TỔ HUỆ VIỄN VỚI PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Thích Phước Tiến
Từ khởi nguyên, mục đích của đạo Phật là ban vui cứu khổ. Vì
chúng sanh căn tánh đa dạng, nên đức Phật phải phương tiện với nhiều pháp môn
bằng câu châm ngôn quen thuộc. Đó là “chúng sanh đa bệnh Phật Pháp đa phương”.
Cho nên giáo pháp của đức Phật được phương tiện chia ra làm mười tông (theo
cách thành lập tông của Trung Hoa), mỗi tông phái nhằm thích hợp với một số căn
tánh chúng sanh. Hầu hết các tông phái này được phát triển ở Trung hoa, dù
Thiền, Tịnh hay Mật… cũng đều có chung một mục đích là làm sao cho tất cả chúng
sanh đều được giác ngộ.
A. DẪN NHẬP
Từ khởi nguyên, mục đích của đạo Phật là
ban vui cứu khổ. Vì chúng sanh căn tánh đa dạng, nên đức Phật phải phương tiện
với nhiều pháp môn bằng câu châm ngôn quen thuộc. Đó là “chúng sanh đa bệnh
Phật Pháp đa phương”. Cho nên giáo pháp của đức Phật được phương tiện chia ra
làm mười tông (theo cách thành lập tông của Trung Hoa), mỗi tông phái nhằm
thích hợp với một số căn tánh chúng sanh. Hầu hết các tông phái này được phát
triển ở Trung Hoa, dù Thiền, Tịnh hay Mật… cũng đều có chung một mục đích là
làm sao cho tất cả chúng sanh đều được giác ngộ.
Hiện nay trong mười tông phái, một số tông phái tạm thời lắng dịu,
nhưng Thiền, Tịnh, Mật, mặc dù có những lúc thăng trầm, nhưng luôn luôn được
thịnh hành.
Riêng tông Tịnh độ là con đường duy nhất giúp cho chúng sanh
trong thời Mạt pháp tìm đường thoát khỏi khổ đau sinh tử luân hồi. Trong kinh
Vô Lượng thọ Đức Phật đã huyền ký : “Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng
lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này trong khoảng một trăm năm. Nếu
chúng sanh nào gặp kinh này, tuỳ ý sở nguyện, đều được đắc độ”. Ngài Ấn Quang
đại sư, một bậc cao tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo: “Thời Mạt pháp,
chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà tu các pháp môn
khác, nơi phần gieo phước báo căn lành thời có, nơi phần liễu thoát luân hồi
thời không. Tuy có một vài vị cao đức hiện kỳ tích phi thường, song đó đều là
những bậc Bồ tát nương theo bản nguyện mà làm mô phạm dẫn dắt chúng sanh đời
Mạt pháp”.
Đặc biệt nhất, ở Việt nam, Tịnh Độ tông
được đại đa số quần chúng áp dụng và đem lại kết quả lớn. Vì lợi ích thiết thực
cho số đông, kể từ khi được truyền vào, nên pháp môn Tịnh Độ nghiễm nhiên trở
thành pháp môn tu tập cốt tuỷ mà người học Phật Việt nam. Vì là pháp môn dễ tu
dễ đắc, nhưng cũng dễ mắc phải những sai lầm về nhận thức và hành trì, cho nên
người học phật cần phải tìm hiểu rõ chân giá trị hầu làm lợi ích trên con đường
tu tập giải thoát.
B. NỘI DUNG
Tịnh độ tông hay các tông phái khác phần
lớn hầu như đều được phát triển ở Trung Hoa. Trung Hoa được xem như là cái nôi
của Phật giáo Đại thừa và nhất là Việt Nam chịu ảnh hưởng truyền thống tu tập
của Phật giáo Trung hoa rất sâu sắc. Mặc dù Tịnh Độ Tông xuất xứ từ Ấn
Độ, nhưng được đơm hoa kết trái ở Trung quốc do sự xiển dương hoằng truyền của
chư vị Tổ sư, điển hình là Ngài Tuệ Viễn . Vì vậy, Tịnh Độ tông ở các nước như
Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam … xem Ngài (Tuệ Viễn) là vị Tổ đầu
tiên có công truyền bá pháp môn này. Để hiểu rõ được pháp môn tu tập thâm áo
của tông Tịnh độ, trước hết chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về cuộc đời và sự
nhiệp hoằng truyền tông chỉ của sơ tổ, Tuệ Viễn Đại sư.
1. Sơ
lược tiểu sử
Huệ viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán ở xứ
Lâu phiên, quận Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Sinh ra tại miền Thạch
Triệu, năm Giáp ngọ, niên hiệu Diên hy, đời vua Thành Đế nhà Tấn. Không rõ cha
mẹ tên họ là gì. Thuở nhỏ Ngài đã thuần phong nếp
sống Nho gia. Khoảng mười ba tuổi, Ngài đã làu thông các học thuyết Nho gia,
lão trang, tư tưởng bách gia chư tử… Mặc dù cả một kho tàng triết lý truyền
thống sẵn có nhưng cũng không làm thoả mãn được ý chí tìm tòi của Ngài.
Lúc bấy giờ có pháp sư Đạo An khai đạo
tại chùa Nghiệp Trung, non Thái Hằng thuộc dãy núi Hằng sơn. Tăng tín đồ
quy tụ về nghe pháp rất đông.
Vì lòng hiếu kỳ muốn tìm hiểu các lý
giải cao thâm nên Ngài tìm đến chùa Nghiệp Trung thọ học giáo pháp. Khi nghe
Ngài Đạo An giảng kinh Bát nhã, tâm trí Ngài được khai thông tỏ ngộ diệu lý sâu
mầu. Ngài bèn than rằng: “Nào ngờ Phật thừa thâm diệu! Bấy lâu nay uổng công ta
đeo đuổi theo bả rác Khổng, Mạnh, Lão, Trang!”.
Sau đó, Ngài (Huệ Viễn) xin quy y thọ
giáo xuất gia với Pháp sư Đạo An, được pháp hiệu là Tuệ Viễn. Niên hiệu Thái Nguyên thứ sáu, Đại sư vân du đến xứ Tầm
dương, thuộc tỉnh Giang Tây, thấy cảnh núi lô sơn thanh u, hợp nơi hành đạo nên
đến lập tịnh xá lấy hiệu là Long Tuyền (Suối rồng).
Vì mến đức đại sư, lại thêm đồ chúng tu
học ngày càng đông, cần phải có phương tiện rộng rãi để hành đạo, Quan Thái sử
Hoàn y phát tâm cất chùa cho Ngài ở phía đông núi Lô sơn lấy tên là Đông Lâm
thần Vận tự. (Sở dĩ có tên thần vận là vì tương truyền trong đêm trước khi xây
dựng chùa cảm ứng thần linh, vận chuyển các loại vật tư cây to, gạch đá… đủ xây
dựng chùa nên mới có tên là thần vận).
Kể từ khi cảnh trí lô sơn được hoàn tất,
Ngài luôn khuyến khích đồ chúng chăm tu tịnh độ. Để phân biệt thời khắc tu
niệm, Đại sư cho người đào ao trồng hoa sen trắng, trên mặt nước thả mười hai
cánh sen bằng gỗ, dẫn nước suối ra vào. Cứ mỗi giờ nước chảy đẩy qua một cánh
sen. Đại chúng y theo đó mà định thời khoá tu hành. Có rất nhiều bậc đại trí
thức bốn phương, vì mến danh đức của đại sư cũng lần về xin được bàn luận Phật
pháp và dự theo chúng tu học như: Giác Hiền, Phật Đà Gia Xá, Lưu Di Dân, Vương
Kiều Chi …
Ngài dịch thuật, chú giải, trước tác rất
nhiều kinh luận. Đặc biệt nhất là bộ Sa môn bất bái Vương giả luận, gồm năm
thiên đã làm cho triều đình lúc bấy giờ phải nể phục chấp nhận.
Trải qua ba lần thấy thánh tướng hiện,
chắc chắn là thời cơ vãng sanh đã đến, mọi việc đã được đại sư chuẩn bị kỹ
càng. Vì biết trước được thời giờ vãng
sanh, nên trải qua mấy ngày lâm bệnh, mặc cho mọi người khuyên can, đại sư vẫn
không cơm cháo thuốc thang gì. Sau đó Ngài quy tựu đồ chúng căn dặn: “Ta ở Lô
sơn này, trong mười một năm đầu, ba lần thấy Phật và thánh chúng hiện thân. Nay
lại thấy Phật thọ ký. Chắc chắn ta sẽ được sanh về tịnh độ”.
Sau khi dặn dò và soạn quy chế cho đại
chúng xong, vào ngày mùng 6 tháng 8 Ngài cáo biệt đồ chúng an tường viên tịch,
thọ 83 tuổi.
2. Mục
đích của đạo Phật
Đức Phật đã nói : “Ta ra đời vì lợi ích
cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên
và loài người” (Tăng chi bộ kinh). Như vậy sự có mặt của đức Phật trên
cõi đời này với mục đích duy nhất và cao cả đó là làm lợi ích quần sanh; nếu
không có chúng sanh khổ nạn đang ngược xuôi lặn hụp trong biển đời sanh tử, thì
đức Phật cũng không bao giờ xuất hiện.
Vì vậy, xuyên suốt bề dày lịch sử, đạo
Phật đến đâu điều mang thông điệp hoà bình hạnh phúc đến đó. Sự có mặt của đạo
Phật luôn đồng nghĩa với sự thái bình thịnh trị của mọi quốc gia, mọi xứ sở.
Vì vậy, dù là pháp môn nào, miễn đem lại
lợi ích thiết thực cho chúng sanh, giúp mọi người quy hướng về đường ngay lẽ
phải, thì người đó đang thực hiện hoài vọng quý báu của ba đời chư Phật, đang
nêu cao tông chỉ của đạo Phật.
Cho nên sứ mạng thiêng liêng của chư vị
thánh đệ tử là hoằng truyền chánh pháp, tìm mọi phương tiện khéo léo để dẫn dắt
chúng sanh quy hướng về đạo Phật. Đứng về mặt tuyệt đối mà nói, thì đạo Phật
chẳng có tông chỉ, tông phái, pháp môn nào riêng biệt cả; nhưng đứng về mặt
phương tiện, thì có vô lượng pháp môn mà người con Phật cần phải hiểu rõ ràng
và khách quan. Dùng bốn hoằng thệ nguyện cũng đủ để chứng minh cho lòng từ bi
bình đẳng, trí tuệ siêu việt, không câu nệ chấp mắc vào pháp môn:
Điều đó đủ để chúng ta thấy rằng, giáo
lý của đạo Phật thậm thâm vi diệu, lại mênh mông rộng lớn. Và có như vậy, đạo
Phật mới độ khắp chúng sanh, mới có thể độ tận được vô lượng căn tánh chúng
sanh trên cõi đời này. Do đó, qua quá trình độ sanh tông Tịnh Độ đã tự khẳng
định được chân giá trị của mình, đã cho mọi người thấy được lợi ích thiết thực
của một pháp môn phương tiện vi diệu nhiệm mầu, mà các tổ của những tông phái
khác như Ngài Nhất Nguyên, Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì… và còn vô
số người đã phát tâm mật tu Tịnh Độ để được vãng sanh. Bấy nhiêu đó cũng đủ để
thấy được sự thâm diệu của pháp môn, nhằm giúp cho tất cả chúng sanh hữu duyên
gặt hái được kết quả tốt. Hoà thượng Thiền Tâm có viết trong quyển Niệm Phật
thập yếu: “Thuốc không bắc nam, hết bệnh là thuốc hay. Pháp không thấp cao hạp
cơ là Pháp diệu”.
3. Tịnh
độ là gì ?
Tịnh độ hay còn gọi là Tịnh Thổ, Cực
Lạc, Tịnh Cảnh, Tây Phương, là cảnh giới hoàn toàn an vui không còn sự thống
khổ. Những ai được vãng sanh về cực lạc thì chắc chắn sẽ vĩnh viễn không còn
rơi đoạ trong tam đồ.
Trong kinh A Di đà, Đức Phật giải thích
cho ngài Xá Lợi Phất rằng: “Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh vi cực lạc? Kỳ quốc
chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh cực lạc”. Nghĩa là đức Phật nói với ngài Ngài Xá Lợi
Phất rằng: vì sao gọi là cực lạc? Bởi vì chúng sanh nơi ấy không có các khổ bao
vây, chỉ toàn thọ hưởng niềm an vui nên gọi là cực lạc.
Tịnh độ là phiên âm Hán Việt. Theo chiết
tự tịnh là trong sạch , vắng lặng, không có nhiễm ô; độ là cõi nước, một quốc
độ hay một thế giới nào đó. Như vậy, Tịnh Độ là
một cõi nước trong sạch, một thế giới hoàn toàn thanh tịnh không có nhiễm ô.
Qua phần giải thích về Tịnh Độ, chúng ta
nhận thấy đã là một thế giới thì phải có đầy đủ các yếu tố về con người, chim
muông, hoàn cảnh sống là lẽ đương nhiên! Điều này được giải thích rõ trong kinh
A di đà.
4. Có cõi
Tịnh Độ không
Như trên đã trình bày, Tịnh Độ là một
cõi nước, nhờ nguyện lực và công đức tu tập nhiều đời của Phật A Di Đà mà có ra
mọât thế giới thù thắng vào bậc nhất “mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua”
– Sám Di Đà. Nhưng nhiều người cho rằng Tịnh Độ không có thật, nó chỉ là
viễn tưởng hay một sự khéo léo của người truyền giáo, muốn mê hoặc quần chúng
yếu vía, không có tinh thần tự lực. Có những người lý luận rằng: khoa học đã
tiến bộ, người ta tìm đến sao Hoả, cung trăng … nhưng đâu thấy cõi nước nào là
Tịnh Độ ?
Đây là những lập luận hết sức nông nỗi
của mọât số người chưa nghiên cứu kỹ về Tịnh Độ, không có niềm tin vào lời dạy
từ ngàn xưa của Phật, của Tổ.
Để làm sáng tỏ vấn đề đang được tranh
luận, trước hết người viết trình bày một vài sự kiện căn bản trong đạo Phật.
Nếu khoa học lý giải được tất cả thì
chúng ta cần gì phải tu học theo Phật pháp. Hơn nữa, hành giả nào tu phật mà
việc gì cũng lấy khoa học làm luận cứ thì chúng ta trở thành công cụ của khoa
học, nô lệ theo khoa học, chứ không còn là môït người chuyên tu Phật nữa. Khi
khoa học không tìm thấy không có nghĩa là không có mà chúng ta phải nhìn nhận
sự rất giới hạn của khoa học. Xưa kia khi chưa có kính hiển vi người ta có tin
lời Phật nói trong một bát nước có tám muôn bốn ngàn con vi trùng không?
Hay khi chưa có viễn vọng kính, khoa học có tin lời Phật nói hằng hà
sa số thế giới không? Mặc dù không ai tin, nhưng với tuệ giác thấy biết như
thật, đức Phật đã nói . Đến hơn hai mươi thế kỷ sau người ta mơí công nhận lời
Phật dạy.
Cách nay khoảng mười lăm năm, báo chí
đăng về sự kiện người ngoài hành tinh đi vào trái đất của chúng ta. Do sự cố
đĩa bay, người ngoài hành tinh bị rơi xuống tại Philipin (Phi luật tân). Nhà
chức trách Phi luật Tân đã bắt được một người với da dẻ kích thước, thể trọng,
màu da… được báo chí diễn tả lại rất chi tiết. Những nhà bác học của Liên xô cũ
bị mất tích. Giới khoa học và những nhà chuyên trách căn cứ vào một vài sự kiện
và kết luận rằng: những người này do những người ngoài hành tinh bắt đi để
nghiên cứu về con người trong trái đất. Kể từ đó các nhà khoa học cố tìm cho ra
thế giới xa xăm của những người ngoài hành tinh, nhưng cho đến nay họ có tìm
thấy tí gì về dấu vết của những con người đó chưa? Như vậy chúng ta dám khẳng
định rằng không có không ? Nếu không có thì tại sao họ xuất hiện trên trái đất
của chúng ta ? Một thế giới như vậy mà còn tìm không thấy thì làm sao thấy được
cõi Cực Lạc.
Phần tiếp theo là quan điểm siêu hình
của Phật giáo.
– Trong thế giới siêu hình gồm có cõi chư thiên , Thế giới A
tu la, địa ngục và ngạ quỉ. Đây là những thế giới mà trong kinh thường đề cập
tới. Trong kinh Tam Di Đề, Tạp A Hàm …., nói về giai thoại giữa tiên nữ và tỳ
kheo Tam di đề như sau: “Khi thấy tỳ kheo Tam Di Đề tắm trên một dòng sông vào
buổi sớm, tiên nữ nói với tỳ kheo ấy rằng, tại sao lại bỏ hạnh phúc thực mà lại
đi tìm hạnh phúc ảo”. Qua đó dẫn đến cuộc đối đáp giữa tỳ kheo và tiên nữ. Sau
cùng tỳ kheo ấy dẫn tiên nữ đến gặp Phật và được đức phật giáo hoá. Tiên
nữ phát tâm quy y và làm đệ tử của đức thế tôn. Trong kinh Bát nhã kể lại câu
chuyện Ngài Tu Bồ Đề ngồi nhập định không tánh, được chư thiên khen ngợi tung
hoa cúng dường. Khi xả định, Ngài thấy xung quanh mình đầy hoa. Ngạc nhiên ngài
hỏi: ai rải hoa xung quanh ta nhiều quá vậy ? Chư thiên đáp rằng: “Ngài thuyết
kinh Bát Nhã hay quá, chúng con tung hoa cúng dường”. Ngài tu bồ đề hỏi lại:
“ta có nói gì đâu mà cho rằng thuyết kinh Bát Nhã ?” Chư thiên đáp: “Ngài
không nói, con không nghe, đó chính là Chơn Bát Nhã”. Những việc đối đáp giữa chư
thiên và đức Phật hay các thánh đệ tử trong kinh điển còn rất nhiều. Như vậy,
trong các kinh, hệ tư tưởng Nguyên Thuỷ cũng như Đại Thừa, đều thừa nhận có sự
hiện hữu của chư Thiên. Chính trong lịch sử của đức Phật có đoạn: sau khi thành
đạo, vì nhớ đến ân sinh dưỡng của mẫu thân, hoàng hậu Ma da, Đức Phật hiện thân
về cõi trời Đao lợi, thuyết pháp cho mẹ nghe. Sau khi nghe pháp xong, hoàng hậu
Ma Da chứng được thánh quả.
– Bên cạnh đó cũng có những cõi nước của các loài chúng sanh
thấp kém hơn loài người, đó là cảnh giới của các loài sống trong địa ngục và
ngạ quỉ. Chúng là những loài bị tội khổ nên mới chiêu cảm quả báo xấu . Đối với
những loài như thế, mắt thường của phàm phu hay viễn vọng kính của các nhà khoa
học không thể thấy được.
Như vậy, chư Thiên hay cảnh giới của Địa
ngục, Ngạ quỉ là cảnh giới siêu hình nhưng không phải là không có. Muốn thấy
được cảnh giới này, chỉ có huệ nhãn của Phật hay của chư thánh đệ tử chứng được
thiên nhãn thông hoặc những bậc tu hành đắc đạo mới nhìn thấy được.
Thế thì, những cảnh giới, cho dù mắt
thường hay viễn vọng kính của các nhà khoa học không thể thấy, nhưng dựa vào
lời Phật dạy chúng ta tin là có. Trong khi cảnh giới Tịnh Độ cũng là lời Phật
nói nhưng tại sao chúng ta cho là không có? Có phải vì mâu thuẫn tông phái ,
mặc dù thấy kết quả tốt, nhưng chúng ta lại cực kỳ bài xích về pháp môn tu cũng
như cảnh giới của tịnh độ?
Lại nữa, cái gì nó cũng có nhân quả. Tu
năm giới thì sinh cõi người, tu thập thiện về cõi trời. Làm nhiều điều tội ác
thì rơi xuống tam đồ… thì tại sao tu niệm Phật lại không được về cõi tịnh? Đây
là những điều chúng ta tự mâu thuẫn với giáo lý của Phật. Nếu theo suy lý điều
này không thể có thì các điều khác cũng tương tự. Nếu không nhất quán với nhau,
mai này khuyên tu năm giới thập thiện … thì ai tin tưởng để quy hướng về. Đó là
một vài minh chứng về sự thật hiển nhiên cho tông Tịnh Độ.
5. Phương pháp căn bản của
người tu Tịnh Độ
Theo phương pháp truyền thống, tu tịnh
độ phải có lòng tin sâu, nguyện thiết và hành thâm.
Người tu tịnh độ đầu tiên phải có lòng
tin vào pháp môn, tin vào khả năng tiếp dẫn của Phật A di đà. Và điều tất yếu
chính là tin vào khả năng vãng sanh nơi chính mình. Ngài Thân loan nói: “Bản
nguyện Di Đà không phân biệt người già, trẻ, kẻ thiện, ác. Phải biết tín tâm là
cội gốc. Mục đích của bản nguyện Di Đà là cứu vớt chúng sanh tội ác sâu nặng,
phiền não lẫy lừng. Nếu như tin bản nguyện Phật thì không cần thiện hạnh khác.
Không có thiện hạnh nào hơn niệm Phật. Chẳng cần sợ ác hạnh, vì nó không ngăn
ngại được bản nguyện Di Đà, làm trở ngại chúng sanh ác hạnh vãng sanh”( Thán
Dị Sao – Cư sĩ Định Huệ dịch)
Hai là nguyện: Bởi không có nguyện, thì
không thể nhất tâm hướng về mục đích. Cho nên nguyện là để tâm được chuyên nhất
trong việc hành trì và đem tất cả tâm lực hướng về mục đích của mình đang mong
muốn. Nguyện được xem như là một ước mơ mà mình luôn nuôi dưỡng nên quyết
lòng thực hiện cho được hoàn thành. Vì vậy kinh Hoa Nghiêm nói “tín vi công đức
mẫu”, lòng tin là mẹ sinh ra các công đức.
Ba là hạnh: Hạnh tức là thực hành. Đứng
về mặt thực hành thì Tịnh độ tông có bốn phương pháp thực hành căn bản:
· Thật
tướng niệm Phật: Tức là nhập vào đệ nhất nghĩa tâm, niệm tánh bản lai của chính
mình hay nói khác hơn đó chính là niệm về tự tánh Di đà. Đây là phương pháp
hành trì của bậc thượng căn thượng trí.
· Quán
tưởng niệm Phật: Dựa vào kinh Quán vô lượng thọ, quán tưởng y báo và chánh báo
nơi cõi cực lạc. Trong kinh này có dạy mười sáu pháp quán, nếu quán tưởng được
thuần thục thì lúc nhắm hay mở mắt hành giả đều thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền.
· Quán tượng niệm Phật: Dùng tâm lực chuyên chú vào kim thân của Phật A di đà,
quán sát kỹ càng từng tướng tốt của Phật, ghi nhận từng nét một cách kỹ càng.
Quán tưởng như vậy cho đến khi thuần thục, thì dù lúc nhắm mắt hay mở mắt đều
thấy rõ hình tượng của Phật luôn hiện tiền trước mắt.
· Trì danh
niệm Phật: Đây là phương pháp hành trì thông dụng của hầu hết những người tu
tịnh độ. Chỉ dùng miệng niệm hay niệm thầm bốn chữ A di đà Phật hoặc sáu chữ
Nam mô A di đà Phật. Đem tâm chuyên chú trì niệm hồng danh của Phật lần lần tâm
được lắng yên tỏ sáng, dễ dàng được nhất tâm.
Riêng trì danh niệm Phật là phương pháp
đặc trưng cho tông Tịnh Độ. Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu, Hoà thượng
Thiền Tâm có trình bày mười phương thức trì danh niệm Phật như sau:
1/ Phản văn trì danh.
2/ Sổ châu trì danh.
3/ Tuỳ tức trì danh.
4/Truy đảnh trì danh.
5/ Giác chiếu trì danh.
6/ Lễ bái trì danh.
7/ Ký thập trì danh.
8/ Liên hoa trì danh.
9/Quang trung trì danh.
10/ Quán Phật trì danh.
Hoà thượng cho rằng: “Trì danh niệm Phật
gồm khắp ba căn(thượng, trung, hạ), lại đắc hiệu mau lẹ, ai cũng có thể thực
hành. Trì danh nếu tinh thành sẽ có cảm cách, hiện tiền thấy ngay chánh báo y
báo cõi Cực lạc, tỏ ngộ bản tâm, đời nay dù chưa chứng thực tướng, sau khi vãng
sanh cũng quyết được chứng”.
Nhưng một điều chúng ta cần để ý: Trong
kinh A di đà đức Phật dạy khi lâm chung nếu muốn được vãng sanh thì “Tâm bất
tham luyến, ý bất điên đảo”. Như vậy, nếu hàng ngày tu Tịnh Độ, miệng niệm Phật
và đọc các bài nguyện về Cực Lạc theo thời khoá hàng đêm thì chưa chắc gì chúng
ta được vãng sanh. Bởi vì chúng ta niệm bằng miệng, hành trì theo thời khoá một
cách siêng năng, nhưng tâm không có muốn xa lìa các bám chấp về tiền tài,
sự sản, tình cảm … thì lúc lâm chung cũng khó bề mà được vãng sanh. Do đó, hai
vấn đề vô cùng thiết yếu trong lúc hành trì của người tu Tịnh Độ, đó là tâm Hân
và Yểm. Hân là ham muốn, Yễm là chán ghét. Nghĩa là người hành trì theo pháp
môn tịnh độ thì phải có tâm chán cõi ta bà ham về tịnh độ. Nếu hàng ngày luôn
có tâm chán Ta Bà ham về Tịnh Độ một cách thắm thiết, một ngày nào đó thuần
thục trong việc quán chiếu và hành trì, thì khi lâm chung chắt chắn sẽ được
vãng sanh, sẽ được Phật Di Đà và chư thánh chúng tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc.
Vì lẽ đó, hoà thượng Trí Tịnh có bút hiệu là Hân Tịnh (ham thích về cõi Tịnh),
để nói lên cái cốt tuỷ tu Tịnh Độ của Ngài. Ngài có làm bài thơ nói lên tâm
huyết tu Tịnh độ:
lệ tràn Ta bà đau khổ lắm thương
tang Người ơi xin hãy suy hơn
thiệt Niệm Phật mau đi, kẻo lỡ
làng”.
Đây là những phương pháp quán chiếu và
hành trì thiết yếu của người chuyên tu Tịnh độ. Chỉ cần thực hiện những điều
cốt tuỷ này chúng ta sẽ đạt lợi ích lớn, sẽ rút ngắn lại khoảng cách con
đường về cực lạc.
6. Tại
sao cần phải cầu nguyện vãng sanh
Để thấy được ý nghĩa tại sao cần phải
cầu nguyện vãng sanh, người viết xin lược nêu hai ý căn bản trong quyển Niệm
Phật Thập Yếu của hoà thượng Thích Thiền Tâm.
– Đường sanh tử nhiều nguy hiểm: Với tuệ nhãn, đức Phật đã
thấy tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đã trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, đã
từng chịu muôn ngàn đau khổ trong con đường sanh tử. Vì không có người dẫn
đường nên chúng sanh đành chấp nhận số phận hẩm hiu mà không biết phải làm gì
hơn là phó mặc cho kiếp đời trôi nổi. Kể từ khi đạo giác ngộ được ra đời, chúng
sanh có cơ hội để giúp cho tự thân mình thoát ly ra được. Mặc dù vậy, cho đến
hôm nay chúng ta vẫn đang sống một kiếp đời phàm phu trôi nổi. Nhưng có một
điều may mắn là trong kiếp đời hiện tại chưa phải mang lông đội sừng đó là cơ
hội duy nhất để được tiếp cận giáo lý mầu nhiệm này. Nhưng gặp được giáo lý cao
thâm mà tu tập mong cầu phước báo hữu lậu nhơn thiên, được trở lại trong cuộc
đời để tận hưởng những dục lạc thường tình là không đúng; cho dù chúng ta phát
tâm tu để được hưởng phước của chúng sanh ở cõi trời thì cũng không phải là
nguyện vọng chính yếu của ba đời chư Phật. Ngài Tỉnh Am nói người phát tâm tu
như vậy gọi là Tà.
Bởi vì dù làm chúng sanh cõi trời thì
vẫn còn bị luân hồi sanh tử. Cho nên cốt tuỷ của đạo Phật là làm sao cho
chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử, không còn rơi vào trong Tam đồ khổ nữa
mới là đúng với bản hoài của chư Phật.
– Cần giải thoát ngay trong hiện tại.
Mặc dù trong giáo pháp của Phật có nhiều
pháp môn tu, pháp môn nào cũng đưa hành giả đến chỗ giải thoát, chỉ khác chăng
là mau hoặc chậm vậy thôi!
Tu thiền cũng giúp cho chúng sanh tỏ ngộ
thiền cơ, tức tâm thành Phật. Vì là phương pháp tu hành tự lực, không có sự
tiếp dẫn của chư Phật, duyên ngộ đạo chưa đến lúc chín mùi, thì hành giả phải
tái sanh trở lại trong kiếp người mong manh để tiếp tục tu trì cho đến khi ngộ
đạo. Nhưng đường sanh tử lắm gian nan, cho dù hạt giống tu hành có đó, nhưng
thiếu duyên thì cũng khó bề đơm hoa kết trái. Cổ đức ứng nói: “Nếu tu hành mà
không được giải thoát, thì sự tu tập kiếp này trở thành kẻ thù của kiếp thứ
ba”. Bởi vì, nhờ tu hành được nhiều phước báu, đời sau sanh ra hưởng phú quí
vinh hoa. Sống trong giàu sang sung sướng thì ít có cơ duyên học đạo, “Hào quí
học đạo nan – Kinh Tứ thập nhị chương”, tạo nghiệp trong đường sanh tử,
chết rồi sa đoạ chốn Tam đồ.
Đó không phải là kẻ thù của kiếp thứ ba sao ? Tương truyền
rằng: Tô Đông Pha, Hàn lâm học sĩ triều Tống, học rộng nghe nhiều, tài hoa lỗi
lạc, tư chất thông minh. Tiền kiếp giữa Ông và thiền sư Phật Ấn là bạn đồng tu
trong núi Vân Cư. Do vì chưa giác Ngộ được Phật tâm nên chuyển kiếp là một vị
học sĩ Viện hàn lâm, thông minh, tài hoa lỗi lạc. Vì vậy, trong kiếp đời hiện
tại, ông trở thành người đối kháng Phật pháp, tham đắm dục lạc, có đến bảy vợ.
May nhờ có Phật Ấn, bạn đồng tu từ kiếp trước, tìm phương cứu độ, nên mới quy
hướng trở về Phật pháp. Gần cuối đời, Ông có mướn thợ vẽ tượng Phật A Di Đà, đi
đâu cũng mang theo bên mình. Có ai hỏi thì ông đáp: “Bức tượng này là công cứ
của tôi đấy. Và những chuyện tương tự như vậy là không thiếu trong nhà thiền.
Qua đó đủ để chúng ta chiêm nghiệm được
pháp môn tu thù thắng giải thoát trong hiện đời. Cũng vì vậy, xưa kia các Tổ
thiền tông mật tu Tịnh độ hoặc chuyển hẳn pháp môn Tịnh tu. Ngài Thiên Như
thiền sư đã khuyên dạy: “Mạt pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ còn lưu bốn
chữ A di đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đoạ địa
ngục”. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư, thấy được sự thù thắng một đời vãng
sanh Tịnh độ nên đã quay về con đường tu tịnh và có làm bài kệ Tứ liệu giản để so sánh như sau:
– Vì thệ nguyện của đức Phật Di Đà.
Trong bốn mươi tám lời nguyện của Phật A
di đà, nguyện thứ 18 là: “Lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương có
lòng tin ưa, muốn về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được vãng
sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng huỷ báng
chánh pháp”.
Nguyện 19: “Lúc tôi thành Phật, chúng
sanh mười phương phát bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi.
Nếu tôi chẳng cùng chư thánh chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở
ngôi chánh giác”.
Do vậy, tu theo pháp môn niệm Phật,
ngoài khả năng tự mình, còn có được sự gia hộ tiếp dẫn của Phật A di đà, lo gì
không được vãng sanh. Trong luận Thập trụ tỳ bà sa, Ngài Long Thọ cho rằng nếu
có người muốn nhanh đến chỗ bất thối chuyển, người đó phải hết lòng cung kính
tâm niệm danh hiệu của Phật A di đà.
Như thế đủ thấy, tu Tịnh Độ là một pháp
môn thù thắng, là pháp môn dễ tu, dễ chứng, phù hợp với mọi trình độ căn cơ, là
con đường duy nhất giải thoát trong một đời.
7. Làm
sao để biết mình được vãng sanh
Vãng sanh là mục đích duy nhất của người
tu Tịnh Độ. Do đó hiện tượng vãng sanh thật vô cùng quan trọng, nhằm xác định
hiệu quả tu tập của hành giả. Đối với người tu niệm Phật điều cần thiết là phải
tự chứng nghiệm biết nhất định mình sẽ được vãng sanh. Người tu thiền mà thấy
cảnh giới lạ như Phật hay các thánh cảnh, đó là ma chướng, không nên mừng hay
đeo đuổi theo các cảnh lạ. Nhưng với người tu tịnh độ, thì đó chính là nhờ công
năng tu tập, niệm Phật thuần thục, công đức viên mãn, tự tâm là tịnh, nên các
cảnh tịnh hiện lên, là điềm tốt báo cho hành giả chắc chắn được vãng sanh.
Ngài Tuệ Viễn, sơ tổ tông tịnh độ, mười
một năm trước khi vãng sanh ba lần thấy được thánh tướng và nhiều điềm
lành. Vào đêm 30 tháng bảy, năm Nghĩa Hy thứ hai, Ngài ngồi nhập định nơi Bát
Nhã đài. Vừa xuất định mở mắt ra, thấy đức A di đà và chư thánh chúng hiện ra
trước mắt. Đức Phật Di đà bảo với Ngài rằng: “vì bổn nguyện lực nay ta đến an
ủi ông, sau bảy ngày ông sẽ sang về nước của ta”.
Hôm sau Tổ Tuệ Viễn thuật lại mọi việc
cho chúng đệ tử nghe và Ngài khẳng định rằng: “Ta ở Lô sơn này, trong mười một
năm, ba lần thấy Phật và thánh chúng hiện thân. Nay lại thấy Phật thọ ký. Chắc
chắn ta sẽ được sanh về Tịnh Độ”. (Đường về cực lạc- HT Thích Trí Tịnh)
Trước khi thị tịch, Ngài tỉnh Am đại sư
đã hai lần thấy Cực lạc tam thánh hiện, nên Ngài khẳng định với đồ chúng rằng:
“Tôi nhất định sẽ vãng sanh”.
Như vậy, đối với người tu tịnh độ, điều
tiên quyết nhất là phải được tiếp dẫn vãng sanh. Mà muốn chứng nghiệm được khả
năng vãng sanh của mình, thì ngoài công phu tu tập, chuyên tâm niệm Phật thì
hành giả tịnh tu cần phải thấy được hảo tướng như đức Phật Di đà thọ ký, hay
các thánh cảnh hiện ra hoặc ao báu, hoa sen năm sắc… Tất cả đó là những điềm
lành, để báo hiệu rằng người đó nhất định sẽ được vãng sanh.
C. KẾT LUẬN
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù
hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện
lực của Phật A di đà và chuyên tâm trì niệm danh hiệu Ngài thì nhất định sẽ
được vãng sanh. Khi về nước Cực lạc, dù là đới nghiệp vãng sanh hay sanh vào
nơi biên địa của Tịnh độ, thì điều tiên quyết nhất là chúng ta không còn rơi
đoạ trong tam đồ khổ nữa, một sớm một chiều rồi cũng được hoa sen thuần hoá,
hoàn toàn thanh tịnh, hội nhập trong hàng thánh chúng nơi Cực lạc tây phương.
Những điều này đã được các bậc thầy Tịnh độ tiên phong tu
tập chứng đắc làm niềm tin, khích lệ cho tất cả chúng sanh đồng phát tâm tu
tập, đồng được vãng sanh. Tổ Tuệ Viễn được xem là sơ tổ của Tông Tịnh độ. Người
đã vì sự giải thoát an lành cho chúng sanh mà lập nên nhiều phương tiện. Lô sơn
là một minh chứng, đã ghi dấu cho một bậc Tổ đức đã vì chúng sanh mà từ một
viễn cảnh Tịnh độ, Ngài đã hình thành nên mọât Tịnh độ hiện thực nơi chùa Đông
lâm, tứ chúng đông không tả xiết đã qui kết trong tinh thần tịnh tu của bạch
liên xã.
Từ đó chúng ta nhận thấy nhân duyên Tịnh độ với chúng sanh
đời Mạt Pháp thật vô cùng lớn. Xin đừng vội nghe nghững lời bàn phiếm của thiên
hạ về Tịnh độ hoặc sự chỉ trích bôi nhọ của một số người nông nổi, rồi đâm ra
hoang mang nghi ngờ.
Những biện minh về thật hư của Tịnh độ nhằm xác định cho
cõi Tịnh độ phương Tây trang nghiêm thanh tịnh vào bậc nhất trong mười phuơng.
Học thuyết về “ duy tâm tịnh độ” là một Tịnh độ triết lý, mặc dù nó là tinh hoa
chuyển tải ý nghĩa thực dụng trong đạo Phật nhưng không thể khế hợp với đa dạng
căn tánh chúng sanh, làm cho người bình dân phải ngán ngẫm cho đường lối hành
trì đơn độc đi vào biển tâm mênh mang sâu thẳm không chỗ nương nhờ. Đó là một
vách ngăn lớn, làm hụt hẫng cho những người bước chân vào cửa thiền muốn tìm
một nơi nương tựa trên lộ trình giải thoát. Cho nên Tịnh độ tín ngưỡng, mặc dù
là pháp môn phương tiện, nhưng đó là phương tiện thù thắng trong tất cả mọi
phương tiện, nhằm đưa mọi chúng sanh điều có thể tiếp cận được với con đường
giải thoát hầu đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.
Thích Phước Tiến – Trích từ tác phẩm” Ý
Nghĩa Vía Phật Và Bồ Tát Trong Năm”
-Niệm Phật thập yếu HT. Thích Thiền Tâm.
-Niệm Phật tam muội HT. Thích Thiền Tâm dịch
-Pháp môn tịnh độ HT .Thích Trí Thủ
-Thập tam tổ Liên tộng HT .Thích Thiền Tâm.
Discussion about this post