15, trong số ấy ngày nay chỉ 2 còn tồn tại đúng theo lời
Huyền Trang mô tả trong ký sự. Những pháp thạch trụ dựng
ở Meerut và Topra đã được vua Sultan Driuz Shah dời về Delhi
ở thế kỷ 14. Trụ tại Kausambi (thuộc bang Kosam ngày nay)
cũng đã được vua Akbar dời về Allahabad ở thế kỷ 16. Một
số lớn khác có lẽ đã bị chôn vùi, che phủ bởi rừng
rậm theo thời gian thăng trầm, vật đổi sao dời.
Các
Thạch trụ Pháp dụ này gồm 7 dụ mà nội dung tương đối
đơn giản: bắt đầu bằng hai trụ nói về tự tánh của
Chánh pháp, đến 3 trụ nói về sự ứng dụng Chánh pháp vào
việc chế ngự ác nghiệp và tham ái, việc truyền bá đạo
đức và công lý, và những qui định về việc sát hại súc
vật và tiệc tùng công cộng, và kết thúc với một pháp
dụ (hoặc 2 như trong trường hợp của trụ Topra) nói về
phương thức truyền bá đạo đức. Những thạch trụ Pháp
dụ này đã được tìm thấy ở rãi rác trên 30 nới kháp
toàn cõi đế quốc Maurya bao gồm Ấn độ, Nepal, Pakistan và
Afghanistan ngày nay, như Meerut và Kausambi thuộc Utter Pradesh,
Lauriya-Araraj, Lauriya-Nandangarh và Rampurva thuộc Bihar. Một trụ
khác với dụ thứ 7 lại được tìm thấy tại Topra thuộc
vùng đông Punjab. Văn bản của bia ký trên các Thạch trụ
Pháp dụ này giống hệt nhau.
Trụ
Allahabad lại có khắc thêm 2 dụ khác. Dụ thứ nhất, có khi
được gọi là tiểu thạch trụ pháp du I, cũng còn thấy xuất
hiện ở Sanchi thuộc bang Bhopal và tại Sarnath thuộc bang Uttar
Pradesh. Bia ký không được bảo quản tốt nên văn bản của
bia ký trên trụ ở ba nơi có nhiều thay đổi.
Trụ
tại Sarnath (nơi có vườn nai: Lộc Uyển) lại còn khắc thêm
phần tiếp theo của dụ trên trụ Allahabad, còn gọi là tiểu
thạch trụ pháp dụ II. Ngày nay chính phủ Ấn dùng hình tạc
bốn con sư tử đâu lưng với nhau trên thạch trụ Sarnath làm
biểu tượng quốc gia. Dụ còn lại thứ hai trên trụ Allahabad
có khi được gọi là tiểu thạch trụ pháp dụ III, là quà
tặng của một bà hoàng hậu của vua Asoka, nên còn được
gọi là Pháp dụ của Hoàng hậu.
Hai
trụ tìm thấy ở Nepal là trụ ghi dấu thánh địa, một ở
Rummindei hay Lumbini, nơi đức Phật đản sanh, một gần hồ
lớn Nigali Sagar, gần tháp giữ xá lợi của cổ Phật Kanakamuni.
Những
pháp dụ hang động (The Cave Edicts) được tìm thấy ở 3 trong
số 4 hang trong dãy núi Barabar thuộc bang Bihar. Trong 2 hang trước
có bia ký của Hoàng đế Asoka ghi vào năm thứ 12, hang thứ
ba ghi năm thứ 19 sau khi ông lên ngôi, tặng các hang động
như là nơi cư trú cho các nhà tu khổ hạnh thuộc giáo phái
Ajivika, mà giáo chủ là Gosala cùng thời với Đức Thích Ca.
Trong hang thứ 4 thì bia ký được ghi lại thuộc thế kỷ thứ
5 TL sau này. Ở một nơi khác là đồi Nagarjuni có 3 hang động
nữa chứa bia ký đề tặng cho tu sĩ phái Ajivika của một
vị vua dùng tước vị “Thiên tử “, nhưng lại do vua Dasaratha,
cháu của hoàng đế Asoka cho dựng lên.
Vị
trí của Hoàng đế Asoka trong Phật giáo thật là vinh hiễn,
có thể nói là được tôn sùng lên hàng Hộ Pháp Vương. Những
công đức của ông thường được giới Phật tử ca tụng
là lòng sùng bái và hổ trợï Phật giáo của ông. Asoka cho
xây cất nhiều tháp thờ xá lợi Phật (stùpa), nhiều tịnh
xá (vihàra). Kinh sách còn ghi là 84 ngàn vihàras ở 84 ngàn thị
trấn, và ngôi lớn nhất Asokàràma ở ngay kinh đô để vua
thường đến cúng bái. Ông đã chu cấp thực phẩm cho hàng
trăm ngàn tăng ni, vì thế thời bấy giờ đã có nhiều kẽ
xấu lợi dụng khoác áo nhà tu gia nhập tăng chúng để được
sống an nhàn. Điều này đã đưa đến tình trạng suy đồi
trong việc tu tập Phật pháp. Khi biết ra tệ nạn, Asoka liền
ra lệnh cho thanh lọc hàng ngũ tăng già và đã loại bõ đến
60 ngàn kẽ ngụy danh và ăn bám trước kỳ Đại hội kiết
tập kinh điển (sangìti) lần thứ 3 tại kinh đô Pâtaliputrâ
do ông bảo trợ.
Ông
thường đi hành hương chiêm bái những Phật tích và cho dựng
những cột trụ đá tán thán, mà gần đây nhiều cuộc khảo
cổ đã phát hiện được ở Lumbini nơi Đức Thích Ca đản
sanh, hay ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya) mà thời ấy được
gọi là Sambodhi hay Vajirasana. Riêng thạch trụ ở Bồ đề
Đạo tràng lại có khắc Pháp dụ số VIII ban ra vào năm thứ
10 sau khi ông đăng quang. Ông còn đề ra một chương trình
tu hïoc Phật pháp cho tín đồ. Ông cũng cho dựng những trụ
đá ghi sự liễu ngộ Phật pháp của ông (như trên Tiểu thạch
pháp dụ). Ông thường trực tiếp phân xử những cuộc tranh
luận giữa các tông phái và cương quyết ngăn chặn những
sự phân hoá trong tăng già.
Cũng
nhờ sự hộ pháp của ông mà Phật giáo đã được lan rộng
khắp đế quốc Maurya, và đến các nước lân cận. Cũng theo
bộ Mahavamsa ở Tích Lan thi khi Hội đồng tăng già trong nước
quyết định muốn truyền bá Phật pháp ra nước ngoài, vua
Asoka liền giúp đở tích cực, còn phái ngay cả hoàng tử
Mahinda và công chúa Sanghamitta, (và về sau cả đứa cháu Sumana)
vào đoàn truyền giáo xuống Tích Lan vào năm thứ sáu dưới
triều của ông, cũng như gởi những đoàn khác đến vùng
Đông Nam Á và Trung Á. Ông còn gởi những đoàn sứ giả (duta)
đến 5 nước phía tây thuộc đế quốc Hy lạp mãi đến vùng
biển Địa Trung Hải (Mediteranean) từ Syria đến Macedonia, như
đã ghi trong pháp dụ số XIII.
Trong
khi những đoàn truyền giáo qua hướng tây không mấy thành
công thì những tăng đoàn hoằng hoá do hoàng tử Mahinda và
công chúa Sanghamitta hướng dẫn xuống phía nam lại thành công
rực rỡ. Ngay từ buổi đầu cho đến nay Phật giáo đã trở
thành quốc giáo ở Tích Lan. Có truyền thuyết cho rằng phái
Thượng toạ bộ còn được truyền đến Miến Điện từ
Tích Lan dưới triều Asoka, nhưng ai cũng bíết rằng Phật
giáo chỉ du nhập Miến vào khoảng từ thế kỷ thứ 5 TL.
Đáng
tiếc là sau khi ông mất vào năm 232 TTL thì đế quốc Maurya
rộng lớn cũng tan rã theo khoảng 50 năm sau, và rồi bị giòng
họ Shungas thay thế; và những công tác phúc lợi xã hội do
ông đề xướng cũng không kéo dài được lâu trừ những
pháp dụ khắc vào đá và ảnh hưởng truyền bá đạo Phật
qua Đông Phương.
PHẦN
2: NỘI DUNG NHỮNG PHÁP DỤ KHẮC TRÊN ĐÁ
CỦA
ĐẠI ĐẾ ASOKA MAURYA (304 TTL. – 232 TTL.)
Lời
thưa trước: Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về
những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng
Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản
Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu
biểu: 1) Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao
Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành
năm 1959 (Viết tắt “Bản Nikam”) và 2) Giới tăng già, của
Đại đức S. Dhammika thuộc Buddhist Publication Society, Sri Lanka,
ấn hành năm 1993 (Viết tắt “Bản Dhammika”). Quí độc giả
có thể vào trang http://www.accesstoinsight.org để xem bản
Dhammika. Tuy vậy, trong khi đối chiếu để làm rõ nghĩa hơn
giữa 2 bản này chúng tôi nhận thấy rằng ngoài những khác
biệt về văn phong, ở vài đoạn các dịch giả nói trên đã
có lối diễn dịch khác hẳn nhau. Vì thế chúng tôi đã cân
nhắc chọn lối dịch nào gần với tinh thần nội dung của
Pháp dụ để chuyển ra Việt ngữ, và dùng những từ ngữ
hợp với đương thời hơn. Ngoài ra ngay dưới mỗi Pháp dụ,
chúng tôi thêm phần ghi chú và nhận xét riêng (NXR) để giải
thích những khác biệt, thay vì để ở cuối bài không được
tiện dụng. Dù vậy vẫn không thể tránh được những sơ
sót. Mong được quí vị cao minh chỉ giáo. Xin gởi góp ý đến
kvt9899@aol.com. Mong bài viết này đóng góp phần nào vào tài
liệu Sử Phật Giáo. Đa tạ.
A.
Mười Bốn Đại Thạch Pháp Dụ
ĐTPD
I
Thiên
tử, Vua Piyadasi, ban lệnh cho ghi pháp dụ này [1]. Trong lãnh
thổ do trẫm cai trị không sinh linh nào được sát hại hoặc
tế sống và không tịệc tùng liên hoan nào được tổ chức,
bởi Thiên tử, Vua Piyadasi thấy nhiều điều xấu ác trong
những cuộc tụ họp liên hoan ấy. Nhưng Thiên tử, Vua Piyadasi
vẫn chuẩn y cho một vài cuộc liên hoan khác.
Trước
đây, trong nhà bếp hậu cung của trẫm đã có hằng trăm ngàn
sinh thú bị giết hằng ngày để làm thức ăn. Nhưng với
Pháp dụ này kể từ nay chỉ có ba loại sinh thú được phép
hạ thịt mà thôi, là hai con công và một con nai, nhưng thỉnh
thoảng mới làm thịt nai. Và rồi nay mai cả ba thú này cũng
sẽ khỏi bị giết.
Ghi
chú:
1.
Bia ký Girnar, ban vào năm 257 TTL. Bản Nikam còn viết là vua
Priyadarsi. Trong các Pháp dụ, Đại đế Asoka luôn tự xưng
là Thiên tử, Vua Piyadasi.
ĐTPD
II
Khắp
nơi [2] thuộc lãnh thổ do Thiên tử, Vua Piyadasi cai trị, và
dân cư ngoài biên ải như dân Cholas, dân Pandyas, dân Satiyaputras,
dân Keralaputras, và xa hơn nữa dân Tamraparni, và ở xứ Yona
(Hy-lạp) do vua Antiyoka cai trị, và vua các xứ lân cận với
vua Antiyoka [3]. Thiên tử, Vua Piyadasi ban cho hai loại săn sóc
y tế: cho người và cho thú. Nơi nào không có thảo dược
để trị liệu, trẫm cho du nhập và trồng. Nơi nào không
có cũ rể hoặc trái cây làm thuốc, trẫm cho du nhập và trồng.
Dọc các đường trẫm cho đào giếng và trồng cây để người
và thú được hưởng lợi [4].
Ghi
chú:
2.
Bia ký Girnar, ban vào năm 257 TTL.
3.
Dân Cholas vàPandyas ở phía nam ngoài đế quốc do vua Asoka cai
trị. The Dân Satiyaputras và Keralaputras sống cận duyên vùng
tây nam. Tamraparni là tên cổ của Tích Lan (Sri Lanka). Antiyoka
tức là Antiochos II Theos của xứ Syria (261-246 TTL).
4.
Asoka thực hành lời dạy của Đức Phật trong Samyutta Nikaya
(Tương Ứng Bộ Kinh), I:33.
ĐTPD
III
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng [5]: Pháp dụ này được ban ra sau
mười hai năm trẫm đăng quang – Trẫm lệnh cho các quan Yuktas,
Rajjukas và Pradesikas phải tuần du thanh tra khắp nơi thuộc
lãnh thổ do trẫm cai trị mỗi 5 năm để huấn dụ Chánh pháp
như dưới đây, đồng thời lo các chính sự khác [6].
Biết
kính trọng vâng lời cha mẹ là việc tốt, hào phóng với
bạn bè, thân hữu, bà con, các bậc tu hành [7] là việc tốt,
không sát sanh là việc tốt, biết chừng mực trong tiêu pha
và tiết kiệm là việc tốt, tất cả toàn là những điều
phước đức.
Triều
đình nên báo cho các quan địa phương phải tuân thủ nghiêm
chỉnh những điều huấn dụ này đúng ý của trẫm.
Ghi
chú:
5.
Bia ký Girnar, ban vào năm 257 TTL.
6.
Bản Dhammika: Không có tài liệu nào tồn tại cho biết rõ
chức năng của các vị quan này. Bản Nikam: đó là các quan
cai trị huyện (Yuktas), tỉnh (Rajjukas) và kinh đô (Pradesikas).
7.
Bản Nikam: “priests and ascetics”; Bản Dhammika: “Brahmans and ascetics”:
“tu-sỉ (Bà-la-môn) và đạo sĩ khổ hạnh”, chỉ cho giới tu
hành thời bấy giờ. Đạo-sĩ khổ hạnh gồm cả các khất
sĩ Phật giáo, Ajivika và Kỳ na giáo.
ĐTPD
IV
Nhiều
trăm năm trong quá khứ, việc sát hại sinh vật, đối xử
tệ bạc với bà con, và thiếu tôn kính với các bậc tu hành
đã gia tăng [8]. Nhưng nay do việc thực hành Chánh Pháp của
Thiên tử, Vua Piyadasi, nên diệu âm của Chánh Pháp thay dần
cho tiếng trống [9]. Đã nhiều trăm năm hiện tượïng về
những thiên xa, voi lành, sao băng và những cảnh tượng thần
linh đã không xảy ra. Nhưng nay do Thiên tử, Vua Piyadasi cổ
xúy việc khồng chế sát hại sinh thú, đối xử ân cần với
bà con, tôn kính các bậc tu hành, và kính trọng cha mẹ và
bậc trưởng thượng, những cảnh tượng điềm lành ấy lại
gia tăng [10].
Những
điều này cùng với nhiều lối khác thực hành Chánh Pháp
đã được Thiên tử, Vua Piyadasi khuyến khích, và ngài sẽ
tiếp tục thăng tiến việc thực hành Chánh Pháp. Rồi cũng
thế, các con, cháu và chắc của Thiên tử, Vua Piyadasi sẽ
tiếp tục thăng tiến việc thực hành Chánh Pháp cho đến
hết đời; an trú trong Chánh Pháp thì họ mới giáo huấn dân
theo Chánh Pháp được. Thực vậy, giáo huấn theo Chánh Pháp
là công tác cao cả. Tuy vậy kẻ thiếu đạo đức thì không
thể thực hành Chánh Pháp được, bởi việc thực hành và
thăng tiến Chánh Pháp là việc đáng ca tụng.
Pháp
dụ này được ghi để những kẻ kế thừa của trẫm hoan
hỉ tận lực mình thăng tiến Chánh Pháp và không để suy
thoái. Thiên tử, Vua Piyadasi đã lệnh cho Pháp dụ này ghi lại
mười hai năm sau khi ngài đăng quang.
Ghi
chú:
8.
Bia ký Girnar, ban vào năm 257 TTL.
9.
Bản Dhammika: muốn nói đến tiếng trống đánh lên khi triều
đình trừng phạt những kẽ phạm pháp. Bản Nikam: là tiếng
trống trận. NXR: Ý kiến của Nikam và McKeon có vẻ đúng hơn.
10.
Bản Dhammika: Giống như mọi người trong thời cổ đại, Asoka
tin rằng dưới sự cai trị của một minh quân thì nhiều điềm
lành xuất hiện. NXR: Bản dịch của Nikam và McKeon về đoạn
này không sát bằng bản của HT. S. Dhammika.
ĐTPD
V
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng [11]: Làm điều thịện thực khó.
Kẻ nào làm điều thiện là làm được nan sự. Trẩm đã
làm nhiều điều thiện, và nếu các con, các cháu và hậu
duệ của trẩm, cho đến hết đời noi gương trẩm thì sẽ
làm được những điều thật tốt. Nhưng ai trong bọn chúng
bỏ bê dù một phần huấn dụ này thì chúng sẽ làm điều
ác. Thưc vậy, làm điều ác thì rất dễ [12].
Trong
quá khứ không hề có Pháp Đại thần (Dhamma Mahamatras), nhưng
mười ba năm sau khi trẫm đăng quang chức vụ này được bổ
nhiệm. Từ nay họ được ủy nhiệm làm việc với tất cả
các tôn giáo cho việc cũng cố Chánh Pháp, cho sự thăng tiến
Chánh Pháp, và cho an sinh và hạnh phúc của tất cả những
ai ngưỡng mộ Chánh Pháp. Họ được ủy nhiệm làm việc
với dân Yonas (Hy-lạp), dân Kambojas, dân Gandharas, dân Rastrikas,
dân Pitinikas, và các dân khác ở biên cương phía tây của
lãnh thổ. [13] Họ được ủy nhiệm làm việc với quân sĩ,
các cấp chỉ huy, các bậc tu hành, các cư sĩ, [14] kẻ nghèo
khó, người già cả, và những ai ngưỡng mộ Chánh Pháp để
lo cho sự an sinh và hạnh phúc của họ và để họ khỏi bị
nhũng nhiễu.
Các
Pháp Đại thần được ủy nhiệm làm việc để cải thiện
cách đối xử với tù nhân, đưa đến việc phóng thích chúng,
và nếu các Pháp Đại thần nghĩ rằng “Kẻ này có một gánh
nặng gia đình”, “Kẻ kia bị vu cáo”, “kẻ nọ đã già”, thì
họ tiến hành việc phóng thích các kẻ đó. Họ được ủy
nhiệm làm việc khắp nơi, ở đây (nơi bia ký được khắc,
dựng), ở những thị trấn xa xôi, trong những hậu cung thuộc
các bào huynh hay bào tĩ của trẫm, và hoàng tộc. Các Pháp
Đại thần chuyên lo truyền bá Chánh Pháp được cử đi khắp
nơi thuộâc lãnh thổ, giữa ngừơi dân ngưỡng mộ Chánh
Pháp để xem ai ngưỡng mộ Chánh Pháp, hay an trú trong Chánh
Pháp, hay thựïc hành bố thí.
Pháp
dụ này được khắc lên đá để nó có thể trường tồn
và hậu duệ của trẫm có thể theo đấy mà thực hành.
Ghi
chú:
11.
Bia ký Kalsi, ban năm 256 TTL.
12.
Theo lớiPhật dạy trong “Pháp Cú” (Dhammapada), câu 163.
13.
Dân Hy-lạp (Yonas), định cư đông đảo ở vùng mà nay là
Afghanistan vàPakistan sau cuộc xâm lăng của Alexander the Great.
14.
Trong hai bản đều dịch là “householders: gia trưởng”. NXR: Có
lẽ Asoka muốn nói đến giới cư sĩ. Theo chúng tôi, dịch
là “cư sĩ” thì đúng với tinh thần Pháp dụ hơn.
ĐTPD
VI
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: [15] Trong quá khứ, quốc sự hoặc
các biểu tấu không hề được đệ trình hoàng thượng thường
xuyên. Nhưng nay trẫm ra lệnh này, khi các quan có chuyện bẩm
báo về dân tình trong nước thì có thể đến gặp trẫm bất
cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, dù trẫm đang ngự thiện,
đang ở trong hậu cung, trong cấm cung, trên long xa, trong ngự
giá, trong thượng uyển hay đang cầu nguyện. Và khi một ban
bố hay tuyên dương bằng khẩu lệnh, hoặc vì quốc vụ khẩn
cấp trẫm ủy quyền cho các Pháp Đại thần, mà gây nên sự
bất đồng hay bàn cải trong triều thì phải cấp báo cho trẫm
biết ngay bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Đó là mệnh
lệnh của trẫm.
Trẫm
không hề bao giờ bằng lòng với việc làm và canh cánh cho
quốc vụ của trẫm. Trẫm cho rằng viêc thăng tiến an sinh
của thần dân là nhiệm vụ cao cả nhất của trẫm, và cốt
lõi của việc này là phải chính mình tận lực. Đối với
trẫm, không có điều gì quan trọng hơn là viêc thăng tiến
an sinh của thần dân, và tất cả những nổ lực của trẫm
chỉ là trả cái nợ trẫm mắc chúng sinh để mưu cầu hạnh
phúc cho họ trong đời này và đạt đến thiên giới trong
kiếp sau.
Vì
vậy trẫm lệnh cho Pháp Dụ này được khắc ra để trường
tồn và các con, các cháu và chắt của trẫm noi theo vì sự
an sinh cho mọi người. Tuy nhiên đây là một việc khó nếu
không nhiệt tâm và tận sức.
Ghi
chú:
15.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
ĐTPD
VII
Thiên
tử, Vua Piyadasi muốn rằng tất cả môn đồ của các tín
ngưỡng đều chung sống trên đất nước của ngài, vì tất
cả bọn họ đều mong cầu tự chế và thiện tâm. [16] Nhưng
con người thường có nhiều xu hướng và khát vọng khác nhau,
nên họ có thể thực hành được một phần hay tất cả những
điều ấy.
Nhưng
kẻ thiếu tự chế, lòng không trong sạch, thiếu ân tình và
tín tâm mà lại nhận lắm phẩm vật cúng dường, thì kẻ
ấy là gian ác. [ 17 ]
Ghi
chú:
16.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
17.
Bản Nikam lại dịch là: “Ngay cả kẽ không cúng dường được
phẩm vật xa xỉ, không biết tự chế và lòng không trong sạch,
không có ân tình, và tín tâm vững chắc vẫn đáng khen vàcần
thiết.”
ĐTPD
VIII
Trong
quá khứ, các thiên tử hay tuần du để săn bắn hoặc vui
chơi. [18] Nhưng mười năm sau khi lên ngôi, Thiên tử, Vua Piyadasi
đã đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng [19] và như thế thiết
chế những cuộc Pháp du hành (Dharma-yatras). [20] Trong những
lần như thế, các việc sau đã được làm: viếng thăm và
quà tặng cho các bậc tu hành, viếng thăm và tặng (tiền)
vàng cho người già, viếng thăm dân ở thôn quê, huấn dụ
họ về Chánh Pháp và thảo luận với họ về Chánh Pháp khi
thích hợp. Những điều này đã làm Thiên tử, Vua Piyadasi
đẹp mặt và lại được xem như là một mối thu hoạch khác.
[21]
Ghi
chú:
18.
Vihar-yatras. Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL. Ở đây vua Asoka
dùng “Thiên tử” để chỉ cho các tiên vương.
19.
Bản Dhammika: Thời bấy giờ có tên là Sambodhi hay Vijirasana
chứ không gọi là Bodh Gaya như ngày nay.
20.
Bản Nikam lại dịch đoạn này như sau: “Tuy nhiên, vua Priyadarsiđã
giác ngộ (sambuddha) mười năm sau ngày đăng quang, nên từ
đó những chuyến tuần du của ngài được gọi là Pháp du
hành.”
21.
Bản Nikam dịch: “Những chuyến Pháp du hành này làm vua Priyadarsi
rất vui lòng hơn những chuyến khác.”
ĐTPD
IX
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: [22] Người ta hay cúng nhiều lễ,
nhất là những dịp đau ốm, khi cưới hỏi, lúc sinh nở,
trước một chuyến đi xa. Đặc biệt là phụ nữ lại còn
bày ra lắm lễ lặt vặt, vô nghĩa khác.
Không
có gì quấy với những lễ cúng bái này nhưng thường thì
chẳng đem lại kết quả nào. Chỉ có Lễ Chánh Pháp (Dharma-mangala)
là mang lại rất nhiều kết quả. Nó bao gồm việc đối xử
tử tế với nô tì và gia nhân [23], tôn kính thầy dạyï,
đừng độc ác với sinh linh, và cúng dường cho các bậc tu
hành. Những việc như thế được gọi là Lễ Chánh Pháp.
Vì thế một người cha, một ngườ con, một người anh em,
một người chủ, một người bạn, một người phối ngẫu,
hay cả người hàng xóm thấy thế nên bảo: “Những việc này
tốt, nên làm cho đạt đến mục đích, tôi nên tham dự.”
Những
buổi cúng lễ khác, dù đạt mục đích hay không vẫn chẳng
có mấy giá trị. Nhưng những mục đích này, nếu có chỉ
hạn chế trong đời này. Còn Lễ Chánh Pháp thì vô cùng. Cho
dù nó không đạt được mục đích trong đời này, nó tạo
ra vô lượng phước đức cho đời sau. Nếu Lễ Chánh Pháp
đạt được mục dích trong đời này thì lại có cả phước
đức trong đời này và đời sau. [24]
Lòng
hào phóng thực đáng ca ngợi. Nhưng không có quà nào lớn
bằng quà Chánh Pháp, hoặc bằng lợi lộc Chánh Pháp. Vì thế,
một người bạn, người khách, bà con, hoặc người phối
ngẫu nên cổ xúy người khác khi cơ hội đến và bảo rằng:
“Điều này tốt, nên làm, rất đáng khen. Làm việc này ta
có thể đạt thiên giới.” Và có việc gì còn giá trị hơn
là đạt thiên giới?” [25]
Ghi
chú:
22.
Bia ký Kalsi, ban năm 256 TTL. Asoka nghĩ đến Mangala Sutta (Sutta
Nipata 258-269) khi ban Pháp dụ này.
23.
Bản Dhammika: “công nhân và gia nhân”.
24.
Nhiều bản chấm dứt ngang đây.
25.
Bia ký ở Girnar, Dhauli và Jaugada lại thêm đoạn này.
ĐTPD
X
Thiên
tử, Vua Piyadasi không xem vinh quang và danh vọng có giá trị
gìù trừ phi thần dân của trẫm đều nghe đến Chánh Pháp
và thực hành Chánh Pháp trong hiện tại vàtương lai. [26] Chỉ
có điều này Thiên tử, Vua Piyadasi mới muốn được vinh quang
và vang danh.
Tất
cả mọi nỗ lực của trẫm chỉ nhắm đến giải thoát cho
con người khỏi vòng nô lệ trong đời từ nay về sau. Bởi
ác nghiệp là vòng nô lệ. Thật là nan sự cho kẽ giàu và
người nghèo trừ phi họ tận lực và từ bõ tham vọng. Lại
càng khó bội phần cho kẽ giàu hơn là người nghèo. [27]
Ghi
chú:
26.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
27.
Bản Dhammika dịch đoạn này như sau: “Tất cả mọi nỗ lực
của trẫm chỉ nhắm đến an sinh trong đời sau cho thần dân,
và để họ không vướng ác nghiệp. Vô phước đức là ác
nghiệp. Thật là việc khó làm cho kẽ hèn hạ và người cao
sang trừ phi họ tận lực và từ bõ tham vọng. Lại càng khó
bội phần với người cao sang (hơn là với kẽ hèn hạ).”
ĐTPD
XI
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: [28] Không quà nào bằng quà Chánh
Pháp (Dharma-dana), [29] không sự quen biết nào bằng sự quen
biết Chánh Pháp (Dharma-samstava), không sự san xẻ nào bằng
sự san xẻ Chánh Pháp (Dharma-samvibhaga), và không sự thân thuộc
nào bằng sự thân thuộc Chánh Pháp (Dharma-sambandha). Và nó
bao gồm những điều này: đối xử tử tế với nô tì và
gia nhân, kính trọng cha mẹ, hào phóng với bạn bè, phối
ngẫu, bà con, các bậc tu hành, và đừng sát sinh. Vì thế
một người cha, một người con, một người anh em, một người
chủ, một người phối ngẫu, hay một người hàng xóm nên
bảo rằng: “Điều này có phước đức, nên làm.” Bằng cách
biếu quà Chánh Pháp, người ta được lợi lộc ngay trong đời
này và vô lượng phước đức trong đờùi sau”.
Ghi
chú:
28.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
29.
Dharma-dana: Đàn thí Chánh Pháp. Tương tự “Pháp Cú” (Dhammapada)
câu 354.
ĐTPD
XII
Thiên
tử, Vua Piyadasi tôn kính tất cả các bậc tu hành và các cư
sĩ của các tôn giáo qua quà cáp ngài ban và nhiều sự vinh
dự. [30] Nhưng Thiên tử, Vua Piyadasi không coi trọng quà cáp
hay vinh dự bằng sự tăng trưởng về đạo hạnh của người
có tín ngưỡng. [31] Sự tăng trưởng về đạo hạnh có thể
đạt được bằng nhiều lối, nhưng cái gốc rễ vẫn là
phải kềm chế lời nói, không được đề cao tôn giáo mình
và lại phỉ báng tôn giáo khác một cách vô cớ, hoặc là
khi đúng cớ thì lại quá đà.
Dù
bất kỳ lý do nào, tín ngưỡng của kẽ khác cần phải được
tôn vinh. Có như vậy thì tôn giáo của mình cũng được lợi
lộc, và tôn giáo của kẽ khác nữa. Ngược lại thì tôn
giáo của mình bị tổn hại, và tôn giáo của kẽ khác nữa.
Kẽ nào huyênh hoang về tôn giáo của mình vì cuồng tín và
phỉ báng tôn giáo kẽ khác với ác ý “Để ta làm vinh quang
đạo của ta”, thì chỉ làm tổn hại đến tôn giáo của mình.
Vì thế, sự hòa đồng tôn giáo là điều tốt. [32] Ai cũng
phải lắng nghe và tôn kính giáo lý của đạo khác.
Thiên
tử, Vua Piyadasi muốn rằng mọi người nên tìm hiểu thêm
giáo lý chân chính của tôn giáo khác.
Kẽ
nào chỉ biết cố chấp với tôn giáo của mình thì phải
được dạy rằng: Thiên tử, Vua Piyadasi không coi trọng quà
cáp và vinh dự bằng sự tăng trưởng về đạo hạnh của
mọi tôn giáo. Để đạt đến điều này, các Pháp Đại thần,
các Đại thần chuyên lo về hậu cung, những quan lại trông
nom những vùng xa xôi và những quan lại khác phải tận tâm.
Và kết quả là tôn giáo của mỗi người đều thăng tiến
và Chánh Pháp cũng được rạng rỡ.
Ghi
chú:
30.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
31.
Nguyên bản: “saravadi”dịch là “tinh túy tôn giáo” có nghĩa là
“phẩm chất đạo hạnh”.
32.
Theo Bản Dhammika, vốn dựa vào bản bằng tiếng Pal, dịch
theo câu “Ta samavayo eva sadhu”; mà “Samavayo” chiết tự ra thí
có “sam + ava + i”, có nghĩa là “đến với nhau”.
ĐTPD
XIII
Thiên
tử, Vua Piyadasi xâm chiếm Kalinga tám năm sau khi ngài đăng
quang. [33] Một trăm năm chục ngàn người bị bắt và bị
đầy, một trăm ngàn người bị giết và rất nhiều người
nữa chết vì những lý do khác. Ngay sau khi Kalinga được chinh
phục, Thiên tử, Vua Piyadasi mạnh mẽ nghiêng về học hỏi
Chánh Pháp, yêu thích Chánh Pháp và muốn phát triển Chánh
Pháp.
Nay
Thiên tử, Vua Piyadasi rất xúc động và lấy làm hối hận
đã chinh phục Kalinga. Thực vậy Ngài rất buồn và hối tiếc
việc chinh phục một dân tộc bất khuất qua tàn sát, chết
chóc và đầy ải. Điều quan trọng hơn đã làm Thiên Tử
hối hận là các bậc tu hành cũng như giới cư sĩ, tín đồ
của các tôn giáo của nước này – tất cả đều thực hành
kính trọng bậc trưỡng thượng, cha mẹ và thầy dạy, đối
xử tử tế và trung thành với bạn bè, người quen, kẽ phối
ngẫu, bà con, nô tì, gia nhân – đã bị thương, bị giết
hay bị chia lìa với người thân. Ngay cả những kẽ không
bi hề hấn cũng đau khổ khi thấy bạn bè, người quen, người
phối ngẫu và bà con bị liên lụy. Những việc này làm Thiên
tử, vua Piyadasi đau buồn.
Không
có nước nào, trừ xứ của người Yonas (Hy Lạp) ở đó không
có các bậc tu hành (giống như tu-sĩ Bà-la-môn và đạo sĩ
khổ hạnh), và không ở nơi nào mà cư dân lại không phụng
thờ tôn giáo này hay tôn giáo nọ. [33] Bởi thế, dù số tử
vong hay số bị đày ải qua trận Kalinga chỉ bằng một phần
trăm hay một phần ngàn của thực sự, điều này cũng làm
Thiên tử, Vua Piyadasi đau buồn. Ngài nghĩ rằng những ai phạm
lỗi nên được tha thứ nếu có thể. [34]
Ngay
đối với dân mọi rợ nay sống dưới quyền cai trị của
Thiên tử, Vua Piyadasi, cũng nên theo lối sống mới mà cư xử
đàng hoàng. Chúng nên được khuyến cáo rằng dù Ngài hối
hận nhưng Ngài vẫn còn đũ quyền lực để trừng trị bọn
chúng nếu chúng phạm tội đáng chết. Thực vậy, Thiên tử
muốn ai cũng được vô hại, tự chế, và công bằng, ngay
cả những kẽ phạm lỗi.
Nay
Thiên tử, Vua Piyadasi xem Chinh Phục bằng Chánh Pháp (Dharma-vijaya)
mới là cuộc chinh phục quan trọng nhất. [35] Cuộc chinh phục
này đã chiến thắng liên tục không những trong xứ mà còn
cả với những dân sống ngoài biên cương xa đến sáu trăm
do-tuầøn, (yojanas) [36] ở đó vua Yona (Hy-Lạp) là Antiyoka cai
trị, và xa hơn nữa nơi của bốn vua khác cai trị, đó là
vua Turanmaya, Antikini, Maka, và Alikasudara,[37] xuống phía nam với
dân Cholas, dân Pandyas, và còn xa hơn nữa là dân Tamraparni.
[38]
Ở
đây trong lãnh thổ của Thiên tử, giữa dân Yonas, [39] dân
Kambojas, dân Nabhakas, dân Nabhapamkits, dân Bhojas, dân Pitinikas,
dân Andhras và dân Palidas, khắp nơi dân đều theo lời giáo
huấn về Chánh Pháp của Thiên tử, Vua Piyadasi.
Cả
đến những xứ mà sứ giả của Thiên tử, Vua Piyadasi chưa
đến, dân ở đấy cũng đã nghe đến Chánh Pháp và những
chiếu chỉ của Thiên tử về Chánh Pháp nên họ đã tuân
thủ và tiếp tục tuân thủ. Cuộc chinh phục bằng Chánh Pháp
này diễn ra khắp nơi và đem lại niềm hân hoan – niềm hân
hoan chỉ do chinh phục bằng Chánh Pháp đem lại mà thôi. Nhưng
niềm hân hoan cũng chỉ là kết quả nhỏ. Thiên tử xem quả
gặt được trong đời sau mới thực quan trọng.
Trẫm
cho ghi Pháp dụ này để các con và cháu của trẫm khi kế
vị đừng lấy xâm lăng làm thành tích. Nếu chinh phục thì
nên khoan hòa và nhẹ trừng phạt. Nên xem chinh phục bằng
Chánh Pháp là cuộc chinh phục thật sự, bởi nó có kết quả
trong đời này và đời sau. Hãy vui lấy niềm vui trong Chánh
Pháp (Dharma-rati), bởi nó mang lại kết quả tốt rong đời
này và đời sau.
Ghi
chú:
32.
Bia ký Kalsi, ban năm 256 TTL. Kalinga, bây giờ là bang Orissa.
33.
Thời bấy giờAsoka nghĩ rằng Hy-Lạp là xứ vô tôn giáo.
34.
Bản Nikam dịch: “Bây giờ, vua Priyarsi nghĩ rằng kẽ phạm
lỗi với Ngài nên được tha thứ nếu lỗi ấy có thể tha
thứ được.”
35.
Có thể Asoka nghĩ đến “Pháp Cú” câu 103-104.
36.
Khoảng ba ngàn dặm.
37.
Theo thứ tự, là các vua Antiochos II Theos của Syria (261-246 TTL),
Ptolemy II Philadelphos của Egypt (285-247 TTL), Antigonos Gonatos của
Macedonia (278-239 TTL), Magas của Cyrene (300-258 TTL) và Alexander
của Epirus (272-258 TTL).
38.
Xem ghi chú 3.
39.
Xem ghi chú 13.
ĐTPD
XIV
Thiên
tử, Vua Piyadasi ra lệnh cho những Pháp dụ này được ghi.
Vài bản được ghi ngắn gọn, vài bản được ghi vừa đủ
hay vài bản được ghi dài hơn. [40] Không phải tất cả đều
được trưng bày khắp nơi bởi lãnh thổ của trẫm rất rộng.
Nhiều bản đã được khắc và trẫm sẽ còn sai làm thêm.
Vài
Pháp dụ đã được lập đi lập lại vì lời hay ý đẹp
của lời dạy để thần dân thực hành noi theo. Vài Pháp dụ
không hoàn tất vì không thích hợp với địa phương, hoặc
vì cần loại bõ, hoặc vì lỗi của người ghi khắc.
Ghi
chú:
40.
Bia ký Girnar, ban vào năm 256 TTL.
B.
Những Thạch Pháp Dụ Kalinga
TPDKa
I
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán lệnh này cho các Đại thần ở Tosali
cũng là các Phán quan thuộc thành ấy: [41] Trẫm muốn thấy
những gì trẫm xem là chính đáng phải được thi hành nghiêm
chỉnh. Trẫm phải chỉ thị cho các ngươi lối thực hiện
điều này vì trẫm đã đặt các ngươi ở vị trí phải thu
phục được nhân tâm của hàng vạn người.
Mọi
người đều là con cái của trẫm. Những gì trẫm ước muốn
cho con cái của trẫm, như phúc lợi và hạnh phúc cho đời
này và đời sau, trẫm đều ước muốn như thế cho thần
dân. Các ngươi không hiểu lòng trẫm muốn như thế nào về
những điều này, và dù một vài người trong các ngươi hiễu
đi nữa cũng không thấu đáo hết lòng của trẫm.
Các
ngươi phải quan tâm đến điều này. Trong khi thi hành luật
pháp nhiều người phải bị giam cầm, tra khảo và ngay cả
bị giết vô cớ nên lòng dân ta thán. Vì thế các ngươi phải
hành sự thật vô tư. Phải tránh tị hiềm, tức giận, tàn
bạo, thù ghét, nhẫn tâm, trây lười hoặc mệt nhọc. Luôn
phải tự hỏi “Những thói ấy có ở trong lòng ta không?” Cốt
lõi vẫn là không tức giận và nên nhẫn nại. Quan chức nào
chán mệt khi thi hành công lý không nên được thăng chức,
kẽ khác thì càng thăng tiến và nên được đề bạt. Ai trong
các ngươi hiểu được điều này nên nói với đồng sự
“Có gắng thi hành nhiệm vụ mà Thiên tử giao phó. Như vậy,
như thế này đúng là lời dạy của Thiên tử, Vua Piyadasi.”
Thực
hiện nghiêm chỉnh huấn dụ này thì gặt được nhiều kết
quả, còn nếu làm khác đi thì chẳng đạt đến thiên giới
và cũng chẵng làm Thiên tử hài lòng. Nếu các ngươi thất
bại trong nhiệm vụ sẽ làm trẫm kém vui. Nếu thực hiện
nghiêm chỉnh thì các ngươi sẽ đạt thiên giới và đẹp
lòng trẫm.
Pháp
dụ này phải được tuyên cáo cho mọi người vào mỗi ngày
Tisya. [42] Nó cũng có thể được đọc cho những cá nhân vào
những dịp đặc biệt ở những ngày khác. Nếu làm được
như thế là các ngươi thi hành nhiệm vụ.
Pháp
dụ này đã được ghi ở đây để nhắc nhở các Phán quan
trong thành này lúc nào cũng nên cố gắng tránh giam cầm và
tra tấn không chánh đáng. Để đạt được điều này trẫm
sẽ phái các Đại quan nhân ái đi thanh tra mỗi 5 năm xem các
Phán quan có theo đúng lời dạy của trẫm. Hơn nữa, vị hoàng
tử cai trị thành Ujjayini sẽ phái những vị quan thanh tra như
thế mỗi 3 năm. Cũng làm như thế từ thành Taksasila. Những
đại quan thanh tra này không được chểnh mảng công tác, và
họ phải bảo đảm là những phán quan theo đúng huấn dụ
của Thiên tử.
Ghi
Chú:
41.
Bia ký Dhauli, ban năm 256 TTL. Hai Pháp dụ Kalinga chỉ tìm thấy
được ở Dhauli và Jaugada.
42.
Bản Dhammika: còn viết là Tisa; là ngày rằm, trăng tròn.
TPDKa
II
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán lệnh này cho các Đaị thần ở Samapa:
[43] Trẫm muốn thấy những gì trẫm xem là chính đáng phải
được thi hành nghiêm chỉnh. Trẫm phải chỉ thị cho các
ngươi lối thực hiện điều này.
Mọi
người đều là con cái của trẫm. Những gì trẫm ước muốn
cho con cái của trẫm, như phúc lợi và hạnh phúc cho đời
này và đời sau, trẫm đều ước muốn như thế cho thần
dân.
Những
dân tộc chưa bị chinh phục ở ngoài biên cương của lãnh
thổ trẫm có thể đang thắc mắc: “Hoàng thượng đang tính
toán gì về chúng ta?” Ý định duy nhất của trẫm là chúng
sống mà không phải sợ hãi gì đến trẫm, và tin tưởng
trẫm; là trẫm sẽ ban cho chúng hạnh phúc chứ không phải
khổ đau. Hơn nữa, chúng nên ghi nhớ rằng trẫm tha thứ cho
chúng những lỗi lầm có thể tha thứ được; và rằng chúng
nên noi gương trẫm mà thực hành Chánh Pháp để hưởng phước
trong đời này và đời sau.
Trẫm
dạy điều này là để trả cái nợ mà trẫm đã chịu, và
để các ngươi hiểu rõ lòng quyết tâm và lời cam kết không
lay chuyển được của trẫm. Vì thế, để thực hiện được
điều này các ngươi phải thi hành nhiệm vụ và làm bọn
chúng an tâm tin tưởng rằng “Hoàng thượng cũng như là người
cha vậy. Ngài thương chúng ta như thương chính Ngài. Chúng
ta đối với Ngài cũng như là con cái của Ngài vậy.”
Trẫm
dạy các ngươi và cho các ngươi biết về lòng quyết tâm
và lời cam kết không lay chuyển được của trẫm. Trẫm sẽ
bổ nhiệm các quan chức thi hành điều này ở khắp các tỉnh.
[44] Hẳn nhiên, các ngươi còn có thể khích lệ bọn chúng
tin tưởng trẫm và bảo đảm an sinh và hạnh phúc cho chúng
trong đời này và đời sau. Làm được như thế, các ngươi
sẽ đạt thiên giới và giúp trẫm trả cái nợ cho chúng sinh.
Pháp
dụ này đã được ghi khắc ở đây để các Đại thần có
thể tận tụy khích lệ các dân ngoài biên cương luôn tin
tưởng vào trẫm và khuyến khích chúng thực hành Chánh Pháp.
Pháp
dụ này phải được tuyên cáo cho mọi người mỗi bốn tháng
lúc đầu mùa, [45] vào mỗi ngày Tisya. Nó cũng có thể được
tuyên cáo vào những kỳ giữa những ngày kể trên; và có
thể được đọc cho những cá nhân vào những dịp đặc biệt.
Làm được như thế là các ngươi thi hành nhiệm vụ.
Ghi
Chú:
43.
Bia ký Jaugada, ban năm 256 TTL.
44.
Bản Dhammika dịch đoạn này như sau: “Bằng vào việc chỉ
dạy và cho các ngươi biết về lòng quyết tâm và lời cam
kết của trẫm, trẫm sẽ tự mình quan tâm để đạt đến
mục tiêu này.”
45.
Ấn có 3 mùa: nóng, mưa và lạnh. Ngày Tisya: xem ghi chú 42.
C.
Tiểu Thạch Pháp Dụ
TTPD
I. (Còn gọi là Pháp Dụ Maski)
Thiên
tử, Vua Asoka phán rằng: [46] Trẫm đã trở thành một cư sĩ
Phật tử (Upasaka) hơn hai năm rưỡi, nhưng không mấy thuần
thành. Mãi đến nay sau khi khi thường đến viếng Tăng già
(Shanga hay Shamga) hơn một năm trẫm trở nên rất thuần thành.
[47]
Thần
dân của trẫm nếu chưa có tín ngưỡng thì nên noi theo. [48]
Đây là kết quả của lòng nhiệt thành chứ không phải vì
người cao cả mới làm được. Cho ngay đến cả người hèn
ha,[49] nếu có lòng nhiệt thành vẫn có thể đạt thiên giới.
Và tuyên ngôn này được ghi lại cho mục đích ấy. Hãy nhiệt
thành lên hỡi người cao cả và kẽ hèn hạ, hãy để cho
các dân ở ngoài biên cương biết và hãy để cho lòng nhiệt
thành trường tồn. Và rồi lòng nhiệt thành sẽ tăng trưởng,
nó sẽ tăng trưởng to lớn hơn, nó sẽ tăng truởng gấp một
lần rưỡi. [50]
Thông
điệp này đã được Thiên tử tuyên cáo hai trăm năm chục
lần trong chuyến du hành. [51]
Ghi
Chú:
46.
Bia ký Gavimath, ban năm 257 TTL. Pháp dụ này đã tìm thấy ở
12 nơi khác nhau, với nội dung không đồng nhất. Đặc biệt
là chỉ trong Pháp Dụ Maski nói với Tăng Già này Đại Đế
mới xưng thực danh là Asoka (Asokaraja).
47.
Nhiều học giả khi dịch đoạn Pali “yam me samghe upeti” (đã
vào Tăng già), đã hiểu nhầm, cho là Đai đế Asoka đã trở
nên một tỷ-khưu (tăng sĩ).
48.
Nhiều bản khác dịch sát nguyên ngữ là “men unmingled with Gods:
người không hòa lẫn với Trời”. Hai bản Nikam và Dhammika
dịch ” the people who have not associated with the gods.”
49.
Bản Nikam dịch là “kẻ giàu và người nghèo”. Nói chung là
đều bình đẳng trong Chánh Pháp.
50.
Bản Nikam dịch đoạn này như sau: [Ở cõi Diêm-Phù-Đề (Jambudvipa),
trời vốn không hòa lẫn với người, nay đã hòa lẫn với
họ. Nhưng những kết quả trẫm thu đạt chỉ bằng của (ngay
cả) người nghèo nếu họ ngưỡng mộ Chánh Pháp. Thực không
đúng nếu nói rằng điều này chỉ dành cho kẻ giàu. Kẻ
giàu và người nghèo đều phải được bảo rằng: “Nếu các
ngươi làm như thế thì những thành tựu đáng ca tụng này
sẽ trường tồn và sẽ gia tăng một lần rưỡi.”]
51.
Bản Nikam không dịch đoạn này.
TTPD
II. (Còn gọi là Pháp Dụ Brahmagiri)
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: [51] Phải kính trọng, vâng lời
cha mẹ và các bậc trưởng thượng. Phải tôn trọng sinh mạng.
Đừng nói dối. Phải thực hành những giới này của Chánh
Pháp.
Cũng
như thế, học trò phải tôn kính thầy dạy, và trong gia đình
phải lịch thiệp với thân nhân. Đây là lệ luật truyền
thống của Chánh Pháp dẫn đến trường sinh. Ai cũng phải
hành động như thế.
Ghi
bởi người khắc (tên là) Chapala.
Ghi
Chú:
51.
Bia ký Brahmagiri.
TTPD
III. (Còn gọi là Pháp Dụ Bairat hay Bhabra)
Thiên
tử, Vua Piyadasi gởi lời chào Tăng già, và cầu chúc khỏe
mạnh và an lạc, đồng thời thưa rằng:[52] Bạch chư tôn
đức, chư vị đã rõ đức tin cao cả của trẫm vào Phật,
Pháp và Tăng như thế nào rồi. Bạch chư tôn đức, những
gì Đức Phật thuyết giảng đều là diệu ngôn. [53] Phải
phép mà nói, thưa chư vị, diệu Chánh Pháp phải trường tồn.
[54]
Bạch
chư tôn đức, những bài pháp – trích từ Giới Luật, Lối
Sống Cao Thượng, Âu Lo đến, Bài Ca Đạo Sĩ, Bài Giảng về
Cuộc Sống Tinh Khiết, Những câu hỏi của Ưu-Bà-Đề-Xà,
và Bài giảng về vọng ngữ do Đức Phật dạy cho La-Hầu-La
– nhửng bài pháp này, kính thưa chư vị trẫm muốn tất cả
Ty-Khưu và Tỷ-Khưu-Ni (tăng và ni) nên thường tụng niệm.
[55] Những Ưu Bà Tắt và Ưu Bà Di (cư sĩ nam và nữ) cũng
nên làm như thế. Trẫm cho ghi Pháp dụ này để chư tôn đức
hiểu được ý trẫm.
Ghi
Chú:
52.
Pháp dụ này được tìm thấy trên một tảng đá nhỏ gần
thành phố Bairat, và nay được bảo tồn trong Hiệp Hội Á
Châu ở Calcutta.
53.
Câu này đã dựa vào một đoạn trong Kinh Tăng Nhất A-Hàm
(Anguttara Nikaya, IV:164.) “… thật là diệu ngôn, những lời
do ĐứÙc Thế Tôn thuyết.”
54.
Bản Nikam dịch: “Cho phép trẫm liệt kê những bản kinh phản
ánh Diệu Chánh Pháp, và làm Chánh pháp trường tồn.”
55.
Đã có nhiều thảo luận về những bản kinh Pali nào tương
ứng với trích dẫn của vua Asoka:1) Vinaya samukose (Skt.: Vinaya
samukasa: Xưng Tụng về Trì Giới): có thể là Atthavasa Vagga,
Anguttara Nikaya, 1:98-100. 2) Aliya vasani (Skt.: Aliya vasani: Mẫu
Mực về Đời Đạo Hạnh): có thể là Ariyavasa Sutta, Anguttara
Nikaya, V:29, hoặc Ariyavamsa Sutta, Anguttara Nikaya, II: 27-28. 3)
Anagata bhayani (Skt.: Anagata—bhayani: Âu Lo về Tương Lai) : có
thể là Anagata Sutta, Anguttara Nikaya, III:100. 4) Muni gatha (Skt.:
Muni-gatha: Bài Ca Đạo Sĩ): là Muni Sutta, Sutta Nipata 207-221.
5) Upatisa pasine (Skt.: Upatisya-pasine: Bài Giảng về Cuộc Sống
Thánh Thiện): là Sariputta Sutta, Sutta Nipata 955-975. Và 6) Laghulavade
(Skt.: Rahulavada: Bài giảng về vọng ngữ cho La-Hầu-La): là
Rahulavada Sutta, Majjhima Nikaya, I:421.
D.
Bảy Thạch Trụ Pháp Dụ
TTrPD
I
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: [56] Pháp dụ này được ghi hai
mươi sáu năm khi trẫm đăng quang. Hạnh phúc đời này và
đời sau thực khó mà đạt được nếu không hết lòng yêu
thích Chánh Pháp, hết lòng tự xét, hết lòng kính trọng,
vâng lời, hết lòng kinh sợ (ác nghiệp), và hết lòng hăng
hái.
Nếu
theo đúng lời dạy của trẫm về tôn kính Chánh Pháp thì
lòng yêu thích Chánh Pháp gia tăng mỗi ngày, và sẽ tiếp tục
gia tăng. Mọi quan lại các cấp của triều đình từ thượng,
trung và hạ cấp đều thực hành theo Chánh Pháp đúng như
lời dạy của trẫm, và có khả năng cảm kích người khác
làm như thế. Các đại thần ở biên cương cũng làm như thế.
Và đây là những lời dạy của trẫm: cai trị theo Chánh Pháp,
nâng cao sự an lạc của dân theo Chánh Pháp, và che chở họ
theo Chánh Pháp.
Ghi
Chú:
54.
Bảy Pháp dụ này dịch từ bia ký Dehli Topra, sáu bản đầu
được ban ra năm 243 TTL và còn thấy trên năm thạch trụ khác.
Bản thứ bảy được ban ra năm 242 TTL.
TTrPD
II
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Chánh Pháp thì diệu hảo, nhưng
cái gì tạo nên Chánh Pháp? Nó gồm làm lành tránh dữ, nhân
ái, hào phóng, chân thật và trong sạch. Trẫm đã ban cho sự
sáng bằng nhiều cách. [55] Trẫm đã ban nhiều sắc chỉ nhân
từ bao gồm quà của sự sống cho những sinh vật hai và bốn
chân (người và thú), trên không và dưới nước, [56]. Và
còn nhiều việc thiện khác do trẫm làm nên.
Pháp
dụ này được ghi để thần dân noi theo, và để nó trường
tồn. Và ai noi theo đúng sẽ làm nhiều thiện nghiệp.
Ghi
Chú:
55.
Theo tiếng Pali: “Cakhu dane” có nghĩa là “Trẫm ban cho sự thấy”.
Có thể là vua Asoka ban cho “con mắt trí tuệ”; nhưng đặt nó
vào toàn bộ Pháp dụ thì có vẽ như là Asoka đã ra lệnh
ngưng lối hình phạt làm mù mắt.
56.
Có nghĩa là ngưng sát sinh.
TTrPD
III
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Người ta chỉ thấy việc tốt
của mình, bảo rằng: “Ta đã làm việc thiện này.” Nhưng họ
lại không nhìn thấy việc xấu họ làm mà bảo rằng “Ta đã
làm ra việc ác này, điều này gọi là ác nghiệp”. Nhưng sự
tự giác rất khó thấy. [57] Người ta nên tự bảo thế này:”
Những việc này đưa đến điều ác, đến bạo hành, đến
hung hản, đến giận dữ, đến kiêu căng và ganh tị. Ta đừng
mắc vào”. Và hơn nữa, người ta nên nghĩ rằng: “Điều này
đưa đến an lạc trong đời này và đời sau.”
Ghi
Chú:
57.
Tương tự như lời Phật dạy trong “Pháp Cú” (Dhammapada) câu
50 và 252.
TTrPD
IV
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Pháp dụ này đã được ghi hai
mươi sáu năm sau khi trẫm đăng quang. Các quan đầu tỉnh (Rajjukas)
đang cai trị dân, hằng trăm ngàn dân. Họ được giao cho trông
coi việc thỉnh cầu của dân và thi hành công lý một cách
vô tư và hiền hậụ, và nhờ thế họ mới chăm lo cho an
sinh và phúc lợi của dân. Nhưng họ nên nhận rõ điều gì
gây ra hạnh phúc và khổ đau cho dân, và bởi họ hằng ngưỡng
mộ Chánh Pháp, họ nên khuyến khích dân làm như thế để
có thể được an lạc trong đời này và đời sau. Những quan
đầu tỉnh (Rajjukas) này hết lòng phụng sự trẫm. Họ cũng
tuân lệnh những thượng quan (Purusas) đã hiểu ý trẫm và
chỉ thị họ để làm trẫm vui lòng. Cũng như một người
an tâm giao con mình cho vú nuôi ngĩ rằng: “Bà vú này sẽ săn
sóc tốt con mình,” nên trẫm đã bổ nhiệm các quan để lo
cho an sinh và phúc lợi của thần dân.
Các
quan đầu tỉnh được giao cho trông coi việc thỉnh cầu của
dân và thi hành công lý nên họ đã thi hành nhiệm vụ một
cách quả quyết, hiền hậu và vui vẻ, và nhờ thế họ mới
chăm lo cho an sinh và phúc lợi của dân. Trẫm muốn rằng phải
có một sự công bằng trong luật pháp và trong việc kết tội.
Trẫm còn đi xa hơn, trẫm muốn gia ân triển hạn thêm ba ngày
cho những tử tội trước khi hành hình. Trong thời gian ấy,
thân nhân của chúng có thể khiếu nại để khỏi tội chết.
Nếu không còn ai khiếu nại cho chúng, tử tội có thể bố
thí hay chay tịnh để được phước trong đời sau. Trẫm thực
lòng muốn rằng, theo lối này, nếu thời gian của tử tội
không còn bao lâu hắn cũng có thể chuẩn bị cho đời sau,
và rằng việc thực hành Chánh Pháp của dân qua tự chế và
bố thí sẽ được gia tăng trong thần dân.
TTrPD
V
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Hai mươi sáu năm sau khi đăng quang,
trẫm ra lệnh những thú vật sau đây được triều đình bảo
vệ: két, chim sáo sậu, ngỗng, vịt trời, dơi, kiến chúa,
ba-ba, cá không xương, [58] rùa, nhím, sóc, hươu có gạc già,
bò đực, thú nuôi trong nhà, tê-giác, lừa hoang, aruna, nandimukhas,
gelatas, vedareyaka, gangapuputaka, sankiya, okapinda, bồ câu nuôi
hoặc hoang và tất cả những thú bốn chân có ích hoặc không
ăn được. [59]
Những
dê cái, trừu cái, hoặc heo rừng cái đang nuôi con hoặc cho
con bú cũng được bảo vệ. Cũng thế, những thú con dưới
sáu tháng. Gà trống không định thiến, võ cây đang che chở
sinh vật không được đốt, và rừng cây không được đốt
nếu không có lý do hoặc chỉ để giết thú. Không được
dùng một con thú để nuôi con thú khác.
Vào
ba ngày Caturmasis,[60] ba ngày trăng tròn Tisya [61] và vào những
ngày 14 và 15 của tháng Uposatha, [62] cá không được giết
và bán. Vào những ngày này thú không được giết trong những
khu bảo tồn voi và khu bảo tồn cá. Vào ngày thứ 8 và vào
ngày 14 và 15 của tháng , vào ngày Tisya, ngày Punarvasu [63],
ba ngày Caturmasis và những ngày thánh khác, bò đực, dê đực,
hươu đực, heo rừng và những thú khác không được thiến.
Vào ngày Tisya, Punarvasu, Caturmasis và mỗi nữa tháng của tháng
Caturmasis, ngựa và bò con không được đóng dấu nóng trên
da.
Hai
mươi sáu năm sau khi trẫm đăng quang, tù nhân được ân xá
trong hai mươi lăm dịp.
Ghi
Chú:
58.
Có thể là tôm, cua.
59.
Hai bản Dhammika và Nikam vẫn để những tên thú theo nguyên
ngữ, không dịch được.
60.
Ngày đầu mùa. Xem 45.
61.
Ngày Tisya: xem 42. NXR: Ở đây chỉ qui định ngày trăng tròn
của tháng đầu mổi mùa.
62.
Tháng an cư kiết hạ
63.
ngày lễ hội
TTrPD
VI
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Mười hai năm sau khi đăng quang
trẫm đã cho ghi nhửng Pháp dụ về an sinh và hạnh phúc của
thần dân, để họ sửa đổi mà phát triển theo Chánh Pháp.
Trẫm
tin rằng chỉ với cách này an sinh và hạnh phúc của thần
dân mới đạt được. Trẫm luôn quan tâm đến làm cách nào
dể bảo đảm an sinh và hạnh phúc cho mọi người, không phải
chỉ riêng bà con của trẫm hoặc dân sống ở kinh đô mà
còn cả dân sống ở những vùng xa xôi hẽo lánh. Trẫm đối
xử bình đẳng như thế với tất cả mọi người, mọi giới.
Hơn
nữa, trẫm đã tôn kính mọi tôn giáo bằng mọi cách cúng
dường nhưng cách tốt hơn hết là trực tiếp thăm viếng
họ.
Pháp
dụ này được ghi hai mươi sáu năm sau khi trẫm đăng quang.
TTrPD
VII
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Trong quá khứ các vua đã nghĩ đến
nhiều cách để tăng sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân.
Nhưng dù vậy, sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân vẫn không
tăng trưởng.
Về
việc này, Thiên tử, Vua Piyadasi phán rằng: “Việc này cũng
đã xảy ra với trẫm. Trong quá khứ các vua đã nghĩ đến
nhiều cách để tăng sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân.
Nhưng dù vậy, sự ngưỡng mộ Chánh Pháp của dân vẫn không
tăng trưởng. Nay phải làm sao để khuyến khích thần dân
tuân theo? Làm thế nào để sự ngưỡng mộ của thần dân
gia tăng qua sự truyền bá Chánh Pháp? Làm sao trẫm có thể
nâng cao họ qua sự truyền bá Chánh Pháp?
Về
việc này, Thiên tử, Vua Piyadasi còn phán thêm rằng: “Việc
này đã từng xảy ra với trẫm. Trẫm phải công bố Chánh
Pháp và chỉ dạy Chánh Pháp. Khi thần dân nghe đến lời tuyên
cáo và sự chỉ dạy, họ sẽ sống theo Chánh Pháp, tự nâng
cao họ và tiến bộ qua sự truyền bá Chánh Pháp.” Vì mục
đích này mà trẫm phải công bố Chánh Pháp và trẫm phải
chỉ dạy Chánh Pháp bằng nhiều cách, và những quan lại được
lệnh phải gắng truyền bá và giải thích Chánh Pháp thực
rõ ràng. Các quan đầu tỉnh cai trị hàng trăm ngàn người
được lệnh như thế để hướng dẫn dân ngưỡng mộ Chánh
Pháp.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: ” Với mục đích này, trẫm đã
cho dựng những Pháp thạch trụ để công bố Chánh Phápï,
và bổ nhiệm các Pháp Đại thần để truyền bá Chánh Pháp.”
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Dọc đường, trẫm đã cho trồng
nhiều cây đa để lấy bóng mát cho thú và người, và trẫm
cũng đã cho trồng vườn xoài. Cứ cách khoảng tám krosas,
[64] trẫm cho đào giếng nước, xây nhà nghỉ chân, và ở
nhiều nơi trẫm cho xây bồn nước cho thú và người dùng.
Nhưng đây chỉ là những thành tựu nhỏ mà thôi. Những việc
như thế làm cho dân vui đã được nhiều tiên vương thực
hiện. Trẫm làm những điều này chỉ với mục đích là mọi
người có thể hăng say thực hành Chánh Pháp.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Những Pháp Đại thần của trẫm
bận rộn với những công tác giúp đở các bậc tu hành và
cư sĩ các tôn giáo. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời
sống Tăng già. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống
của các tu-sĩ Bà-la-môn và đạo-sĩ Ajivika. Trẫm ra lệnh
cho họ nên chăm lo cho đời sống của Niganthas. [65] Trẫm ra
lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của các tông phái
khác.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Những đại thần này và những
quan lại quan trọng khác bận rộn phân phát quà tặng của
trẫm cũng như của các hoàng hậu. Trong hậu cung của trẫm,
họ cũng tổ chức những sinh hoạt cứu tế khác, ngay ở đây
(kinh đô) và ở các châu quận. Trẫm cũng ra lệnh cho các
thái tử và hoàng tử nên ban phát quà để những việc thiện
cao cả của Chánh Pháp và việc thực hành Chánh Pháp được
thăng tiến. Những việc thiện cao cả của Chánh Pháp và việc
thực hành Chánh Pháp bao gồm gia tăng lòng nhân từ, hào phóng
quảng đại, chân thật, trong sạch, tử tế và thiện tâm
giữa mọi người.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Những việc thiện gì trẫm đã
làm, đều được thần dân noi theo và thực hiện. Nhờ vậy
mà họ tiến bộ và còn tiếp tục tiến bộ qua sự tôn kính
cha mẹ, tôn kính các bậc trưởng thượng, lễ phép với người
già và tử tế với các bậc tu hành, với người nghèo, kẻ
khổ và ngay cả với nô tì và gia nhân.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Những tiến bộ này của thần
dân qua Chánh Pháp được thực hiện bằng hai cách, bởi những
qui định Chánh Pháp và bởi thuyết phục. Những qui định
Chánh Pháp thì không có hiệu quả mấy, trong khi thuyết phục
thì hiệu quả hơn nhiều. Những qui định Chánh Pháp trẫm
ban chẵng hạn như phải bảo vệ một số thú, và nhiều qui
định Chánh Pháp khác. Nhưng chỉ bằng thuyết phục thì tiến
bộ của thần dân qua Chánh Pháp có nhiều hiệu quả hơn liên
quan đến không hành hạ sinh vật và không sát sinh.
Về
việc này, Thiên tử, Vua Piyadasi phán rằng: Ở đâu có thạch
trụ hay mặt đá thì ở đấy Pháp dụ được khắc ghi để
nó trường tồn đến đời con cháu trẫm, và còn dài lâu
như mặt trời và mặt trăng còn soi sáng để thần dân thực
hành theo lời dạy Chánh Pháp. Bởi qua thực hành Chánh Pháp
thì an lạc mới có trong đời này và đời sau.
Pháp
dụ này được ghi hai mươi bảy năm sau khi trẫm đăng quang.
Ghi
Chú:
64.
Khoảng 1 mile.
65.
Tu sĩ Kỳ-na giáo (Jaina hay Jains). Giáo chủ là Makkhali Gosala,
cùng thời với Đức Phật Thích Ca.
E.
Tiểu Thạch Trụ Pháp Dụ
TTTrPD
I (Còn gọi là Thạch Trụ Pháp Dụ Rummindei)
Hai
mươi năm sau khi đăng quang, Thiên tử, Vua Piyadasi đã viếng
thăm và lễ bái nơi này bởi vì đây là nơi Đức Phật Thích
Ca, Bậc Giác Ngộ đã ra đời. [66] Thiên tử đã cho xây một
tường đá bao bọc xung quanh và dựng một thạch trụ. [67]
Và vì Đức Thế Tôn đãn sinh ở đây, làng Lumbini [68] được
miễn thuế và chỉ đóng một phần tám nông sản.
Ghi
Chú:
66.
Lời ghi này được khắc trên một thạch trụ tại Lumbini
vào năm 249 TTL.
67.
Bản Dhammika: “Thiên tử đã cho tạc tượng và dựng một thạch
trụ.”
68.
Nay được gọi là Rummindei.
TTTrPD
II (Còn gọi là Pháp dụ Sanchi, hay Allahabad)
Thiên
tử, Vua Piyadasi lệnh cho Đại thần cai trị ở Kosambi rằng:
[69] Kẽ nào đã chia rẽ tăng- giàkhông được thâu nhận vào
tăng-già nữa.
Tăng-già
của tỷ-khưu hay tăng-già của tỷ-khưu ni nay đã được hòa
hợp, tiếp tục hòa hợp cho đến đời con và cháu của trẫm,
và còn dài lâu như mặt trời và mặt trăng còn soi sáng.
Kẽ
nào, dù là tỷ-khưu hay tỷ-khưu-ni, quấy rối trong tăng già
bị buộc phải mặc bạch y [70] và không được sống trong
tịnh xá. [71] Ước muốn của trẫm là tăng-già hòa hợp và
trường tồn mãi mãi.
Ghi
Chú:
69.
Phần đầu của Pháp dụ này đã bị hư hỏng; chỉ có câu
“chia rẽ” còn đọc được mà thôi. Người ta phải dựa vào
những Pháp dụ nơi khác để đọc được toàn bộ nội dung
của Pháp dụ này.
70.
Chỉ tăng và ni mới được mặc y vàng.
71.
Anabasasi.
TTTrPD
III (Còn gọi là Pháp dụ Sarnath)
[……]
[72] không ai được gây xáo trộn tăng-già.
Nếu
một tỷ-khưu hay một tỷ-khưu-ni quấy rối trong tăng già,
tăng hay ni ấy phải bị buộc phải mặc bạch y và không được
sống trong tịnh xá.
Pháp
dụ này phải được công bố trong tăng-già của tỷ-khưu
và trong tăng già của tỷ-khưu-ni.
Thiên
tử, Vua Piyadasi phán rằng: Treo một bản của Pháp dụ này
trong hành lang của tịnh xá; trao một bản cho tất cả tín
đồ. Tín đồ phải tụ họp mỗi ngày chay để học tập
về Pháp dụ này. Mỗi quan lại phải thường xuyên đến dự
mỗi ngày chay để làm quen và hiểu rành rẽ Pháp dụ này.
Lại
nữa, ngươi (chỉ vị quan đầu tỉnh) phải ra lệnh xuống
khắp nơi thi hành nghiêm chỉnh Pháp dụ này. Các phó quan thuộc
quyền của ngươi cũng phải làm như thế ở khắp các châu
huyện.
Ghi
Chú:
72.
Ba dòng đầu của Pháp dụ đã bị hư hỏng. Những mảnh còn
sót đọc được cho người ta gợi ý rằng Vua Piyadasi (Asoka)
lệnh cho các quan phải ngăn ngừa những kẻ quấy rối trong
tăng già. Bản Dhammika không có Pháp Dụ này.
F.
Pháp Dụ Hang Động Karna Chaupar
Mười
chín năm sau khi đăng quang, Thiên tử, Vua Piyadasi [73] tặng
hang động này, trong dãy đồi thơ mộng Khalatika, không hề
bị ngập nước vào mùa mưa.
Ghi
Chú:
73.
Bản Dhammika không cóPháp dụ này. Dãy đồi Barabar (thời Asoka
gọi là Khalatika) có 7 động: 4 ở đồi Barabar, 3 ở đồi
Nagarjuni. 5 động được tặng cho các đạo sĩ Ajivika làm nơi
cư trú.
Trần
Trúc Lâm
Seattle,
trọng thu 2001
Tài
Liệu Tham Khảo
1.
Ven. S. Dhammika, “The Edicts of King Asoka” Buddhist Publication Society,
Kandy, Sri Lanka, 1993
2.
Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon, “The Edicts of Asoka”, The
University of Chicago Press, 1959.
3.
Kenoyer, J.M., “Ancient Cities of the Indus Valley Civilization”, Oxford
University Press, Oxford, New York, Delhi, 1998.
4.
Possehl, G.L., “Indus Age; The Beginnings”, Oxford and IBH Publishing,
New Delhi, 1999.
5.
Possehl, G.L., “Harappan Civilization: a Recent Perspective”, Oxford and
IBH Publications, New Delhi, 1993.
6.
Possehl, G.L, “Indus Age – The Writing” Oxford and IBH Publications,
New Delhi, 1999.
7.
Shaffer, J.G., “The Indo-Aryan Invasions: Cultural myth and Archaeological
Reality” in “The People of South Asia” edited by J.R. Lukas, Plenum Press,
New York, 1984.
8.
Chris J.D. Kostman, M.A., “The Demise of Utopia: Contexts of Civilizational
Collapse in the Bronze Age Indus Valley”, JAGNES, the Journal of the Association
of Graduates in Near Eastern Studies, 2001.
9.
Romila Thapar, “Languages and Scripts of Asoka’s Inscriptions”. Microsoft
Encarta DVD, 2001.
10.
John Snelling, “The Buddhist Handbook”, B&N, NY. 1991
Đế Asoka Giã Từ Chinh Chiến
Với
Nỗi Thống Khổ Của Người Thắng Trận
Trần
Hương Lan dịch
Những
tàn tích vùng Dhauligiri, một làng nhỏ trong bang Orissa, thường
khơi dậy ký ức về một biến cố lịch sử vĩ đại nằm
cách thủ phủ Bhubaneswar của tiểu bang Đông Ấn này chừng
10 km, làng Dhaulirigi vẫn còn giữ được gò đất và con lạch
nhỏ dưới chân gò. Đối với một du khách chiêm bái hay một
học giả chân chính, cả hai vật này đều là bảng chỉ đường
về lịch sử và truyền thống văn hóa Ấn Độ cổ đại.
Bên dưới đống đá lởm chởm và con lạch kia là cả câu
chuyện thương tâm về việc cảm hóa một anh hùng viễn chinh
của Ấn Độ thành một sứ giả nhiệt tình vì hòa bình và
nhân ái trên khắp thế giới (A-dục vương).
Sự
kiện này xảy ra trong cuộc đời của vị đại đế cổ Ấn
Độ Asoka (A-dục vương 273 – 236 trước công nguyên) tiếp theo
sau trận chiến Kalinga lẫy lừng, có lẽ đó là chiến trận
bạo tàn nhất từng diễn ra trên đất Ấn. Kể từ năm 231
trước CN, trận chiến Kalinga đã có khoảng 100.000 người
bị giết, hàng trăm ngàn người thương vong và 150.000 bị
bắt làm tù binh. Ngày nay, vùng Dhauligiri luôn nhắc nhở cho
con người thấy sự vô nghĩa của bạo lực và khiến cho họ
phải lắng lòng suy nghĩ thật sâu sắc.
Đường
đi đến Dhauligiri rất dễ dàng, phi cảng gần nhất là Bhubaneswar,
nối với Delhi, Calcutta, Bombay, Hyderabad và Bangalore. Những chuyến
tàu siêu tốc cũng có thể đưa bạn đến Bhubaneswar từ nhiều
đô thị lớn khắp Ấn Độ. Mọi tiện nghi đều sẵn có
trong các khách sạn do Công ty phát triển Du lịch Orissa quản
lý hoặc các nhà trọ tư nhân. Xe buýt và taxi, sẵn sàng phục
vụ ngay tại Bhubaneswar đi đến Dhauligiri và nhiều thắng cảnh
thu hút khách du lịch trong vùng quanh đó rất dễ ra vào.
Trong
khi theo đuổi chủ nghĩa bành trướng một cách bạo tàn, hoàng
đế Asoka đã mở rộng vương quốc khắp mọi phía. Thực
ra ngài đã thừa hưởng một vương quốc khá lớn do vị Tiên
vương để lại, trải dài từ Persia (Iran ngày nay) đến Nam
Ấn. Ngài còn bành trướng thêm bằng cách sáp nhập lãnh thổ
Kalinga. Các sử gia cho rằng vương quốc của ngài là đế
quốc vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ – Văn hào H. G.
Wells còn miêu tả ngài là “Đệ nhất Đại đế của xứ sở
này”.
Song
Kalinga là trận chiến thắng cuối cùng của Đại đế Asoka.
Cuối cùng, chính là vì những nỗi khổ đau của kẻ chiến
bại và lòng hối hận của người chiến thắng tràn ngập
trong lòng Đại đế đến mức độ ngài từ giã chiến chinh
mãi mãi, vì hoàng đế ăn năn đã chấp nhận đạo Phật thành
một tín ngưỡng được tôn trọng suốt đời mình và đem
hết những năm tháng còn lại ra sức thuyết giảng giáo lý
phổ biến đạo từ bi khắp mọi tầng lớp quần chúng không
chỉ trong quốc độ ngài mà còn vượt cả biên thùy Ấn Độ
mãi cho đến bao đời sau!
Sừng
sững giữa di tích ở Dhauligiri là một thạch tượng oai nghi,
đẽo bằng đá tàng, dễ thu hút khách chiêm bái. Thạch tượng
dáng cao cả, đơn độc như là nhân chứng câm lặng và bất
lực trước cuộc chiến kinh hoàng. Người ta cho rằng con suối
nhỏ kia tên là Daya (Từ tâm) cũng đã nhuộm thắm máu đào
của cuộc tàn sát tập thể thời ấy. Đứng bên bờ suối,
bạn có cảm tưởng như con suối kia chảy lờ đờ vì nó
vẫn còn mỏi mòn kiệt quệ với nỗi đau do cuộc chiến Kalinga
gây nên. Tàn tích Dhauligiri vẫn còn đó, suốt đời hậu chiến
cho đến bao thế kỷ hậu lai.
Đặc
điểm phi thường nhất trong biến cố trọng đại này là
Đại đế Asoka đã không đổi đời vì bất cứ một động
lực chính trị nào thúc đẩy từ trong nước cũng như ngoài
nước, mà đơn thuần vì lòng từ bi đột nhiên sinh khởi
đưa đến sự chuyển tâm toàn diện, một sự thay đổi trong
tư duy lẫn hành động. Ngài vẫn là vị Đế vương tối thượng
đầy đủ mọi uy quyền. Ngài được quần thần, chư hầu
khắp nơi tôn trọng và kiêng oai. Song nỗi thống khổ do cuộc
chiến Kalinga gây ra quá nặng nề đến độ ngài không thể
nào chịu đựng được nữa.
Đại
đế Asoka đầy ăn năn liền đi tìm gặp vị danh Tăng thời
ấy là Tỳ kheo Upagupta. Ngài phủ phục trước vị Tỳ kheo
và thỉnh cầu vị Pháp sư đem lại cho ngài sự bình an trong
tâm trí. Do đó ngài được đưa dần vào đạo Phật và đạo
Phật đã dần dần cảm hóa ngài, thu hút ngài mãnh liệt.
Trong mọi nỗ lực hành trì giáo lý Bất hại (Ahinisa) và Từ
tâm (metta) là nền tảng của đạo Phật, ngài truyền nhiều
phái đoàn Phật giáo đi đến tận những vùng đất xa xôi
vượt biên giới Ấn Độ để truyền đạo của Đức Thế
Tôn.
Ngài
lại ban các sắc dụ giải thích mọi công đức thiện sư
này cho toàn dân thông hiểu và tuân hành. Các sử gia xem Đại
đế Asoka là vị quốc vương Ấn đầu tiên ban hành các sắc
dụ để truyền bá lý tưởng cao cả của ngài.
Sử
gia Ấn Độ lỗi lạc, tiến sĩ Radha K. Moorkerji, chia các sắc
dụ này thành ba loại. Loại thứ nhất là “Sắc dụ Kalinga”;
bao gồm mười bốn sắc dụ trong đó có cả các sắc dụ
liên hệ vùng Dhauligiri này. Sắc dụ XIII khắc trên trụ đá
diễn tả nỗi khổ đau sâu sắc của vua Asoka vì đã gây nên
sự việc, mà theo lời ngài, là cuộc bạo hành đối với
nhiều người vô tội đầy lòng mộ đạo trong suốt cuộc
chiến Kalinga này. Vì thế, ngài cầu mong mọi người hưởng
được niềm hạnh phúc của nếp sống bất hại, từ điều
thân, bình đẳng và thân ái. Quan niệm “chinh phục bằng vũ
khí” trước kia đã được thay thế bằng lý tưởng chiến
thắng bằng Đạo pháp. Và đạo ngài theo đuổi không phải
là đạo cuồng tín, mà thấm nhuần tính nhân đạo giải thoát.
Đối
với Đại đế Asoka, an lạc hạnh phúc của toàn dân là điều
tối quan trọng. Ngài tuyên bố : “Tất cả thần dân đều
là con ruột của Trẫm và ví như Trẫm ước mong các con Trẫm
được hưởng mọi thứ an lạc hạnh phúc trong đời này lẫn
đời sau, Trẫm cũng ước mong mọi thần dân được như nguyện”.
Bằng
các thiết lập một mối quan hệ đầy tình người giữa nhà
vua cai trị và thần dân bị trị, ngài cho phép mọi triều
thần và cận vệ trình tấu ngài mọi việc từ quốc sự
đến dân tình vào bất cứ giờ phút nào, ngay cả khi ngài
ở trong các hậu cung của các vương phi.
Là
vị vua sáng lập ra một quốc gia hưng thịnh ở Ấn Độ,
ngài nhấn mạnh đức tính vị tha và thông cảm giữa các
tôn giáo qua các sắc dụ của ngài, chính ngài vẫn phán bảo
quần thần “Nếu người nào chỉ ca ngợi giáo pháp của mình
và chê bai các giáo phái khác thì chính người ấy đã làm
hại giáo phái mình một cách nghiêm trọng”.
Theo
đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật
tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không
chỉ giữa loài người mà cả với loài vật. Ngài tuyên bố
“Không sinh vật nào được giết hại hay đem ra tế lễ trong
quốc độ Trẫm”.
Quả
thật, vua Asoka đã cống hiến hầu hết cuộc đời mình –
khoảng hai thập niên – sau trận chiến Kalinga để thực hiện
các phận của một Phật tử thuần thành. Một số sử gia
có thể không tán đồng việc này, song một số khác cho rằng
công cuộc ngài theo đuổi trong thời hậu chiến này còn có
giá trị đối với nhân loại hơn cả thành tích chiến thắng
của nhiều người khác.
Trên
đỉnh đồi của quần thể vùng Dhauligiri ngày nay có dựng
lên một Phật đài rộng rãi được thiết kế rất mỹ thuật.
Nó thu hút sự chú ý của mọi người từ xa như một chứng
tích thể hiện công cuộc mưu tìm hòa bình của Đại đế
Asoka qua đạo Phật. Các Phật tử khắp nơi trên thế giới
đã đến đây để chiêm bái vùng Thánh địa cao cả này.
Song
ý nghĩa trọng đại hơn đối với đất nước Ấn Độ ngày
nay là sự việc vua Asoka đã đặt nền tảng vững chắc cho
một cơ chế dân chủ yêu chuộng hòa bình cao cả. Trên thực
tế quốc huy nước Ấn Độ độc lập ngày nay là khuôn mẫu
lấy từ Thạch trụ Asoka có hình bốn con sư tử lớn trên
đỉnh cột hình tròn được dựng lên khoảng thế kỷ thứ
3 trước công nguyên. Dưới quốc huy là phương châm: Chỉ
có chân lý chiến thắng (Satyameva Jyate). Cũng vậy, hình bánh
xe với 24 căm xe mà xanh dương trên nền quốc kỳ màu trắng,
phát xuất từ Pháp Luân (Dharma Cakka) trên Thạch trụ Asoka.
Bánh xe nằm nổi bật trên hình hoa sen nở trên đỉnh trụ.
Quả
thật các tàn tích trận chiến Kalinga, các Thạch trụ của
vua Asoka và quần thể Phật đài ở Dhauligiri tượng trưng
ba giai đoạn trong cuộc đời ngài: giai đoạn đầu tiên giai
đoạn ngài trưởng thành qua đạo Phật và sau cùng là những
ước mơ về tương lai cho chính ngài cùng hậu thế. Chính
phần cuối cùng này đã đem lại lợi lạc cho quốc dân ngài
và toàn thể nhân loại mãi mãi về sau./.
GOPÁL
SEXNA (Realist Budhhist, 1993)
Trường
ca KALINGA
Trúc
Thiên
Chỉ
có sự chiến thắng của Đạo Pháp mới thực là một cuộc
chiến thắng vô thượng; ai ai cũng nhờ cuộc chiến thắng
ấy mà được an cư lạc nghiệp.
Hộ
pháp Chuyển luân vương
Đại
đế A DỤC
Lời
mở đầu
Ngày
kia, trên đường du hóa, Phật gặp một cậu bé con nhà trâm
anh ngồi giữa đường nhồi đất nặn đồ chơi giả làm
thành trì sông núi. Cậu bé đem hết thành trì cúng dường
cho Phật và nguyện sau nầy sẽ thống trị muôn dân, gồm
thâu thiên hạ. Phật nhận lời nguyện, và báo trước kiếp
sau cậu sẽ làm Chuyển Luân Vương tích cực hộ trì pháp
Phật.
Quả
nhiên, với nguyện lực tinh tấn ấy, lối 200 năm sau, sau khi
Phật nhập Niết bàn, cậu bé ngày xưa thoát sanh làm hoàng
tử, tên A Dục (Asoka), lên ngôi năm 273 trước TL, chinh phục
toàn thể chư hầu bằng sắt và máu mà làm chúa tể cõi Diêm
Phù.
Tám
năm sau, nhà vua đánh xứ KALINGA, một nước nhỏ nằm bên
vịnh Bengale hiện nay. Bị chống trả bất ngờ, nhà vua ra
lịnh tàn sát. Kết quả: 10 muôn quân địch bị giết, 15 muôn
khác bị cầm tù, vài mươi muôn thường dân khác chết lần
chết mòn sau đó.
Nhưng,
mầu nhiệm thay, hồi loa chiến thắng vừa rúc lên là nhà
vua đột ngột hồi tâm và sám hối mà trở về với Phật.
Ngài tuyên bố: Chỉ có đạo từ bi mới chinh phục được
lòng người.
Tự
đó, và từ trung tâm KALINGA, phát động khắp trong nước,
khắp ngoài nước, những đợt truyền giáo hùng hậu không
cùng, tung hoành như vũ bão. Nhà vua còn cho hai con là Đại
đức Mahinda và công chúa Singhamiha xuất ngoại qua Tích Lan
hoằng pháp, mang theo ba tạng kinh và một chồi bồ đề, nay
vẫn còn. Ngài trùng tu lại các Phật tích, xây khắp xứ 84.000
thánh tháp thờ ngọc Xá Lợi, mở cuộc kết tập kinh điển
lần thứ ba, ký hiệp ước năm năm ở Cận Đông để truyền
bá pháp Phật, v.v…
Nếu
không có vị Chuyển Luân Vương siêu việt ấy thì khuôn mặt
của Phật giáo chắc không thể được rạng rỡ như hiện
nay, nhứt là sau thế kỷ thứ VI Phật giáo Ấn Độ bị càn
quét khỏi quê nhà, nhưng Phật giáo hải ngoại vẫn còn đó,
khắp nẻo lưu vong, đủ vững mạnh để thừa truyền mối
đạo.
I.
Bạo chúa A Dục
1
Kalinga!
Kalinga!
Kalinga
ngày nào một bãi trường sa!
và
giáo và gươm, và hịch truyền loa rúc
và
ngựa và người, và chiến xa chen chúc
dưới
gầm trời sát khí nghẹn mây đen
và
A Dục Vương lẫm liệt giữa rừng tên
trên
bạch tượng nghiêng mình xoay ngọn kiếm
xua
hết máu xương vào vòng hỗn chiến
Tiếng
vọng:
«dừng
tay lại bớ Đại Vương
«
tiền thân hẹn có Chuyển Luân Vương hội nầy
2
và
ngút trời lửa dậy đốt mông mênh
và
thành trôi trong sóng máu bập bềnh
loang
loáng chiếu gươm trần loe ánh đuốc
ngựa
dày lên voi nghiến bước
xe
chồm lên xác cày qua
người
gục dưới người sõng sượt
máu
đùn lên máu oan gia
giữa
màn đêm u uất giục hồi loa
Tiếng
vọng:
«dừng
tay lại bớ Đại Vương
«
tiền thân hẹn có Chuyển Luân Vương hội nầy
3
Kalinga!
Kalinga!
Kalinga
ngày nào một bãi tha ma!
người
ta hỏi nhau : nước còn hay mất?
người
ta hỏi nhau : ai còn ai mất?
ôi
tử sĩ mười muôn vùi nghiêng liệm sấp
sài
lang ơi, xin nhận lấy thịt da
xương
trắng đó đùn lên từng nấm đất
hồn
phiêu tám nẻo gió mưa nhòa
ôi
tử sĩ mười muôn vùi nghiêng liệm sấp
đêm
nghe quỉ rú dưới trăng tà
bầy
quạ đói từ đâu về tới tấp
từng
tử thi thâu dọn bãi trường sa
từng
mảnh thịt xóa đi niềm ô nhục
hỡi
ơi — người chiến thắng Kalinga — !
Tiếng
vọng:
«quay
đầu lại bớ Đại Vương
«tiền
thân hẹn có Chuyển Luân Vương hội nầy
4
Kalinga!
Kalinga!
Kalinga
ngày nào lởm chởm bóng tù xa chuyển về đâu
—
đâu cũng là địa ngục —
những
hình hài dở thú dở người ta
ôi
những tù xa …
rồi
những tù xa …
bánh
chuyển vồng lên tang tóc
bánh
chuyển đèo theo oan gia
bánh
chuyển về đâu hì hục
—
pháp trường hay hỏa ngục? —
chuyển
về đâu những tội ác của can qua
chuyển
về đâu những hiện thân của ô nhục
hỡi
ai — người chiến thắng Kalinga –?
Tiếng
vọng:
«dừng
tay lại bớ Đại Vương
«
tiền thân hẹn có Chuyển Luân Vương hội nầy
II.
Chuyển luân vương A Dục
1
Kalinga!
Kalinga!
Kalinga
ngày nào Máu Lửa hóa Sen Toà!
Kalinga,
lau đi dòng nước mắt
hỏi
làm chi ai còn ai mất
bạo
chúa giờ đâu?
đây
chỉ có Chuyển Luân Vương
bạo
chúa là ai?
đây
chỉ có đau thương
đây
chỉ có một tâm hồn ray rứt
quằn
quại giữa muôn niềm đau ấm ức
Vương
gục đầu cắn lệ nuốt trong sương
Vương
suốt một đời ngang dọc ngọn trường thương
uy
vũ lệch nghiêng trời đất
đầu
lâu rắc nẻo biên cương
mà
hôm nay
khi
chiến thắng hồi loa vừa ngây ngất
níu
xương máu vút trời lên chất ngất
Vương
gục đầu cắn lệ nuốt trong sương
và
chùa xa chuông vẳng tiếng du dương …
mà
tiếng vọng cứ triền miên trong gió rít
như
giục giã như chan hòa như quấn quít
như
nức lên từ giữa khối hư không
hồn
ai kêu ơi ới giữa mông lung
như
chuỗi máu nhiểu dài trong bóng tối
Vương
ngắm đôi tay: tay đầm những máu
Vương
ôm hồn gục xuống giữa hoang vu
và
chùa xa chuông vẳng tiếng vi vu …
đầu
gục trên niềm hối tiếc
tay
buông nhẹ hết triều nghi
chắp
lại một lời tha thiết :
«
Con nguyền sám hối qui y
«
gươm giáo đó sẽ là chuông là tượng
«
thân tâm này sẽ là bát là y
«
con thành kính dưng lên niềm tin tưởng
«
trên khung đời tạc lại nét từ bi
«Nam
Mô Thích Ca Mâu Ni ! »
2
«
đây : chồi Bồ Đề
«
đây : ngọc Xá Lợi
«
đây : Ba Tạng Pháp Bửu Pa Li
«
trẫm cung kính trao về chư Đại Đức
«
đây : Muôn đời Thông Điệp của Từ Bi
«
xin hãy lên đường hoằng pháp
«
khung đời tô lại nét huyền vi
«
mặt người tạc lại niềm u hiển
«
tâm người khơi lại ánh vô vi
«
đâu đâu chẳng hồn mơ từng tia nắng mỏng?
«
đâu đâu chẳng môi khát từng giọt từ bi?
«
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni!»
rồi
từng đoàn người đi …
rồi
từng đoàn người đi…
đi
từ thành Kalinga
kinh
đô của Ánh Sáng
đi
từ hồn Asoka
nguồn
lửa của Từ Bi
đạo
theo đoàn khất sĩ
kinh
theo nẻo vân du
hành
trang : một bình bát
võ
khí : một lòng tu
đốt
lên từng ngọn đuốc
kéo
qua cõi Diêm phù
đường
đi dầu có vi vu
núi
rừng dầu có hoang vu
truông
đèo dầu bao chớn chở
sông
ngòi dầu bao trắc trở
hiểm
nguy dầu khắp nẻo chắn đường tu
nhưng
Sứ Giả của Như Lai có bao giờ nhũn bước?
nhưng
Chiến Sĩ của Tình Thương có bao giờ lỗi ước?
hào
quang khoác áo chinh phu
…
và Pháp Phật tràn lan như sóng nước
và
Bồ Đề bóng ngả mát mười phương
từ
kinh kỳ ra hải ngoại
nối
liền lục địa với trùng dương
pháp
nào là chẳng Pháp Phật ?
tâm
nào là chẳng Tâm Thương ?
tung
ra thì đạo mở muôn đường
khép
lại thì bặt từng mảy bụi
ai
ngàn xưa mở núi
ai
ngàn sau hành hương
thấy
chăng trong nhịp hoằng dương
bóng
Người Hộ Pháp lồng khuôn Phật đà ?
tuần
Phật Đản 2509
Discussion about this post