Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO
VÀ CÁC GIÁ TRỊ THỰC
TIỄN
Thích Minh
Diệu
Ngày
nay, nhân loại đang trong cơn băng hoại và suy thoái đạo đức
trước sự cảm dỗ cuả vật chất hiện đại. Đã đến
lúc mọi người cần phải quay lại chính mình và ứng dụng
lời dạy của Đức Phật trong đời sống thường nhật. Đây
là con đường duy nhất để mọi người cùng thăng tiến đạo
đức tâm linh và tránh xa nạn hủy diệt văn hóa, văn minh
và sự sinh tồn của nhân loại.
Có
4 ý nghĩa quan trọng về sự thành đạo của Đức Phật:
Đức
Phật đã chiến thắng Ma quân.
Đức
Phật đã khai mở cửa bất tử cho tất cả chúng sanh.
Chứng
minh mọi chúng sanh đều có khả năng giác ngộ giải thoát.
Con người
là chủ nhân ông của chính mình.
Và có
3 giá trị thực tiễn về sự thành đạo của Đức Phật:
Đức
Phật dạy phương pháp tu tập mang lại an lạc ngay trong hiện
tại
Đức
Phật là nhà cách mạng đầu tiên về nhân quyền và bình
đẳng頼/li>
Giáo
lý Đức Phật có giá trị miên viễn.
Mỗi
tôn giáo đều có những ngày kỷ niệm và những thánh tích
về vị Giáo tổ sáng lập ra giáo phái hoăc tôn giáo đó.
Phật giáo là một tôn giáo lớn, ngày nay được mọi người
trên thế giới biết đến qua giáo lý và cuộc đời Đức
Phật thích ca, Vị chánh đẳng giác ra đời tại nước Ấn
Độ cách đây trên 25 thế kỷ. Đặc biệt vùng bắc Ấn đã
lưu lại thánh tích của Ngài mãi cho đến ngày hôm nay. Đây
là những chứng liệu được các nhà khảo cổ đã tìm ra
và công bố cho mọi người biết về bốn thánh tích:
1.
Vườn Lumbini nơi Đức Phật đã Đản sanh (ngày nay thuộc
nước cộng hòa Nepal);
2.Bodhgaya
(Bồ-đề Đạo Tràng) nơi Đức Phật thành đạo;
3.
Lộc dã / uyển (Sarnath thuộc đô thị Varanasi) nơi Đức Phật
chuyển pháp luân;
4.
Kusinagar nơi Đức Phật nhập niết-bàn.
Song
song với bốn thánh tích là những ngày kỷ niệm vô cùng quan
trọng trong cuộc đời của Đức Phật đánh giá sự hiện
diện của Thế Tôn trong cõi đời này. Đó là:
(1).
Ngày Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất (Tusita) giáng
trần: ngày rằm tháng 4 âm lịch năm 624 tr. TL.
(2).
Ngày Thái tử Siddhata (Sĩ-đạt-ta) từ bỏ đời sống thế
tục xuất gia: nhằm ngày mồng tám tháng 2 âm lịch năm 595
tr. TL. (Theo Bắc truyền thì năm 605).
(3).
Ngày Đức Phật đã thành đạo, nhằm ngày mùng 8 tháng 12
âm lịch năm 589 tr. TL. (theo Bắc truyền năm 594 tr. CN)
(4).
Ngày Đức Phật nhập niết bàn, nhằm ngày mùng tám tháng
12 âm lịch năm 544 tr. TL.
Tuy
nhiên, theo truyền thống của nam truyền thì bốn ngày trọng
đại đã nêu trên cùng ngày rằm trăng tròn tháng 4, dĩ nhiên
là khác năm.
Nhân
kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo cũng như nhập niết-bàn,
từ quê hương của Đấng cha lành, con thành kính đê đầu
đảnh lễ Đấng đại giác và xin ghi lại vài ý tưởng mộc
mạc mà con đã học từ dòng sữa giáo pháp của Ngài.
I.
Ý NGHĨA QUAN TRỌNG VỀ SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
“Một
người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất
hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho chư Thiên và loài người. Một người ấy là ai?
Chính là Thế Tôn, Bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Chính một
người này, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự
xuất hiện đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc,
vì an lạc cho chư Thiên và loài người.”
“Sự
xuất hiện của một người, này các Tỷ-kheo, khó gặp được
ở đời. Của người nào? Của Như lai, bậc A-la-hán, Chánh
đẳng giác. Sự xuất hiện của một người này, này các
Tỷ-kheo, khó gặp được ở đời.”(Tăng chi I phẩm Một người,
tr. 28, xb. 1980)
1.
Đức Phật đã chiến thắng Ma quân
Thái
tử Siddhata nhận ra cảnh vô thường tạm bợ của kiếp người
bị chi phối bởi sanh, già, bệnh và chết nên đã quyết tâm
từ bỏ đời sống vương tôn, phú quí, ngai vàng, điện ngọc,
từ bỏ phụ hoàng, vợ đẹp con thơ, thân bằng quyến thuộc,
một mình dấn thân vào chốn rừng sâu tầm cầu chân lý giải
thoát tứ khổ. Bước thử thách đầu tiên vô cùng cam go,
là con người ai không ham phú quí, vinh hoa, ai không thích vợ
đẹp con ngoan, nhưng với Thái tử thì những thứ trên là
những gông cùm, xiềng xích trói chặc chân người thế gian.
Thái tử đã chiến thắng sự cám dỗ của Ma quân phú quí
bằng cách hận chân sự thật của cuộc đời vui ít khổ
nhiều não hại lại nhiều hơn. Chỉ có bật đại trượng
phu, đấng đại hùng như Thái tử mới đủ dũng chí xuất
gia sống đời du sĩ giữa chốn núi non tự mình tầm cầu
chân lý. Sau đây là đoạn trích Trong bài kinh “sợ hãi và
khiếp đảm” được Đức Phật đã kể lại những nổi sợ
hãi và khiếp đảm khởi sinh khi Ngài sống một mình trong
rừng sâu.
Này
Bà-la-môn, tùy thuộc vào vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau:”Trong
những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười
bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong
những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi
hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên,
tự miếu tại các rừng núi, tự miếu taị các cây cối,
để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy.” Này Bà-la-môn,
sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, tự
miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi Ta ở tại
các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm
rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi
lên ý nghĩ: “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến !.”
Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ mong đợi
sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ
hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến,
trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt khiếp đảm ấy.
“Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sự sợ hãi
khiếp đảm ấy đến,thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta
không ngồi,Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi đảm
ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại ….
Nhờ
nhiếp niệm, định tâm Thái tử đã nhiếp phục ‘Ma sợ hãi
và khiếp đảm’ tâm an lạc, chuyên nhất, định tĩnh, ly dục,
ly các ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, thiền thứ
hai, thứ ba, thứ tư, … hướng tâm đến túc mạng trí, nhớ
đến đời sống quá khứ từ một đời đến nhiều đời,
từ một kiếp đến nhiều kiếp Thái tử đã chứng đạt
túc mạng trí. Tuần tự Thái tử hướng tâm đến thiên nhãn
trí, trí biết được sự sống chết và hạnh nghiệp của
tất cả chúng sanh…蠶à cuối cùng với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc bình thản, Thái tử dẫn tâm hướng tâm
đến lậu tận trí. Ngài thắng tri như thật: “Đây là khổ,””dây
là nguyên nhân của khổ,” “đây là khổ diệt,” “đây là con
đường đưa đến khổ diệt.” Thắng tri như thật: “Đây là
những lậu hoặc, đây là nguyên nhân các lậu hoặc, đây
là các lậu hoặc diệt, đây là con đường đưa đến các
lậu hoặc diệt”. Nhờ thấy như vậy, tâm Thái tử thoát khỏi
dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vượt qua tầm mắt của
Ma vương, Thái tử chứng đạt Phật quả và trở thành Phật
Thích-ca (Sakyamuni Buddha).
Trên
đây chỉ nêu ra khái lược về cách nhiếp phục tâm, tu tập
tâm để thành tựu quả vị giải thoát. Trong bài Kinh Thánh
Cầu (số 26 Trung bộ I, tr. 361-390, xb. 1992.) đã mô tả
về tiến trình từ lúc Thái tử từ bỏ gia đình vào rừng
rồi tu tập dưới hội chúng của Alara kalama rồi đến hội
chúng của Uddka Ramaputta, vì không thỏa mãn với giáo pháp
chưa rốt ráo giải thoát của hai Vị đạo sư nên Thái tử
từ giả họ rồi tiếp tục với pháp tu khổ hạnh cùng với
năm người bạn đồng tu gồm A-nhã Kiều-trần-như và bốn
người bạn khác, với tận tâm nổ lực nhưng Thái tử vẫn
không thành tựu mục đích tối thượng và cuối cùng Thái
tử tìm ra con đường tu tập trung đạo xuyên qua thiền định,
quán chiếu sự vận hành của các pháp nhân duyên (Giáo lý
duyên khởi) cuối cùng Thái tử đã giác ngộ, chứng đắc
tam minh, lục thông, thóat ly sanh tử. Trải qua sáu năm dài
khổ hạnh vượt qua muôn vàn cam go, thử thách Thái tử đã
tìm ra con đường thoát khổ cho chính mình và nhân loại và
từ đó danh hiệu Phật Thích-ca chỉ cho Bậc chánh đẳng chánh
giác duy nhất trên thế gian này.
Lại
nữa, trong bài Kinh Phạm Thiên Thỉnh Cầu Đức Phật
đã tuyên bố với Ác ma:
“-
Này Ác ma, Ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng “Vị ấy (Thế
Tôn) không biết Ta (Ác ma). “Này Ác ma, phàm là Phạm thiên,
phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc,
tất cả đều nằm trong tay của Ngươi. Này Ác ma, nếu Ngươi
nghĩ rằng: “Mong vị này nằm trong tay Ta; mong vị này nằm
trong quyền lực của Ta!.” Này Ác ma, Ta không nằm trong tay
của Ngươi, Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.
Thông
thường với tư duy nông cạn, chúng ta cho rằng Ma vương đã
đến thách thức ngăn cản sự tu tập thiền định của Thái
tử dưới cội bồ-đề trước khi Bồ-tát thành đạo và
chỉ có một lần đó mà thôi. Nhưng trên thực tế, những
chướng ngại pháp cả tâm lý và vật lý, cả khách quan và
chủ quan có tác dụng cản trở trên bước tu tập tầm cầu
giải thoát của Bồ-tát đều được xem như là Ma quân, binh
ma, Ác ma, nội ma, ngoại ma vượt qua tất cả mọi chướng
ngại không phải dễ đòi hỏi một người đại hùng và đại
lực mới có thể làm nổi. Chính vì ý nghĩa trên, Bồ-tát
chiến thắng Quân ma cũng có nghĩa là chiến thắng chính mình
và chỉ có chiến thắng mình (những tâm lý bất thiện) mới
là chiến thắng vinh quang, oanh liệt nhất (Thắng nhơn giả
hữu lực, tự thắng giả cường).
2.
Đức Phật đã mở cánh cửa bất tử cho tất cả chúng sanh
Đức
Phật sau khi thành đạo, Ngài tiếp tục thiền định để
chiêm nghiệm sự thâm sâu pháp Ngài vừa chứng đạt. Thế
Tôn khởi lên suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được,
thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng,
siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn
quần chúng này thì ưa ái dục, khoái lạc, ham thích ái dục,
thật khó mà thấy định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y tha
duyên khởi pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức sự tịnh
chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt,
ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các
người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ cho Ta,
như vậy thật bực mình cho Ta!” (Kinh Thánh Cầu, tr. 375)
Quả
thật, căn tính chúng sanh độn nhiều (chậm lụt, thiếu trí
tuệ), lợi ít (thông minh, dễ thọ lãnh giáo pháp), giáo pháp
giải thoát quá cao siêu và xa la,gược lại những tập khí
thế gian từ nhiều kiếp của họ vì thế thật không dễ
cho Thế Tôn về về vấn đề thuyết giảng chánh phápﮠTuy
nhiên, với sự thỉnh cầu Thế Tôn thuyết pháp của Phạm
thiên Sahampati: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện
thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần
sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp. (Nếu được
nghe chánh pháp), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp.”
Với
lòng từ bi đối vơí chúng sanh, với Phật nhãn, Thế Tôn
nhìn quanh thế giới thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi
đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn,
có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy,
và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới
khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như
trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng, sanh ra dươí
nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước,
được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng
hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,sống
vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng
hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn
lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ước. Cũng vậy
với Phật nhãn Thế Tôn thấy có hạng ít nhiễm bụi đời,
nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lơị căn có hạng độn
căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó
dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế
giới khácvà sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm.
Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa
bất tử rộng mở,Cho
những ai chịu nghe.Hãy
từ bỏ tín tâm,Không
chính xác của mình.Tự
nghĩ đến phiền tóai,Ta
đã không muốn giảng,Tối
thượng vi diệu pháp,Giữa
chúng sanh loài người.(Ôi
Phạm thiên)
Thế
Tôn khai mở chân lý giải thoát là một sự kiện trọng đại
trong lịch sử Tôn giáo Ấn Độ thời bấy giờ. Vì rằng,
từ trước thời Thế Tôn, Tôn giáo Ấn Độ chỉ mang hình
thức nghi lễ do các Bà-la-môn tự xưng là thanh tịnh, thuần
huyết thống, con của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên,
căn cứ vào ba bộ Vệ đà để chủ trì những cuộc tế lễ
mà họ cho rằng có công hiệu tiêu trừ tội lỗi, khổ đau,
dẫn đến giải thoát sanh thiên. Ngoài ra, Vô số các đạo
sư ngoại đạo chủ trương những giáo điều và quan điểm
có tác dụng dẫn đến rối loạn trật tự xã hội, băng
hoại nền đạo đức, luân lý con người điển hình là Sáu
đạo sư ngoại đạo cùng thời Đức Phật như Purana Kassapa
chủ trương với thuyết vô nghiệp không có quả báo tội,
phước. Makkhali Gosàla chủ trương thuyết luân hồi tịnh hóa,
nghĩa là kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi
sẽ trừ tận khổ đau. Ajita Kesakambáli chủ trương thuyết
đoạn diệt, con người do bốn đại hợp thành khi thân hoại
sẽ trả về cho bốn đại (đất, nước, lửa, gió) không
có gì tồn tại sau khi chết…(Kinh sa môn quả, Trường bộ
I tr. 102- 112, xb. 1991). Quả thật, một niềm khát khao của
nhân loại tự cổ chí kim, đó là khát khao tầm cầu chân
lý giải thoát bốn ách nạn sanh, lão, bệnh và tử đè nặng
lên đời sống con người. Vì vậy, giáo pháp Thế Tôn vừa
chứng ngộ sẽ có công năng như ánh sáng của thái dương
phá tan mọi bóng tối vô minh phủ lấp tâm, trí con người
từ bao đời. Cuối cùng, Thế Tôn đã chân chánh khai mở chân
lý bất tử, chân chánh chuyển bánh xe pháp, vì an lạc, vì
hạnh phúc cho chư Thiên và loài người. Dưới đây là pháp
ngữ đầu tiên Thế Tôn đã chuyển đến Năm anh em của Tôn
giả Kiều trần như:
“-
Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ
Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A la hán, Chánh
đẳng giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được,
Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến
giáo, các ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự
đạt ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của phạm
hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, các ông sẽ an trú.”
Quả
thật không bao lâu sau, năm vị đồng tu đều chứng đạt
quả vị bất sanh, dưới sự hướng dẫn của Đức Phật.
Trong
suốt 45 năm (Bắc truyền 49 năm) truyền bá giáo lý, Đức
Phật và chư đệ tử của Ngài đã du hành khắp vùng bắc
Ấn, từ thành thị phồn hoa đến làng mạc xa xôi hẻo lánh
thuyết giảng chân lý đem lại an lạc cho mọi người, từ
giới thượng lưu, quyền quí, vua chúa cho đến những người
hạ tiện, cùng đinh của xã hội đều thấm nhuần giáo lý
giác ngộ.
3.
Chứng minh mọi chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải
thoát
Bằng
chứng hùng hồn từ kinh điển để lại, một số chư vị
đệ tử của Đức Phật là các vị Thiện nam tử xuất phát
từ dòng dõi trâm anh, quí phái, các vị vì tầm câù an lạc
tối thượng đã qui y, xuất gia sống hành trì, tu tập dươi
sự hướng dẫn của Đức Phật, giáo pháp của Ngài và Tăng
đoàn, đều chứng đạt cứu cánh phạm hạnh. Chẳng những
thế, ngay cả những người căn tánh mê muội như Bàn Đặc,
thấp hèn như Upali (Ưu-ba-li) thợ hớt tóc, bần tiện như
Ni đề nghề gánh phẩn, sống đời phóng túng làm nghề maĩ
dâm như dâm nữ Ambabali (Liên Hoa Sắc?), tàn ác như Angulimala
(Vô Não) …đều được giác ngộ, giải thoát sau khi nỗ lực,
tu tập dưới sự hướng dẫn của Đức Phật. Điều này
cho thấy, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ,
giải thoát như nhau (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh)
nếu hành trì, tu tập theo lời dạy của Đức Phật.
4.
Con người là chủ nhân ông của chính mình
Thái
tử Siddhata, cũng như bao người khác, sinh ra và lớn lên trong
cuộc đời này, chỉ khác là Ngài nhận ra sự vô thường
trước cảnh sinh, lão bệnh và tử quá tạm bợ và mỏng manh
của kiếp người nên đã xuất gia tu hành chứng ngộ đạo
quả giải thoát. Ngài đã khám phá ra, con người là chủ nhân
của chính mình, con người thừa tự nghiệp của mình làm
ra, con người tự mình tạo ra tội lỗi, tự mình làm cho mình
thấp hèn, tự mình làm cho mình cao thượng chứ không phải
vì dòng dõi, huyết thống, nguồn gốc hoặc một vị Thượng
đế nào có thể làm cho con người thấp hèn hay cao thượng.
Chính vì ý nghĩa này, Đức Phật, Ngài không bao giờ tự xưng
là Bậc lãnh đạo Tăng đoàn mà khiêm tốn tự xem Mình như
là Vị đạo sư (người hướng dẫn con đường) mà thôi.Vì
Đức Phật không thể ban sự giác ngộ cho bất cứ ai, hoăc
ban phước, rửa tội cho bất cứ ai. Ngài thường khuyên chư
vị Tỷ-kheo: “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy nương
tựa chính mình, đừng nương tựa một ai, hãy lấy giáo pháp
làm Thầy”.
Lại
nữa vào canh cuối của đêm Thế Tôn thành đạo, “với tâm
thuần tịnh Thế Tôn hướng tâm đến thiên nhãn trí, trí
tuệ về sanh tử của chúng sanh. Thế Tôn thấy rõ rằng, chúng
sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp
của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời
và ý, phỉ báng các Bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này thân hoại mạng chung, phải
sanh vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục. Còn chúng sanh nào
làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng
các Bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh
kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh làm các thiện thú, cõi trời, trên đời này.” Điều này
chứng tỏ rằng: chính do hành động về thân, lời nói và
ý nghĩ đưa con người đến kết quả khổ hoặc vui tùy vào
tác ý của hành động.
II.
GIÁ TRỊ THIẾT THỰC VỀ SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
1.
Đức Phật dạy phương pháp tu tập mang lại an lạc ngay trong
hiện tại
“Vì
đại sự nhân duyên Như Lai ra đời, vì sự lợi ích, an lạc
cho chư thiên và loài người Như Lai xuất hiện ở đời” (Pháp
hoa kinh). Bằng chứng rõ ràng, suốt 45 năm thuyết pháp độ
sanh, Thế Tôn giáo hóa vô số chúng sanh thấm nhuần giáo lý,
thể nhập sự an lạc, thanh tịnh ngay trong đời sống hiện
tại. Giáo lý ứng dụng cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi,
mọi trình độ,mọi xã hội, giáo lý của mọi thời đại.
Một
hôm vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) từ Nangaraka đến thị trấn Medalumpa
của dân chúng Sakka để yết kiến Thế Tôn. Khi gặp Thế
Tôn nhà vua cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn xung
quanh chân Thế Tôn, tay xoa rờ xung quanh chân và tự xưng tên:
-Bạch
Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala.
-Thế
Tôn hỏi: “thưa Đại vương, do thấy nguyên nhân gì, Đại
vương lại hạ mình tột bực như vậy đối với Thân này
và biểu lộ thân ái như vậy?”
-…
Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền thống (Dhammanvaya) này đối
với Thế Tôn. “Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, pháp được
Thế Tôn khéo thuyết giảng, chư Tăng đệ tử Thế Tôn khéo
tu tập, hành trì.”…. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, con đi du hành
tản bộ từ công viên này đến công viên khác, từ cung uyển
này đến cung uyển khác. Ở đấy con thấy một số Sa môn,
Bà-la-môn gầy còm, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân
gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn.
Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Thật sự các bậc Tôn
giả này sống Phạm hạnh không được hoan hỷ hay có những
ác nghiệp được giấu kín. Do vậy, các vị Tôn giả này
mới gầy mòn…. Con đi đến các vị AṠvà hỏi:
“-
vì sao chư Tôn giả lại gầy mòn, khốn khổ, da xấu…. Hình
như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn?”
Các
vị ấy trả lời như sau:
“-
Tâu Đại vương, chúng tôi bị bệnh gia truyền.”
Còn
ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỳ-kheo hân hoan, phấn
khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh,
sống dựa vào (sự hỷ cúng) của người khác, với tâm tư
như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Thật
sự các bậc Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng
thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần
tự nên các Tôn giả này hân hoan, phấn khởi…., với tâm
tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn đây là pháp truyền thống
của con đối với Thế Tôn. (Kinh Pháp Trang Nghiêm, Trung
Bộ II, tr. 616-618, xuất bản năm 1992)
Câu
chuyên trên cho thấy rằng, giáo pháp của Thế Tôn có công
năng giaỉ thoát phiền não khổ đau ngay trong hiện tại.
Ngày
nay, nhiều trung tâm tu thiền của Phật giáo ở khắp mọi
nơi trên thế giới đã và đang đóng góp vào vào phận sự
giải tỏa những căn thẳng thần kinh, suy sụp tinh thần, khủng
hỏang tinh thần của con người do xã hội vật chất của
thời đại gây ra. Ấy không phải công năng và diệu dụng
của giáo lý Đức Phật hay sao !?
2.
Đức Phật là nhà cách mạng đầu tiên về nhân quyền và
bình đẳng
Đức
Phật là nhà cách mạng nhân quyền và bình đẳng đầu tiên
của nhân loại, Ngài dõng mãnh phá bỏ truyền thống phân
chia giai cấp lâu đời của giai cấp Bà-la-môn nhằm củng
cố quyền lợi và địa vị thời bấy giờ. Ngài tuyên bố
hùng hồn: “không có giai cấp khi nước mắt mọi người đều
mặn và máu đều đỏ như nhau.” Chủ nghĩa bình đẳng được
thể hiện rõ trong giới luật và đời sống Tăng đoàn, tiêu
biểu nhất là sáu pháp lục hòa là thước đo trung thực nhất
về tính bình đẳng nhất quán được áp dụng trong đời
sống sinh hoạt củaTăng đoàn.
Lại
nữa, nguồn gốc xuất thân và địa vị theo phân chia của
thế gian không có trong Tăng đòan của Ngài. Mọi người khi
vào Tăng đoàn đều phải từ bỏ tất cả sự phân biệt
cuả thế thường mà phải cử xử theo pháp và luật của
tăng đoàn. Điều này cho thấy Đức Phật từ bi quảng đại
đối xử mọi người bằng lòng bình đẳng. Sau đây là đoạn
kinh tiêu biểu cho tinh thần này: “Này các Tỷ-kheo, tất cả
nước các sông, suối, ngòi, lạch khi chưa đổ nước ra biển
nó mang tên riêng của nó, nhưng khi đã đổ nước ra biển
nó mang tên chung là nước đại dương chứ không còn mang tên
riêng của nó như trước kia nữa. Cũng như vậy, khi các Tỷ-kheo
khi gia nhập vào Tăng đoàn sẽ không còn mang tên họ như trước
đây nữa mà mang tên chung là chư vị khất sĩ, Thích tử của
Như lai.”
Đỉnh
cao của bình đẳng và nhân quyền là năm giới cho người
tín đồ tại gia, là năm tiêu chuẩn mẫu mực tạo nền móng
đạo đức, hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội, sâu
xa hơn nữa là thềm bậc để bước đến đời sống xuất
gia giải thoát thanh cao.
3.
Giáo pháp của Đức Phật có giá trị miên viễn sơ thiện,
trung thiện và hậu thiện
Này
các Tỷ-kheo: “Nước của đaị dương chỉ có một vị là
vị mặn, cũng vậy pháp và luật này chỉ có một vị là
vị giải thoát.” (Cảm Hứng Ngữ:
Udana) trong một
bài kinh khác Đức Phật tuyên bố: “Này các Tỷ-kheo xưa cũng
như nay Như Lai chỉ thuyết về khổ và con đường diệt khổ.”
Lại
nữa, trong di giáo kinh, trước khi Thế Tôn vào niết-bàn Ngài
đã hỏi chư vị Khất sĩ có còn điểm nào còn nghi ngờ hoặc
chưa hiểu về giáo pháp hãy trình lên để Thế Tôn sẽ tùy
nghi giảng giải.
Chư
Tỷ-kheo im lặng, Tôn giả Anan đại diện đại chúng bạch
Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn tất cả đại chúng im lặng vì không
có Vị nào còn nghi ngờ hoặc chưa hiểu giáo lý. Thế Tôn,
cho dù mặt trăng trở nên nóng và mặt trời trở thành lạnh;
giáo pháp Thế Tôn thuyết giảng cũng không bao giờ thay đổi
giá trị và nghĩa lý.”
Thật
vậy, theo dòng thời gian, đã hơn 25 thế kỷ qua, nhưng chân
lý tứ đế vẫn sáng ngời không hề sê dịch nghĩa lý bởi
vì giáo pháp được Bậc giác ngộ tự thân chứng tri, tự
thân liễu tri. Đó là giáo pháp mang tính miên viễn sơ thiện,
trung thiện và hậu thiện.
Ngày
nay, nhân loại đang trong cơn băng hoại và suy thoái đạo đức
trước sự cảm dỗ cuả vật chất hiện đại. Đã đến
lúc mọi người cần phải quay lại chính mình và ứng dụng
lời dạy của Đức Phật trong đời sống thường nhật. Đây
là con đường duy nhất để mọi người cùng thăng tiến đạo
đức tâm linh và tránh xa nạn hủy diệt văn hóa, văn minh
và sự sinh tồn của nhân loại.
Discussion about this post