SỰ TRÓI BUỘC CỦA LƯỠI
Lê Khắc Thanh Hòai
Lưỡi là một cơ quan của thân thể con người, nằm trong miệng, nhờ có lưỡi mà các vị ngọt, vị mặn, vị đắng, vị chua hay vị cay mới được nhận ra, và nơi mỗi con người khoẻ mạnh, không tật nguyền, không bệnh hoạn thì sự nhận ra các vị ngọt, mặn, đắng, chua hay cay này đều y hệt như nhau. Ai cũng nhận ra vị này là ngọt, vị kia là mặn… Nhưng cái lòng yêu thích và thèm khát hay ghét bỏ vị này vị kia thì nơi mỗi người đều khác nhau, không ai giống ai.
Không chỉ là một cơ quan giúp phân biệt vị mặn, ngọt, chua, cay của một thức ăn hay bất cứ vật gì được bỏ vào miệng, lưỡi còn là một cơ quan giúp con người biểu lộ cảm xúc và tư tưởng bằng lời nói, ngôn ngữ. Không có lưỡi thì lời nói không thể thốt ra rành mạch, chính xác mà nhờ đó con người có thể hiểu nhau, giao tiếp với nhau. Tuy rằng cũng có ít người đặc biệt nói được bằng… bụng, không thấy họ động đậy cái miệng, môi mép và chắc chắn là lưỡi cũng không dùng đến nhưng họ có thể phát ra âm thanh và lời nói qua hơi thở điều khiển từ bụng lên đến thanh quản. Đây cũng chỉ là những trường hợp rất hiếm hoi và chắc rằng những người này cũng phải dày công luyện tập mới được chứ không phải tự nhiên. Tự nhiên như khi có cái lưỡi thì chẳng cần dày công tập luyện gì cả. Sinh ra là lưỡi đã hoạt động đúng với chức năng của nó: bú mớm, nhào trộn thức ăn, hợp tác với răng, với các tuyến nước miếng để xay nhuyễn vật cứng thành mềm, biến chất đặc thành chất lõng mới có thể nuốt trôi chảy vào trong cơ thể, nuôi dưỡng sự sống và như thế con người mới có thể tồn tại.
Có người sinh ra đã câm, hay xuất phát từ một bạo bệnh nào đó mà không nói được tuy lưỡi vẫn còn đó trong miệng. Như vậy câm là vấn đề của thanh quản và cũng là của tai, có thể vì điếc mà không nói được vì không nghe chứ chẳng phải lỗi tại lưỡi. Lưỡi vẫn ở trong miệng và nhận ra các vị ngon dở của thức ăn. Nếu tai hay thanh quản bình thường không tật bệnh thì sẽ không có câm và lưỡi sẽ hỗ trợ cho hai cơ quan này để sự phát âm đạt đến mức hoàn hảo, chính xác nhất.
Lưỡi quan trọng ở cả hai mặt. Nuôi sống con người vật chất, con người cấu thành bởi bốn thứ đất, nước, lửa, gió và con người của phần tâm linh, tư duy và cảm xúc được truyền đạt, biểu hiện qua ngôn ngữ.
Chúng ta vẫn thường nghe câu “lời ăn tiếng nói”, nghe quá quen, quá thường dùng nhưng thật là khó hiểu! Vì sao là “lời ăn” mà không là “miếng ăn”? Bởi vì cái câu “lời ăn tiếng nói” chỉ dùng để chỉ cho lời nói hay tiếng nói chứ không dính dáng tới cái gì gọi là “miếng ăn” cả, nhưng phải chăng vì lời nói được thốt ra từ cửa miệng, và cũng từ nơi đây, nhờ cái lưỡi để đem thức ăn vào nuôi thân thể nên “lời” và “ăn” phải đi cùng nhau? Cùng một chỗ mà vừa có thể ăn, vừa có thể nói. Ăn và nói đi sát nhau, đi theo nhau trong đời sống con người như bóng với hình, như vật chất với tinh thần. Phải chăng do vậy mà không thể tách “lời ăn tiếng nói”?
Có ai mà làm được, chỉ ăn mà không nói hay chỉ nói mà không ăn?!
Chúng ta cũng thường hay nghe “nuốt lời” khi muốn ám chỉ người nào đã hứa hẹn điều gì đó mà không làm đúng hay giữ trọn. Lời nói thốt ra ở miệng cũng chẳng khác gì một thức ăn, có thể nuốt vào và cũng có thể… phun ra!
Lại một câu khác mà chúng ta cũng thường dùng như khi muốn khen ai nói hay nói giỏi là cụm từ “tài ăn nói”. Cho dù cũng chỉ là ám chỉ sự việc nói năng, ngôn ngữ được chuyển tải qua miệng chứ không dính dáng gì tới cái ăn, sự uống nhưng chúng ta chẳng dùng đơn giản là “tài nói năng” mà lại dùng “ tài ăn nói”. Điều này cho thấy ăn và nói quả là luôn theo sát cạnh nhau. Không ăn thì không thể sống, không sống thì cũng chẳng nói năng gì được! Như vậy thì phải có ăn rồi mới nói được! Cũng như có câu “Có thực mới vực được đạo” vậy.
Chủ đề của bài này là bàn đến sự trói buộc của lưỡi, nói cách khác là sự ràng buộc, lệ thuộc hay nô lệ của con người vào cái lưỡi và cũng có nghĩa là những gì liên quan đến ăn và nói. Ăn là thức ăn, sự ăn uống. Giản dị, hoàn toàn vật chất. Nói là lời, tiếng, bao gồm cả chữ viết và như thế là trải rộng ra nơi lĩnh vực tư duy, và cả tâm linh, mở ra khoảng trời bao la của văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị…
Vì sao lưỡi lại trói buộc ta? Dễ hiểu. Không ăn thì chết. Nhưng ăn quá độ cũng có thể chết. Ở đây lưỡi làm chủ ta, trói buộc ta, vì ta đã để cho cái vị ngon ngọt mặn đắng chua cay buộc cái tâm tham ăn của ta vào đó. Khi mới lọt lòng thì chỉ biết có một vị ngọt ngào của dòng sữa mẹ. Từ từ lớn lên, biết nhai biết nuốt thì bắt đầu làm quen với những vị của các thức ăn khác, từ môi trường sinh sống, từ hoàn cảnh, và tùy thuộc vào người nuôi nấng bảo dưỡng mình mà hấp thụ và huân tập thói quen, sở thích ăn uống. Nếu người mẹ hay người vú là một nội trợ đảm đang, nấu ăn giỏi thì thường cho con ăn ngon và như thế đứa trẻ sẽ huân tập thói quen ăn uống phải ngon. Lớn lên sẽ tiếp tục thói quen như thế, qua ký ức sẽ tìm lại những món ngon đã được ăn, sẽ có sự đòi hỏi nơi chính bản thân và người chung quanh phải đáp ứng. Sự trói buộc của lưỡi là đây. Lưỡi làm chủ và con người là nô lệ. Không tìm lại được những hương vị của ký ức sẽ gây buồn chán, bất mãn, phẫn nộ. Do lưỡi mà con người vướng vào tham-sân-si lúc nào không hay để hành động sai và tạo nghiệp. Chính qua sự ăn uống này mà nghiệp báo đã len lõi vào để ảnh hưởng tới sức khoẻ và sinh mạng của con người. Cùng sinh ra trong một gia đình, cùng được nuôi nấng bảo dưỡng như nhau nhưng kẻ thích ăn mặn, người thích ăn ngọt, kẻ ăn thịt, người ăn rau, kẻ khoẻ mạnh, người ốm đau… Tất cả đều do từ nghiệp sai biệt của mỗi cá nhân. Một trong những nguyên nhân gây bệnh tật là việc ăn uống. Nên người xưa cũng đã từng dạy “Bệnh tùng khẩu nhập” là thế.
Sống ở thế kỷ XXI này, ai cũng biết rằng việc ăn uống, thức ăn, cách ăn, cách nấu đều có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể của con người, làm cho khoẻ mạnh hay gây bệnh tật ốm đau, do đó chuyện chú trọng đến việc ăn uống, tìm đến phẩm chất của thức ăn, đồ uống là điều ưu tiên, không phải là số lượng, không phải là ăn cốt no bụng, ăn cho cố, ăn mệt nghỉ… Tuy nhiên vẫn còn những người đã không làm chủ được mình khi đứng trước một món ăn quá hợp khẩu vị, vẫn vấp phải cái việc ăn cho no, cho cố, cho hả hê, cho đã… Hậu quả tất yếu là bệnh hoạn, có khi đưa đến cả tử vong.
Đạo Phật mà giáo lý căn bản đặt trên nền tảng của Trung đạo, con đường không quá khổ hạnh mà cũng không rơi vào sự thụ hưởng quá mức, thường nhắc nhở “hộ trì các căn”, tức là canh chừng các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và cả ý mà các đối tượng là hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, sự xúc chạm và ý nghĩ để các đối tượng này không gây đau khổ cho thân và tâm.
Đó đây nơi các kinh Phật dạy, chúng ta tìm thấy các câu kệ có liên quan đến sự hộ trì các căn như sau:
Ai sống theo dục lạc
Không nhiếp hộ các căn
Ăn uống thiếu tiết độ
Biếng nhác, chẳng tinh cần
Dễ bị ma nhiếp phục
Như gió lay cây yếu (1).
….
Tài sản không cất chứa
Ăn uống biết suy tư
Tự tại trong cảnh giới
Không, Vô tướng, Giải thoát (2).
….
Chớ phỉ báng não hại
Hãy hộ trì giới bản
Ăn uống có tiết độ
Sống tại nhà tịnh xứ (3).
Chúng ta nhận thấy rằng từ thời xa xưa mà Đức Phật đã có cái nhìn thật sáng suốt: “Ăn uống biết suy tư”, quả là Ngài đã thấy rõ, thấy xa, thấy trước chúng ta quá nhiều ở cái thời đại gọi là văn minh tiến bộ này.
Khoảng gần hai mươi năm trở lại đây chúng ta mới thực sự biết chú trọng đến việc ăn uống, đến phẩm chất hơn là số lượng. Chú trọng đến việc ăn uống tức là muốn làm chủ cái lưỡi của chúng ta. Những phong trào như ăn kiêng, ăn chay thay nhau đua nở. Các nhà cố vấn về dinh dưỡng trở nên giàu có, hốt bạc qua việc giúp cho con người có thân thể khoẻ mạnh, cường tráng, không béo phì, không quá ốm, được thân hình cân đối, và qua việc tư vấn các thức ăn tốt có thể phòng ngừa bịnh tật và đôi khi có thể cả chữa trị. Các nhà hàng, tiệm ăn với các thực đơn được nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm bồi dưỡng cho cơ thể tránh bệnh hoạn, tránh lên cân, một trong yếu tố gây bệnh, cũng mọc lên như nấm hầu đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khoẻ qua sự ăn uống. Ngành nông nghiệp sạch và xanh cũng phát triển mạnh. Con người lo sợ sự sống bị đe dọa nặng nề từ các hóa chất được sử dụng để trồng trọt, cấy cày, bảo quản. Con người đã bắt đầu hướng về việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường, tuy nhiên sự nỗ lực đóng góp của mọi quốc gia trên toàn cầu vẫn chưa đem lại những kết quả đích thực và đáng kể. Con người vẫn còn lo âu sợ hãi mỗi khi đem một thức ăn vào miệng. Ở đâu cũng có thể có chất độc bám vào… Không chỉ là thức ăn đồ uống, áo quần, giày dép, đồ dùng, mỹ phẩm và cả thuốc men đều có thể chứa các chất độc ngấm ngầm đi vào cơ thể và âm thầm giết chết con người! Đó là chưa kể, hít thở không khí cũng chứa đầy độc khí để từ từ gây bệnh tật, đưa đến tử vong.
Con người ngày nay, do ý thức sự nguy hiểm của việc ăn uống cẩu thả nên đổ xô tìm về những phương pháp dinh dưỡng có nghiên cứu, có hệ thống, có kiểm chứng, được khoa học xác nhận hay chỉ tiêu dùng những nguồn thực phẩm xuất xứ từ môi trường sạch và xanh. Mục đích đầu tiên và có thể là duy nhất của những người này là bảo vệ sức khoẻ, hy vọng kéo dài mạng sống.
Căn cứ nơi lời Phật dạy: ăn uống biết suy tư, thì lại mang một ý nghĩa khác với lối suy tư của hạng người vừa nói trên, nghĩa là chỉ lo bảo vệ sức khoẻ và mạng sống. Tuy rằng với lối ăn uống biết suy tư như Phật dạy cũng có thể đem lại thọ mạng lâu dài song đó không phải là mục đích của đạo Phật.
Chúng ta biết rằng Phật giáo Đại thừa hay Phát triển thường đề cao sự chay tịnh. Ăn chay ở đây hoàn toàn không có thực phẩm từ nguồn động vật, thịt cũng như cá, trứng, sữa và cả mật ong. Tuy nhiên cũng tùy theo mỗi tông phái, tùy theo vị viện chủ, vị trụ trì, tùy theo sức khoẻ, công việc của nhà chùa, của Tăng Ni mà trên thực tế chúng ta thấy có giảm bớt sự khắt khe trong việc dùng sữa, trứng và mật ong, nhưng tuyệt đối là không có thịt hay cá.
Ăn chay cũng còn được gọi là ăn lạt vì giảm thiểu cách thức nấu nướng cầu kỳ với nhiều gia vị bổ sung cho thêm mùi vị hấp dẫn, ngon lành. Ngũ vị tân, 5 món hành, hẹ, tỏi, kiệu, củ nén (hưng cừ) đều không dùng đến khi nấu các món chay. Cũng có vị tự nguyện ăn lạt hoàn toàn, không muối, không đường, nhưng đây chỉ là những trường hợp riêng biệt, không áp dụng cho cả đại chúng.
Nếu theo Phật giáo Nam truyền hay Nguyên thủy thì chư Tăng Ni không chay tịnh, vì các vị này xuất thân là khất sĩ, theo truyền thống từ đời Đức Phật còn tại thế là đi khất thực, xin ăn với bình bát trong tay, dạo quanh các thành phố và khi đã đầy bình thì trở về nơi tịnh xá để thọ bát trước giờ ngọ và lẽ tất nhiên là các vị này sẽ thọ thực những gì được bỏ trong bát, không có sự lựa chọn là thịt hay không thịt, là mặn hay chay, là ngon hay dở…
Nhưng với lời dạy “Ăn uống có suy tư” thì Đức Phật cũng nhắc rằng có ba thứ thịt mà một người xuất gia có thể ăn: không thấy con vật bị giết, không nghe con vật đó kêu la khi bị giết, và không nghi là con vật đó bị giết riêng cho mình. Gọi đó là Tam tịnh nhục. Nhưng có chỗ lại nhắc đến Ngũ tịnh nhục, thêm vào hai điều: thịt con thú tự chết và thịt con thú ăn rồi còn dư lại (4).
Lợi ích của sự không ăn thịt thật ra là nằm ở chỗ tránh được nghiệp báo giết hại. Cho dù là súc vật, chúng vẫn oán thù người giết hại chúng và sẽ tìm cách qua các đời sau, giết hại lại, lấy sinh mạng chuộc sinh mạng. Không ăn thịt, hay trực tiếp không giết súc vật chính là để tránh khỏi nghiệp báo oán thù vay trả này. Vì sợ nghiệp báo mà không ăn thịt, từ từ sẽ phát được lòng từ bi. Lòng từ bi cũng phải tu tập, không phải ai cũng dễ có lòng từ. Bản tánh thiện và ác đều nằm sẵn trong con người nhưng vẫn cần có sự giáo dục, định hướng tốt thì cái tốt mới phát triển. Ý thức về nghiệp báo vay trả chỉ là bước đầu của sự tu tập mà thôi. Không ăn thịt, không sát sanh là gieo nhân và nuôi dưỡng mầm mống của lòng từ. Súc vật cũng như con nguời, đều tham sống sợ chết.
Khởi đầu, chúng ta thấy rằng, phần đông những người phát nguyện ăn chay chưa hẳn là do lòng từ bi thương xót súc vật mà do lòng sợ hãi về nghiệp báo, vì thế cần nên nhớ rằng ăn chay chỉ là một bước nhỏ trong việc tu hành; và đối với những người tại gia ăn chay, chúng ta cũng chẳng nên có thái độ quá khắt khe, phê bình chỉ trích việc ăn chay của họ. Họ chưa dứt bỏ được những thói quen huân tập từ thuở nhỏ, hương vị của các thức ăn đã từng được ăn, được nếm, được yêu thích vẫn còn đọng lại trong ký ức, phải từ từ tu tập mới buông bỏ được. Không lạ gì khi những nhà hàng, tiệm ăn chế biến những món chay giả mặn “tuyệt hảo” với những tên gọi không khác món mặn, thật hấp dẫn để mời gọi “ký ức một thời” trở về thụ hưởng vị ngọt ngào xa xăm, đầy kỷ niệm đó.
Bước vào một nhà hàng chay thời buổi này, chúng ta không còn ngạc nhiên khi đọc thực đơn: ếch chiên bơ, cá hồi chay, chả tôm chiên, đùi gà kho tộ, sường non nướng chua ngọt, bò bía, cà chua nhồi thịt… cho dù không có một chút thịt, chút tôm cá gì trong các món đó cả! Và chúng ta đã vội chê cười những Phật tử ăn chay mà còn thèm ăn những món này. Đây cũng chỉ là do cái tâm chấp trước, hẹp hòi, thiển cận của chúng ta mà thôi. Những Phật tử phát nguyện ăn chay đó chưa dứt được hương vị ngon ngọt đã được huân tập, có thể là nhiều đời nhiều kiếp nữa, nhưng họ đã phát nguyện không ăn thịt để dứt trừ thọ lãnh nghiệp báo oán thù vay trả với súc vật cũng như gieo mầm mống cho hạt từ bi. Điều này thật đáng khích lệ. Cho dù một miếng “ếch chiên bơ” được bỏ vào miệng, nhưng nhờ nó giả mặn, không có một con ếch nào bị giết cả. Vì vậy họ có thể nuốt vào mà không sợ oán thù vay trả ám ảnh!
Ăn một miếng thịt giả mặn mà cái tâm của người ăn không liên tưởng gì đến con thú nào được giết chết cho cái “sướng” của cái lưỡi mình đang thụ hưởng, chỉ là mùi vị của ký ức, của quá khứ được sống lại. Người này không có một tội tình gì cả tuy vẫn bị lưỡi trói buộc.
Nhưng nếu Phật tử đó muốn tiến xa trên con đường tu hành thì còn nhiều giai đoạn phải trải qua nữa, không phải chỉ dừng lại nơi một việc ăn chay là đủ, là xong.
Nơi các nước ở Âu, Mỹ, Úc… với phong trào ăn chay, không ăn thịt đỏ, không liên quan gì đến tôn giáo, chỉ với mục đích sức khoẻ hay bảo vệ động vật và môi trường đang được thịnh hành thì biết bao thức ăn được sáng chế cho dù không có nguyên liệu từ thịt nhưng vẫn được mang tên như những món ăn làm từ thịt, chỉ có là được thêm chữ “chay” mà thôi, ví dụ: xúc xích chay, pâté chay, burger chay… Những người ăn chay đều mua và không ai chê cười, chỉ trích cả.
Các Phật tử ăn chay đều có thể ăn các món giả mặn nhưng rồi từ từ, nếu muốn tu hành xa hơn thì sẽ buông bỏ sự quyến rũ của vị giác, của lưỡi cũng như của mũi là mùi thơm, của mắt là hình thù, sự trình bày đẹp mắt của món ăn để bước vào giai đoạn thuần chay, tinh khiết, đơn sơ, mộc mạc… Tất nhiên các vị xuất gia thì không tự mình tìm ăn những món giả mặn, song nếu có người cúng dường thì các vị này vẫn có thể thọ nhận mà không mang lỗi lầm gì hết.
Khoa học ngày nay còn tiến xa một bực nữa, các nhà nghiên cứu về sinh học đã có thể sáng chế ra thịt động vật rút từ tế bào của con vật đó, có thể cung cấp thịt nguyên chất là thịt nhưng không cần phải giết con vật. Nhưng sáng chế này chưa được phép đưa ra thị trường hay thương mại hóa. Đây sẽ là một đề tài gây tranh cãi trong tương lai! Hãy chờ đợi.
Ca dao chúng ta có câu: “Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối”.
Và chúng ta cũng thường dựa vào đó để chỉ trích người ăn chay một khi họ có lỗi lầm gì. Thật ra ăn mặn mà không phạm lỗi gì đó thì thực tình là tốt, nhưng không vì đó mà kết luận rằng chẳng thà tôi cứ ăn mặn mà không phạm lỗi lầm còn hơn người đã ăn chay mà phạm lỗi. Đây cũng là một cái nhìn hẹp hòi và thiển cận. Người ăn chay thì có được quả báo tốt của sự ăn chay. Không nên quên điều này. Còn lỗi lầm mà họ vi phạm không lệ thuộc, hay “mắc mớ” gì đến chuyện họ ăn chay cả! Có chăng là phần tu tập của họ chưa được hoàn thiện mà thôi và lỗi lầm đó sẽ được điều chỉnh lại theo phương pháp phù hợp. Thí dụ đã lỡ nói dối thì phải quán xét hậu quả xấu của sự nói dối và biết nhận ra lợi ích, đạo đức của lòng ngay thẳng, không gian dối. Nếu lỡ trộm cắp thì phải quán xét hậu quả của sự trộm cắp cũng như suy nghiệm về sự bảo vệ tài sản của người khác mà sẽ không có sự xâm phạm. Đâu phải do ăn chay mà hết nói dối, hết trộm cắp! Do đó mà trong đạo Phật, trau dồi trí tuệ, có chánh kiến, chánh tư duy mới là điều quan trọng hơn cả.
Chúng ta vừa phân tích xong phần lưỡi trói buộc con người nơi vị giác, nơi phần ăn uống. Xin chuyển qua phần lưỡi trói buộc ta như thế nào qua lời nói.
Như người xưa từng nhắc nhở: Họa tùng khẩu xuất. Tai họa rước đến do cái miệng phát ngôn bừa bãi, chỉ trích, phê bình nặng nề, thô lỗ, mắng nhiếc, nguyền rủa, thề độc, nhục mạ, nói cống cao, ngạo mạn, vu oan giá họa, phỉ báng, khinh khi…v.v… Nhiều không thể kể cho hết các hậu quả do miệng lưỡi con người tạo ra. Nhà Phật gọi đó là khẩu nghiệp. Nhưng từ nơi miệng cũng có thể “Phước tùng khẩu xuất” nếu chúng ta làm ngược lại, không phát ngôn bừa bãi, chỉ trích sai, phê bình ác v.v… mà nói lời hòa ái, hiền hậu, khiêm nhường, kính trọng, an ủi, khuyến khích…
Nhưng phàm phu như chúng ta mà phải “uốn ba tấc lưỡi” trước khi nói năng cũng là điều khó làm!
Ca dao lại có câu:
Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo (5).
Cho thấy tâm con người thiếu ngay thẳng, nói cách nào cũng được, vài phút trước thì nói trắng, vài phút sau nói đen, miễn là có lợi, là tốt cho mình. Hạ thấp người, hại người qua lời nói thì quá nhanh, quá dễ. Ý vừa nghĩ xong là miệng lưỡi “phun” lời độc địa, lời mạt sát ngay. Tất cả đều do cái lòng sân hận gây ra. Sân không phải không có lý do, nhưng sâu xa chỉ là do lòng tham không được thoả mãn. Và tham cũng chỉ bởi thiếu sự hiểu biết đứng đắn mà ra.
Lời nói không phải do lưỡi điều động mà do cái tâm thúc đẩy. Tâm tham, tâm sân và tâm si. Nhưng lưỡi là một trong các “công cụ” để qua đó lời nói được biểu đạt. Nếu không có lưỡi thì con người cũng có thể biểu đạt tư tưởng, ý muốn bằng tay chân, cử chỉ, qua hình ảnh hay chữ viết. Do đó, nếu có tội và bị trừng phạt bằng cách cắt lưỡi thì con người cũng chưa tuyệt vọng.
Nhưng con người bình thường, còn lưỡi là còn nói. Cái bịnh nói nhiều, ưa nói, là cái bịnh mà con người hay vấp phải và bịnh này cũng gây khó chịu bực bội cho người chung quanh không ít. Như trên đã nhắc đến, con người còn ăn là còn nói! Khó lòng thoát ăn và nói.
Ăn uống thì con người đã biết đến ăn chay, ăn kiêng, ăn điều độ, biết tiết chế, suy tư như lời Phật dạy nhưng nói năng thì con người đã biết đối phó như thế nào với cái họa mà miệng lưỡi lời nói đem đến?
Dân gian đã từng có câu khuyên nhủ:
– Một câu nhịn chín câu lành (6).
– Biết thì thưa thốt
Không biết thì dựa cột mà nghe (7).
– Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau (8).
Song làm chủ cái miệng, cái lưỡi vẫn là điều khó làm nên phàm phu thì vẫn ưa thị phi:
Thế gian chẳng ít thì nhiều
Không dưng ai dễ đặt điều cho ai (9).
Đúng là đặt điều thị phi nhưng vẫn còn chối cãi!
Một lời nói có khi đưa đến những hậu quả khó lường:
Một lời nói, quan tiền thúng thóc
Một lời nói, dùi đục cẳng tay (10).
Cảnh cáo các ông thầy bói nói láo ăn tiền:
Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng không còn (11).
Các lỗi lầm do lời nói, miệng lưỡi gây ra có thể tóm gọn vào bốn điều chính: nói dối, nói đâm thọc, nói độc ác, nói chia rẽ.
Phật dạy:
Chớ nói lời thô ác
Nói ác, bị nói lại
Khổ thay lời hận thù
Hình phạt tất đến thân (12).
Ở thời đại chúng ta, qua các phương tiện truyền thông tinh xảo mà lời nói phóng ra, truyền đi rất nhanh, rất rộng. Sự thật cũng có, nhưng dối trá, lừa đảo, bày đặt chuyện cũng có; lời lẽ ôn hòa, kêu gọi lòng từ bi, bác ái cũng có, mà tranh giành, hạ bệ, phỉ báng, gây hấn, gây chiến tranh, thách thức cũng có. Bất cứ nơi nào, góc nào, phương trời nào trên quả đất, nơi nào có con người là có lời nói phóng ra. Dù là người nổi tiếng hay kẻ vô danh, dường như miệng lưỡi của người này đều muốn nói to, nói lớn hơn người khác.
Để cho cái lưỡi không trói buộc mình vào các lỗi lầm như vậy thì Đức Phật dạy chánh ngữ, dùng lời nói chân chánh để đối trị. Đó là nói sự thật, nói lời hòa ái, nói lời không thiên vị, công bình, hợp đạo lý…
Như trên đã trình bày, thật ra lời nói phát ra từ cửa miệng đều phát xuất từ tâm hay ý. Tâm hay ý này điều động và thúc đẩy miệng lưỡi phát ra lời nói, đó là tạo nghiệp bằng lời nói mà chủ chốt là tâm hay ý.
Vậy, để có được chánh ngữ thì cần tu tập cả chánh kiến, chánh tư duy và chánh niệm. Có cái thấy đúng, suy nghĩ đúng, nhớ nghĩ đúng sẽ dễ dàng chận đứng lời nói phóng ra từ cửa miệng mà thường là do sự nóng giận, vì thiếu suy nghĩ và hiểu biết.
Đức Phật từng nhắc lại lời người xưa:
Làm thinh bị người chê
Nói nhiều bị người chê
Nói ít cũng bị chê
Làm người không bị chê
Thật chuyện khó đời này (13).
Và Đức Phật cũng khuyên:
Nếu như chiếc chuông bể
Tự mình giữ yên lặng
Ngươi đã chứng Niết-bàn
Tự mình không sân hận (14).
Vậy thì, phải chăng, hãy sống như chiếc chuông bể là thượng sách để vượt ra khỏi sự trói buộc của lưỡi, được hiểu là lời ăn tiếng nói ở đây?
Chú Thích:
- Kinh Pháp cú. Phẩm Song yếu. HT.Minh Châu dịch.
- Kinh Pháp cú. Phẩm A-la-hán. HT.Minh Châu dịch.
- Kinh Pháp cú. Phẩm Phật Đà. HT.Minh Châu dịch.
- Phật học phổ thông. HT.Thiện Hoa.
5.6.7.8.9.10.11. Tục ngữ ca dao dân ca VN. Vũ Ngọc Phan.
12. 14. Kinh Pháp cú. Phẩm Đao Trượng. HT.Minh Châu dịch.
13. Kinh Pháp cú. Phẩm Phẫn nộ. HT.Minh Châu dịch.
Discussion about this post