DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 26
NHẪN NHỤC
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Trong
chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin kể một câu chuyện
thiền có liên quan đến đức tính Nhẫn Nhục, một trong sáu
hạnh tu của Phật Tử.
Chuyện
kể rằng khi xưa ở một làng bên nước Nhật, có một cô
gái rất xinh đẹp. Một hôm, cha mẹ cô phát hiện ra rằng
cô đang có thai. Điều này làm ông bà ta vô cùng tức giận,
nhất quyết tra hỏi xem ai là tác giả cái bào thai mà cô đang
mang:
– Hãy
nói cho chúng ta biết con có thai với ai?
Cô
con gái thấy cha mẹ nổi trận lôi đình thì quá sợ hãi,
chỉ tấm tức khóc mà không dám nói thủ phạm. Người cha
thấy vậy lại càng tức điên lên, nghiến răng kèn kẹt:
– Nếu
con không nói mà cha biết được đứa nào thì cha sẽ giết
nó.
Cô
gái nghe vậy thì càng thất kinh hồn vía, khóc lên rưng rức,
hai bàn tay bưng lấy mặt, thu mình lại như con rùa rụt cổ
khi sợ hãi, chúi đầu vào bãi cát vì nó tưởng là nơi ẩn
núp an toàn. Rồi có lẽ nghĩ rằng chỉ có cách đổ thừa
cho một người mà cha mình kính nể, không dám đụng tới,
may ra mới qua được giai đoạn khó khăn này, cô ấp úng:
– Thưa
cha, chính là sư Ha Kun …
Nghe
tới đây, cha mẹ cô gái choáng váng mặt mày, đứng không
còn vững. Sư Ha Kun ! Sao có thể được ? Làm sao mà chuyện
này có thể xẩy ra ? Sư vốn là một vị tu sĩ đạo cao đức
trọng, danh tiếng lừng lẫy khắp vùng cơ mà? Thế nhưng
con gái cưng của mình đã nói như vậy thì chỉ còn cách đến
thẳng tu viện mà hỏi tội nhà sư phạm giới.
Trong
cơn giận dữ đùng đùng, cha mẹ cô gái cùng nhau đi thẳng
đến chùa tìm sư Ha Kun. Trước thái độ hung hăng hạch tội
của cha mẹ cô gái, nói rằng Sư đã làm cho con họ mang thai
thì Sư phải chịu trách nhiệm, vị sư không phân trần một
lời, chỉ nói một câu ngắn gọn:
–
Vậy sao ?
Thế
là cha cô cất tiếng chửi mắng vị sư mà lâu nay hai ông
bà rất tôn kính, nể trọng như bậc thầy. Nhưng dẫu sao,
ông ta cũng chỉ chửi mắng, chứ không có hành động gì hung
dữ hơn đối với sư Ha Kun, người mà xưa nay cả làng rất
kính nể.
Câu
chuyện vỡ lở ra tới tai toàn thể dân làng. Thế là từ
địa vị một vị sư danh tiếng, tu hành nghiêm túc, giới
hạnh trong sạch, được dân làng cung kính vái chào mỗi khi
trông thấy, nay sư Ha Kun trở thành biểu tượng của tội
lỗi. Hằng ngày khi bưng bình bát đi khất thực, dân làng
xua đuổi không cho đứng ở cửa, Sư phải tự trồng khoai
sắn mà sống qua ngày.
Thời
gian trôi qua, cô gái đến kỳ sinh nở, cho ra đời một bé
trai kháu khỉnh. Cha mẹ cô ta muốn giải quyết tương lai con
gái một cách gọn gàng, bèn quyết định đem đứa bé đến
chùa trả cho cha nó là sư Ha Kun. Khi ẵm đứa bé đến trao
cho nhà sư, mẹ cô gái nói:
– Đứa
bé này là con ông, đã đốn thì phải vác, hãy nhận lấy
nó mà nuôi !
Với
thái độ thật hiền từ, vị sư dang tay đón nhận đứa bé,
ẵm vào lòng rồi chậm rải nói:
– Vậy
sao ?
Từ
đó, dù là một người xuất gia, hằng ngày sư Ha Kun đành
phải làm những công việc thế tục như: thay tã, tắm em,
giặt giũ quấn áo chăn mền, ru em bé ngủ và bế nó đến
nhà những bà mẹ có con sơ sinh trong làng để xin cho nó được
bú chực. Có những bà mẹ vừa cho thằng bé bú vừa mắng
Sư như tát nước. Danh dự của Sư hoàn toàn tiêu tan. Mỗi
khi thấy Sư ôm thằng bé đi trên đường làng là mọi người
lại chỉ trỏ để nhiếc móc. Sư cứ cúi đầu mà tiếp tục
công việc, chẳng một lời phân trần.
Được
một cái là thằng bé cũng dễ nuôi, cho cái gì ăn cái nấy,
chẳng bao lâu nó biết đi, rồi biết nói. Sư tận tụy săn
sóc dạy dỗ nó rất cẩn thận bên câu kinh tiếng kệ.
Thời
gian lặng lẽ trôi, cho đến một ngày kia cô gái bị lương
tâm dày vò vì tội nói dối của mình, bèn thú thật với
cha mẹ rằng không phải sư Ha Kun mà chính chàng thanh niên
tên Su Ju ở xóm dưới mới thực là cha đứa bé, nhưng vì
trước kia nàng muốn dấu tội cho người yêu nên mới nói
dối vậy thôi.
Nghe
cô con gái nói xong, cha mẹ cô ta như chết lặng vì hối hận,
Nghĩ tới biết bao nỗi nhục nhã mà sư Ha Kun đã phải chịu
một cách oan uổng, hai ông bà lật đật chạy thẳng lên chùa,
xụp xuống trước mặt sư vừa lạy vừa khóc:
– Bạch
Sư, chúng tôi đến đây để xin Sư tha cho cái tội đã quá
tin lời con gái mà vô tình đồng lõa với nó vu cáo cho Sư.
Nay nó hối hận nên đã thú nhận rằng cha của đứa bé chính
là thằng con trai xóm dưới tên là Su Jo.
Rồi
cha cô gái nói tiếp:
– Con
chúng tôi đã hư đốn chửa hoang, lại thêm tội vu cáo, còn
chúng tôi thì lại hàm hồ vội tin con gái nên cả nhà chúng
tôi đều quá tội lỗi. Là cha mẹ của một đứa con gái
hư hỏng, chúng tôi đích thân đến đây xin được sám hối
với Sư, xin Sư rộng lòng tha thứ.
Ngập
ngừng giây lâu, ông nói tiếp:
– Tiện
đây chúng tôi cũng xin được Sư cho chúng tôi đem cháu bé
về.
Sư
Ha Kun không một lời trách móc than phiền, cũng không đòi
hỏi gì dù ông đã dầy công nuôi thằng bé từ khi mới sanh
cho đến bây giờ đã hơn ba tuổi, mà đem ngay thằng bé trao
lại cho ông bà ngoại nó, rồi cũng chỉ nói vỏn vẹn một
câu:
– Vậy
sao.
Thưa
quý thính giả,
Giai
thoại nhà thiền trên cho thấy Sư Ha Kun là hình ảnh của
tấm lòng từ bi và đức tính nhẫn nhục không bờ bến. Mặc dù bị oan ức, bị người dân trong làng khinh rẻ, nhưng
Sư vẫn nhẫn chịu, không hề kêu oan, rằng mình không phải
là cha đứa bé. Trong trường hợp ấy, nếu Sư nói “tôi
không phải là cha đứa bé” thì cha mẹ cô gái sẽ thưa
kiện lên chính quyền sở tại và chính quyền sẽ cho mở
cuộc điều tra và có thể Sư sẽ được minh oan, nhưng sẽ
có một người bị tù tội.
Sư
Ha Kun đã nhẫn chịu nghịch cảnh một cách bình thản, chịu
đựng nổi điều mà người đời cho là bất công và oan ức,
vì Sư đã thấm nhuần tư tưởng của nhà Phật, rằng: “Chúng
sinh có nhân duyên tội lỗi mới xâm phạm đến nhau, mới
làm hại nhau. Hôm nay ta nhận thọ mọi khổ não này cũng bởi
nhân duyên đời trước cảm ứng nên mới vậy. Tuy đời
này ta không tạo tội, nhưng có thể ta đã gieo nhân xấu đời
trước, biết đâu nay đã đến mùa chín trái, ta phải trả
nợ đó một cách vui vẻ. Ví dụ như có người mắc
nợ của người, nay hạn kỳ đã mãn, chủ nợ đến đòi,
kẻ ấy đương nhiên phải vui vẻ mà trả. Lại nữa, bởi
chúng sinh mê mờ nên thuận dòng sinh tử, hễ bị ai xâm phạm
là nổi niệm sân giận, hễ được ai mến thương chiều chuộng
bèn vui mừng ưa thích, hễ gặp việc đáng kinh sợ thì khủng
hoảng kinh hoàng. Sư thì ngược lại, đang nghịch dòng
sinh tử, đang trôi ngược về nguồn, nên không thể sân giận
với những điều nghịch hại, không mừng vui với nhửng điều
ái kính, không sợ hãi đối với những nguy hiểm gian lao…”
Trong trường hợp của Sư, khi quyết định xuất gia lên đường tu đạo giải thoát, Sư đã phát nguyện bồ đề tâm, đã phát nguyện thành Phật vì lợi ích cho chúng sinh. Nay Sư thực hiện đại nguyện ấy bằng cách thể hiện một cách thực tiễn tấm lòng tôn trọng, quí chuộng và yêu thương kẻ khác, kể cả những người thù ghét mình và vu oan giá hoạ cho mình, những người mà Sư thấy ai cũng ngập tràn nỗi khổ đau riêng, ai cũng đang lặn ngụp trong sông mê biển ái, trong tham dục, trong hận thù và si mê. |
Sư
vẫn nhớ lời dạy của đấng Từ phụ Thích Ca Mâu Ni:
” Hận thù không thể diệt được bằng hận thù. Chỉ có lòng từ bi buông xả mới hoá giải được hận thù. Nếu không có lòng từ bi buông xả thì hận thù sẽ chồng chất từ kiếp này sang kiếp khác. Chỉ có lòng từ bi mới cởi mở được những nỗi oan ức và những khổ đau của đời mình. |
Trong
suốt cuộc đời hoằng pháp của đức Từ phụ Bổn sư Thế
Tôn, Ngài chưa từng giận dữ, dù Ngài bị ngược đãi nặng
nề hay dù các đệ tử của Ngài nhẫn tâm chống Ngài và
bỏ Ngài mà đi, Ngài vẫn luôn luôn nhân ái, từ bi và độ
lượng. Nên Sư đã noi theo gương đức Từ phụ và luôn
luôn nhớ lời Ngài dạy trong Kinh Lục Độ Tập:
“Người
đắm say vướng mắc
Thì
không còn sáng suốt
Tạo
khổ nhục cho mình
Nếu
ta nhẫn chịu được
Thì
tâm ta sẽ an
Kẻ
buông lung thân tâm
Không
hành trì giới luật
Vu
cáo làm hại mình
Nếu
ta nhẫn chịu được
Thì
tâm ta sẽ an.
Kẻ
vô ơn dối mình
Tâm
địa đầy oán thù
Tạo
bất công oan ức
Nếu
ta nhẫn chịu được
Thì
tâm ta sẽ an
Thưa
quý thính gỉa,
Sư
Ha Kun trong câu chuyện kẻ trên không ai khác hơn
là thiền sư Bạch Ẩn, một vị thiền sư Nhật
Bản danh tiếng lẫy lừng ở vào thế kỷ thứ 18, có công
chấn chỉnh lại dòng Thiền Lâm Tế tại Nhật và được
nhiều thiền sinh trên khắp thế giới biết đến với công
án nổi tiếng của ngài: “Tiếng vỗ của một bàn tay là
cái gì ?” (What is the sound of one hand clapping ?)
Hạnh
nhẫn nhục đã thể hiện nơi thiền sư Bạch Ẩn thật khó
ai bằng.
Nhẫn
nhục là một trong sáu hạnh của người Phật tử do đức
Thế Tôn chỉ dạy nhằm đối trị tính sân giận. Trong
sáu hạnh thì nhẫn nhục thuộc về hạnh thứ ba. Nhà
Phật phân biệt có ba loại nhẫn:
(1)
Sinh Nhẫn: Giữ được thái độ bình thản, không sân
giận, oán thù khi bị những người khác chửi mắng hay bức
hại mình.
(2)
Pháp Nhẫn: Gặp các nghịch cảnh thiên nhiên như mưa gió
nóng lạnh… đều xem như không, không chút than van oán trách.
(3)
Vô Sinh Pháp Nhẫn: Đức nhẫn thành đạt của bậc Thánh,
trở thành bẩm tính tự nhiên của họ, không cần cố gắng,
ra vào mọi nghịch cảnh như ra vào hư không. “Chữ rằng:
nhẫn nhục nhiệm hoà, Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân
tu” .
Có
người cho rằng nhẫn nhục đồng nghĩa với nhu nhược và
ươn hèn. Thực ra không phải vậy. Nhẫn nhục không
có nghĩa là ươn hèn, nhu nhược trước mọi hành động xấu
của người khác, mà là kiên gan bền chí nhẫn chịu mọi
sự nhục mạ, sự khó khăn, sự khổ sở, sự khen ngợi cũng
như sự thắng thế, để tự làm chủ lấy mình, rồi sau mới
tìm cách hoá giải mọi hiểu lầm hay ngộ nhận với họ. Ai hiểu lầm rằng mình nhu nhược hay ươn hèn cũng không cần
phải quan tâm.
Những
người bình thường như chúng ta khó mà làm được như thiền
sư Bạch Ẩn trong câu chuyện trên, nhưng ít nhất khi chúng
ta bị nhục mạ, bị người chửi mắng, ta có thể chịu khó
suy xét lại bản thân. Nếu ta có lầm lỗi thật thì
nên tự trách và nếu vì tự ái, không thể công khai cám ơn
lời chỉ bảo của họ như trong câu nói :” Kẻ chê ta
mà chê đúng là thầy của ta“, thì cũng nên thầm cảm
ơn họ, cố tránh sự giận dữ, thù ghét họ. Trường hợp
ta không làm điều gì lầm lỗi, họ tự đặt chuyện để
nhục mạ ta, thì ta nên xót thương cho sự vô minh lầm lỗi
của họ, tội nghiệp họ đã không biết phân biệt thiện
ác, thiếu lý trí xét đoán. Hãy giữ sự im lặng mà
không nên phản ứng mắng chửi hay nói lời không hay với
họ. Nếu như chúng ta mắng chửi lại họ thì oán oán
sẽ lại trập trùng.
Giả
tỷ có một người mặc bộ đồ trắng trẻo sạch sẽ đi
trên lộ về thăm quê, gặp các trẻ em chăn trâu đang chơi
bùn, mình mẩy lem luốc. Chúng ghét cái trắng trẻo sạch sẽ
của anh, nên hốt bùn tung vào anh. Lúc đó anh nên chạy, hay
nên hốt bùn tung vào chúng?
Nguời
có khả năng nhẫn chịu được những khó khăn, trở ngại
mới mong đạt được thành quả tốt đẹp trong công việc.
Nơi Kinh Bốn Mươi Hai Chương, có vị Tỳ-kheo hỏi Phật: “Điều
gì mạnh nhất trên đời?” Đức Phật dạy: “Nhẫn nhục
là mạnh nhất trên đời, vì không chứa tâm ác nên tăng sự
yên ổn. Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi người
tôn kính”. Thật vậy, chỉ có người nhẫn chịu được
mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại mới mong lập được
sự nghiệp vĩ đại trên đời.
Hoà
Thượng Thích Thánh Nghiêm trong một bài pháp, có nói rằng:
“Nhẫn nhục là im hơi lặng tiếng. Trước tất cả những việc oan uổng, lăng nhục, phỉ báng, đả kích, đều phải ứng xử hoàn toàn nhẫn nhịn. Tuy nhiên, chúng ta cần phải chú ý là nếu sự nhẫn nhục không xuất phát từ trí tuệ thì rất có khả năng gây nên tai họa lớn hơn, do đó thông qua sự soi chiếu của trí tuệ là điều vô cùng quan trọng. Ví dụ nói: sự tập kích bất ngờ của gió, mưa, nước, lửa là điều không thể chống nổi, nhưng vẫn có thể tìm cách phòng tránh để giảm bớt thiệt hại. Nghiệp báo là phải tiếp nhận một cách thẳng thắn, nhưng vẫn có thể cố gắng thay đổi mức độ và phương thức của nghiệp báo. Cho |
Thưa
quý thính giả,
Nhẫn
nhục bằng thân, khẩu và ý chính là hành động không gieo
nhân, mà không gieo nhân sẽ không có quả tương lai. Hành
động này không những mang lại an lạc cho chính mình, mà còn
mang lại an lạc cho người, sống hòa đồng với chúng sinh,
và có thể xem là tiêu chuẩn tốt để xây dựng hòa bình
an vui giữa loài người với nhau.
Ban
Biên Tập
www.thuvienhoasen.org
(Bài
này đã được phát thanh ngày 6 tháng 8 tại Nam California
và 7 tháng 8, 2005 tại Houston Texas) Phát lại ngày 10 và
11-2-2007 tại Nam California
Discussion about this post