VUA A-DỤC
Toàn Không
1)-Đức Phật thọ ký cho A-Dục.
Một lần đức
Phật trú tại vườn Ca-lan-Đà thuộc thành Vương-Xá, một hôm trong khi Ngài đi
khất thực, có hai em bé đang bốc cát chơi đùa. Khi chúng trông thấy đức Phật đi
tới, một em cầm nắm cát và nghĩ thầm: “Mình
đem cát này cúng dàng cho Sa-Môn”, nghĩ rồi em bé liền đem nắm cát ấy bỏ vào
bình bát của đức Phật và nói:
– Con muốn được làm vua!
Rồi em bé
bỏ đi, bấy giờ đức Phật mỉm cười, Tôn-giả A-nan-Đà thấy thế liền thưa:
– Bạch đức Thế-Tôn, Chư Phật chẳng phải không nhân duyên
gì mà tự nhiên mỉm cười, xin đức Thế-Tôn giảng giải sự mỉm cười của Ngài vừa
rồi.
Đức Phật
bảo:
– Đúng thế, vừa rồi Ta mỉm cười là có nhân duyên: “Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm
sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành
Ba-liên-Phất, thống lãnh một phương rộng lớn. Vua ấy họ Khổng, tên A-Dục, đem
chính pháp cai trị giáo hóa nhân dân, lại còn cho xây tám vạn bốn nghìn Tháp
Pháp-Vương để phân bố rộng rãi Xá-lợi của Ta và đem lại sự an vui cho vô lượng
chúng-sanh”. Này A-Nan, thầy hãy đem số cát cúng dàng trong bình bát này đổ
rải ra trên đường Ta kinh hành.
Tôn-giả
A-nan-Đà vâng lời: liền mang cát trong bình bát của Phật rải trên đất để Phật
đi qua.
Về sau tại
thành-ấp xứ Maurya hay Ba-liên-Phất, miền Bắc Ấn-Độ, có Vua hiệu là Nguyệt-Hồ,
vị Vua ấy có con tên là Tần-Đầu Ba-La nối ngôi Vua, Vua này có con tên là
Tu-sư-Ma. Thời ấy nước Chiêm-Bà có một thiếu nữ Bà-la-Môn rất xinh đẹp, nàng là
trân-bảo của đất nước, các nhà tướng số đều nói rằng: “Nàng sẽ là Vương-Phi và sẽ có con thống lãnh thiên hạ”.
Bà-la-Môn
cha của thiếu nữ nghe các thầy tướng nói như vậy vui mừng vô kể, liền đưa con
gái đến thành Ba-liên-Phất, rồi sắm sửa, trang điểm cho con gái trông càng xinh
đẹp hơn; Bà-la-Môn tiến cử con gái vào cung Vua, các bà Phu-nhân và Cung-nữ
thấy người con gái ấy liền nghĩ rằng: “Thiếu
nữ này quá đẹp, đoan chính, đúng là trân-bảo của đất nước, nếu nhà Vua say đắm
nàng, nhà Vua sẽ thờ ơ với chúng ta”; nghĩ như vậy, nên họ đồng lòng ép
thiếu nữ ấy học nghề thợ cạo, sau khi học xong nàng sẽ lo việc cắt tiả râu tóc
cho Vua. Một hôm, đang cắt tiả râu tóc, Vua Tần-Đầu Ba-La hỏi cô gái:
– Cô ước mơ điều gì?
Thiếu nữ
tâu Vua:
– Thiếp chỉ mong Đại-Vương để tâm, thương yêu nghĩ đến
thiếp.
Lúc ấy Vua
bảo:
– Ta là Vua dòng Sát-Lợi, còn nàng là thợ cạo dòng hạ
liệt, làm sao ta thương tưởng nàng được?
Thiếu nữ
tâu Vua:
– Thiếp chẳng phải là con dòng hạ tiện, thiếp sinh
trưởng trong dòng qúy-tộc, con gái Bà-la-Môn, các nhà tướng số nói với cha
thiếp rằng: “Cô gái này nên gả cho Vua,
vì thế nên thiếp mới đến đây”.
Vua lại
hỏi:
– Nếu như thế, ai đã khiến nàng học cái nghề hèn mọn
này?
– Các Phu-nhân và Cung-nữ ép thiếp học nghề này.
Nhà Vua ra
lệnh:
– Từ nay về sau, nàng chớ làm cái nghề này nữa.
Vua liền
lập nàng làm đệ nhất Phu-nhân, nhà Vua cùng nàng sống hạnh phúc, chẳng bao lâu
nàng mang thai, rồi sinh nở an ổn vui vẻ, không ưu phiền, nên qua bẩy ngày sau
đặt tên là Asoka, hay A-Du-Ka nghĩa là Vô-Ưu A-Dục. A-Dục có thân hình thô
kệch, mặt mũi đen xấu, Vua cha không muốn đến gần bồng bế; sau lại sinh thêm
một trai nữa đặt tên là Ly-Ưu. Nhiều lần nhà Vua tỏ ra không thương yêu A-Dục,
nên có lần A-Dục than với mẹ rằng: “Vua
cha chẳng nghĩ gì đến con, và cũng chẳng muốn nhìn thấy mặt con!”.
Khi A-Dục
trưởng thành, có nước láng giềng Đức-Xoa Thi-La làm phản, Vua Tần-Đầu Ba-La bảo
A-Dục:
– Con hãy đem binh đi bình phạt nước Đức-Xoa Thi-La đang
làm phản, con phải ráng chu toàn nhiệm vụ do ta trao phó.
Khi A-Dục
khởi quân ra đi, Vua cho binh giáp chẳng có bao nhiêu, những người đi theo thưa
với A-Dục:
– Ngày nay đi bình phạt nước kia, mà binh tốt quá ít làm
sao dẹp yên được?
A-Dục nói:
– Nếu chúng ta sẽ thắng trận thì tự nhiên binh giáp đến
phù trợ.
Ứng theo
lời nói của A-Dục, có một đoàn quân từ nhân-dân tổ chức đến xin chịu sự sai bảo
của Vương-tử A-Dục để đi đánh nước làm phản. Rồi trên đường đi lại có những
toán người tình nguyện xin theo đi đánh giặc. Bấy giờ A-Dục dẫn đoàn quân đông
đảo, hùng mạnh đi; khi gần tới nước kia, thanh thế Vương-tử lớn mạnh như vũ
bão, làm cho binh lính của nước kia sợ hãi mà chạy trốn hết, không phải đánh
đấm gì cả mà tự nhiên thắng.
Nhân-dân
nước kia nghe A-Dục đến, liền dọn dẹp thành quách đón tiếp Vương-tử và nói:
– Dân chúng tôi không phản lại Đại-Vương và Vương-tử,
nhưng bọn quan lại làm hại chúng tôi, nên chúng tôi mới trái nghịch, mong
Vương-tử tha tội cho.
Sau khi
bình định xong: Vương-tử A-Dục kéo quân chiến thắng trở về.
Một hôm
Vương-tử Tu-sư-Ma là con Phu-nhân trước, lớn tuổi hơn A-Dục, ra ngoài dạo chơi,
gặp một vị Đại-thần, vị này không chào theo đúng lễ nghi. Vương-tử Tu-sư-Ma sai
tùy tùng đánh đập, vị Đại-thần ấy nghĩ: “Vương-tử
này hách dịch qúa mức, chưa được ngôi Vua mà cách xử sự như thế, nếu được làm
Vua thì sao chịu nổi; lại nghe Vương-tử A-Dục được lòng thiên hạ, được lòng qúy
mến của các Đại-thần, họ sẽ cùng nhau lập A-Dục lên làm Vua chứ chẳng sai đâu”.
Mấy năm
sau, nước Đức-Xoa Thi-La lại làm phản, các quan cùng nhau bàn luận và đề nghị
Vương-tử Tu-sư-Ma đi dẹp loạn; Tu-sư-Ma bằng lòng, liền đem quân đi đến nước
kia, nhưng không hàng phục được, mà lại bị thua trận. Lúc ấy Vua cha bệnh nặng,
nên bảo các quan:
– Nay ta muốn lập Tu-sư-Ma làm Vua nối nghiệp, các quan
nên sai A-Dục đi đến nước kia thay cho Tu-sư-Ma trở về làm Vua.
Các quan
đại-thần muốn lập A-Dục làm Vua, nên tâu:
– Đại-Vương nên: lập A-Dục làm Vua, vì nay đã cấp bách
rồi, chúng hạ-thần từ từ sẽ lập Tu-sư-Ma làm Vua sau này.
Vua nghe
những lời ấy nên không vui, và đâm ra lo lắng buồn bực nên im lặng không đáp; lúc
ấy A-Dục suy nghĩ và nói thầm: “Nếu ta
xứng đáng được ngôi Vua, Chư Thiên tự nhiên
tưới nước cam-lồ trên đầu ta, lấy hoa trắng rải trên đầu ta”.
Ứng theo
tiếng nói thầm của A-Dục, tự nhiên có nước chảy và hoa rơi trên đầu mặt A-Dục.
Vua cha trông thấy cảnh tượng ấy thì vô cùng buồn bã, liền từ trần.
2)- A-Dục lên ngôi Vua .
A-Dục lo
việc tang lễ cho Vua cha theo đúng lễ nghi Vương triều, xong A-Dục (272-236
trước Dương lịch) kế vị ngôi Vua, phong cho A-Nâu-Lâu-Đà (khi A-Dục còn nhỏ,
người này đã đoán A-Dục sẽ kế vị ngôi Vua) làm Tể-tướng Đại-Thần.
Vương-tử
Tu-sư-Ma nghe tin Vua cha qua đời, các quan đã lập A-Dục làm Vua, sinh lòng bất
bình, bèn kéo binh lính về đánh A-Dục.
Hai cửa
trong bốn cửa thành của Vua A-Dục có đặt hai lực-sĩ, cửa thứ ba đặt một
đại-thần, tự mình giữ cửa Đông; Đại-Thần A-Nậu Lâu-Đà cho làm một con voi máy
bằng gỗ, và cho đẽo tượng A-Dục cưỡi voi máy đặt ngoài cửa Đông; lại cho làm
hầm lửa không khói, lấy vật, đất phủ kín lên. Khi Tu-sư-Ma kéo quân đến gặp
ngay cửa của Đại-thần, nên A-Nậu Lâu-Đà nói:
– Vương-tử muốn làm Vua, A-Dục đang ở cửa Đông, Vương-tử
đến đó đánh thắng được ông ấy thì tự nhiên được làm Vua.
Nghe lời
nói ấy, Tu-sư-Ma liền phóng ngựa kéo quân qua cửa Đông, vì không biết để đề
phòng, nên cả người ngựa bị rớt xuống hầm lửa mà chết; Vua A-Dục đem chính pháp
trị dân, sau ít ngày một số quần thần cậy vào thế đã đưa A-Dục lên ngôi Vua,
nên tỏ vẻ khinh mạn, coi thường, không tuân theo lễ nghi vua tôi. Vua thấy một
số các quan khinh lờn mình, bèn bảo những người quan ấy:
– Các ông hãy chặt cây hoa trái trồng cây gai góc.
– Chúng tôi chưa từng thấy nghe dẹp bỏ cây hoa trái và
trồng cây có gai góc bao giờ, mà chỉ nghe dẹp bỏ cây gai góc và trồng cây hoa
trái mà thôi.
Cho đến khi
Vua ra lệnh ba lần như thế, những quan ấy vẫn cãi lại không làm theo lệnh, bấy giờ Vua
A-Dục tức giận liền lấy gươm sắc bén giết chết những người quan ấy.
Một bữa nọ,
Vua cùng các cung-tần mỹ-nữ đến vườn Thượng-uyển chơi đùa, Vua thấy cây Vô-Ưu
trổ đầy hoa, Vua nghĩ hoa này có tên cùng với mình, nên lấy làm vui thích ngắm
nghía hồi lâu. Vì Vua có thân hình mặt mũi đen đủi xấu xí, da dẻ sần sùi, các
cung-tần mỹ-nữ không yêu mến mà sợ hãi và chán ghét, nên dùng tay bẻ gãy nát
cây Vô-Ưu. Khi Vua ngủ trưa thức dậy thấy cây Vô-Ưu trơ trụi, hoa lá cành nằm
ngổn ngang trên mặt đất thì nổi giận, bắt cung-tần mỹ-nữ trói lại rồi đốt chết
hết!
Vì Vua làm
điều bạo ác, nên người đời gọi là Vua A-Dục bạo ác, được ít ngày sau, Đại-thần
A-Nậu Lâu-Đà tâu:
– Vua không nên làm những điều đó, sao lại tự tay giết
các quan và đốt các cung-tần mỹ-nữ như thế; Đại-Vương nên lập ra một tên đao-phủ,
ai có tội đáng chết thì giao cho người ấy hành xử.
Nghe theo
Đại-thần, Vua liền tuyên bố lập người đao-phủ. Bấy giờ trong nước có con người
thợ dệt tên là Kỳ-Lê có tiếng đồn là người hung ác, giết người không gớm tay,
Vua sai người đi đến tìm hắn dẫn về gặp Vua. Sứ giả đến bảo hắn: “Vua cần ngươi làm đao-phủ, ngươi có nhận
làm không?”.
Hắn hăng
hái vui vẻ nhận lời làm đao-phủ, sứ giả bảo hắn đi đến kinh thành gặp Vua, hắn
nói:
– Ông hãy chờ tôi một chút.
Rồi hắn đi
gặp cha-mẹ, nói đầy đủ sự việc là Vua cần người làm đao-phủ và hắn muốn làm
việc ấy, cha-mẹ hắn khuyên can hắn không nên làm việc ấy, hắn nói hắn rất thích
làm; cha mẹ hắn khuyên ba lần như thế, hắn sinh tâm bất nhân giết chết cha mẹ
mình rồi sau đó mới đi gặp sứ giả để cùng đến gặp Vua, khi ấy sứ giả hỏi:
– Sao lâu thế, làm gì mà lâu thế?
Tên Kỳ-Lê
hung ác thuật lại đầu đuôi sự việc giết cha-mẹ hắn, sứ-giả đem sự việc này tâu
lại với Vua. Khi gặp mặt, Vua ra lệnh cho hắn rằng:
– Có tội phạm tội đáng chết ta giao cho, ngươi phải biết
đấy.
Đao-phủ
Kỳ-Lê tâu Vua:
– Xin Ngài cho người làm nhà cho tôi để có chỗ ở.
Vua chấp
thuận xây cất nhà cửa phòng ốc cho Kỳ-Lê rất rộng rãi, nhưng chỉ có một cửa,
khi ấy tên hung dữ tâu Vua:
– Bây giờ xin Vua một điều là nếu người nào vào nhà ấy
rồi thì không được ra.
Vua trả
lời:
– Ta chấp thuận lời xin của ngươi.
Một hôm,
Kỳ-Lê đi vào Chùa gần đó, hắn nghe các thầy Tỳ-kheo nói về cảnh giới Địa-ngục
chịu các cực hình tra tấn; tên đao-phủ nghe nói những việc như thế, hắn bèn lập
chỗ ở của hắn bằng những cách trị tội cũng giống tương tự như vậy để hành quyết
tội nhân mà vua sẽ trao cho.
Thời ấy có
một cặp vợ chồng, có một đứa con tên là Hải, gia đình này sống trên biển hơn
mười năm, tìm kiếm thu nhặt ngọc-trai, rồi trở về quê hương, dọc đường họ bị
giết chết và cướp hết của cải. Đứa con thoát khỏi, thấy cha-mẹ bị giết chết,
lại mất hết của cải nên sinh ra chán cái thế-gian khổ sở này, bèn xuất gia tu
đạo, rồi trở về quê hương. Trên đường du hành về quê qua các nước, dần dần đến
nước Ba-liên-Phất, ngủ một đêm, sáng hôm sau người này vào thành khất thực, rủi
đi lầm vào nhà tên đao-phủ!
Thầy
Tỳ-kheo tên Hải nhìn thấy trong nhà nào là lò than, vạc dầu, nào là dây xiềng
xích, chầy cối lớn, giường đinh sắt v.v…, tất cả giống như dụng cụ được diễn
tả trong Kinh để Qủy-sứ hành hạ tội nhân nơi cõi Địa-ngục. Thầy Tỳ-kheo Hải sợ
hãi, liền muốn quay ra cửa, nhưng ngay lúc ấy tên đao-phủ liền từ trong phóng
tới nắm lấy mà nói rằng:
– Ai đã vào đây rồi sẽ không được ra, đó là lệnh của
Vua, bây giờ ông phải chết ở đây thôi.
Khi hắn
trông thấy nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt còn trẻ của thầy Tỳ-kheo, hắn hỏi:
– Tại sao ông lại khóc như trẻ con vậy, bộ ông sợ chết
sao?
Thầy
Tỳ-kheo Hải đáp:
– Tôi chẳng phải sợ chết, chỉ vì mong cầu giải thoát
chưa toại nguyện, mà được làm thân người, và xuất gia được khó lắm nên tôi tiếc
mà khóc. Xin ông hãy cho tôi sống thêm thời gian ngắn là một tháng nữa để tôi
cố tinh tấn tu hành, may ra giải thoát khỏi cảnh khổ trần gian; tên đao-phủ
không chấp thuận lời xin, cứ như thế số ngày xin trì hoãn bớt dần xuống còn có
bảy ngày hắn mới bằng lòng. Thầy Tỳ-kheo Hải biết sắp phải chết nên dũng mãnh
tinh tấn, nhất tâm tọa thiền, nhưng gần tới bẩy ngày rồi mà đường đạo còn mờ
mịt!
Đến ngày
thứ bảy có Cung-nữ phạm tội được dẫn tới, tên đao-phủ đem cô gái trói lại rồi
bỏ vào cối đá, dùng chầy giã nát thịt tan xương, cô gái chỉ thét lên được một
tiếng ban đầu. Thầy Tỳ-kheo trông thấy việc khủng khiếp như thế nên chán nản vô
cùng, tự nhiên cảm thấy ghét bỏ thân mình và than: “Ôi! khổ biết dường nào cho kiếp sống con người, ôi khổ thay! Chốc nữa
đây ta cũng như vậy! không bao lâu nữa ta cũng như vậy! Ôi bậc thầy đại Bi diễn
nói chánh đại pháp, thân này như bọt nước, sắc gái trẻ như măng non, đẹp như
gấm vóc trước đây nay còn đâu nữa; sinh tử rất đáng bỏ như chiếc áo rách gò mả,
thân này đáng bỏ, chẳng phải của ta, chẳng có ta. v.v…”
Rồi thầy
Tỳ-kheo Hải lại dũng mãnh hành trì vào những giây phút chót của cuộc đời. Không
bao lâu sau, tên đao-phủ tới nói với thầy Tỳ-kheo:
– Kỳ hạn bảy ngày đã hết, ông nên biết bây giờ đến lượt
ông phải chết.
Thầy
Tỳ-kheo Hải nói kệ đáp:
Tâm tôi được giải thoát,
Do giết giặc buồn khổ,
Mặt trời tuệ đã hiện,
Soi sáng tâm ý thức.
Rõ ràng thấy sinh tử,
Nay thân hình ta đây,
Muốn làm gì mặc ý,
Không còn luyến tiếc thương.
Lúc bấy giờ
tên đao-phủ bắt thầy Tỳ-kheo trói chân tay gò tròn người lại, bỏ vào trong vạc
đầy dầu, đậy nắp vạc, rồi đốt củi phiá dưới cháy bùng dữ dội khá lâu. Bỗng nắp
vạc tung ra, hắn thấy thầy Tỳ-kheo ngồi trên hoa sen giữa vạc dầu đang sôi; vô
cùng ngạc nhiên, lạ lùng, hắn vội vàng chạy đến tâu Vua sự việc xẩy ra.
3)- Vua A-Dục tín Phật, cho xây
84,000 Tháp thờ Xá-Lợi Phật.
Nhà Vua vội cùng tùy tùng đến xem xét sự
việc xẩy ra, thầy Tỳ-kheo khi thấy Vua đến, liền từ giữa vạc dầu phóng thân lên
lơ lửng trong không như con nhạn chúa, phô bày các thứ biến hóa. Khi Vua trông
thấy thầy Tỳ-kheo biến hóa thần thông như thế, liền chắp tay vái thầy mà nói:
– Xin Ngài cho biết: đã tu tập những gì mà được pháp
thắng diệu như thế, nếu tôi hiểu được rồi, tôi sẽ xin làm đệ-tử của Ngài và sẽ
không hối tiếc.
Thầy Tỳ-kheo
hướng về nhà Vua mà nói kệ :
Tôi là đệ-tử Phật,
Trọn lià phúc ba cõi,
Trong chính pháp Như-Lai,
Được lợi ích như thế.
Nói kệ
xong, thầy Tỳ-kheo bảo Vua:
– Phật đã xác nhận trước về Đại-Vương là sau khi Phật
diệt độ khoảng một trăm năm sau tại thành Ba-liên-Phất có Vua A-Dục dùng chính
pháp cai trị dân, lại xây tám vạn bốn nghìn Tháp Pháp-Vương, và phân bố Xá-Lợi
Phật khắp Diêm-phù-Đề. Phật đã nói trước về Đại-Vương như vậy, nhưng ngày nay
Đại-Vương lại tạo ra Địa-ngục lớn này, giết hại vô số nhân dân. Bây giờ
Đại-Vương nên mở lòng thương xót nghĩ đến tất cả chúng-sanh, ban bố sự không sợ
hãi, khiến mọi người được an ổn, Đại-Vương nên như pháp mà tu hành như thế.
Lúc ấy vua
A-Dục vô cùng kính tin Phật, chắp tay làm lễ thầy Tỳ-kheo mà nói:
– Tôi phạm tội lớn, tôi phạm tội lớn! Nay đối trước Thầy
tôi xin sám hối, những việc làm của tôi thật không tha thứ được, nay xin được
làm con Phật, xin Thầy hãy nhận sự sám hối của tôi, xin hỷ-xả, chớ quở trách,
tôi là kẻ ngu si, nay tôi xin được quy y Phật, xin Thầy nhận cho, rồi Vua nói
kệ:
Tôi nay quy y Phật,
Pháp thắng-diệu vô-thượng,
Chúng Tỳ-kheo tôn kính,
Nay tôi xin quy mệnh.
Và tôi phải dũng mãnh,
Vâng lời Thế-Tôn dạy,
Nơi Diêm-phù-Đề này,
Khắp dựng các Tháp Phật.
Thầy
Tỳ-kheo Hải độ vua A-Dục xong, liền nương hư không mà hóa, biến mất; nhà Vua
thấy thế liền vái chỗ hư không ấy, rồi từ nhà ngục đi ra, tên đao-phủ Kỳ-Lê
nói:
– Đại-Vương chẳng được đi ra.
Vua ngạc
nhiên hỏi:
– Nay ngươi muốn giết ta sao?
Tên Kỳ-Lê
nói:
– Đúng vậy.
Vua lại
hỏi:
– Ai là người đầu tiên vào ngục này?
Hắn trả
lời:
– Chính tôi là người đầu tiên vào nhà ngục này.
Vua bảo
hắn:
– Nếu thế thì chính ngươi phải chết trước.
Nói rồi Vua
liền ra lệnh cho các người tùy tùng bắt tên hung ác ấy bỏ vào hầm keo, lấy lửa
đốt cháy; Vua sai phá bỏ nhà ngục của tên đao-phủ, đem lại sự không sợ hãi cho
nhân dân, mọi người ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, và vui mừng vô kể.
Vua A-Dục
muốn xây Tháp Xá-Lợi Phật, Vua điều khiển bốn binh đến thành Vương-Xá lấy
Xá-Lợi Phật trong tháp của vua A-xà-Thế xây dựng trước kia. Vua cũng đem quân
đến bẩy nước kia và làm giống như thế, tất cả các nước đều thần phục Vua A-Dục
tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai làm tám vạn bốn nghìn hộp trân qúy bằng vàng-bạc,
lưu-ly, pha-lê để đựng Xá-Lợi Phật, và làm tám vạn bốn nghìn bình tứ bảo để
chứa hộp trân qúy này; Vua cũng sai làm hàng muôn nghìn cờ phướn bảo-cái, dù
lọng để cắm treo tại các nơi bảo Tháp, Vua đích thân đến tịnh-xá Kê-Tước của
Thượng-Tọa Da-Xá để nói ý muốn xây tám vạn bốn nghìn Tháp xong trong một ngày,
Thượng-Tọa nói với Vua :
– Lành thay Đại-Vương! Muốn vậy hãy ấn định sau mười lăm
ngày nguyệt thực cho xây tất cả các Tháp tại Diêm-phù-Đề (Ấn-Độ, Tích-Lan,
Miến-Điện v.v…).
Vua bèn ra
lệnh cho tất cả nhân-dân Diêm-phù-Đề, như vậy chỉ trong một ngày dựng xong tám
vạn bốn nghìn Tháp thờ Xá-Lợi Phật, cũng gọi là Tháp A-Dục Vương. Nhân-dân vui
mừng vô hạn, Vua cũng lấy làm phấn khởi vui mừng.
Tháp đã
dựng xong, Vua cùng quần thần đến tịnh-xá Kê-Tước thưa với Thượng-Tọa Da-Xá:
– Có Tỳ-kheo được Phật thọ ký làm Phật sự ngày nay
chăng? Trẫm muốn đến vị ấy để cúng dàng cung kính, xin Thượng-Tọa chỉ bảo.
Thượng-Tọa
nói với Vua:
– Lành thay Đại-Vương! Lúc đức Phật sắp nhập Niết-Bàn,
khi Ngài đi đến nước Thâu-ma-La, Ngài bảo Tôn-giả A-nan-Đà rằng: “Này A-Nan, sau khi Ta diệt độ khoảng một
trăm năm, có Trưởng-giả tên Cù-Đà (còn có tên là Trưởng-giả Thiện-Ý), con tên
Ưu-Ba Quật-Đa (có sách viết là Ưu-Ba Cúc-Đa) sẽ xuất gia học đạo thành Vô-tướng
Phật, dạy dỗ người là bậc nhất sẽ làm Phật sự”; hiện tại vị ấy đã đắc qủa
A-la-Hán, cùng vô số Tỳ-kheo quyến thuộc một vạn tám nghìn đệ-tử, đang trú tại
A-lan-Nhã ở núi Ưu-Lưu Man-Trà.
Nhà Vua
nghe xong vô cùng phấn khởi vui mừng, Vua liền ra lệnh cho quần-thần sửa soạn
xe-giá để đưa quyến thuộc đến nơi ấy; có quan Đại-thần khuyên Vua nên thỉnh mời
vị ấy đến, nhưng Vua không thuận, Vua bèn sai sứ-giả đem tin đến thưa với
Tôn-giả Ưu-Ba Quật-Đa rằng: “Ngày nào đó
không xa, Vua A-Dục sẽ đến lễ bái Tôn-giả”.
Tôn-giả
Ưu-Ba Quật-Đà (là Tổ thứ tư bên Tây-Trúc) được tin ấy thì nghĩ: “Nếu Vua đến sẽ có rất nhiều người đi theo
chịu bao khổ sở, lại bức bách sát hại côn trùng và tổn nhọc xóm làng”, nghĩ
xong, Tôn-giả trả lời sứ-giả rằng:
– Tôi sẽ tự đi đến cung Vua, ông về thưa lại với Vua như
thế.
Vua nghe
tin Tôn-giả Ưu-Ba Quật-Đa tự đến, vui mừng vô hạn; Tôn-giả vì thương xót Vua,
nên cùng rất nhiều A-la-Hán theo đường sông đến Kinh-đô. Khi được tin thuyền đã
cập bến, Vua cùng các quan Đại-thần và quyến thuộc đến bến đò làm lễ trước Tôn-giả
và nói:
– Ngày nay Trẫm thống lãnh toàn cõi Diêm-phù-Đề rộng lớn
này, tuy ngồi ở ngôi vua, mà không lấy làm vui, hôm nay thấy được Tôn-giả, lòng
Trẫm vui mừng khôn xiết, đệ-tử Như-Lai mới được như vậy, thấy Tôn-giả như được
thấy Phật.
Nhà vua cho
sứ-giả loan truyền cả nước rằng Tôn-giả Ưu-Ba Quật-Đa đến Kinh thành, Vua sai
treo phướn, bảo cái, lọng, xông hương, rải hoa, tấu nhạc, nhân-dân cả thành đều
ra nghênh đón, Tôn-giả tâu vua:
– Đại-Vương nên cung kính, cúng dàng Tam-Bảo là Phật,
Pháp, và Tỳ-kheo, vì khi đức Phật còn tại thế, Ngài thường ký thác rằng: “Chánh-Pháp của Ta đều gửi gấm nơi các
Quốc-Vương và các đệ-tử của Ta”.
Vua thưa
với Tôn-giả:
– Trẫm đã tạo tám vạn bốn nghìn Tháp thờ Xá-Lợi Phật,
trang nghiêm cõi nước, cúng dàng đầy đủ, phân bố Xá-Lợi Phật khắp cả
Diêm-phù-Đề.
Tôn-giả
khen ngợi Vua đã làm được việc chưa ai làm được, Vua thỉnh Tôn-giả vào thành,
mời Tôn-giả an tọa nơi tòa ngồi, còn chúng Tỳ-kheo được mời tới tịnh-xá
Kê-Tước.
Tôn-giả
khen ngợi Vua vì đời trước đem cát cúng dàng Phật, nên ngày nay được ruộng phúc
vô thượng, Vua bảo các quan Đại-thần:
– Ta nhờ lấy nắm cát cúng dường Phật mà được qủa báo như
vầy, làm sao chẳng tin kính đối với đức Thế-Tôn?
Vua lại
thưa với Tôn-giả:
– Xin Tôn-giả chỉ cho: những nơi Phật du hành, để Trẫm
đến cúng dường lễ bái, vì các chúng-sanh đời sau nhiếp thọ căn lành.
Tôn-giả
nói:
– Lành thay! Lành thay! Đại-Vương đã phát diệu nguyện
như thế, tôi sẽ chỉ Đại-Vương những nơi chỗ để vì chúng-sanh đời sau mà thọ trì
căn lành.
4)- Vua A-Dục hành
hương và cho xây cất Tháp, Miếu tại các
nơi Phật tích.
Vua A-Dục
đem bốn vạn binh cùng các thứ cúng dàng hương hoa, phướn, bảo cái, lọng, kỹ
nhạc để cùng Tôn-giả khởi hành đến chỗ đức Phật đản sinh, nhà Vua lễ lạy cúng
dường, xong liền cho dựng Tháp-Miếu thờ Phật.
Kế đó
Tôn-giả đưa Vua tới cội cây Bồ-Đề nơi Phật thành Đạo và bảo rằng:
– Tại gốc cây này, đại Bồ-Tát do sức Từ-Bi tam-Muội phá
quân Ma, đắc Vô-thượng Chính-Đẳng Chính-Giác.
Vua cúng dường:
vô lượng trân bảo và các thứ, cùng cho dựng Chùa-Miếu lớn thờ Phật.
Tôn-giả dẫn
Vua đi các nơi và chỉ:
– Chỗ này Tứ Thiên-Vương mỗi vị ôm một cái bát đem dâng
cúng, Phật hợp lại thành một bát.
– Tại đây đức Như-Lai nhận những bữa ăn cúng dàng của
anh em khách lái buôn.
– Nơi này khi đức Phật đến nước Ba-la-Nại, có ngoại đạo
Bà-la-Môn A-thời-Bà đến hỏi Đạo.
– Nơi đây là vườn Lộc-Uyển, chỗ ở của các Tiên-nhân,
Như-Lai đến ở trong đó vì năm vị Tỳ-kheo đầu tiên này, ba lần chuyển mười hai
hành Pháp-luân.
Lần lượt
Tôn-giả dẫn Vua đến những nơi ấy và giải thích tường tận, nhà Vua cúng dàng
những nơi ấy đủ thứ, và cho xây Tháp-Miếu thờ Phật. Rồi Tôn-giả đưa Vua đi tiếp
đến các nơi khác như:
– Chỗ này Phật hóa độ cho Tiên-nhân Ưu-Lâu Tần-Loa
Ca-Diếp.
– Nơi đây Phật nói Pháp cho Vua Bình-Sa, Vua thấy được
chân-lý, cùng với vô số nhân dân và Chư Thiên đắc Đạo.
– Chỗ này Như-Lai thuyết Pháp cho Trời Đế-Thích cùng với
tám vạn bốn nghìn Chư Thiên.
– Nơi đây Như-Lai thị hiện thần-lực biến hóa các thứ
chưa từng thấy.
– Chỗ này Thế-Tôn lên cung Trời Đạo-Lợi vì Mẹ thuyết
Pháp, khi trở lại đem vô lượng chư Thiên xuống nhân-gian.
Mỗi nơi Vua
đều cúng dàng và cho xây Tháp-Miếu thờ Phật, khi đến nước Câu-Thi La-Kiệt, nơi
đây Thế-Tôn làm xong Phật sự, nhập vô-dư Niết-Bàn, Vua nghe xong buồn bã, đau
xót vô cùng đến ngất xỉu trên đất. Hồi lâu tỉnh lại, Vua bật khóc nức nở, nước
mắt ràn rụa. Vua cúng dàng đủ thứ, và cho xây dựng Tháp-Miếu lớn thờ Phật, Vua
thưa với Tôn-giả:
– Ý tôi muốn được thấy các tháp thờ các đại đệ-tử của
Phật, muốn cúng dường Xá-Lợi các Ngài, xin Tôn-giả chỉ cho.
Tôn-giả
Ưu-Ba Quật-Đa khen ngợi Vua:
– Lành thay! Lành thay! Đại-Vương phát được diệu tâm như
thế.
Rồi Tôn-giả
dẫn Vua tới nước Xá-Vệ, vào tịnh-xá Kỳ-Hoàn, đưa tay chỉ Tháp nói:
– Đây là Tháp Tôn-giả Xá-lợi-Phất, là vị Pháp-Vương thứ
nhì (sau đức Phật) tùy chuyển Pháp-Luân, trừ trí-tuệ của Như-Lai ra, tất cả
trí-tuệ chúng-sanh chỉ bằng một phần mười sáu trí-tuệ của Tôn-giả Xá-lợi-Phất
mà thôi.
Nhà Vua
vui mừng vô hạn, đặt lên mười muôn lượng trân bảo cúng dường Tháp Tôn-giảXá-lợi Phất, và nói kệ:
Con lạy Xá-lợi-Phất,
Giải thoát mọi sợ hãi,
Danh đồn khắp thế-gian,
Trí-tuệ không ai bằng.
Kế tiếp,
Tôn-giả dẫn Vua và chỉ Tháp Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên và nói:
– Vị này thần-túc bậc nhất, lấy ngón chân ấn trên đất,
đất liền chuyển động; đến Long-Cung hàng phục Long-Vương; đến cung Trời
Đế-Thích dùng ngón chân đẩy nhẹ ngôi Đường-Quán làm đảo lộn rung chuyển, khiến
các Thiên-nữ hoảng hốt sợ hãi.
Vua đặt lên
mười vạn lượng trân bảo cúng dường Tháp Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, và ca ngợi
bậc thần-túc bậc nhất; tiếp đến, Tôn-giả đưa Vua đến núi Kê-Túc nói:
– Tôn-giả Đại Ca-Diếp ít muốn, biết đủ, được Như-Lai
chia cho nửa tòa ngồi và tặng áo Tăng-già-Lê. Ngài được Phật trao truyền
Chính-pháp Nhãn-tạng, Niết-Bàn diệu-tâm và làm Tổ thứ nhất, Ngài rất thương xót
chúng-sanh, lại có công hưng lập chính Pháp kiến lập kinh Phật. Ngài có đại
nguyện ngồi nhập thiền-định trong núi này để chờ ngày đức Phật Di-Lặc ra đời.
Nhà Vua
cúng dường mười vạn lượng trân bảo, và cho lập Miếu thờ; Tôn-giả Ưu-Ba Quật-Đa
dẫn Vua đến Tháp Tôn-giả Bạc-câu-La gần đấy và nói:
– Tôn-giả này bậc nhất không bệnh tật, lặng lẽ không
lời, chẳng nói cho ai một câu Pháp.
Vua bảo tuỳ tùng:
– Đem một tiền cúng dường cho Tôn-giả này, vì không ích
gì cho đời nên cúng ít.
Bấy giờ
đồng tiền tự nhiên trở lại chỗ Vua, các quan Đại-thần trông thấy thế cho là
việc hy hữu lạ lùng, và tất cả đồng loạt lên tiếng khen:
– Ồ! Tôn-giả, Ngài ít muốn, biết đủ, đến nỗi chẳng cần
một tiền!
Tôn-giả lại
dẫn Vua đến chỉ Tháp Tôn-giả A-nan-Đà và nói:
– Tôn-giả này là Thị-giả của Phật, đa văn bậc nhất, trí
nhớ số một, biện tài như nước chảy, khéo biết tâm ý chư Phật, được Phật khen
ngợi là tối thắng, có công kết tập Kinh Phật, và là Tổ thứ hai lưu truyền Phật
Pháp.
Vua liền
cúng dường một trăm vạn lượng trân bảo, vì cho là có công-đức nhiều hơn các
Tôn-giả khác, và Vua nói kệ khen:
Đèn Pháp còn ở đời,
Dứt lòng si tối này,
Đều nhờ nơi Tôn-giả,
Vì thế cúng dường hơn.
Sau khi đã
tham bái cúng dàng các vị đại đệ-tử Phật xong, Vua A-Dục hướng về Tôn-giả Ưu-Ba
Quật-Đa, chắp tay vái rồi nói kệ :
Vâng Pháp đệ-tử Phật,
Thực hành các lễ tiết,
Nay tôi đã làm hết,
Cúi đầu trước Tôn-giả.
Nhờ ân lực Tôn-giả,
Chóng được lợi lành lớn,
Nay thấy việc thắng diệu,
Do đây phân biệt Pháp.
Sau khi dẫn
Vua đi tham bái các nơi thắng tích như thế đã nhiều tháng trôi qua, Tôn-giả Ưu-Ba
Quật-Đa từ biệt trở về núi; từ bấy giờ, Vua A Dục thường đến cúng dàng nơi cây Bồ-Đề Đạo-tràng.
5)- Công đức của
Vua A-Dục.
Một hôm, Vua
A-Dục cho bày bốn bồn báu bằng vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê chứa đầy các thứ sữa
thơm, nước thơm, thức ăn chay, cùng phướn, bảo-cái, hương-hoa. Vua thọ trì Bát-Quan-Trai-Giới
(Ngày 15 trong tháng, ăn chay, giữ 10 điều lành, giữ giới thanh tịnh), ôm lò
hương ở trên chính điện hướng bốn phương mà làm lễ, tâm nghĩ miệng nói: “-
Đệ-tử Hiền-Thánh của đức Như-Lai ở các phương: xin thương xót con mà thụ nhận
sự cúng dường của con, xin thương xót con mà nhóm lại nơi đây”.
Vua tâm
niệm miệng nói như thế rất nhiều lần, cung kính vái lạy bốn phương; sau khi Vua
thọ Bát-Quan-Trai-Giới như vậy, liên tục trên hai mươi vạn Tỳ-kheo từ bốn
phương cùng tụ hợp lại, trong đại chúng ấy có gần mười vạn là bậc A-la-Hán, số
còn lại đều là các vị hữu học Tỳ-kheo, nhưng tòa của vị chủ tọa không có người
ngồi, Vua thấy thế liền hỏi:
– Toà của vị chủ tọa sao không có ai ngồi?
Trong
đại-chúng có Thượng-Tọa Da-Xá là bậc A-la-Hán có đủ thần-thông tâu Vua:
– Đại-Vương: tòa của chủ-tọa, trong đây không ai dám
ngồi, Phật nói: “Tôn-giả Tân-đầu-Lư đáng ngồi tòa này”, chẳng bao lâu nữa
Tôn-giả sẽ đến.
Vua vui vẻ
nói kệ:
Sung sướng được lợi ích,
Vì nhiếp thọ cho con,
Khiến con tự mắt thấy,
Tôn-giả Tân-đầu-Lư.
Bấy giờ
Tôn-giả Tân-đầu-Lư cùng vô số A-la-Hán thứ lớp đi theo, ví như con nhạn chúa từ
hư không đến, ngồi vào chỗ ghế chủ tọa, các Tỳ-kheo đều kính lễ theo thứ lớp
ngồi xuống.
Nhà Vua
trông thấy Tôn-giả Tân-đầu-Lư như thân Phật Bích-Chi, Vua sụp xuống đảnh lễ
dưới chân Ngài, qùy dài chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan Tôn-giả mà nói kệ:
Con nay thấy Tôn-giả,
Như thấy Phật tại thế,
Lòng con đầy phấn khởi,
Hơn hẳn thấy ngôi Vua.
Rồi Vua
thưa với Tôn-giả:
– Tôn-giả đã từng thấy đức Thế-Tôn, bậc ba cõi kính
ngưỡng tôn sùng chăng?
Lúc đó
Tôn-giả Tân-đầu-Lư (gần 200 tuổi?) lấy ngón tay vén lông mày bạc trắng nhìn Vua
và nói:
– Khi xưa, lúc đức Thế-Tôn cùng năm trăm vị A-la-Hán đến
thành Vương-Xá an cư lần đầu, lúc đó tôi cũng ở trong chúng ấy.
Lần khác,
lúc Như-Lai ở nước Xá-Vệ, Ngài hiện thần-lực lớn, biến hóa đủ thứ, hiện thân
hình chư Phật khắp các phương, kéo cõi Trời A-Ca-Ni-Tra đến gần cho đại chúng
thấy, lúc ấy tôi cũng ở đó.
Lại nữa,
khi đức Thế-Tôn từ tịnh-xá Cấp-Cô-Độc lên cõi Trời Đạo-Lợi thuyết pháp cho Mẫu
thân Ngài và chư Thiên, tôi cũng ở tịnh-xá Cấp-Cô-Độc.
Một lần
khác, đức Thế-Tôn cũng ở nước Xá-Vệ, khi ấy con gái Trưởng-giả Cấp-Cô-Độc lấy
chồng về nước Mãn-Phú; hôm Cô ấy thỉnh Phật và chúng Tỳ-kheo tới nhà để cúng
dàng, các Tỳ-kheo mỗi vị đều nương hư không mà đi từ nước này đến nước kia để
tới chỗ thỉnh. Riêng tôi lại dùng thần-lực nhấc núi lên mà đi, vì vậy đức
Thế-Tôn quở trách tôi rằng: “Thầy đâu
được hiện thần-túc như thế, bây giờ Ta phạt thầy phải sống ở thế-gian này lâu
dài không được vào Niết-Bàn vội, mà phải hộ trì chánh-Pháp của Ta chớ để cho
diệt mất”, do đó ngày nay tôi vẫn còn sống đây là vì lẽ đó.
Đặc biệt,
một bữa đức Thế-Tôn vào thành khất thực, khi đó Vua là em bé kiếp trước, cùng
với một em bé khác đang chơi đùa trên cát, thấy Phật từ xa đi tới, lấy một nắm
cát bỏ vào bình bát cúng Phật. Sau đó đức Thế-Tôn nói với Thị-giả là Tôn-giả
A-nan-Đà rằng Ngài thọ ký cho em bé ấy sau khi Ngài nhập diệt khoảng hơn một
trăm năm, em bé sẽ làm Vua tại nước Ba-liên-Phất, thống lãnh Diêm-phù-Đề, gọi
là vua A-Dục, sẽ phân bố rộng rãi Xá-Lợi của Ngài, dựng tám vạn bốn nghìn Tháp.
Nay chính là nhà Vua, bấy giờ tôi cũng ở đó, rồi Tôn-giả nói kệ:
Kiếp trước Vua còn thơ,
Đem cát cúng dàng Phật,
Lúc Phật thọ ký Vua,
Chính tôi cũng ở đấy.
Bấy giờ Vua
nghĩ nơi Phật giác ngộ nên nghĩ tới việc cúng dường cây Bồ-Đề, sau đó là cúng
dường đại chúng Tỳ-kheo, nghĩ rồi Vua ban lệnh cho quần-thần tuyên bố khắp cõi Diêm-phù-Đề
rằng:
– Ngày nay Vua muốn xả mười vạn lượng vàng bố thí đại
chúng Tỳ-kheo, một nghìn bồn nước thơm tưới lên gốc cây Bồ-Đề.
Nhà Vua
cùng chúng Tỳ-kheo tưới nước thơm cho cây Bồ-Đề càng thêm tươi tốt, Vua cùng
quần-thần vô cùng mừng vui.
Kế đến Vua
cúng dường đại chúng Tỳ-kheo, nhà Vua tự tay cúng dường từ trên xuống dưới;
cúng thực xong, nhà Vua cúng áo Cà-Sa bằng các
thứ vải Ba-la-Nại rất qúy, tự tay dâng lên Tôn-giả
Tân-đầu-Lư và đại chúng Tỳ-kheo.
Sau cùng,
nhà Vua bố thí bốn trăm vạn lượng trân bảo cho dân chúng bần cùng bệnh khổ, Vua
A-Dục đã cho xây tám vạn Tháp thờ Xá-Lợi Phật, hành hương, xây Tháp Miếu cúng
dường tất cả các nơi Phật tích, và thăm viếng cúng dường một số các Tháp thờ
các Đại đệ tử Phật. Vua A-Dục đã tạo công-đức lớn lao như thế..,.
Toàn Không
9)
Discussion about this post