
SỰ
VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT
Thích
Viên Giác
“Nếu
bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn
hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính
là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại
giữa con người.”
Đức
Phật là một con người có nhân cách đặc biệt siêu phàm,
có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Một
nhà văn hào Âu châu nhận định rằng:
“Không
có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng
mà chúng ta có thể tìm thấy một vị giáo chủ chói sáng
như thế ! Trong hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh tú khổng
lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các
nhà văn hóa đã tuyên bố về ngài “Con người vĩ đại nhất
chưa từng có.” Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy
soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm, giống như ngọn
hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại.” (Phật
Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức)
I. ĐỨC PHẬT
LÀ AI?
Đức
Phật là ai? Một câu hỏi được đặt ra hơn 25 thế kỷ;
những nhận định, phê phán đầy tính hoài nghi, rồi những
phát biểu, tán dương đầy xác định tin tưởng ở nơi con
người đối với Đức Phật, cho đến nay vẫn là nguồn cảm
hứng vô tận. Bởi lẽ như Carl Jung, một nhà tâm lý
học, phát biểu rằng: “Bao giờ cái nhìn của bạn cũng bị
giới hạn bởi những gì bạn đang có và đang là.” Vì vậy
với các góc độ nhìn khác nhau, người ta sẽ có những cảm
xúc, những cái nhìn khác nhau về Đức Phật.
Giáo
thuyết của Đức Phật xuất phát từ kinh nghiệm tu chứng
tự thân ngài, một loại kinh nghiệm khác với các kinh nghiệm
thông thường phổ biến. Cho nên hiểu một cách chính xác
về Đức Phật là điều bất khả, như trong kinh nói chỉ
có Phật với Phật mới hiểu được nhau.
Thời
Đức Phật còn tại thế, những kẻ chống đối ngài thường
lên tiếng chỉ trích, vu khống ngài với những lời lẽ tầm
thường hay những luận điệu triết học, như nói ngài còn
ham muốn danh vọng, ngài là người chủ trương phá hoại sự
sống (Kinh Magandiya), chê ngài không có khả năng đặc biệt
của các bậc thánh (Kinh Sư tử hống) cho ngài là một Sa-môn
sử dụng huyễn thuật (Kinh Ưu-ba-li) v. v… Bên cạnh
những chỉ trích thì những lời lẽ ca ngợi tán dương cũng
rất phong phú. Những người trí thức của xã hội thường
ca ngợi ngài rằng: “Như người dựng đứng lại những gì
bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối”
(Trung Bộ Kinh). Dù Ngài bị chỉ trích hay được
ca ngợi ngài vẫn an nhiên tự tại, không dao động, không
bất mãn, không hoan hỷ. Một người ngoại đạo ca ngợi
Phật rằng:
“Thật
kỳ diệu thay! Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay ! Tôn giả
Gotama ! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mỉa
mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong
cuộc đối thoại, màu da tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt
tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán Chánh đẳng giác.” (Đại kinh Saccaka)
Ngài
thường được mọi người gọi là bậc Đạo sư hay vị Lương
y, vì ngài chỉ cho mọi người con đường giải thoát và ngài
chữa trị bịnh khổ cho nhân loại.
Một
số bài kinh trong kinh tạng nguyên thủy có ghi lại một cách
thú vị những lời tuyên bố của Đức Phật về chính Ngài. Dưới đây là vài dẫn chứng:
Một
hôm, trên đường đến Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe
chánh pháp, ngài gặp một vị Đạo sĩ tên là Upaka. Đạo
sĩ hỏi: “Nầy hỡi Đạo hữu ! Ngũ quan của Đạo hữu thật
vô cùng trong sáng. Nước da của Đạo hữu thật trong
trẻo và tươi tắn. Hỡi nầy Đạo hữu, vì sao Đạo
hữu từ bỏ đời sống gia đình? Thầy của Đạo hữu là
ai? Đạo hữu truyền bá giáo lý của ai? Đức Phật trả lời:
“Như
Lai đã vượt qua tất cả,
Như
Lai đã thông suốt tất cả.
Như
Lai đã vượt bỏ mọi trói buộc
Như
Lai đã thoát ly tất cả
Như
Lai đã chú hết tâm lực tận diệt tham dục.
Đã
thấu triệt tất cả, Như Lai còn gọi ai là thầy
Không
ai là thầy của Như Lai
Không
ai đứng ngang hàng với Như Lai.
Trên
thế gian nầy, kể cả chư thiên và Phạm thiên
Không
ai có thể sánh với Như Lai.
Quả
thật, Như Lai là một vị A-la-hán trên thế gian nầy.
Như
Lai là Tôn sư vô thượng;
Chỉ
một mình Như Lai là bậc tòan giác, vắng lặng và thanh tịnh.
Như
Lai đang đến thành Kàsi để vận chuyển bánh xe Pháp bảo
giữa thế giới mù quáng.
Như
Lai sẽ gióng lên hồi trống vô sanh bất diệt.”
Upaka
hỏi vặn: “Nầy đạo hữu, vậy phải chăng đạo hữu đã
tự nhận là A-la-hán, là bậc siêu hùng quyền lực vô biên?”
Đức Phật xác định:
“Tất
cả những bậc siêu hùng đã chinh phục mọi ô nhiễm của
mình đều giống Như Lai. Như Lai đã chinh phục, tận diệt
tất cả những gì xấu xa tội lỗi. Vậy, nầy Đạo
sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng” (Kinh Thánh cầu TBK).
Đức
Phật xác định rất rõ ngài là người đã chinh phục mọi
ô nhiễm, do vậy, ngài là người cao thượng nhất trên đời. Đây là lời tuyên bố đầu tiên về giá trị cao thượng
tuyệt đối của Phật đối với mọi loài chúng sanh, mà về?sau
lời tuyên bố nầy đã được khái quát hóa thành câu nói
đặt trong bối cảnh biểu tượng Đản sanh: “Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới trời chỉ
có Như Lai là tối thượng). Cuộc đời hoằng hóa của
ngài đã chứng tỏ những gì mà ngài đã tuyên bố như trên
là sự thật. Một lần có giáo phái ngoại đạo
muốn đến tham vấn về đạo lý với Đức Phật bởi họ
nghe nói Phật là người đã vượt qua mọi ô nhiễm, đạt
được sự thanh tịnh hoàn toàn. Họ đã bàn nhau và cử
người giám sát Đức Phật liên tục trong bảy ngày để xem
Phật có thật sự thanh tịnh như người ta đồn không. Cuối cùng người được cử đi giám sát trở về báo lại
rằng: Quả thực Sa-môn Gotama là người hoàn thiện trong lúc
ngủ cũng như lúc thức, cho đến những cử động nhỏ bé
nhất như khi Ngài bước qua một vũng nước hay Ngài vén chéo
áo lên . . . đều đầy thánh thiện. (Trung
Bộ Kinh)
Lần
khác khi bị chỉ trích về khả năng và mục đích của Phật,
sau khi phân tích những sai lầm của họ, Đức Phật dạy rằng:
“Nầy
Sariputta, những ai muốn nói về ta một cách đúng đắn thì
phải nói như thế nầy: (Đức Phật là) Một hữu tình không
bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”
(Kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ Kinh).
Lời
tuyên bố nầy nói lên phẩm chất của một vị Phật là Trí
tuệ viên mãn (không bị si chi phối) và lòng thương yêu cứu
giúp muôn loài vô tận.
II. SỰ CHỨNG
NGỘ CỦA PHẬT
Tất
cả những năng lực của Đức Phật đều xuất sinh từ Tuệ
giác của Ngài, nghĩa là từ nội dung chứng ngộ Vô thượng
Chánh đẳng giác dưới cội Bồ đề. Có lần một Du
sĩ ngoại đạo tên là Vacchagotta hỏi Phật rằng: Bạch Đức
Thế Tôn, con nghe người ta nói rằng Sa-môn Gotama là bậc nhất
thiết trí, là bậc nhất thiết kiến, ngài tự cho là mình
có tri kiến hoàn toàn, khi đi, khi đứng, khi ngủ, khi thức
tri kiến luôn luôn tồn tại và liên tục.
Bạch
Thế Tôn, những điều mà người ta nói như vậy có đúng
với sự thực không, họ có vu khống Đức Thế Tôn không?
Đức Phật đáp rằng, họ nói như vậy là không đúng với
điều ngài đã nói, là vu khống ta. Như vậy Đức Phật
phủ nhận ngài có một loại Trí tuệ lúc nào cũng hiện
diện và thấy biết cùng khắp, trong lúc thức cũng như trong
lúc ngủ. Vacchagotta hỏi: vậy phải nói như thế nào
mới đúng? Đức Phật dạy rằng nếu muốn nói đúng thì
phải nói Sa-môn Gotama là bậc có Ba minh.
Khi
nào ta muốn, ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ,
như một đời, hai đời…cho đến nhiều đời sống qúa khứ
cùng với các nét đại cương và chi tiết. Nầy Vacchagotta,
nếu ta muốn thì với Thiên nhãn thuần tịnh, ta thấy được
sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh…đều
do hành nghiệp của họ. Này Vacchagotta, với sự đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thượng trí
giác ngộ, ta an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nói như vậy là nói đúng về ta. (Kinh Ba Minh)
Như
vậy Tam Minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh
là nội dung chứng ngộ của Phật. Đặc biệt chỉ có
Phật mới có một cách đầy đủ Ba minh, mặc dù trên lộ
trình tu tập Ba minh luôn được coi là những thành quả sau
cùng của một hành giả đắc đạo. Đây có thể là
một trong những điều khác biệt giữa Đức Phật và đệ
tử. Tiến trình giác ngộ bắt đầu từ :
“Ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Diệt
tầm và tứ chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất
tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.”
Đức
Phật và các Thánh đệ tử đều đi qua Tứ thiền, trên cơ
sở thiền thứ tư, tâm định tĩnh và nhu nhuyến, dễ xử
dụng, hành giả có thể hướng tâm đến các đối tượng
Sáu Thần thông hay Ba minh, chứng ngộ tối hậu. Đây
là lộ trình thứ nhất. Lộ trình nầy được khuyến
khích và trở nên rất phổ biến. Phần lớn các thầy
đều theo hướng nầy. Lộ trình thứ hai là từ thiền
thứ tư, đi qua Không vô biên xứ, là vượt qua sắc tưởng,
chướng ngại tưởng. Hướng tâm đến hư không là vô
biên chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt qua tiếp
tục chứng và trú thức vô biên xứ. Vượt qua thức
vô biên chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt qua vô sở
hữu xứ chứng và trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ. Vượt
qua Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt Thọ Tưởng
Định. Từ định nầy chứng đắc Ba minh. Lộ trình nầy
Đức Phật cũng đã đi qua. (Kinh Phân Biệt Sáu Xứ, Kinh Ví
Dụ Con Chim Cáy)
Trong
kinh tạng Nguyên thủy không thấy ghi chép vị thánh đệ?tử
nào tự tuyên bố là mình đã chứng được Ba minh. Thường
thì các ngài được giới thiệu đã chứng A-la-hán, chứng
Diệt Thọ Tưởng định, và đoạn trừ các lậu hoặc (tương
đương với Lậu tận minh). Trong kinh Sáu Thanh Tịnh (Trung Bộ
Kinh) Đức Phật dạy về tiến trình tu tập của một vị
Tỳ kheo khi chứng được thiền thứ tư xong thì:
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến dễ xử dụng, vững chắc bình thản như vậy,
tôi dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Tôi biết như
thật: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là
khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt. Biết
như thật: Đây là những lậu hoặc, đây là Nguyên nhân
của lậu hoặc, đây là lậu hoặc được diệt trừ, đây
là con đường đưa đến các lậu hoặc được diệt trừ.”
Như
vậy điều cần thiết cho các đệ tử là phải thoát khỏi
“dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu” để đạt được
“sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm;
không còn trở lui trạng thái nầy nữa.” Từ đó chúng ta
có thể thấy rõ rằng khả năng Thần thông của các đệ
tử đều có giới hạn, và vấn đề tu chứng không gắn liền
với khả năng thần thông, vì vậy chúng ta không ngạc nhiên
khi thấy ngài Mục-kiền-liên được cho là đệ tử Thần
thông số một trong các Thánh đệ tử. Đức Phật không khuyến
khích các đệ tử đi vào các thần thông như Thần túc, Thiên
nhãn, Tha tâm, Túc mạng, và Thiên nhãn; ngài chú trọng và
khích lệ các đệ tử hướng tâm vào Lậu tận Minh để thành
tựu mục đích tối hậu, giải thoát sinh tử. Các khả năng
thần thông không giúp ích gì cho một người chưa đoạn trừ
các ô nhiễm của tâm thức.
Quá
trình chứng đạo của Phật là một chuỗi đột phá, vượt
qua mọi thử thách bằng thực nghiệm. Tất cả các pháp có
tính dao động đều vượt qua, thành tựu an trú các bất động
pháp. Đặc biệt trong các trạng thái của Tứ thiền đều
phát sinh một cảm giác hạnh phúc (lạc thọ), ngay cả trong
Ba minh cũng có cảm giác hạnh phúc, nhưng những cảm giác
ấy tồn tại mà không chi phối tâm ngài (Kinh Saccaka).
Đối
với các Thần thông ngài đã tuần tự chứng đắc Thần túc
thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông trước khi ngài thành Phật.
Trong đêm thành đạo ngài mới chứng tiếp 3 Thần thông sau
cùng theo thứ tự Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu
tận thông. Phật dạy:
“Khi
ta chưa chứng Chánh Đẳng Giác ta đã nỗ lực tu tập 5 pháp:
Ta đã tu tập Thần túc với Dục định tinh cần hành, Tinh
tấn định tinh cần hành, Tâm định tinh cần hành, Tư duy
định tinh cần hành và Tăng thượng tinh tấn, tùy theo ta hướng
tâm đến pháp nào, ta có thể chứng đạt pháp ấy” (Tăng
Chi II).
Không
có pháp nào làm chướng ngại đức Phật, không có pháp nào
mà Đức Phật không thấy rõ, biết rõ, vì vậy đệ tử thường
gọi ngài là Đấng Pháp Vương.
III. KẾT LUẬN
Nhân
ngày kỷ niệm Đức Phật Thành Đạo Phật lịch 2545, đôi
lời nói về sự vĩ đại, sự
thanh
tịnh, sự chứng ngộ của Đức Phật chỉ để bày tỏ lòng
kính ngưỡng của người con Phật và để tri ân Người đã
khai sinh ra con đường giải thoát cho nhân loại. Với
những ngôn từ hữu hạn giữa cuộc đời đầy ô nhiễm,
con người không thể ca ngợi hết được sự vĩ đại của
Đức Phật. Ngài A-nan-da cũng đã từng nói về sự vĩ
đại của Phật rằng:
“Này
Bà-la-môn, Đấng Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con
đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho
biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói
lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc
hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo.”
Để
kết thúc, xin mượn lời của một thi nhân Hồi giáo, Abdul
Atahiya ca ngợi Đức Phật:
“Nếu
bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn
hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính
là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại
giữa con người.” (Đức Phật dưới mắt các nhà tri thức)l
Discussion about this post