PHIÊU LINH
Huỳnh Trung Chánh
Phiêu
linh bao kiếp luân hồi
Phút
giây hội ngộ, đời đời khổ đau
Mịt
mùng tăm tối lạc nhau
Mang
mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
Phần I. Nặng
một lời một nguyền
Dì
Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn,
Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây
An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho
con sớm lành bệnh. Chùa Tây An núi Sam, được tôn xưng
là đệ nhất linh địa của giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
vì vị tổ khai sáng : “Phật Thầy Tây An(2)”, đã hành
đạo và thị tịch tại chốn nầy. Nguyên Đức Phật
Thầy theo thuận duyên đặc biệt thọ giới xuất gia
với Hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh(3) trụ trì tổ
đình Giác Lâm, Gia Định, và được hòa thượng ban cho
pháp danh Minh Huyên, hiệu Pháp Tạng rồi chỉ định về
ngôi chùa Tây An để hoằng pháp với sự phụ giúp của
sư đệ Minh Võ – Nhứt Thừa. Tuy đã là tăng sĩ chánh
thức nhưng Ngài ủy thác mọi sinh hoạt tự viện cho sư
đệ, cũng không thu nhận đệ tử xuất gia, để có
thể dành nhiều thời giờ hoằng pháp theo một đường
hướng riêng: “thế tục hóa” đạo pháp hay cũng có
thể gọi là “đem Phật Pháp đi vào cuộc đời”.
Ngài tiếp tục trui rèn nhóm đệ tử cư sĩ nồng cốt
có khả năng đảm trách trực tiếp các cơ sở hành
đạo dưới danh nghĩa là “trại ruộng” rải rác khắp
các tỉnh miền Tây. Trại ruộng là cơ sở sinh hoạt đời
lẫn đạo, nhằm quy tụ tín đồ thuần thành về tu
tập vừa có nơi canh tác, cũng là địa điểm phát
thuốc cứu khổ, chữa thân tâm bệnh… cho quần chúng
nông thôn, và nhân đó sẽ dùng lối thuyết pháp khế
cơ chất phác: “nói thơ dạy đạo” để khuyến khích
ăn chay niệm Phật, sinh sống hiền lành, vuông tròn hiếu
nghĩa đúng theo pháp tứ ân, vì vậy chi phái mới có
danh xưng là Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Vì
một trong những vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy,
là Đức Quản Cơ Trần văn Thành, đảm trách hoằng hóa
tại trại ruộng Láng Linh, đã chiêu mộ dân quân dựng
cờ khởi nghĩa chống ngoại xâm, địa bàn di động quanh
vùng Bảy Thưa – Láng Linh, khiến quân xâm lược phải chật
vật bao năm trời mới đàn áp nổi. Tuy chỉ riêng trại
ruộng Láng Linh liên hệ trực tiếp với vụ nổi dậy,
nhưng kể từ đó, toàn thể tín đồ chi phái Tứ Ân
đều bị chánh quyền Pháp nghi kỵ, chúng cho mật thám
theo dõi kềm kẹp, bắt bớ tín đồ bừa bãi, gán
cho họ tội “làm cách mạng”. Vì vậy, sinh hoạt tôn
giáo của chi phái bị đình trệ, các trại ruộng thưa
vắng lần, ngay như chùa Tây An một thánh địa mà trước
đây bổn đạo vãng lai nườm nượp cũng lạnh lẽo đìu
hiu. Cả vùng núi thiêng chỉ còn trơ trọi một ông từ
già lủi thủi khói nhang bàn thờ Phật và trông giữ
mộ phần của Phật Thầy chôn sau chùa mà thôi.
Trái
với trí tưởng tượng của dì Năm, khuôn viên chùa Tây
An giờ đây tấp nập khác thường. Chùa được tu bổ
từ trong lẫn ngoài nên khang trang sáng sủa và tràn đầy
sinh khí. Cạnh chùa là một mái lá khá rộng mới xây,
để dùng làm nơi xắt sấy, phơi và dự trữ cây lá
thuốc Nam, cũng vừa là địa điểm tiếp đón đồng
bào khắp nơi về chẩn bệnh, hốt thuốc. Sinh hoạt
tu tập “độ đời” nhộn nhịp chẳng khác gì thời
hưng thịnh của hơn ba mươi mấy năm về trước cả. Dì
thăm hỏi nguyên nhân biến đổi nầy, mới biết rằng
thời gian ngắn sau khi ông từ cô quạnh chán ngán bỏ
đi, ngôi chùa không người săn sóc đã nhanh chóng trở
thành hoang phế: cây cỏ dại um tùm thi đua mọc tràn lan
che khuất lối đi, điện thờ bụi phủ nhện giăng, mái
dột tường xiêu… cơ hồ sắp sụp đổ đến nơi, nếu
không có một vị sư già du phương hoằng hóa dừng bước
lãng du ra tay tu sửa. Thật ra động cơ thúc đẩy sư
vạch cây lá leo lên đường dốc chỉ vì mến mộ phong
cảnh u tịch núi rừng thiêng liêng khôi vĩ, đến nơi sư
mới khám phá ra ngôi già lam nhỏ bé mái phủ hoa vàng,
đang e ấp nép mình dưới những khóm cây cối xanh um
cành lá, chằng chịt giây leo. Sư lặng ngắm bức tranh
sống động trước mắt thầm nhủ: “Ôi! Cảnh trí thật
là hoang dại mà cũng thơ mộng và quyến rủ lạ lùng!”
Sư mò mẫm đi vào chùa, một ngôi chùa hoang phế, tất
cả đều hư hoại đổ nát, khiến sư xúc động bùi
ngùi. Sư mang quả chuông nhỏ và nhang trong tay nải ra, rồi
bắt đầu thỉnh chuông, thắp hương đảnh lễ Phật –
pho tượng Bổn sư tróc sơn loang lổ còn sót lại trên
kệ thờ – long trọng phát nguyện gánh vác công cuộc
trùng tu tự viện và hưng long đạo pháp tại chốn nầy.
Sư âm thầm phát quang cỏ dại, thu dọn rác rến, chấp
vá mái vách hư hỏng, trang nghiêm chánh điện… tóm lại,
sư lẵng lặng tu sửa trong ngoài tương đối sạch sẽ
mà chẳng ai hay biết. Một hôm, bỗng có người dân
xóm rẫy trên non cao, nghe văng vẳng tiếng chuông công phu
khuya sớm, tò mò tìm đến. Vào chùa trong lúc vị sư
già đạo cao đức trọng đang thiền tọa trên đụn cỏ
khô, không dám làm khinh động sư, anh ta rón rén đi quan
sát trong ngoài: ngôi chùa tuy tạm có sinh khí, nhưng cửa
nẻo hư mục, nhà dột cột xiêu rồi, còn phòng ốc
trống trơn, trên kệ thờ chỉ còn pho tượng loang lổ,
và quả chuông con con – Anh ta thầm nhủ: “Uả! Chuông nhỏ
xíu như vầy sao tiếng ngân vang xa đến miếng rẫy của
mình như vậy?” Bước ra phía sau, nhìn cái nồi đất
sứt mẻ, đặt trên chiếc cà ràng gãy gọng, tro tàn
có lẽ đã nguội lạnh nhiều ngày rồi… anh thảng thốt
than: “Trời ơi! chẳng biết mấy ngày qua ổng đã ăn
uống thứ gì để sống vậy kìa!”.
Anh
ráng dằn lòng, chờ sư xả thiền mới ấp úng đem
thắc mắc mình han hỏi. Sư cười móm sọm, hề hà đáp:
– Người
xưa dạy “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, nên thầy học
theo mà hái rau rừng, bông so đũa… ăn qua ngày, đôi khi,
mình tọa thiền niệm Phật thì cũng qua cơn đói con
ạ!
Anh
nông dân nghe kể mà rưng rưng nước mắt, anh xá chào
thầy rồi tất tả chạy nhanh về nhà. Anh quày quã trở
lại tay quảy, tay xách lỉnh kỉnh gạo bắp khoai đậu cúng
dường. Tiếng lành đồn xa, bà con quanh vùng lũ lượt
về chùa học Phật tu nhân, những đêm lễ sám hối,
tiếng tụng kinh niệm Phật vang rền cả núi, và không
ai bảo ai họ thi đua góp công góp của kiến tạo lại cảnh
chùa Tây An khang trang như thời xa xưa. Vui mừng hơn ai hết
có lẽ là nhóm huynh đệ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, họ hợp
nhau thành đoàn về viếng tổ đình, rồi khẩn khoản
xin sư hứa khả cho phái Tứ Ân tái lập trại chẩn bệnh
phát thuốc cho đồng bào cạnh chùa. Thầy hoan hỉ: “Tốt
lắm! Tốt lắm! Cứu bệnh khổ là hành Bồ Tát hạnh
dĩ nhiên thầy phải yểm trợ hết lòng rồi, huống
chi, giáo chủ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, chính là đại sư huynh
của thầy, thầy hằng phát nguyện tiếp nối và hưng
long đạo nghiệp của Người kia mà!” Tiết lộ lạ lùng
nầy khiến họ ngạc nhiên vô cùng, có kẻ thích thú
reo vang, kẻ nửa tin nửa ngờ, muốn hỏi cho rõ nhưng
ngại không dám mở lời. Biết vậy thầy mĩm cười
giải thích: “Đức Thầy và ta vốn là huynh đệ đồng
xuất gia với ân sư Tiên Giác – Hải Tịnh. Đức
Thầy pháp danh là Minh Huyên và ta là Minh Khiêm(4), chúng
ta thuộc thế hệ thứ 38 dòng thiền Lâm Tế. Trong thời
gian làm thị giả cho ân sư, ta thường nghe ân sư nhắc
nhớ hành trạng tự tại của sư huynh lòng rất ngưỡng
mộ, nhưng bấy giờ sư huynh đã thị tịch, đất nước
trong cơn loạn lạc nên dấu vết người xưa cũng phai mờ.
Thế rồi, bỗng nhiên chẳng biết động lực nào dun
rủi ta dừng bước vân du đúng ngay đạo tràng xưa của
sư huynh? tình cờ chăng? Có thể nói đây là một sự
trùng hợp mầu nhiệm khó nghĩ bàn do chư long thần
hộ pháp hướng dẫn ta đến để tiếp nối đạo nghiệp
cao cả của vị đại sư huynh ngày trước.”
Khi
nhóm huynh đệ Tứ Ân lảng vảng tựu về chùa Tây An,
thì đám mật thám Pháp liền đội lốt khách hành
hương bám theo rình rập, Ban Hội Tề làng Vĩnh Tế
cũng ngấm ngầm cho người dọ hỏi. Lạ một điều là
bọn “điềm chỉ” nầy lẩn quẩn ra vào chùa, giả
dạng tụng kinh niệm Phật thuần thành vài ngày, rồi
bỗng nhiên họ mến đạo thật lòng, xin quy y với sư,
chơn chất tu tập chẳng nhúng tay làm điều chi gian dối
hại ai nữa. Chẳng rõ họ đã báo cáo thế nào, mà
kể từ đó, tuy sinh hoạt chùa lúc nào cũng rộn rịp
nhưng đạo tràng chẳng hề bị giới chức nào hạch
sách rắc rối cả.
Võ
thượng Phiêu là một thư sinh thanh tú, tuổi trên hai mươi
nhưng đang lâm trọng bệnh nên dù được mẹ dìu đi và
đường lên chùa cũng không mấy khó khăn, mà phải cố
gắng lê lết từng bước một. Đến nơi, Phiêu mệt
thở chẳng ra hơi, xiểng niểng sắp khuỵu xuống, khiến
bà mẹ đau lòng kêu cầu cứu loạn lên. Nhờ các “ông
đạo” chạy chữa cấp tốc theo thuốc Nam, nên chàng
cũng khỏe dần, tuy đi đứng vẫn nương tựa bà mẹ.
Lễ
bái xong, khi hai mẹ con chào sư từ giả, sư ái ngại nhìn
Phiêu ngọt ngào han hỏi:
– Con
còn yếu lắm, liệu đủ sức đi đường không? Mà con
định về đâu vậy?
– Thưa
con cũng không biết rõ nữa thầy ạ! Con chẳng biết
mẹ sẽ đưa đi lánh nạn nơi nào nữa!
Thấy
sư nhìn mình ra vẻ muốn tìm hiểu, dì Năm thoáng ngần
ngại, rồi ấp úng thu giọng thật nhỏ :
-Thưa
thầy! Cháu Phiêu bị kẻ gian ác hại mà ra nông nổi nầy!
Con dự định đưa cháu về quê ngoại ở Thoại Sơn, nhưng
chẳng biết thân thuộc có dám cưu mang chăng? và kẻ
ác có chịu buông tha không nữa?
Trong
màn nước mắt ràn rụa, thím ngậm ngùi cất tiếng
than: “Trời đất mênh mông như vậy mà chúng con muốn
tìm một chỗ dung thân lại gian nan vô cùng, thầy ạ!”
– Cửa
chùa muôn đời rộng mở cho kẻ lâm bước đường cùng.
Các con cứ tự nhiên nương náu sống ở đây một thời
gian rồi tính. Thầy nghĩ, nếu các con vững lòng niệm
Phật, tin tưởng chư Phật gia hộ, thì những khó khăn
gian khổ nào cũng sẽ trôi qua.
Được
ưu ái đón nhận, hai mẹ con vui mừng khôn xiết, họ hội
nhập nhanh chóng vào nếp sống tự viện: dì Năm lăn
xả vào bếp công quả, Phiêu thì theo hai chú sa di nhỏ
săn sóc cây cảnh, quét dọn chùa, nhưng thông cảm bệnh
trạng chàng chẳng ai để chàng vất vả cả. Nếp sống
mới rất thoải mái, hai mẹ con được mọi người thương
yêu đùm bọc, được tặng đồ lam, áo tràng, được
cung cấp thuốc thang, và đặc biệt là đỡ nơm nớp
lo sợ kẻ ác rình rập sát hại nữa. Biết Phiêu giỏi
chữ nghĩa – Hán Nôm – , thầy ủy thác chàng sao chép
bộ Pháp Hoa và vài mươi quyển kinh nhựt tụng để
Phật tử dùng trong những ngày lễ. Nhờ sao chép kinh,
chàng có dịp gần gũi học hỏi Phật Pháp với thầy,
càng học Phật chàng càng mến đạo giải thoát nên thỉnh
cầu xuất gia. Thầy tổ chức lễ thí phát, cho thọ
giới sa di và ban cho chàng pháp danh Như Nguyện.
Thân
bệnh của Phiêu lần lần bình phục sau một thời gian
ngắn, nhưng tâm bệnh thì dù chính thức đi tu mà chẳng
thuyên giảm chút nào… Thật ra, nếu căn cứ vào hình
thức tụng niệm thì chú sa di có vẻ khá tinh tấn, nhưng
rời kinh kệ thì chú lại lơ lơ lảng lảng như kẻ mất
hồn, chiều chiều chú thường lén thầy thơ thẩn ra
sau chùa, leo lên triền núi cao nhìn về cõi xa xăm buông
tiếng thở dài não nuột. Một hôm đang chán nản nhìn
xuống núi, chua xót nghĩ nếu mình chết đi có lẽ đỡ
bị khổ đau dày dò, “chữ chết” vừa manh nha trong
đầu thì tâm niệm tự tử liền trồi lên tức khắc.
Thế rồi, Phiêu chợt thấy phong cảnh trước mắt dường
như biến đổi khác hẳn: núi cao chất ngất, vừa hùng
tráng vừa âm u quái dị. Chàng mải miết nhìn xuống
hố sâu đen ngòm thâm thẩm, hàm ẩn một nét đẹp êm
ái đầy man dã. Thế rồi, Phiêu khám phá nó – cái
hố sâu – trở nên linh động và quyến rủ lạ lùng,
nó tỏa ra hấp lực vô hình thu hút chàng, thôi miên chàng
cứng đờ không cựa quậy gì được. Trong trạng thái
mê mờ đó, chàng nghe hố sâu rủ rê mời mọc chàng,
thôi thúc chàng hội nhập với cái bình an vĩnh cửu
của nó. Phiêu rùng mình, vụt đứng dậy chuẩn bị phóng
xuống.
– Như
Nguyện! Mau mau tỉnh lại! Nơi nầy nào phải là Đoạt
hồn Nhai mà con toan tính gieo mình!
Giựt
mình tỉnh dậy, Phiêu dụi mắt nhìn thầy, ngượng ngập
lên tiếng: “Thưa thầy! Đoạt hồn Nhai là chốn nào
mà sao con nghe quen thuộc lắm thầy ạ!”
– Xưa
lắm rồi, vào khoảng mười thế kỹ về trước có
chàng thư sinh tên Trang Thanh văn tài xuất chúng đang trên
đường lên kinh đô Trường An ứng thí bỗng nghe tin người
mẹ lâm trọng bệnh nên đành gác lại giấc mộng quan
trường, chàng quày quã về quê chăm sóc mẹ già được
vài tháng thì bà từ trần. Trang Thanh an táng mẹ cạnh
mộ cha, kề cận giòng suối Long Môn lưng chừng ngọn
Nga Mi hùng vĩ, rồi dựng lều ở đó mặc áo thô,
ăn cơm hẩm, cư tang đúng ba năm dài. Một hôm có vị
Tiết độ sứ họ La nhân đi ngang Nga Mi, nghe kể chuyện
chàng trai hiếu thảo bèn ghé lại thăm hỏi. Nhận thấy
anh chàng tuấn tú khôi ngô lộ chân tướng là một nhân
tài hiếm có, sứ quân sinh lòng quí mến, ưu ái mời
chàng về phủ tạm giữ chân thư lại trong khi chờ đợi
kỳ thi, nhân đó chàng có thể tham dự nhóm văn chương
tao đàn cùng các bậc anh tài xướng họa thi ca. Nổi
bậc trong văn đàn là công nương La uyển Thu, con gái cưng
của sứ quân, lứa tuổi đôi tám, nhan sắc mặn mà.
Trai tài gái sắc vừa thoạt gặp gỡ đã mê đắm nhau,
La sứ quân chẳng những không ngăn cản còn ngầm ủng
hộ, vì tin tưởng ngày vinh quang của chàng không xa. Cuộc
tình mộng mơ đang trong thời điểm tuyệt vời, tưởng
không có gì ngăn ngại cả, thế nhưng, bỗng nhiên Trường
An loạn lạc, tổ chức thi cử bị đình chỉ vô thời
hạn, con đường công danh của Trang Thanh bất ngờ trở
nên mờ mịt. Tình hình tiếp tục suy đồi, đến nổi
tướng Vương Kiến phải đưa toàn lực lượng quân sự
về tỉnh Tứ Xuyên, hộ giá Đường Hy Tông hoàng đế
về thủ phủ Thành Đô tránh nạn. Vương tướng quân,
do sự nài ép của con trai, ngỏ lời cầu thông gia với
sứ quân và dĩ nhiên sứ quân nức lòng chấp nhận.
Vương Kiến quyền uy tột bực, ngay như Đức hoàng đế
còn phải kính trọng, huống chi… huống chi trong thời
loạn lạc giá trị kẻ sĩ te tua như tờ gíấy rách,
có đáng gì đâu mà phải phân vân! Điểm rắc rối
là La Uyển Thu cô nương một dạ chung tình, khóc lóc
thảm thiết, nguyện thề sống chết với người yêu.
Sứ quân tức giận hét vang, xua đuổi Trang Thanh, đe dọa
mạng sống nếu chàng còn lén lút gặp nàng. Chàng
thất thểu lên ngựa quay về núi Nga Mi, ủ rũ tựa bên
mộ phần mẹ cha. Thình lình có tiếng ngựa phi dồn
dập, dáng thanh nhã của Uyển Thu ẩn hiện như mơ trước
mắt chàng. Nỗi mừng vui vừa chớm, liền bị dập
tắt bởi mối kinh hoàng tràn ngập do đám bụi mịt
mù của đoàn binh sĩ đang rầm rập giục ngựa đuổi
theo truy nã. Vốn thành thuộc địa phương, chẳng chút
bối rối Thanh nhanh nhẹn dẫn nàng lẫn trốn vào ngõ
tắt tạm thời mất dấu, nhưng tất cả con đường mòn
xuống núi đã bị phủ vây kín mít khó lòng thoát thân.
Đôi uyên ương buộc lòng chọn giải pháp duy nhất là
leo lên mãi, lên đến tận cùng đỉnh Nga Mi, trên là Kim
Đỉnh, với am Phổ Quang nhỏ bé trơ vơ trống trải, dưới
là bờ vực thẩm muôn trùng, có danh xưng là Xả Thân
nhai (nghĩa là hố bỏ thân), cũng gọi là là Đoạt Hồn
nhai (tức hố đoạt hồn tán mạng). Cặp tình nhân đang
cheo leo bên bờ vực cực kỳ nguy hiểm, một sơ suất
nhỏ cũng đủ khiến họ rơi xuống vực sâu chết thảm,
vì vậy, chú tiểu nhỏ trên am Phổ Quang tuy đã giơ cao
chày chuông chuẩn bị thời thỉnh đại hồng chung mà
phải dừng lại vì sợ tiếng chuông khinh động họ, còn
đoàn xạ thủ tinh nhuệ được lệnh truy sát Thanh, đứng
vây quanh, giương thẳng giây cung mà chẳng dám buông tên
sợ chàng trai ngã gục lôi theo người con gái chết chùm
xuống hố. Trong hoàn cảnh cùng cực chẳng còn lối
thoát mà đôi tình nhân vẫn bình tỉnh lạ thường, hai
người tựa kề bên nhau, say đắm nhìn nhau nhàn nhã
như chẳng chút lưu tâm đến mối hiểm nguy đang rình
rập họ. Thanh âu yếm : “Nga Mi sơn quả xứng đáng với
danh xưng là ngọn núi hùng vĩ xinh đẹp nhất hoàn vũ
phải không em?”. “Đúng lắm!”, nàng đáp. “Hà! hà!
Mình kề cận bên nhau, rồi đồng chết trên ngọn núi
đẹp nhất kể ra cũng phong lưu đặc biệt em há!” “Phần
em, miễn em được kề cận anh, thì sống hay chết ở
chốn nào cũng đều hạnh phúc tuyệt vời cả! Anh ơi!
Em mơ ước mình được chánh thức là vợ chồng trước
khi chết, còn kịp lúc không anh?”. “Dĩ nhiên là phải
kịp!” Chàng dìu nàng quì xuống chấp tay cùng van vái:
“Chúng con Trang Thanh và La uyển Thu trong lúc bất cập
nầy, không sẵn nhang đèn hoa quả, chỉ xin mang lòng thành
kính xin Hoàng Thiên chứng giám cho chúng con giờ phút
nầy chánh thức là vợ chồng.” Nàng lễ chàng một
lạy thỏ thẻ : “Em nguyện đời đời là người vợ
ngoan hiền của chàng!” Chàng lạy đáp lễ dõng dạc
lên tiếng: “Anh nguyện đời đời là người chồng
thương yêu che chở em!” “Em xin cảm ơn anh!” Dứt lời
nàng trang trọng lấy túi xách mang kè kè bên mình, hai
tay nâng lên dâng cho chàng. Thanh cẩn thận mở túi ra,
trong túi chẳng có vàng bạc châu báu gấm vóc gì cả,
mà chỉ có vỏn vẹn sợi giây xích và chiếc khóa. Tâm
ý tương thông, cả hai nhìn nhau thỏa chí mĩm cười, rồi
lặng lẽ buộc mỗi người một tay vào giây xích khóa
chặt, tay còn lại họ đưa lên cao long trọng phát nguyện:
“Xin Hoàng Thiên chứng giám cho ước nguyện của chúng
con là đời đời kiếp kiếp về sau, dù là quỉ, là
ma hay là người cũng xin là vợ chồng!” Dứt lời,
họ dìu nhau bước tới, lại say đắm nhìn nhau mĩm cười,
rồi gieo mình xuống vực sâu. Chú tiểu nhỏ trên am Phổ
Quang xúc động rơi nước mắt, chày giơ lên cao từ lâu,
bắt đầu hạ xuống, gởi hồi đại hồng chung cảnh
tỉnh xuống vực sâu thâm thẩm cho hai kẻ chung tình.
– Ôi!
Phần kết thúc câu chuyện sao sầu thảm quá, thầy ạ!
– Câu
chuyện đang tiếp diễn dài dài và chưa có dấu hiệu
gì tỏ vẻ sắp kết thúc con ạ! Con biết không? Nỗi
oan nghiệt vì chết chưa tới số, cộng với khối tình
si thâm trọng quấn quít, khiến họ lẩn quẩn đeo bám
nhau làm cặp quỉ thần thường hiển linh phù hộ những
lứa đôi thủy chung gắn bó, cũng như sẵn sàng trừng
phạt những kẻ bội tình. Cảm tình với chú tiểu mềm
lòng, họ cũng hộ trì già lam, còn việc chú tụng kinh
niệm Phật chân thành hồi hướng họ siêu thoát hay vãng
sanh chi đó họ chẳng bận tâm. Nếp sống quỉ thần
chung vui hạnh phúc kéo dài ngót sáu mươi năm rồi cũng
chấm dứt, tình sâu nghĩa nặng cùng với lòng oán
ghét giới quyền thế dẫn dắt họ cùng đào thai về
xóm dân chài tại Thái Hồ, tỉnh Giang Tô, rồi trở thành
đôi vợ chồng nồng nhiệt yêu nhau, chia sẽ ngọt bùi
cho nhau đến khi răng long đầu bạc, ông vừa từ giả
cõi trần thì bà đã lật đật theo sau bén gót. Kế
đó, họ cùng đào thai về thành phố Thượng Hải, đất
rộng người đông mà dẫn lực vô hình cũng đưa đẩy
họ tìm được nhau, chung sống với nhau cực kỳ hạnh
phúc. Thế nhưng nghiệp sát của kiếp hành nghề chài
lưới khiến tuổi thọ kiếp nầy ngắn ngủi, chàng
trai đột ngột từ trần bỏ lại người vợ trẻ với
bầy con thơ ấu. Người vợ trẻ yêu chồng chí thiết,
lòng chỉ mong tự tử chết theo, nhưng nghĩ đến đám
con nheo nhóc, buộc lòng phải lây lất sống còn. Mãi
đến khi con cái trưởng thành, thì người mẹ mới từ
trần trong cảnh bơ vơ lạc lõng, tuy một lòng một dạ
muốn đoàn tụ với chồng, nhưng chồng đã biền biệt
chốn nào, biết đâu mà tìm. Hởi ôi! Trong hơn tám
trăm năm liền, khối tình si vẫn thúc đẩy họ trong
tăm tối mịt mù của nghiệp thức trôi lăn trong cõi Ta
Bà thất thểu kiếm tìm nhau, nhưng giống như trò chơi
cút bắt họ cứ lẫn tránh nhau: kẻ Nam, người Bắc,
kẻ phương Đông, người phương Tây, kẻ nầy mới sanh
thì kẻ kia vừa chết,.. thành thử đành mang số phận
kiếp kiếp cô đơn lạc lõng mỏi mòn tìm kiếm hình
bóng người yêu trong mộng. Đôi lần họ cũng gặp nhau
trong phút chốc, trong hoàn cảnh trớ trêu của tuổi tác
quá chênh lệch. Người già khú và đứa bé con xa lạ,
mới thoáng gặp nhau trong một đoạn đường ngắn đã
quấn quít, vơ vẩn nhớ nhung nhau, để rồi, kẻ già
chết trong nỗi thương nhớ bâng quơ, còn đứa bé suốt
đời cứ trống vắng cô đơn hụt hẫng. Cuối cùng
rồi thì họ cũng gặp nhau vừa trang lứa, họ yêu nhau
tha thiết, tưởng không có trở lực nào ngăn cản tình
yêu đó được, ngờ đâu, qua bao kiếp luân hồi mỗi
người mỗi ngả, mỗi người mỗi nghiệp, ai cũng có
nợ nần oan trái bủa giăng, nên lễ cưới gần kề
mà vẫn phải chịu cảnh ly tan khổ hận…
Thoạt
đầu Phiêu tưởng thầy kể chuyện cổ tích, ngờ đâu
nghe một lúc thì những hình ảnh kiếp kiếp xa xưa chôn
vùi trong tiềm thức, bỗng chập chờn khơi dậy. Khám
phá ra uẩn khúc khổ đau tiền kiếp, chàng bàng hoàng
chua xót cho duyên phận lứa đôi hẩm hiu, khóc nức nở
không kềm chế nổi. Sư thương cảm nhìn Phiêu, buông tiếng
thở dài, rồi ngọt ngào hỏi:
– Như
Nguyện! Con quyết định như thế nào đây? Con cứ tiếp
tục lăn lộn mịt mù trong sáu cõi để tìm nhau đời
đời kiếp kiếp mãi sao?
Phiêu
bối rối:
– Con
chẳng biết phải làm sao cả! Con mờ mịt biết gì đâu?
Xin thầy chỉ dạy con!
– Con
nên suy tư tường tận rồi tự chọn một giải pháp
riêng cho con!
Dứt
lời, sư liền quay gót. Phiêu lót tót chạy theo, gọi thất
thanh: “Thầy ơi!” Phiêu đang quẩn trí như kẻ sắp chết
đuối mà thầy là cái phao cứu mạng cho cơn nguy ngập.
Bỗng dưng thầy đột ngột bỏ đi nên hoảng hốt kêu
ầm lên, chớ thật ra chẳng biết hỏi chuyện gì. Ngập
ngừng khá lâu, Phiêu mới ấp úng:
– Thưa…
thưa thầy! Có phải thầy chính là chú tiểu trên Kim
Đỉnh ngày xưa không ạ!
– Đúng
vậy! Thầy trò ta vốn đã có duyên ngày trước, con
lại từng hộ trì già lam, do đó nghiệp lực lành mới
đưa đẩy con về chùa nương náu với ta!
Yên
chí lớn có nhân duyên lành với thầy, tức là có
chỗ dựa với bậc cao tăng đỡ đần mọi việc thì
đâu có gì đáng lo nữa, Phiêu mừng quýnh kỳ kèo :
– Vậy
xin thầy thương dẫn dắt cho con từng bước, chớ con
tối mò chẳng biết gì, thì làm sao cải được mạng
số mình cho nổi!
Sư
nghiêm sắc mặt:
– Ngươi
phải tự quyết định chọn một giải pháp và tự mình
phải thực hiện lấy.
Đừng
cù nhầy lôi thôi nữa!
Phiêu
lại cố gắng kêu nài:
– Dạ
thưa thầy… nhưng mà…
Lần
nầy có lẽ thầy bực bội lắm rồi, thầy hét lớn:
– Hãy
“tự đốt đuốc lên mà đi”, đừng lải nhải nữa!
Sư
bước nhanh đi vào chùa, chẳng ngó ngàng gì đến chàng.
Thái độ kỳ quặc của thầy khiến Phiêu hụt hẫng
trong uất ức nghẹn ngào. Chàng tin tưởng thầy là bậc
cao tăng chỉ cần “phán mấy câu” cho đệ tử nghe theo
là xong, ngờ đâu đến lúc nguy biến cầu cứu thì
thầy “phủi tay” chẳng dạy dỗ điều gì khiến chàng
chới với, lòng dạ rối loạn lên chẳng biết phải
làm sao? Phiêu lẩm bẩm cằn nhằn: “Ông già thật lạ
lùng! Nhắc nghiệp duyên xưa thao thao bất tuyệt xác nhận
có duyên thầy trò nghe “ngon ngọt” quá! vậy mà làm
hiểm không cứu độ, không chịu chỉ dẫn đệ tử con
đường tu, mới thật là khó hiểu, thật là kỳ dị!”
Trong tâm trạng tuyệt vọng não nề Phiêu uể oải trở
vào chùa tiếp tục sinh hoạt thường nhựt với một
thái độ lừng khừng nửa mê nửa tỉnh chẳng “hòa
hợp chúng” tí nào. Chàng lơ là ngao ngán việc sao
chép kinh, chểnh mảng thời khóa tu tập, quên ăn bỏ ngủ,
khi lầm lì câm nín, lúc lại khuấy động loạn lên chẳng
úy kị ai. Đêm ngày “thảm cảnh trầm luân mịt mù trong
đen tối của hai bóng ma trôi giạt quơ quào tìm kiếm
nhau” liên tục hành hạ tâm chàng, thúc hối chàng suy
tư tìm lối thoát, nhưng càng suy tư Phiêu càng tối mò,
càng rối loạn thêm mà thôi. Chàng vốn bệnh hoạn yếu
đuối, nay tinh thần căng thẳng cùng cực khiến sức
khỏe thêm suy nhược, mạng sống xem ra khó kéo dài. Đại
chúng động lòng kéo nhau lên thỉnh hòa thượng tìm
phương cứu vãn, nhưng sư vẫn dửng dưng một cách lạ
lùng.
Một
hôm, trong khi đang mơ mơ màng màng máy móc theo đại chúng
tụng thời kinh A Di Đà, … “Xá lợi Phất, vì cớ
gì chúng sanh nghe được kinh nầy nên phát nguyện sanh
về nước ấy? Vì sanh về nước ấy sẽ được hội
họp cùng một chỗ với các bậc thượng thiện…”
vừa nghe năm chữ “hội hợp cùng một chỗ” chàng
bỗng cảm nhận sự bùng nổ vang dội rúng động cả
tâm cang, như có quang minh sáng rực tỏ rạng tâm chàng
không còn một chút nghi nan nào cả, rõ ràng chỉ có
giải pháp duy nhất là phát nguyện đồng tu về cõi
Cực Lạc để “hội hợp cùng một chỗ” mới
vượt thoát khỏi cái nghiệp bám víu tìm nhau đời
đời kiếp kiếp nữa. Không nỗi vui mừng nào sánh
được, nước mắt ràn rụa, nguồn vui tràn ngập như
nước lở bờ, chàng liền phát đại hoằng nguyện
dõng mãnh một lòng Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh,
yên chí là một khi đã vãng sinh rồi tu tập đến bực
bất thối chuyển thì sẽ trở lại cõi Ta Bà cứu độ
thân hữu cùng qui ngưỡng về cõi Tịnh độ phương tây,
thì dù nhanh hay chậm chắc chắn có ngày oan gia thuở
trước sẽ “hội hợp cùng một chỗ”, lo gì!
Chàng
thầm nghĩ: “Nếu không do thầy cố tình cứng rắn
úp chụp trên đầu mình một trách vụ ngoài tầm tay
đeo đẳng như một án treo, khiến mình ăn ngủ không yên
ôm ấp mối nghi lớn khắc khoải suy tư thì làm sao có
sự bùng nổ, mà nếu không phải là kẻ lặn ngụp biển
ái, bao kiếp lang thang thất thểu tìm nhau thì làm sao
chỉ cần nghe nửa câu kinh “hội họp cùng một chỗ”
là đã tỏ rõ đường về.” Ơn thầy bao la như trời
như biển, vậy mà bấy lâu nay mình lại ngu si hờn trách
bất bình thật là tội lỗi. Ráng chờ xong thời khóa,
chàng “lạy thầy như tế sao” để cảm tạ thâm ân
và cũng để sám hối nữa, nhưng chưa kịp mở lời
thì thầy đã tươi cười: “Khá lắm! Khá lắm! Con
rất xứng đáng với lòng kỳ vọng của ta!”, rồi thầy
ôn tồn dặn dò: “Nhớ luôn tinh tấn và thường trực
quán sát tâm niệm mình, con nhé!”
Phiêu
cảm thấy con người mình thay đổi toàn diện, không
còn dính mắc bất cứ chuyện thế gian nào nữa, chỉ
một lòng thanh thản Niệm Phật. Chàng Niệm Phật nhuần
nhuyễn ngày đêm, giữ chánh niệm trong mọi uy nghi, ngay
cả lúc chiêm bao trong giấc ngủ, nhờ vậy tâm chàng luôn
thơi thới trong suối nguồn an lạc.
Phiêu
đinh ninh rằng với chiều hướng nầy, ngày chàng đạt
đến trình độ nhất tâm bất loạn chẳng xa. Trái với
dự tính của Phiêu, sau ba tháng bồng bột tinh tấn, khi
mà lòng “hào hứng hăng say của thuở sơ tâm phát nguyện”
bắt đầu suy giảm, chàng chợt cảm thấy mình có triệu
chứng giải đãi, càng canh chừng theo dõi càng khám phá
tâm niệm chàng vẫn thường loạn động, cái loạn động
mà nếu không quán sát nghiêm cẩn khó lòng phát hiện
ra. Thì ra, pháp môn niệm Phật tưởng chừng như vô cùng
giản dị, bất cứ ai niệm cũng được nhưng khi thực
sự dấn thân tu tập muốn được nhất tâm bất loạn
lại là chuyện thiên nan vạn nan có mấy ai thành công.
Phiêu thỉnh giáo thầy, thầy bảo chàng hãy chiêm ngưỡng
tượng Tam Thánh, rồi nhắc nhở: “Nếu con nương theo
Ngài Thế Chí ôm ấp chí đại hùng đại lực bền
bĩ Niệm Phật không ngừng nghỉ thì làm sao tâm thối
chuyển xuất hiện, nếu con học hạnh lắng nghe của Bồ
Tát Quan Âm, quán sát lắng nghe từng câu, từng tiếng
Niệm Phật không chút sơ hở thì tạp niệm làm sao chen
vào!”
Từ
khi biết chiêm bái tượng Tam Thánh để đón nhận được
suối nguồn từ bi gia bị và cũng để suy gẫm mà sách
tấn tu tập, Phiêu tự tin mình đã vững chãi thảnh
thơi trên đường về cõi Cực Lạc. Nhờ vậy, tuy sức
khỏe của Phiêu bỗng đột ngột suy yếu trầm trọng,
chàng vẫn an nhiên tu tập chẳng màng đến chuyện sống
chết chi cả. Thế rồi, chỉ một thời gian ngắn sau,
đúng theo ngày giờ dự báo, Phiêu đã thanh thản rời
cõi Ta Bà. Căn cứ vào các thoại tướng xuất hiện
vào phút lâm chung, thầy tuyên bố xác nhận chàng đã
được vãng sanh về cõi Cực Lạc, khiến đại chúng
ai nấy đều sanh lòng hoan hỷ và phấn khởi tu tập.
Phần
vị sư già, sau khi lo lắng tang ma cho đệ tử xong, có
lẽ cũng cảm thấy thỏa chí, rời chùa vân du hoằng
hóa biền biệt chẳng biết ở phương nào?
Phần II. Con
ma ngớ ngẩn
Nguyện
cùng Niệm Phật vãng sanh
Di
Đà cõi Phật bạn lành đồng tu
Thời
buổi mất nước nầy, người ta rủ nhau tân tòng và
chạy theo Tây học, để làm bàn đạp bon chen bám gót
quân xâm lược tầm cầu bả vinh hoa phú quý, mà cụ
đồ Phan lại lẩm cẩm mở trường dạy chữ nghĩa thánh
hiền mới là điều lạ lùng, nếu không nói là gàn
dở. Cụ đồ vốn là một nho gia khí tiết đã khước
từ cộng tác với nhà nước Phú Lang sa, lánh về quê
vợ tại tỉnh lỵ Mỹ Tho từ năm 1901 để chăm sóc một
thửa vườn trầu tạm đủ cho nếp sống thanh bạch, nghiêm
giữ gia phong của giòng họ Phan ở Bà Điểm, Gia Định.
Việc dạy học với cụ chẳng qua là một thú vui tao
nhã, chớ cụ đâu có nhận học phí, học trò thơm thảo
thỉnh thoảng mang trái cây vườn nhà hay chút quà lễ
thầy ngày Tết vậy thôi. Điều an ủi lớn của cụ
đồ là đám học trò mươi đứa, dù vẫn vào trường
học chữ nghĩa Tây phương, nhưng vẫn thích rèn luyện
chữ Hán chữ Nôm nhằm giữ gìn nền văn hóa ngàn
đời của dân tộc. Đặc biệt nhất phải kể đến
là chàng thanh niên họ Võ, thông minh tuấn tú và đầy
nghĩa khí đã bộc lộ phẩm chất quân tử hơn người.
Thầy trò gần gũi, cụ Phan hỏi dò gốc gác mới biết
anh ta là hậu duệ của anh hùng Võ duy Dương, Đồng Tháp,
ông và cha đều là bậc trung nghĩa vì nước quên mình
chết trong tay giặc, nên mẹ goá con côi đành lưu lạc
về Mỹ Tho trốn lánh tai mắt kẻ thù rình rập. Biết
rõ gia thế của anh ta, thầy đồ mừng quýnh xem chàng
như bậc tri âm, hai người mặc tình tâm đầu ý hiệp
thổ lộ niềm thương đau nghiệt ngã về nỗi nhục
mất nước. Con gái cưng của cụ đồ là Mỹ Linh, nổi
tiếng là một thiếu nữ tài hoa và xinh đẹp nhất
vùng. Nàng có dáng dấp mảnh mai thùy mị, nụ cười
duyên, và đặc biệt với đôi mắt tròn xoe đen láy
xao xuyến lòng người. Bao gia đình giàu sang danh giá nhờ
người mai mối xin kết thông gia, nhưng cụ đồ gạt bỏ
ngoài tai vì chê họ là bọn xu thời. Vậy mà, sau khi
chấm được đứa học trò như ý rồi, cụ dễ dãi
gợi ý cho đàng trai bước tới, rồi đồng ý gả con
ngay với niềm cảm thông về sự đơn chiếc và những
khó khăn tiền bạc của họ. Lạ một điều là đôi trẻ
vốn được gia giáo nghiêm minh, chưa bao giờ có dịp nhìn
thẳng mặt nhau, huống chi là thân mật chuyện trò, thế
nhưng, khi vừa được cha mẹ hứa tác thành thì đã
khắn khít nhau, yêu thương nồng nhiệt như đã là đôi
tình nhân tự thuở nào.
Thành
phố Mỹ Tho thuở người Pháp mới xâm chiếm đã được
chánh quyền đô hộ coi là trọng điểm chiến lược
của guồng máy cai trị tại Nam Kỳ, vì Mỹ Tho là đầu
ngõ huyết mạch cả đường thủy lẫn đường bộ về
miền Tây. Mỹ Tho cũng kiểm soát các ngõ ngách dọc
ngang vào Đồng tháp Mười, cánh đồng lác sình lầy
mông mênh mà các nhà chí sĩ ẩn náo và lập chiến
khu kháng Pháp. Thuở đó, nếu không nhờ tên Việt gian
Tổng Đốc Trần bá Lộc, công thần số một của Pháp
tại miền Nam ra tay thâm độc, xâm lược Pháp khó lòng
tiêu diệt lực lượng dân quân cách mạng, nhất là lực
lượng Võ duy Dương tại Đồng Tháp. Đó là lý do tại
sao Ông Hội Đồng Quản Hạt Trần bá Quyền, hậu duệ
của Tổng Đốc Lộc, tuy không giữ chức vụ gì chánh
thức tại Mỹ Tho, nhưng lời nói của lão rất “nặng
ký” vì luôn luôn được bọn người Pháp tại địa
phương tin tưởng. Một hôm sau khi dự tiệc tại tư dinh
Tỉnh Trưởng ra về còn chếnh choáng hơi men, vừa bước
vào nhà thì nghe đứa con trai út là Trần bá Danh, đang
to nhỏ bàn bạc với vợ ra điều nghiêm trọng. Lão lẩm
bẩm: “Thằng quỷ nầy lại òn ỉ xin tiền cho gái nữa
chớ gì!”, rồi lẻn vào buồng định “đánh một
giấc” cho khỏe.
– Ông
ơi! Ra đây nhanh lên! Thằng út lằng nhằng đòi cưới
vợ cho được đây nè!
Lão
muốn ngủ yên, nhưng bị mụ vợ kêu réo, đành uể oải
bước ra lè nhè lên tiếng:
– Ừa!
Nó thích con nào thì cưới “quách” cho nó con đó,
chớ hơi đâu mà càm ràm vậy bà!
– Ai
cũng được nghĩa là sao? Con gái thằng cha đồ nho hủ
lậu được không?
Gia
đình lão vinh thân phì da là nhờ ơn mưa móc của nhà
nước Đại Pháp, suốt đời lão cúc cung tận tụy phục
vụ ngoại bang trừ khử nhóm người Việt kháng Pháp,
nên làm sao lão chịu kết thân với những kẻ có đầu
óc “lạc hậu” nầy, nghe câu hỏi trặc trẹo của mụ
vợ, lão nhảy nhỏm như đỉa phỏng vôi hét vang :
– Ai
cũng được, trừ cái đám nghèo kiết xác mà bày
đặt ngang ngược chống đối đó thôi!
Cậu
Út vốn là hạng công tử háo sắc, hễ nghe ngóng nhà
nào có gái đẹp chàng ta cũng lân la thả lời trêu ghẹo,
hắn nghe xóm đò Rạch Miễu có nàng thiếu nữ đẹp
tuyệt trần bèn lò dò tìm đến, nhưng vì cụ đồ
nghiêm khắc quá, phải kham khổ mấy ngày trời, hắn
mới mua chuộc được một tay buôn bán trầu dẫn đi
theo, ra tận sau vườn mượn cớ quan sát giây lá trầu
để lén lút nhìn người đẹp, nhưng không ngờ vừa
thấy người lạ nàng liền tránh ra xa, thành thử tốn
bao nhiêu công sức, mà cậu út chỉ thoáng thấy chút
bóng dáng mà thôi. Càng khó khăn thì lại càng hấp
dẫn, cậu phải chầu chực thêm mấy ngày nữa, mới
thấy rõ nhan sắc mặn mà khi nàng thướt tha theo mẹ
đi lễ chùa. Kể từ đó, cậu Út bỗng mê mẩn tâm
thần, bao nhiêu tình ý đều hướng về nàng, cuối
cùng dù biết cha mẹ phản đối vẫn nhất quyết đòi
cưới nàng cho được. Biết tánh mẹ cưng chiều, cậu
giả bộ buồn dàu dàu, bỏ ăn, bỏ ngủ… một ngày,
thì bà mẹ đã lo lắng loạn lên gây gổ chồng, buộc
phải dẹp tự ái đứng ra lo cho con. Một bà mai lịch
thiệp được cử đến nhà cụ Phan đánh tiếng. Cụ
đồ cho biết nếu được may mắn kết giao với bậc
đại gia quyền thế như Ông Hội Đồng là hân hạnh to
lớn, nhưng cụ rất tiếc không thể nhận lời vì đã
lỡ hứa gả con cho gia đình họ Võ rồi. Nghe “hung tin”
cậu Út thất tình bỏ ăn bỏ ngủ đờ đẫn xơ xác
cả người khiến ông bà Hội Đồng quýnh quáng viện
trợ đến Ông hương cả làng Điều Hòa, người có
uy tín bậc nhất tại địa phương đứng ra dàn xếp
nội vụ dùm bằng mọi giá. Lão già đầy mưu lược
nầy thoạt đầu hết lời ca tụng cậu Út là một
thanh niên hào hoa lịch lãm và có tài ăn nói tiếng Tây
lưu loát hiếm có, lại được cha là Hội Đồng quản
hạt giàu sang tột bực nâng đỡ nên chắc hẳn tương
lai huy hoàng khó ước lường. Thấy phần khoa trương
nầy chưa đủ hiệu nghiệm, lão hương cả bèn đổi
đề tài nhắc tới nhắc lui mãi thanh thế thân Pháp,
tài bợ đỡ vận động chạy chọt của Ông Hội Đồng,
để ngấm ngầm đe dọa, nhưng cụ đồ tuy mềm mỏng
mà vẫn khư khư từ chối. Trước khi ra về, lão hương
cả giả vờ trỏ mấy nọc trầu, cười khẩy khen: “Cụ
tìm đâu được giống trầu lá vàng Bà Điểm, quí
thật!” Cụ đồ biết hắn ngầm cho biết họ đã nắm
rõ lý lịch của mình, cụ nhận thấy tình hình có
phần gay cấn, lòng muốn đưa hai đứa nhỏ di tản nơi
khác cho yên, nhưng ngại tiếng đồn bậy là có “con
gái bỏ nhà theo trai” mang nhục cho tổ tiên, nên vội
cho tổ chức liền lễ hỏi đơn sơ, và dự định lễ
cưới sẽ thực hiện gấp trong vòng vài tháng sau đó.
Mùa Trung Thu năm Giáp Thìn (1904), chú rể tương lai khệ
nệ mang trà bánh kính biếu nhạc gia, vừa vào nhà thì
toán lính mật thám do tên cò Tây Robert chỉ huy ập vào
nhà lục soát lung tung, lập biên bản tịch thu tài liệu
và sách chữ Hán, tuyên bố bắt quả tang truyền đơn
sách động phản loạn, rồi còng tay hai người đàn ông
dẫn đi mất. Tai họa khủng khiếp đổ ập lên đầu
người hiền lương, hai bà mẹ và cô gái chẳng làm
gì hơn là ôm nhau mà khóc. Nghe đồn vụ bắt bớ liên
quan đến chánh trị, bà con cô bác tránh né khó nhờ
vả hỏi han ai được, ba người đàn bà dắt díu nhau
đến nhà tù tìm chồng tìm con, nơi nầy chỉ sang sở
Mật Thám xin giấy phép thăm nuôi, lòng vòng hai ngày
trời vẫn chưa biết tin tức gì của thân nhân. Chiều
đó, lão hương cả bất ngờ viếng nhà, với thái độ
nhũn nhặn thường lệ hắn thăm hỏi và đề nghị giúp
đỡ. Hắn đích thân đưa hai bà mẹ và cô gái đi thăm
nuôi. Hắn sắp xếp cho viếng phòng giam chàng trai trước,
cho bọn đàn bà mục kích tường tận tình trạng chàng
ta nằm thoi thóp hầu như sắp tắt thở, mặt mày bầm
dập nát bét, với giòng máu tươi còn rỉ rả nơi khóe
miệng. Dì Năm và Mỹ Linh đau đớn quá, xỉu lên xỉu
xuống phải nhờ người giúp đưa ra ngoài. Trước khi
dẫn đến phòng giam cụ đồ, hắn lên tiếng : “Cụ
đồ, nhờ được Ngài Hội Đồng can thiệp với Ông
Cò Robert nên tạm thời chưa bị tra tấn, xin chị và cháu
yên tâm!”, vừa cất lời hòa nhã, hắn đổi giọng
nửa cười cợt nửa đe dọa: “…nhưng tôi không dám
bảo đảm tình trạng tốt nầy còn kéo dài đến ngày
nào nữa a a a..!” Hắn im lặng một chút chờ cho lời
dọa thâm độc bắt đầu ngấm vào kẻ đối thoại,
mới lấp lửng đưa ra điều kiện:
– Trừ
phi! Trừ phi… hà! hà! cụ đồ biết thuận thời…
kết thông gia với Ngài Hội Đồng thì Ngài có hẹp
lượng gì không can thiệp cho thông gia ra tù ngay!
Mỹ
Linh bình tỉnh lên tiếng:
– Còn
số phận của Võ huynh thì sao?
Lão
ta đắc ý :
– Hắn
cũng được thả, miễn rằng hắn phải rời khỏi nơi
nầy tức thời, đi cho biệt tông tích, nếu không thì…
nếu không thì… tánh mạng khó bảo toàn đó nhe!
Cụ
đồ sẵn sàng chấp nhận cái chết cho riêng mình, nhưng
cụ không nỡ để thằng bé phải chết thảm, nên đành
cắn răng chịu nhục, hứa gả con gái cho phường gian ác.
Thi hành đúng theo giao kết, dì Năm rước con ra khỏi nhà
tù đi luôn về miền Tây, bọn ác nhân cho người theo
giám sát đến tận Bắc Vàm Cống mới buông tha.
Lễ
cưới liền được tổ chức gấp rút trong hai tình
huống đối nghịch nhau. Cụ đồ xấu hổ vì phải gả
con cho “giặc” nên buông xụi, chẳng trang hoàng, chẳng
mời mọc ai… nhà cửa vắng hoe, buồn tủi, khóc lóc
chia tay nhau thảm thiết như đưa đám ma. Ngược lại, nhà
trai hùng hổ đi rước dâu, trống lân rần rộ mở đường,
xe cộ kết thành đoàn lũ lượt, tiệc tùng linh đình
thâu đêm, đầy nghẹt khách Tây Tàu đến chung vui chúc
tụng.
Mợ
Út Mỹ Linh thời còn son trẻ, vốn đã mảnh mai liễu
yếu, đến khi về nhà chồng lại vướng chứng bệnh
lười ăn mất ngủ nên càng gầy gò ẻo lả. Nàng lặng
lẽ sống âm thầm ảm đạm, chẳng thích giao du với ai,
nhứt là dòng họ bên chồng, khiến Bà Hội Đồng ghét
cay ghét đắng. Mụ thường bực bội nghiến răng đay
nghiến: “Nó là thứ yêu ma quỉ mị ám chướng thằng
Út mà!”, nói là nói với người khác nghe chớ bà
đâu có cơ hội mắng con dâu, huống chi bà rất quí
trọng thằng con trai, mà nó thì nể vợ, bà đâu muốn
sanh sự làm gì. Kể ra nhận xét của bà Hội Đồng
cũng không đến nổi quá đáng, cậu Út là tay ăn chơi
từng trải, gái đeo cả bầy không lụy ai, vậy mà chẳng
biết do “ám chướng” nào vừa gặp Mỹ Linh đã mê
mệt phục tùng, hết lòng chiều chuộng nàng… mặc
dầu nàng luôn giữ thái độ hửng hờ xa vắng. Tuy
nể vợ nhưng cậu Út rất đa nghi, bám sát kiểm soát
nàng từng ly từng tí, vì vậy, nàng chẳng tiếp xúc
được một ai, ngoại trừ bé Chín, đứa cháu họ mà
Mỹ Linh mang theo sau ngày cưới để giúp việc lặt vặt
và làm con thoi liên lạc với gia đình. Một hôm, qua khung
cửa sổ Mỹ Linh thấy một bà vãi già bên kia đường,
tay ôm bình bát chậm chạp dò từng bước một. Mỹ
Linh bảo bé Chín mời bà vào nhà để cúng dường,
bà vãi từ chối lấy tiền, chỉ nhận nải chuối lá
gọi là hóa duyên. Bà xá cảm tạ, nói vài câu kệ khuyến
tu tẻ nhạt, rồi tặng cho Mỹ Linh tờ giấy đỏ ngoằn
ngoèo hai hàng chữ nho tợ như một lá bùa, rồi ra đi.
Mỹ Linh là một người chẳng tha thiết thứ gì kể
cả vòng vàng châu ngọc, mà đối với lá bùa thô sơ
tầm thường lại trang trọng giữ kỹ, quả là chuyện
kỳ lạ. Nàng ngắm nhìn suốt ngày: khi thì ngẩn
ngơ tìm hiểu, có lúc như say mê chiêm ngưỡng, khiến
cậu Út đâm ra khó chịu muốn xé phứt cho rồi.
Mủa
hè năm Ất Tỵ (1905), khí hậu nóng bức khác thường,
Mỹ Linh đau yếu liên miên, đưa lên bệnh viện Grall Saigon
điều trị không tìm được nguyên nhân. Nghe đồn có
Đông y sĩ nào nổi tiếng, cậu Út cũng đều mời
thỉnh, nhưng mọi cố gắng nầy hầu như bất lực. Tuy
đã thề tuyệt giao với thông gia, nhưng khi nghe bé Chín
báo tin con gái đau nặng bất tỉnh, mạng sống mong manh
như chỉ mành, bà đồ đành ép bụng đến thăm con, và
van xin Ông bà Hội Đồng cho mang con về nhà mình chết
đúng theo nguyện vọng của nó. Hai người chẳng ai ưa
gì đứa con dâu, tống nó ra khỏi nhà là chuyện họ
hằng mong muốn, ngặt nỗi họ sợ mang tai tiếng nên
sau khi cân nhắc kỹ, họ dứt khoát từ chối. Bà đồ
không thể bịn rịn mãi với con tại nhà kẻ thù địch,
đành phải đứt ruột xót gan ra về. Về nhà thấy
chồng đang uống trà đàm đạo với vị sư già, bà
cảm thấy hơi lạ. Thì ra cụ đồ hi vọng vợ sẽ mang
được con về, nên vội vã đón chiếc xe kéo đến
chùa Bửu Lâm thỉnh sư trụ trì lo tang ma cho con. Khi đến
nơi mới biết cả chùa đều đi vắng, cụ đồ buồn
hiu lủi thủi bước ra, thì chú kéo xe bỗng gợi ý:
– Sao
cụ không mời Ông sư muối ớt, ổng tụng kinh rành rọt
lắm đó!
– Uả
tên vị nầy nghe sao lạ tai quá? Mà Ổng ấy ngụ ở
chùa nào vậy chú?
– Ổng
từ đâu tới không ai biết, hiện ở tạm tại cái chái
sau chùa kia kìa! Còn việc mang tên sư muối ớt vì có
lần ổng đi theo pháp sư Lưu Khôn tụng kinh làm đám được
gia chủ đãi mâm cơm đầy cá thịt, ổng ăn chay nên chỉ
âm thầm ăn cơm với muối ớt nên mới có tên đó!
– Chú
giỏi quá! Chuyện nào chú cũng rành cả!
– Tôi
nghe thằng Tám Xỉn nói sao kể lại vậy mà thôi. Nó
cũng chạy xe kéo như tôi, nhậu “xỉn” tối ngày nên
mới mang tên nầy. Số là khi ông sư mới tới Mỹ Tho
đi lang thang thì gặp Tám Xỉn đang ngồi tại quán cóc
nhâm nhi ba sợi, sư nhờ Tám chỉ ngôi chùa gần đó để
xin ở trọ. Tám đang “xỉn” chẳng úy kị gì cứ
nắm tay sư ép ngồi xuống lè nhè: “Hít! hít! Ngồi
cụng với tui vài ly… hì!.. hì!.. thì… tui… tui…
chỉ… cho… !” “Ngồi chơi thì tôi ngồi, nhưng
uống rượu tôi không biết! Nhậu có vui không hả chú?”
“Hít! hít! Vui lắm! Vui vô cùng vô tận lận!” “Chú
nhậu vui mà có biết ở nhà vợ con đang đói, đang
buồn khổ không?” Tám nghe câu hỏi nầy bỗng nhiên tỉnh
rượu, nghĩ ra mới biết nảy giờ vì say “xỉn” đã
lỗi lầm lôi kéo vị sư già, nên để chuộc tội hắn
nài nĩ sư lên xe đưa đến chùa. Dọc đường hắn giải
thích vì số phần xui xẻo kiếm không đủ tiền nuôi
vợ con, buồn quá nên mới sanh tật nhậu nầy. Sư dạy:
“Không phải số hên xui đâu con, mà chính vì con say sưa
tối ngày nên mấy ai dám lên xe con chở!” Tới chùa,
sư đưa cho Tám số tiền trọng hậu căn dặn mua món
gì về cho vợ con ăn. Nó kéo xe ra đi mà còn nghe tiếng
sư nhắn nhủ vói theo: “Nhớ bỏ rượu nghen con!” Ổng
chỉ nói có một câu vậy mà thằng Tám nghe theo bỏ
rượu, nhờ nó biết tu tỉnh nên bây giờ nó có khách
mối khá lắm!
Vị
sư già lụ khụ mặc áo lam cũ ngụ trong chái lá tồi
tệ, với vẻ mặt phúc hậu đón tiếp cụ đồ. Chỉ
vài câu đối đáp, cụ đồ đã nhận ra được chân
tướng của vị cao tăng đạo hạnh liền cung thỉnh sư về
nhà chủ trì tang sự. Sư vui vẻ đồng ý nhưng cho biết
sư đang chờ Tám Xỉn đánh giây thép(điện tín), khi
Tám trở về sẽ đưa sư đến nhà cụ đồ sau.
Cụ
đồ chỉ chuyên học cái đạo quân tử của Khổng Mạnh,
đối với Phật giáo xưa nay chưa có dịp tìm hiểu nên
vẫn ngầm coi thường là mê tín, chỉ hợp với kẻ
bình dân, nay nhân hỏi đạo với bậc chân tu mới hiểu
thế nào là cái khổ sanh tử luân hồi, thế nào là
chánh đạo, thế nào là con đường giải thoát… nên
ngưỡng mộ vô cùng. Câu chuyện đang hào hứng thì bà
đồ về nhà sụt sùi báo cáo tin con sắp lìa đời
trong khi việc xin rước con đã bất thành. Sư lên tiếng
:
– Hai
con hãy yên tâm, thầy tin tưởng rằng nội ngày nay thầy
sẽ đưa cháu về nhà lo hậu sự, miễn là hai con hứa
chắc đừng khóc than bi lụy làm trở ngại đường tu
của vong linh mà thôi.
Nể
trọng sư, hai vợ chồng gượng gạo hứa, chớ họ biết
chắc cái đám Hội Đồng nầy lòng dạ nham hiểm khó
lường, dễ dầu gì họ đổi ý.
Khoảng
một giờ sau bỗng bé Chín dầm mưa hộc tốc chạy
về nhà, khóc nức nở :
– Nguy
to rồi Ông bà Mười ơi!
– Chuyện
gi? Chuyện gì?
– Cô
con chết rồi hồi 4 giờ chiều. Chết mà thành ma ghê
quá, khiến cả nhà đằng kia sợ hết hồn hết vía
vậy đó!
– Con
kể rõ đầu đuôi coi ma như thế nào vậy con?
– Lúc
đó mắt cô nhắm nghiền, hơi thở nặng nhọc, rồi
bỗng thở hắt ra mấy hơi, dượng thở dài lắc đầu,
con nghĩ chắc là nguy rồi. Trời bỗng đổ mưa, trong
nhà tối lù mù nên con đứng lên định vặn đèn, bỗng
con thấy cô đứng lù lù trước tủ kiếng, nhìn lại
bên giường thấy xác cô vẫn còn còn yên ở đó. Con
sợ quá run lẩy bẩy mà mắt vẫn trợn trừng nhìn,
tay con chỉ cô, miệng kêu hổng ra tiếng “ê! ê!” Hổng
dè dượng còn nhát hơn con một bực nữa, vừa nhìn
theo ngón tay con thì mặt mày dượng tái mét, dượng
hét ầm lên “Trời ơi ma! ma!” rồi bò lết ra ngoài.
Bà Hội nghe tiếng con la, nóng ruột phóng đến cửa
phòng vừa tràn vào vừa chỉ chỏ xỉ vả: “Đồ quỉ!
Đồ yêu! Mầy chết mà…” bà mắng chưa hết câu,
không biết tại sao bà bị cái gì đập vào mặt té
ngã ngửa, đầu đụng vào cánh cửa máu chảy tùm lum,
ôm cái mặt bầm tím khóc la chí chóe. Ông Hội Đồng
tức như điên la hét ỏm tỏi hối gia nhân rước cha sứ
về nhà gấp để trị ma. Chờ lâu sốt ruột Ông bồng
súng, ra lệnh gia nhân xách “măng xông” đi theo đến
cửa phòng quyết bắn ma.
Ông
chỉa súng từ từ tiến thẳng vào, mắt láo liên tìm
ma chuẩn bị bóp cò, bỗng tự nhiên đứng khựng lại
ngã bật ra, khẩu súng văng theo nổ “đùng” một tiếng.
Cậu Út và bà Hội lóp ngóp đứng xa xa để nhìn
theo, bỗng ngã nhào la oải oải, cậu Út bị viên đạn
sướt nhẹ vào bắp chân khóc thét từng cơn. Cả nhà
hổn loạn, một nhóm theo Bà Hội đưa cậu Út đi nhà
thương, số còn lại lăng xăng ở sân trước bao quanh Ông
Hội chờ sai bảo. Lại có tin chiếc xe rước cha sứ,
vì đường trơn trợt đã đâm vào cột đèn khiến
cha sứ bị thương không đến được, khiến Ông Hội
càng thêm bối rối thất thần. Khi đó, thì chú bếp
khoe là có quen với Pháp sư Lưu Khôn, người có tài
trị ma, nhốt ma vào hũ dán bùa ếm thì ma bị kẹt trong
đó đời đời. Ông Hội mừng rỡ hối thúc chú bếp
đi rước ngay. Con sợ ông pháp sư đó nhốt cô con vô
hũ quá, nên chạy rút về báo tin cho Ông bà Mười coi
có cách gì cứu không?
Sư
đứng dậy cầm lấy tay nải lên tiếng: “Thầy phải
đến đó ngay mới kịp”, thấy vợ chồng cụ đồ
dợm bước theo, sư ra dẩu hiệu cản ngăn: “Hai con nên
ở nhà chuẩn bị mọi việc, phần Bé Chín thì mang
theo cái võng đi với thầy.”
Cửa
nhà Ông Hội Đồng mở hé, bên ngoài kẻ hiếu kỳ lóng
nhóng nhìn vào, trong sân Ông Hội và đám bộ hạ nhi
nhô chỉ chỏ. Khi sư vừa đến thì có vị pháp sư áo
rộng thùng thình ào ào vượt qua, thấy sư hắn liền
chận lại hỏi:
– Uả!
Có ai mời Ông tới không?
– Không
ai mời tôi cả!
Lưu
Khôn cười ngạo nghễ:
– Vậy
thì hãy tránh ra! Ông Hội Đồng mời tôi tới bắt
ma. Nghề ruột của tôi mà!
Nói
xong Lưu Khôn bước vào sân cười cười nói nói, rồi
đầu đội mũ Tỳ lư, tay cầm roi dâu, tay kia bắt ấn,
miệng lâm râm thần chú… nghinh ngang phóng vào phòng
có ma. Bỗng nghe tiếng “uỵch”, Lưu Khôn mặt mũi sưng
vù, lóp ngóp bò ra khỏi cửa, rồi phóng chạy biến
đi không nói một lời từ giả.
Lúc
đó bỗng có chiếc xe hơi citroen mui vải hiếm có ngừng
bên đường cho bốn nhà sư và hai nữ cư sĩ bước xuống.
Tất cả vội vàng bước đến, đê đầu sụp lạy vị
sư già không câu nệ dơ sạch khiến khách bàng quan vô
cùng kinh ngạc. Một nhà sư cất tiếng:
– Bạch
hòa thượng, vừa nhận giây thép của thầy, đúng lúc
lại có Quách xếnh xáng trên đường về Cần Thơ ghé
thăm chùa, chúng con bèn xin quá giang đi liền tới đây,
lại có thầy Thiên Trường cũng xin đi theo bái kiến
thầy.
– Hay
quá! Vậy xin nhờ thầy Thiên Trường và con đến ngay
nhà cụ đồ Phan hướng dẫn sắp xếp việc tổ chức
hậu sự, sẵn sàng hộ niệm khi thầy rước thi thể
con gái họ về. – quay sang bốn vị còn lại, sư tiếp
lời – Các con thì ở đây tiếp thầy.
Dứt
lời, thầy ngoắt bé Chín đi theo, an nhiên tiến vào
sân gặp Ông Hội Đồng, từ tốn xá chào rồi lên
tiếng:
– Chuyện
lộn xộn xảy ra trong nhà Ông, chẳng có gì là ghê gớm
cả! Ông hãy bình tỉnh lại và nghe tôi đề nghị lời
nầy: Ông chỉ cần niệm một câu “Nam Mô Phật” thì
tôi sẵn sàng giúp Ông mọi việc.
Sau
khi pháp sư Lưu Khôn chạy dài, Ông Hội Đồng lâm vào
tình trạng tinh thần khủng hoảng trầm trọng vì chẳng
biết phải làm sao, Ông lại mục kích cảnh chư tăng đảnh
lễ trọng vọng vị sư già, lòng đã muốn lên tiếng
nhờ vả mà còn ngại, nay bỗng nhiên vị sư già mở
lời đúng theo lòng mong ước thì còn gì cho bằng, Ông
“mừng húm” cúi đầu xá tán loạn:
– “Nam
mô Phật” Xin Ông làm ơn giúp dùm tôi. Tốn bao nhiêu
tôi cũng sẵn sàng hết!
– Tôi
không nhận tiền bạc gì cả, nhưng tôi báo cho Ông biết
là tôi cần mang thi hài của cháu ra khỏi nhà thì oan
hồn mới yên ổn không phá phách!
– Tốt
lắm! được lắm! phải lắm! – Ông Hội Đồng vừa
nói quýnh quíu vừa gật đầu lia lịa –
Sư
mở tay nải lấy y vàng khoác lên, cầm chuông nhỏ tiến
về gian phòng ma, bé Chín cũng bước theo sát gót. Có
sư hiện diện nên bé Chín đỡ sợ, bé ghé mắt nhìn
vào vẫn thấy hồn ma Mỹ Linh đứng ngẩn ngơ nhìn tủ
kính. Sư thỉnh tiếng chuông rồi khoan thai bước tới.
Hồn ma quay mặt lại nhìn, sau một thoáng ngạc nhiên bỗng
luống cuống chấp tay xá chào. Sư tiến thêm mấy bước,
rồi ngọt ngào lên tiếng:
– Con
có điều bối rối chưa hiểu rõ lời lẽ khuyến tu
nầy phải không? Hai câu kệ: “Cùng nhau Niệm Phật vãng
sanh. Di Đà cõi Phật bạn lành đồng tu” tuy vắng tắt
nhưng chắc con hiểu ra được là bạn con khuyên con cùng
tu Niệm Phật để cùng vãng sanh một chỗ, điểm rắc
rối chỉ vì con chưa nắm vững pháp tu Niệm Phật như
thế nào cho có hiệu quả, nên lúng túng phải không?
Hồn
ma chấp tay kính cẩn xá sư. Sư ôn tồn giảng giải tiếp:
– Phiêu
là đệ tử của thầy. Nó tu môn Niệm Phật và đã
được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà rồi. Có lẽ,
trước khi từ trần nó nhờ cô ni mẹ nó mang câu kệ
nầy cho con để khuyến khích con cùng tu một pháp môn
để cùng vãng sanh về một chỗ.
(Mỗi
lần nghe thầy dạy một câu, hồn ma cung kính xá thầy
như tỏ ý vâng lời, nên xin miễn lập lại điều nầy)
– Phần
con, con có tha thiết muốn sanh về cõi Phật đó không?
Nếu con một lòng một dạ muốn tu, thầy sẽ qui y cho
con rồi hướng dẫn con tu.
– Đừng
lo! con tu giờ phút nầy vẫn còn kịp, vẫn thành công
như thường, miễn là con tin tưởng và thực hành lời
thầy dạy. Con biết không? Khi mình còn sống, tâm mình
bị thân ngăn trở nên kết quả tu hành rất chậm, còn
giờ phút nầy tâm không còn bị thân ngăn trở nên rất
mạnh: niệm ác nổi lên thì liền bị kéo về địa
ngục, còn Niệm Phật tha thiết thì trong mười niệm
cũng đủ cảm ứng để sanh về cõi Phật.
(Hồn
ma quỳ xuống chấp tay chân thành)
– Con
ngoan lắm, kể từ giờ phút nầy con chánh thức là
đệ tử của thầy, thầy chọn cho con pháp danh là Như
Nhất, có nghĩa là như thế mà nhất tâm tu tập đạo
giải thoát. Đã là con Phật thì phải dứt bỏ lòng
hận thù ganh ghét, ai gian ác hại con thì tự họ gánh
chịu nghiệp quả của họ, phần con chỉ nên lo tu mà thôi,
nếu con còn oán hận nghĩ tới họ thì cứ lẩn quẩn
với họ chớ làm sao siêu thoát được.
Thầy
đến tủ kính lấy câu kệ khuyến tu cất vào tay nải,
bé Chín liếc mắt theo thầy vừa ngó trở lại, thì
bóng ma đã biến mất rồi. Bé Chín nghi ngờ dụi mắt
nhìn lại cũng không khác, bé đang thắc mắc thì chợt
nghe thầy lên tiếng:
– Bé
Chín! Con trở ra dắt hai bà cư sĩ chùa Giác Lâm vào
đây chuẩn bị đưa cô con đi, con nhớ đem cái võng vào!
Hai
Phật tử từng theo thầy lo tang ma và hộ niệm, đã
có nhiều kinh nghiệm nên thầy không cần giải thích
đã hiểu ý, họ nhẹ nhàng nâng thi thể người chết
đặt lên võng, rồi người một đầu, võng theo thầy
đi từng bước chậm. Thầy bước đi trước, thỉnh tiếng
chuông và bắt đầu niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Khi ra
ngoài đã có hai vị tăng sĩ, y vàng trang nghiêm, chuông
mỏ đầy đủ tháp tùng, vừa đi vừa Niệm Phật không
ngừng, nên âm vang có phần hùng hậu. Thi thể sau đó
được nâng đặt lên chiếc xe kéo của Tám Xỉn, hai nữ
cư sĩ kèm sát hai bên, cùng di chuyển chậm chậm theo
chân quí thầy. Khách bàng quan nhiều người hưởng ứng
kết thành đoàn đưa đến tận nhà cụ đồ mới giải
tán.
Nhờ
mọi việc đã có sư Thiên Trường sắp xếp chu đáo,
nên sau khi đặt thi hài vào áo quan, thầy liền thỉnh
chuông lễ Phật rồi khai thị ngay:
– Đệ
tử Như Nhất con hãy lắng nghe: Tâm Phật và tâm của
chúng ta vốn đồng một bản chất là rổng lặng như
hạt minh châu, nhưng vì tâm ta bị tham sân si che khuất nên
tối tăm không chiếu sáng, như vậy, nếu ta rời bỏ
được tham sân si thì tâm sẽ là hạt châu trong sáng, không
lu mờ, từ đó mới có khả năng phản chiếu với hạt
châu tâm Phật và cảm ứng được tâm Phật. Tóm lại,
nếu con một lòng tha thiết Niệm Phật trong mười niệm
mà không còn chút tham sân si chen vào, thì Đức Phật
A Di Đà cùng thánh chúng sẽ tiếp dẫn con về cõi Phật
như Ngài đã phát nguyện. Bây giờ, con hãy nương theo
thầy và tăng ni Phật tử đồng Niệm Phật con nhé!
Nhờ
có quí thầy và nhóm Phật tử chùa Bửu Lâm thay phiên
nhau hộ niệm nên tiếng Niệm Phật ngày đêm không dứt.
Thầy tuổi hạc đã cao, dù chư tăng nài nĩ nhưng vẫn
không chịu nghỉ ngơi, mỗi ngày đến đúng giờ mà Như
Nhất lìa đời thì thầy đích thân nhắc lại lời
khai thị, rồi mới tiếp nối Niệm Phật. Vào ngày
thứ ba, sau khi khởi Niệm Phật trở lại đúng mười
câu, bỗng lưng trời nghe như văng vẳng tiếng nhạc êm
dịu, thầy bảo đại chúng cùng quỳ lạy mọp xuống đón
Tam Thánh. Chừng mười phút trôi qua, thầy đứng
dậy thông báo Như Nhất vừa được Tam Thánh tiếp dẫn,
đại chúng vô cùng hoan hỷ và xúc động trước sự
kiện hãn hữu chưa từng nghe thấy. Những người hiện
diện ai cũng đích thân thoáng nghe nhạc trời và mùi
trầm hương phưởng phất, nhưng trường hợp bé Chín
khá đặc biệt, có lẽ vì hai người có mối thâm tình
sâu xa. Cháu kể: “Tuy mọp sát nhưng con vẫn ráng nhìn
lên, con thấy có hai đồng tử mang hoa sen xanh đáp xuống
mời cô con lên tòa sen, bay về hướng có tòa sen rợp
cả trời!”.
Việc
lớn coi như đã xong, thầy ủy thác cho chư tăng tiếp
tục lo tang lễ cho đến khi hoàn mãn. Thấy thầy sắp
rời bước, hai vợ chồng cụ đồ quỳ lạy cảm tạ
thầy:
– Ơn
thầy lớn như trời như biển, không có lòng từ bi đức
độ của thầy chở che bảo bọc, thì cháu Linh chắc
chắn vĩnh viễn sẽ làm ma lạc lõng, chớ làm sao có
diễm phúc vãng sanh như thế nầy.
Thầy
cười hề hà:
– Thầy
có duyên nên mới độ được cháu, nhưng nói đúng ra
thì chính cháu tự độ cho cháu chớ chẳng ai khác.
Trước hết, phải hiểu là sau khi nhận được hai câu
kệ khuyến tu, cháu đem hết tâm niệm mình đặt vào
đó, lúc nào cũng tha thiết nguyện về cõi Phật A
Di Đà dù không biết tu cách nào. Tâm niệm tu mạnh đến
nỗi chết rồi mà vẫn còn ngơ ngẩn chiêm nghiệm câu
kệ, lòng chẳng tham luyến cõi Ta Bà, cũng chẳng bận
tâm thù hận, nên tâm chuyên nhất cô động thành khối
như tường vách ngăn chận, khiến kẻ mang tâm niệm ác
va vào rồi tự té ngã. Và cũng chính do lòng thiết
tha tu tập đó, nên khi được hộ niệm đã sớm đạt
thành quả nhất tâm mà vãng sanh Tịnh độ.
Thầy
bỗng hướng vào đại chúng, cất tiếng nhắc nhở
chung cho mọi người: “Các con nên nhớ noi gương cháu
Như Nhất giữ vững tâm nguyện vãng sanh không lay chuyển
trong bất cứ tình huống nào thì đường về cõi Cực
Lạc chắc chắn không xa!”
Tháng
03.2008
Ghi
chú:
1.
Tây An tự: Chùa do Tổng Đốc Doãn Uẩn xây
dựng năm Đinh Mùi(1847), tọa lạc tại xã Vĩnh Tế, Châu
Đốc. Sau khi hoàn thành, Tổng đốc đã thỉnh hòa thượng
Tiên Giác – Hải Tịnh, nguyên là tăng cang tại chùa Linh
Mụ, Huế vừa trở về miền Nam đảm trách trụ trì
tổ đình Giác Lâm, Gia Định kiêm nhiệm trụ trì. Khi
cư sĩ họ Đoàn hành đạo tại trấn An Giang bị triều
đình bắt buộc phải chánh thức xuất gia theo Phật
Giáo mới được hoằng pháp, tổ Hải Tịnh đã cho cư
sĩ thọ giới, với pháp danh Minh Huyên. Minh Huyên được
cử phụ trách Tây An tự cùng với sư đệ Minh Võ. Sau
khi Ngài Minh Huyên từ trần (1856), Ngài Minh Võ được
cử chánh thức trụ trì.
Tuy
Tây An tự trên nguyên tắc trực thuộc tổ đình Giác
Lâm, nhưng sau một thời gian dài bất ổn về chánh trị,
chùa Tây An mất liên lạc với tổ đình, mãi đến khi
tổ Minh Khiêm – Hoằng Ân hoằng hóa phương Nam, nhận thấy
chùa Tây An suy vi, bèn lưu lại một thời gian để chấn
chỉnh, và sau đó đã cử đệ tử Như Mật – Bửu
Thọ trụ trì (1911). Sư Như Mật đã kiến thiết ngôi
chùa Tây An như hiện trạng.
2.
Phật thầy Tây An (1807-1856): Ngài họ Đoàn
(không rõ tên), pháp danh Minh Huyên tức Đức Phật Thầy
Tây An, vị khai sáng chi phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại miền
Nam vào triều vua Tự Đức. Ngài vốn là vị cư sĩ
Phật giáo nắm vững khế lý khế cơ, phối hợp việc
trị bệnh, làm ruộng độ đời hầu nương vào đó
truyền dạy giáo pháp thực tiển cho đám dân quê nghèo
dốt: sống theo tinh thần hiếu nghĩa, thực hành bốn
ân lớn (Tứ Ân Hiếu Nghĩa), và đặc biệt là bền
lòng gìn giữ câu Niệm Phật cầu vãng sanh về cõi
Tịnh độ. Vừa xuất hiện, đạo tràng của Ngài liền
quy tụ đông đảo tín đồ thuần thành tề tựu lập
trại ruộng canh tác, cùng sống cùng tu tương thân tương
ái. Tình trạng thu phục nhân tâm nhanh chóng nầy khiến
cho chánh quyền tỉnh An Giang lo ngại có sự lợi dụng
tôn giáo cho mưu đồ chánh trị, do đó, để không bị
ngăn trở công cuộc hoằng pháp, Ngài tuân theo lệnh triều
đình Huế, chính thức thọ giới xuất gia với Hòa
thượng Tiên Giác – Hải Tịnh trụ trì chùa Giác Lâm,
Gia Định. Hòa thượng ban cho Ngài pháp danh Minh Huyên, hiệu
Pháp Tạng (Pháp Tạng – Minh Huyên, gọi theo thiền gia),
và trao trách vụ hoằng pháp tại chùa Tây An, núi Sam.
Ngài có 12 đệ tử nổi danh như: Quản cơ Trần văn Thành,
Tăng chủ họ Bùi, Đạo Lập, Đạo Xuyến, Đạo Ngoạn,
Đạo Thắng, Đạo Sĩ, Đạo Chợ, Đạo Đọt… hoằng
hóa khắp miền Tây Nam Phần.
3.
Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh (1788-1875): Sư xuất
gia năm 15 tuổi, đệ tử xuất sắc của hai vị tổ nổi
tiếng Linh Nhạc và Viên Quang, đảm trách trụ trì Từ
Ân, Gia Định năm 1821. Năm 1825 được vua Minh Mạng vời
về Huế lần lượt giữ chức tăng cang các chùa Thiên
Mụ, Long Quang, Giác Hoàng. Năm 1944, Hòa Thượng Hải Tịnh
xin trở về Nam và được đề cử trụ trì chùa Quốc
Ân Khải Tường, kiêm nhiệm chùa Giác Lâm… và chùa
Tây An, Châu Đốc.
Ngài
đào tạo rất nhiều đệ tử tài đức, đặc biệt
nhất là hòa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân và Minh Huyên
Pháp Tạng tức Phật Thầy Tây An.
4.
Tổ Minh Khiêm – Hoằng Ân (1850-1914): đệ tử
xuất sắc của hòa thượng Tiên Giác – Hải Tịnh, được
hòa thượng cử giữ chức vụ trụ trì chùa Giác Viên
khi mới 19 tuổi (1869), đến năm 1887, kiêm nhiệm thêm
chùa Giác Lâm.
Vừa
nhận trách nhiệm trụ trì phải xây dựng và tái thiết
hai chùa to lớn, hòa thượng vẫn dành nhiều thời hoằng
pháp và đào tạo tăng tài: khai mở trường hạ, chủ
trì đại giới đàn, ấn tống kinh sách… Sau một thời
gian dài lo lắng cho Phật giáo tại Gia Định và miền
Đông, đến khoảng năm 1905, sau khi sắp xếp đề cử
hai đệ tử Như Phòng và Như Lợi đảm nhiệm trụ trì
hai chùa Giác Lâm và Giác Viên, hòa thượng Minh Khiêm
Hoằng Ân hướng về miền Tây. Ngài du phương hoằng
hóa theo phong cách “bụi đời” nói theo thiền là “thỏng
tay vào chợ”, một mình lang thang ghé Mỹ Tho, hòa hợp
với hạng thầy cúng rượu thịt, la cà với giới phu
xe nghèo khổ để tùy duyên giáo hóa họ. Phật tử
rủ nhau đến quy ngưỡng với Ngài, sư Thiên Trường trụ
trì chùa Bửu Lâm quí trọng thờ kính Ngài là bậc
y chỉ đạo sư và xây cất một am cạnh chùa gọi là
am Viên Giác để hòa thượng tạm trú dạy đạo tại
Mỹ Tho. Rời Mỹ Tho hòa thượng cũng ẩn hình hoằng
hóa tại Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, rồi dừng lại một
thời gian khá lâu tại chùa Tây An để chấn chỉnh lại
sơn môn nầy. (Chùa Tây An vốn trực thuộc hệ thống
Giác Lâm, Gia Định, như vậy hòa thượng là bậc trưởng
thượng nhưng khi đến đó ẩn danh dạy đạo không ai biết
liên hệ nầy). Từ đó, Phật tử miền Tây suy tôn hòa
thượng là Tổ núi Sam. Năm 1913, sức khỏe đã yếu,
tổ trở về Mỹ Tho nhập thất tại am Viên Giác một
thời gian dài trước khi thị tịch vào tháng giêng năm
Giáp Dần (1914).
Discussion about this post