PHẬT GIÁO TRƯỚC |
|
|
Đại ý:
Giáo lý Phật Giáo không
hề trực tiếp đưa ra những giải pháp cho các vần đề của thời đại như dân số,
tiêu thụ hay mội trường. Tuy nhiên khi giãi thích những giá trị nội tại của
giáo lý Phật Giáo qua kinh điển, thì ta sẽ tìm ra những đường lối thích hơp để
giãi quyết các vấn đề này.
Trong ba vấn đề nêu ra,
thì ta không thể mở rộng môi trường và gia tăng tài nguyên tuỳ thich, mà chỉ có
thể giãm bớt dân số và tiết chế tiêu thụ
Phật Giáo không khyến
khích sinh sản, không bắt buộc Phật Tử phải có con như một bổn phận tôn giáo.
Sinh con hay không là do quyết định cuả riêng mình. Quyết định này đến từ ý
thức về cuộc sống của con người trong thế gian và trách nhiệm trong tình liên
đới, chứ không phải do tai nạn hay bổn phận.
Thuyết Duyên Khởi giãi
thích về sự tương thuộc cuả chúng sinh trong thế gian qua môt màng lưới liên
kết vô hình.Tất cã mọi sinh hoạt của con người đều có ảnh hưởng lẩn nhau và bị
chi phối theo theo luật nhân quả. Khi ta sử dụng tài nguyên bừa bải sẽ làm ảnh
hưởng đến môi trường chung.Tiêu thụ quá độ do lòng vị kỷ cũng gây ra tưong
tự.
Giãi thích giá trị của
Trung Đạo sẽ tìm ra một giãi pháp cho các vấn đề, mà thái độ tiết chế là một đề
nghị mà Phât Từ nên noi theo. Phât giáo đề cao rất mực điều may mắn khi được
sinh ra làm kiếp con người, không phải vì có nhân quyền hay được đứng trên tạo
vật khác. Theo ý nghiã tiết chế, thì sống một đời xa xí là vô nghiã, nhưng sống
nghèo khó chẳng đưa đi đến đâu. Phật Giáo không lên án giàu sang mà cũng không
hề ca ngợi nghẻo đói. Một đời sống tiết chế là điều kiện cần thiết và tiên
quyết cho sự tu tập để đạt tới giác ngộ. Để việc tu tập có kết quả, Phật Tử cần
có một cơ sở vật chất tối thiểu và bình an tâm hồn.
Thay vì chỉ lo nối dõi
tông đường, Phật Tử cần nổ lực khới động Bồ Đề Tâm, một hơi ấm của lòng từ bi
cho tất cã chúng sinh và muôn loài, vượt qua ý nghĩa hạn hẹp cá nhân gia đình,
tộc họ, điạ phương hay đất nước. Bồ Đề Tâm là một chủng tử giác ngộ cần vun bồi
và lưu truyền, nó cũng quý giá như các di sản văn hoá khác của nhân loại.
Quan niệm rằng quan hệ
tình dục mà không sinh sản là bại hoại đạo đức, giá trị này cần được xét lại
trong điều kiện thặng dư dân sô hiện nay. Vần đề tình dục, sinh sản và đạo đức
nên được thảo luận công khai và tách biệt ra, thay vì kết hợp lại đề lên
án.
Nhiệm vụ chủ yếu cuả
quan hệ tình dục là cãm thông và gắn bó trong xã hội con người. Kim Cang Thừa,
còn được gọi là Chân Ngôn Tông, xuất phát từ Bắc Ấn Độ vào thế kỳ thứ V, du
nhập và phát triển mạnh tại Tây Tạng. Giáo pháp này mang tính Mật Giáo, phương
pháp tu học huyền bí, bao gồm tôn giáo thiên nhiên cuả Ấn Độ và Phật Giáo, đặc
biệt có tôn thờ giới tính và hình tượng nam nữ yêu nhau.
so sánh như trí thức và từ bi. Quan hệ vợ chồng được xem như một tình bạn đồng
môn, cùng tu tập và gíúp nhau trong cuộc đời với sự đối xử trân trọng và bình
đẳng lẩn nhau, mà tình dục là một biểu tượng thiêng liêng, chứng minh cho sự
gắn bó này (Chú thích của người dịch)
Cách áp dụng những giáo
lý cơ bản của Phật Gíáo trước những vấn đề kiểm soát sinh sản và sử dụng tài
nguyên được viết bởi một ngườI đấu tranh cho nữ quyền và nữ học giả về khoa học
tôn giáo, mà Phật Giáo, một tôn giáo lâu đời, là mục tiêu tự chọn. Tuy nhiên,
trong bài này, tôi mang tới hai quan điểm, vừa là một người trong cuộc được tu
tập theo tư tưởng Phật Giáo, vừa là một người ngoại cuộc luôn trung thành theo
phương thức nghiên cứu tôn giáo đối chiếu đa văn hoá và những kiến thức đại
cương của những tôn giáo chính.
Cũng giống như trong
trường hợp tất cả các truyền thống quan trọng khác, người ta không thể tìm ra
những giãi pháp cho vấn đề hiện đại từ những kinh sách cổ điển; đúng hơn, cần
tìm ra những giá trị nội tại trong truyền thống đó để áp dụng cho các khủng
hoảng hiện thời mà không hề dự liệu về thặng dư dân số và tiêu thụ quá độ; một
mối đe dọa tràn ngập địa cầu mà chúng ta đang bị lệ thuộc. Theo quan điểm của
tôi, nhiệm vụ áp dụng những giá trị truyền thống Phật Giáo trước những vấn đề
này trong bối cảnh hiện nay không khó khăn,vì giá trị Phật Giáo cổ truyền đề ra
những đường lối vô cùng thích hợp nhằm đáp ứng hiện tình. Trong tiểu luận này,
tôi muốn trình bày trong một chừng mực nào đó như “một nhà khoa học Phật Giáo
với ý hướng xây dựng”, giải thích truyền thống này bằng cách mang gì cố
hiểu để đối thoại với những vấn đề và nhu cầu hiện nay. Phản ảnh quan điểm của
cá nhân tôi, vừa là Phật tử và vừa là học giả, tôi sẽ đúc kết những tài liệu
không những từ trong tư tưởng Phật Giáo cổ điển, mà còn dựa theo những quan
điểm Đại Thừa và Kim Cang Thừa Phật Giáo Đồng thời, nếu có thể được, tôi sẽ cố
gắng tránh tối đa không nghiêng theo một tông phái nào
Định nghiã vấn đề: Môi
Trường, Tiêu Thụ và Dân Số.
Khi chúng ta cố gắng
mang những giá trị truyền thống Phật Giáo nhằm thảo luận về hiện tình, điều
quan trọng là chúng ta phải hiểu rõ nội dung các tình hình đó. Nội dung của bài
này nhằm đề ra những vấn đề quan hệ hổ tương cuả môi trường, sử dụng tài nguyên
và phát triển dân số theo quan điểm Phật Giáo. Vì Phật Giáo luôn đề nghị rằng
chúng ta cần chấp nhận sự vật như chính chúng thể hiện, không nên thêm tưởng
tượng, điều thích hợp là chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu khái quát về hệ thống
kinh tế, tiêu thụ và dân số tác động nhau như thế nào. Khi ba vấn đề này quan
hệ nhau, người ta có thể tưởng tượng ra ba giải pháp: một dân số nhỏ vừa đủ
sống thoải mái dựa trên một cơ sở tài nguyên ổn định, tự tái tạo được;
một dân số dư thưà sống trong những điều kiện suy thoái mà l?i khan hiếm tài
nguyên; hoặc là một mô hình hiện nay với một số ít dân sống trong trong thịnh
vượng và một đại đa số đang phải sống vất vưởng. Giải pháp đầu tiên đáng được
chú tâm là điều rõ ràng. Làm sao người ta có thể đề cao sinh sản đến độ để
thích chọn giải pháp thứ hai hon là giải pháp thứ nhất, điều này không thể hiểu
được, và mô hình hiện nay dành cho kẻ có ưu quyền đặc lợi lại không thể chấp
nhận được về mặt đạo đức Hiển nhiên, dân số là một yếu tố duy nhất có thể giải
quyết trong toàn bộ vấn đề. Nói một cách khác, khi chúng ta nhìn ba yếu tố
trong cuộc thảo luận -môi trường, dân số và tiêu thụ- thì có hai yếu tố không
thể giải quyết và một yếu tố có thể giải quyết. Về cơ bản, không thể nào giải
quyết được các sắc dân phải sống giới hạn trong biên giới và môi trường sống
của mình.Tuy nhiên, điều này đã xảy ra, vì không có cách chọn lựa và không có
sinh hoạt nào khác tách rời khỏi môi trường sống. Về mặt đạo đức, một sự phân
phối công bình (công bình, nhưng không bằng nhau về số lượng) về các tài nguyên
cho toàn thể con người trên thế giới là điều sẽ không có được. Trong phương
thức này, khi hai yếu tố trên không giâi quyết được, thì dân số là yếu tố còn
lại có thể giải quyết. Đề nghị cho rằng một dân số nhỏ vừa đủ để mọi người có
thể tận hưởng mức sống thoải mái mà không phí phạm tài nguyên là điều cần thiết
và mơ ước, vấn đề này khó đặt ra. Chúng ta không thể nào gia tăng diện tích của
địa cầu mà chỉ gia tăng khả năng sản xuất trong một tầm mức giới hạn nào
đó,nhưng chúng ta là một nhân chủng có thể kiểm soát dân số.Tất cả những gì đòi
hỏi là việc thực hiện mà những theo đuổi khác phải ít nhất vừa hy sinh và vừa
nhằm thoả mản nhu cầu sinh sản.
Những tôn giáo thuờng
chỉ trích tiêu thụ quá mức nhưng cũng thường khuyến khích sinh sản quá d? . Tuy
nhiên, dù tôi muốn ghi nhận những giá trị Phật Giáo đề cao tiết chế tiêu thụ,
tôi muốn nhấn mạnh đến những giá trị Phật Giáo nhằm khuyến khích tiết chế và
trách nhiệm đối với sự sinh sản nào được coi là quan trọng.Tôi nhấn mạnh rõ
những yếu tố này trong Phật Giáo, vì có quá ít những cuộc thảo luận về các lập
luận tôn giáo biện hộ cho giới hạn sinh sản. Thí dụ một tôn giáo quan trọng có
truyền thống lâu đời trên thế giới mà các tín đồ sống một cuộc đời đấy đủ lại
không quan tâm đến sinh sản cá nhân thì thật đáng đặt thành vấn đề tìm hiểu.
Phật Giáo, dựa trên những giá trị hay trên những đường hướng chính, không hề
được cấu trúc hay giải thích như một tôn giáo khuyến khích sinh sản. Hai tư
tưởng tôn giáo thường được diện vẩn bởi hầu hết các tôn giáo nhằm biện minh cho
khuyến khích sinh sản không nằm trong giáo lý cơ bản cuả Phật Giáo. Phật Giáo
không đòi hỏi tín đồ cuả mình phải sinh sản như một bổn phận tôn giáo. Hầu hết
những nghi thức trong Phật Giáo không coi tình dục là một điều xấu xa hay một
tội lổi cần nên tránh, trừ khi liên quan đến sinh sản, mặc dầu các nghi lể Phật
Giáo bao gồm những tiêu chuẩn liên quan đến đạo đức tình dục.Tuy nhiên, kiểm
soát sinh sản qua ngừa thai hay kiêng cử là điều hoàn toàn có thể chấp nhận
được. Bắt nguồn từ những giá trị nền tảng cuả Phật Giáo, thì những phương cách
thụ thai và sinh sản được coi như một chọn lựa chính chắn và thoải mái hơn là
tai nạn hay là bổn phận. Vì có những đường lối độc đáo mà Phật Giáo đề cao giá
trị cuộc sống con người, nên trong đó cần phải quan niệm trẻ con cần được săn
sóc về mọi mặt từ thể xác, đến cảm xúc và tinh thần. Rất ít Phật Tử sẽ bất đồng
với lời khuyên rằng người ta phải có ít con hơn, nhờ thế, tất cả các con sẽ
được chăm sóc đầy đủ hơn, mà không làm ki?t qu? tinh thần, vật chất, cũng như
tình cảm của bậc phụ huynh, cuả cộng đồng hay cuả địa cầu.
Ngược lại, phong trào cổ
vu sinh sản được coi như một ý thức hệ có vẻ lan tràn kh?p địa cầu; ai mà đề
nghị một cách mềm dẻo rằng sinh sản vô giới hạn không phải là một quyền của cá
nhân và có thể đưa đến hủy diệt thì họ sẽ bị chế nhạo. Ta nên đề nghị là có
luật nhân quả giữa sinh sản quá mức và nghèo đói và phải kiểm soát điều xãy ra.
Niềm tin cổ súy sinh sản có ít nhất ba tư tưởng chủ yếu mà tất cả cần được đặt
thành vấn đề. Người ủng hộ sinh sản luôn nghĩ sinh sản là một cơ hội tốt, trong
bất cứ trường hợp nào, kể cả trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Theo ý kiến khác
thì khuyến khích sinh sản trong một vài trường hợp d?c bi?t là vô trách nhiệm,
cần được kiểm soát nhiều hơn hổ trợ; đề nghị này hoàn toàn không phổ cập trong
giới cổ vu sinh sản. Hơn nửa, giới cổ vu đòi hỏi rằng sinh sản là cần thiết cho
nhân sinh: những người nào tự quyết định cho mình không có con là đáng trách và
phải chiụ nhiều thiệt thòi kinh tế và xã hội. Cuối cùng, người biện hộ coi sinh
sản là một quyền cá nhân, không bị lệ thuộc vào một chính sách cuả chính quyền,
ngay cả việc họ còn lập luận sinh sản là một trách nhiệm chung, kể cả toàn cầu.
Điểm bi đát trong thuyết này là mặc dầu thặng dư dân số có thể được cắt giảm
nhanh chóng bởi những phương thức tự nguyện; thiếu điều này, dân chúng phải
chịu những biện pháp cưởng ép, gây nhiều khổ đau – binh tật, bạo lực và nạn
đói. Tuy nhiên, cũng cần phê bình để ngăn chận những giáo điều tôn giáo khuyến khích
sinh sản được phổ biến lan rộng mà không suy xét, những biện pháp xã hội hoá,
những áp lực,những chính sách thuế khoá, những tình cảm và những gía trị tấn
công một cách vô nghiã từ khắp mọi phiá.
Trước khi bắt đầu thảo
luận giáo lý Phật Giáo như giãi pháp cần triển khai cho một nền đạo đức tiết
chế liên hệ đến sinh sản và tiêu thụ, điều quan trọng nên dừng lại ở đây là dể
nhận chân ra hai vấn đề tranh luận. Hai điểm này không được thảo luận trong bài
này, ngay cả mặc dầu những kết luận của tôi liên hệ đến những vấn đề này sẽ thể
hiện trong thảo luận về đạo đức Phật Giáo, môi trường, tiêu thụ và sinh
sản.
Vì thuyết Duyên Khởi
trong Phật Giáo, được thâm nhập cùng khắp muôn nơi, tạo nên ý nghiả, tôi thấy
sẽ không giải quyết được gì, khi quyền cá nhân có thể mở rộng đến mức độ mà sự
hành sử về các quyền này đe doạ đến những khuôn mẩu hỗ trợ cho cuộc sống – mà
cả hai vấn đề tiêu thụ và sinh sản đã đạt tới cực điểm. Dẩu người ta có thể có
cuả cải đến đâu đi nửa để giúp họ có một mức độ tiêu thụ hay sinh sản vô chừng
như họ thích, thật khó lập luận rằng đây là một quyền cá nhân được hoàn toàn sử
dụng, bất chấp tới ảnh hưởng môi trường sống. Lập luận về quyền và tự do cá
nhân có những thu hút chống lại hệ thống xã hội độc tài và tinh thần địa phuong
quá mức. Nhưng ngày nay, lập luận và thái độ này cố tìm cách che lấp trước nhu
cầu cho sự hạn chế và tiết độ nhằm bảo vệ cộng đồng cũng như nhân chủng.
Hơn nửa, đặc biệt trong
nhu cầu phải đối phó với những ý thức hệ và chính sách đề cao sinh sản, chúng
ta đạt tới một điểm vượt qua luật tương đối. Trong cộng đồng nhân loại, chúng
ta đã học hỏi quá chậm trể về những đặc điểm cuả quy luật tương đối, khi nào mà
nó có thể áp dụng được.Chúng ta cũng quá nôn nóng để lên án những người khác
quan điểm chúng ta. Thuyết tương đối coi thế giới quan như một điều tốt đẹp, vì
sự dị biệt trong thế giới quan là một điều quý. Mặt khác, thuyết tương đối về
những tiêu chuẩn đạo đức căn bản đưa tới những kết quả không chấp nhận được. Có
phải thật sự chúng ta muốn nói tới một nền văn hoá mà phụ nữ bị đối xử như là
một món hàng riêng hoặc là trẻ con bị bóc lột đây chính là văn hoá đích thực
của họ Nếu người ta thật sự tin tưởng tiêu chuẩn đạo đức chỉ tương đối và có
tính cách hòa giải, thì không thể có một giải pháp nào cho một phong trào đấu
tranh nhân quyền quốc tế, Cả hai việc tiêu thụ và sinh sản là vấn đề đạo
đức ở tầm mức cao nhất, vì những hướng dẩn các vấn đề này có ảnh hưởng sâu đậm
đến đời sống của tất cả mọi nguời. Chúng ta không thể nào có thể để lâu hơn cho
các cá nhân này tin tưởng rằng họ có quyền sinh con nhiều tùy thích, cũng như
chúng ta đã không chịu được nô lệ, bóc lột trẻ con và đối xử với phụ nữ như một
trò chơi. Một vài giá trị tôn giáo và văn hoá có truyền thống lâu đời cũng có
quan tâm đến sự chê trách này và coi cổ vu sinh sản là một quan điểm đạo đức
không thích hợp và không thể chấp nhận trước hiện tình. Một vài tôn giáo cần
điều chỉnh lại những giáo điều của mình về sinh sản cho phù hợp thực tại do y khoa hiện đại mang lại, tử suất đã giảm đi đáng kể, trong khi sinh xuất
thì chưa, điều này tạo ra gia tăng nguy hiểm về dân số, khi mà tất cả mọi người
đều muốn hưởng thụ ở tiêu chuẩn cao hơn chưa từng được biết trước đây.
Đi vào Trung Đạo trong
một thế giới hổ tương: Giáo Lý Phật Giáo và sự tiết chế
Một trong những giáo lý
chính của Phật Giáo liên quan đến thuyết Duyên Khời (pratitya-samutpada trong
Sanskrit và patica-samutpada trong Pali), được xem như một trong những khám phá
mà Đức Phật đã tìm ra trong kinh nghiệm giác ngộ cuả Ngài. Giáo lý này chuẩn bị
cơ sở cho tất cả những bình luận sâu xa về tiêu thụ và sinh sản, vì Duyên Khởi
là đường lối sâu thẩm không thể định nghiã được. Phật Giáo nhìn chúng sinh như
những thực thể có quan hệ nhau trong mạng lưới liên kết, chớ không phải là
những thực thể cô lập. Duyên Khởi, được thâm nhập cùng khắp muôn nơi, là một
phần quan trọng trong sự hiểu biết về luật nhân quả của Phật Giáo, luật này chi
phối tất cả mọi su xãy diển trên thế gian. Không có gì xãy ra mà tách rời hay
trái lại với luật nhân quả theo Phật Giáo, cũng không ai được phép can thiệp, dù
tùy tiện hay thần thánh, vào trong diễn trình nhân quả. Hơn nửa, vì Phật Giáo
hiểu nhân quả tương thuộc nhau, nên những hành vi của một con người có thể gây
ra hậu quả cho toàn thể vũ trụ. Thật ra, những quyết định sinh sản hay tiêu thụ
không hẳn là một quyết định đơn thuần cá nhân không liên quan đến thế giới rộng
lớn hơn. Bất kỳ một đứa trẻ chào đời tại một nơi nào đó trên địa cầu đều có ảnh
hưởng đến toàn thế giới hổ tương, điều này cũng giống như việc tiêu thụ các tài
nguyên. Người ta cũng không thể lập luận rằng tiền cuả riêng tư hay mức độ tiêu
thụ thấp gây ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ trong mạng lưới hổ tương trong vũ trụ.Ta
cũng không thể lập luận ước muốn riêng tư dành cho con cái quan trọng hơn là
nhu cầu ta phải quan tâm đến vấn đề ảnh hư?ng cuả đứa trẻ đó trong một vũ trụ
hổ tương, vì luật nhân quả không chừa một trường hợp riêng nào. Cũng tương tự như
vậy, sử dụng tài nguyên, dù ở bất cứ nơi nào, cũng gây ra những ảnh hưởng trên
toàn cầu. Thường thường, tiêu thụ xa xỉ tại một nơi sẽ có ảnh hưởng đến nghèo đói
và đau khổ tại những nơi khác trên thế giới. Do đó, khi lấy luật Duyên Khởi làm
nồng cốt cho Phật Giáo, điều này đòi hỏi sự tiết chế trong mọi hoạt động, đặc
biệt trong sinh sản và tiêu thụ, vì nó có những ảnh hưởng tại các nơi khác
trong hoàn vũ. Khi những hiểu biết của Phật Giáo về Duyên Khởi cùng với kiến
thức của khoa học dã coi vu trữ như một chiếc thuyền cấp cứu hữu hạn, thì điều
trở nên hiển nhiên là Phật Giáo coi việc kiểm soát sinh sản một cách thích hợp,
nhân đạo và công bình như một điều kiện đòi hỏi. Điều đó cũng rõ nét, khi Phật Giáo
xem sự sử dụng môi sinh bừa bãi qua sinh sản hay tiêu thụ như là coi thường vũ
trụ hữu hạn và hổ tương; mà sự bất chấp này bắt nguồn từ vị kỷ cá
nhân.
Viễn tượng về mối tương
thuộc trong vũ trụ phoi bày một bức tranh to lớn về sinh sản và tiêu thụ. Viễn
tượng này càng trở nên rõ nét hơn, khi chúng ta quan sát cặn kẽ phạm vi của con
người nằm trong vũ trụ tương thuộc. Một mặt, Phật Giáo đề cao rất mực điều may
mắn khi ta được tái sinh làm kiếp người, và một mặt khác, Phật Giáo thấy tất cả
mọi sinh vật hữu tình về cơ bản đều giống nhau ở chổ cùng có thúc đẩy chung tìm
đường thoát khổ và tu tập an lạc. Thật vậy, sinh ra làm người là quý giá và vừa
lại được thấy sinh trong một mạng lưới vũ trụ liên hệ nhau, mà trong đó liên
đới cuả con người với nhau là cốt yếu hơn là cả phân chia thành chủng loại khác
nhau. Trong hai cụm từ “nhân thân quý báo” và “sinh vật hữu
tình” cần được luôn đề cập chung khi thảo luận về quan điểm Phật Giáo với
vấn đề vị trí con người trong vũ trụ liên đới. Sự quý giá của kiếp nhân sinh
tuyệt nhiên không phải vì nhân quyền đứng trên các hình thái khác của cuộc
sống, vì kiếp nhân sinh đã và có thể sẽ đổi lại thành những hình thái khác của
kiếp sống- dù phương thức tu tập của Phật Giáo được nghĩ là nhằm đề cao cho sự
tái sinh liên tục trong kiếp người. Một mặt khác, tất cã chúng sinh được nối
kết nhau trong một thế giới theo mạng lưới rộng lớn trong vũ trụ theo luật
Duyên Khởi và Tính Không, và điều này không có ngoại lệ. Mạng luới này là mối
dây quan hệ gắn bó và chia sẽ kinh nghiệm gần gủi cho đến độ mà những biểu
tượng cổ truyền cho là chúng sinh đôi khi là mẹ sinh sản ra chúng ta và ngược
lại. Tuy nhiên, thay vì chúng ta có cảm tưởng rằng mình là người trên trước hay
có ưu quyền hơn mọi người khác trên đời này, điều được luôn nhắc nhở là chúng
ta nên biết, nếu chúng ta không muốn chiụ đựng thiệt hại hay đau khổ như thế
nào, thì chúng ta cũng nên cố gắng tối đa tránh gây hại hay gây đau khổ cho
người khác như thế ấy, vì mọi người đều là những thân thuộc của chúng ta
Như ai cũng biết, Phật
Giáo cổ truyền tin có tái sinh và cho rằng tái sinh không luôn luôn nhất thiết
là sinh làm kiếp người, mà hoàn toàn tùy thuộc vào công đức và kiến thức từ
tiền kiếp. Trong tất cả tái sinh có thể được, thì tái sinh làm kiếp người được
coi là may mắn và thuận lợi nhất, thuận lợi hơn cả tái sinh trong thánh điạ đầy
hoan lạc. Chỉ với niềm tin này thôi thì dường như là điều thúc đẩy sinh sản không
hạn chế. Nhưng khi chúng ta hiểu tại sao kiếp nhân sinh lại được quá tôn sùng,
điều rõ ràng nhất là sinh sản quá mức sẽ phá hủy những điều kiện làm cho tái sinh
được đề cao như thế. Tái sinh làm người được đề cao, hơn cả mọi sinh vật hữu
tình khác, vì con người có khả năng phát triển tâm linh, điều này có thể đưa
đến viên mãn, toàn mỹ và giác ngộ. Mặc dầu, mọi chúng sinh đều có tiềm năng bẩm
sinh nội tại cho việc thực hiện này, nhưng thành tựu này được hổ trợ bởi một
vài nguyên nhân và điều kiện nào đó cũng như bị ngăn trở bởi các lý do khác.
Tuy nhiên, niềm vui được tái sinh làm người còn tùy thuộc vào khả năng con
người trong mức độ sáng tạo với văn hoá và tâm linh nhằm dẫn đường đến giác
ngộ, một khả năng chỉ đạt được khi mà người ta có đầy đủ đuợc các phuong tiện.
Chỉ sinh ra làm người cho nhiều không phải là nguyên nhân cho một niềm vui về
nhân thân quý giá, vì kiếp nhân sinh là điều kiện cần thiết, nhưng không đủ cho
tiềm năng nội tại con người tương lai thụ hưởng. Khi con người được sống trong
một môi trường thích hợp, được nuôi dưỡng đầy đủ từ thể xác, tình cảm và tinh thần,
dó thật là điều vừa hửu ích và ngay cả cần thiết Điều này là lý do chính
tại sao mà tình trạng ít dân số để dễ lo lắng chu đáo được ưa chuộng hơn là
chịu đông dân mà phải đang tranh đấu sống còn.
Những điều kiện nhằm tạo
cuộc sống như mơ ước và đáng sống có thể được đúc kết từ một trong những giá
trị chính của Phật Giáo, đó là giá trị Trung Đạo. Trung Đạo được thảo luận như
một nổ lực đúng đắn, không quá nhiều, không quá ít, không quá cứng ngắc và cũng
không quá lỏng lẻo. Sử dụng một cách thích hợp nhất cơ hội biểu hiện “kiếp nhân
sinh qúy giá”, người ta cần đi theo Trung Đạo và tìm cách, nếu có thể được, đi
theo con đường ấy. Tránh cực đoan trong mọi vấn đề là một trong những điểm son
trong Phật Giáo, mà Đức Thích Ca học tập được trước khi Ngài thành đạo và là
một điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự đạt đạo. Đầu tiên, Ngài học tập được rằng
sống một đời xa xỉ là vô nghiã, nhưng Ngài cũng tìm ra cuộc đời nghèo khó cũng
sẽ chẳng đưa đi đến đâu. Ngài kết luận để sống một kiếp người toàn vẹn, người ta
cần phải sống trọn một đời trong tiết chế, tránh mọi thứ đam mê thái quá hay
tận cùng trong đói nghèo hay tự khắc kỷ.
Đường lối chỉ dẩn của
Trung Đạo nhấn mạnh giàu sang hay tiện nghi quá mức có thể làm phản tác dụng về
mặt tâm linh, vì nó dể đưa đến tự mãn và hoang phí nhiều tài sản khác- những
thái độ này không giúp ích cho tâm linh. Thật vậy, Trung Đạo đem lại những phê
bình hợp lý và điều chỉnh cho thuyết tiêu thụ quá mức đang lan tràn, mà điều
này dẩn đến thặng dư dân số.Tuy nhiên, Trung Đạo cũng tạo nên điểm chủ yếu khi
cho rằng nên có vật chất tối thiểu và tiêu chuẩn tâm lý cần thiết cho kiếp sống
có ý nghĩa. Phật Giáo không hề lý tưởng hoá nghèo đói và khổ đau, hay coi đây
là một ưu điểm về tinh thần. Những người sống trong tận cùng nghèo khổ hay nguy
hiểm sẽ không có đủ thì giờ hay khả năng để tự nuôi thân để từ dó tiến tới giác
ngộ, thật sự tận hưởng trọn vẹn việc tái sinh làm kiếp người, thật quả
đây là một điều không may mắn. Phật Giáo đề cao tiết chế, nhưng không ca ngợi nghèo
đói, vì nghèo đói không thể thúc đẩy người ta đạt được giác ngộ – hoặc cho phép
người ta đủ thời giờ thở mà làm việc ấy.
Thật vậy, nhiều Phật Tử
công nhận từ lâu rằng để áp dụng lời Phật dạy đạt được kết quả, thì trước tiên
ta cần phải có một cơ sở vật chất và bình an tân h?n. Phật Giáo luôn luôn công
nhận người ta không thể nào thiền định hay suy niệm trong một bao tử rổng
tuếch, hoặc tạo một môi trường cho thăng tiến và giác ngộ trong một hoàn cảnh tụt
hậu, mất mát hoặc sợ hải. Phật Tử cũng nhận ra từ lâu thiền định được coi có
thể như nhằm đưa tới niềm vui to lớn và viên mãn cho con người, điều này chỉ có
sau khi người ta đạt đuợc một trình độ cơ bản nhất định trong Trung Đạo.Trước
đó, người ta thật sự nghĩ rằng một khi có đủ điều kiện vật chất, người ta sẽ không
còn chịu đau khổ. Người ta phải đạt đến một mức độ thoả mãn tối thiểu nào đó về
những nhu cầu cơ bản, trước khi bắt đầu nhận ra ham muốn và đau khổ tiếp nối nhau
là quá hảo huyền. Đến một lúc nào mà những nhu cầu cơ bản đã thoả mãn, người ta
nghiệm thấy ham muốn và đau khổ không hề dập tắt dể dàng, thì giáo lý cơ bản cuả
Phật Giáo mới bắt đầu tạo nên ý nghiã.
Điều này hoàn toàn phù
hợp với luận điểm cuả một số người cổ vu rằng cắt giảm dân số là có thể làm
được, nếu người ta có một mức sống thích nghi. Đó là một lập luận tổng quát hoá
rất quen thuộc hiện nay: một phương thức hữu hiệu nhất nhằm cắt giảm dân số là
cải thiện đời sống kinh tế dân chúng; khi người ta có đủ cơ sở vật chất thì mới
có thể thấy sự vững chắc của lập luận giới hạn sinh sản này, trong khi người
đang gặp tận cùng khó khăn sẽ không thấy điều đó. Tư tưởng Phật Giáo đề cao sự
nghiệm xét về luật nhân quả, vì toàn thể thế giới hổ tương bị chi phối bởi luật
này. Thặng dư dân số không đột nhiên mà xảy ra, đó là kết quả cuả những nguyên nhân,
mà một trong những nguyên nhân đó là vì quá đói nghèo, không thể nào tu tập
theo Trung Đạo ở giửa xa xỉ quá độ và tận cùng nghèo khó.
Tuy nhiên, sinh sản quá
mức sẽ dẩn đến ngăn trở tất cả mọi nỗ lực giãm bớt đói nghèo, điều này rõ ràng
là vì điạ cầu chỉ có tài nguyên giới hạn. Chúng ta cần nhận ra có quan hệ giữa
tiêu thụ quá mức, thặng dư dân số và nghèo khó. Nếu một trong những yếu tố chủ
yếu này bị bỏ sót, thì cung giống nhu khi những hệ thống tôn giáo và văn hoá
lại không đề ra một đường hướng nào để giới hạn sinh sản; vũ trụ liên đới sẽ bị
căng thẳng cực độ. Một lần nửa, điều quan trọng cần nhận ra là tất cả mọi tôn
giáo và hầu hết các nền văn hoá đều có những hướng dẩn đạo đức nhắm giới hạn
tiêu thụ. Thực ra, những giáo điều này có đề ra, nhưng thường không được áp
dụng. Tuy nhiên, có vài tôn giáo đề cao giới hạn sinh sản. Phần lớn các tôn
giáo khuyến khích hay đòi hỏi tín đồ của mình nên sinh sản, mà không hề đưa ra
những hướng dẫn về giới hạn hay không có công nhận nào về thặng dư dân số. Dầu
sao, những giáo điều có thể được dẩn chứng nhằm đề ra những lập luận để giớí
hạn sinh sản, đây là điểm quan trọng đáng phê bình.
Dù theo đuổi phương thức
nào, thì thuyết Duyên Khởi, khi kết hợp với lời khuyên nên tu tập theo Trung
Đạo, hiển nhiên đem đến cho ta một sự diù dắt. Khi tổng hợp các ý niệm về Duyên
Khởi cùng với giá trị về kiếp nhân sinh trong một hoàn cảnh sống thích hợp và
giáo lý Trung Đạo, tất cã sẽ cho ta một sự hướng dẩn rõ ràng về sinh sản và tiêu
thụ. Nhìn vấn đề tiêu thụ, ta thấy đáng đề ra khi lời kêu gọi của Trung Đạo chỉ
ra hai đường hướng. Hiển nhiên tiêu thụ quá mức là sai phạm giáo lý Trung Đạo.
Nhưng như thế là phủ nhận quá đáng. Lời khuyên áp dụng Trung Đạo không khuyên
thắt lưng buộc bụng hay nhường chổ cho người khác, vì quyền sinh sản là bất khả
xâm phạm. Nhung ta nên giới hạn sinh sản và tiêu thụ, vì cả hai có quan hệ
nhau, nhờ như thế sẽ tạo một lối sống có thể dẫn tới giác ngộ cho mọi người.
Thật vậy, khi sinh sản quá nhiều trên quả đất nhằm duy trì giống nòi, và đối
với những cộng đồng phải tìm cách nuôi dưỡng cho thích nghi về mặt thể chất hay
tinh thần, đây chính là điều tương phản với Trung Đạo. Sinh sản không nên vượt
qua khỏi khả năng của gia đình, cộng đồng hay trái đất, nhằm tạo nên một cuộc
sống phù hợp trong phạm vi Trung Đạo cho tất cả mọi người, dó là diểm chủ
yếu.
Chỉ đơn thuần cung cấp
một chổ tạm trú là không dễ, và lập luận cho rằng trái đất còn chỗ cho nhiều
người nửa là không thuyết phục, bởi vì phẩm chất của cuộc sống quan trọng hơn
là chỉ thuần gia tăng nhân số. Ngoài việc dinh dưởng sao cho thích hợp một cách
tối thiểu, môi trường sống cần phải đầy đủ, nhằm tránh cảnh chen chúc quá mức,
điều đó đưa tới gây hấn và bạo lực, đó là việc quan trọng. Những tài sản sẳn có
về kỷ thuật, văn hoá và tâm linh làm cho đời sống con người thực sự nhân bản hơn,
đó chính là chủ yếu. Tuy nhiên, dù nhìn trên khía cạnh toàn cầu, cộng đồng địa
phương hay cá nhân, điểm mấu chốt phải giới hạn sinh sản là để trẻ con sinh ra
được chăm sóc chu đáo về mặt vật chất cũng như tinh thần. Nếu không làm như
vậy, thì chỉ là sự bất chấp niềm an lạc tâm linh cho những ai được sinh ra làm
kiếp con người. Không phải đói nghèo mà cũng không vì kiệt quệ tinh thần do
việc nuôi dưỡng quá nhiều con là hữu ích cho bất cứ ai- ít nhất là những trẻ do
sự sinh sản vô giới hạn. Trong Phật giáo, sự kiện chính yếu này vượt qua khỏi
mọi mơ uớc riêng tư (muốn có con tùy thích) hoặc là quy luật hay áp lực nhằm cổ
vũ sinh sản theo xã hội hay tôn giáo.
Những đường hướng này
gây cho tôi một ấn tượng như một kim chỉ nam hoàn hảo để giải quyết vấn để áp
lực dân số và sử dụng tài nguyên. Dầu thế, điều rõ rệt là người có hiểu biết và
thiện tâm có thể đồng ý các đường hướng trên lý thuyết, nhưng không đồng ý trên
cách thực hành. Hiển nhiên, Trung Đạo không có nghiã là tiêu thụ không ý thức
của thế giới thứ nhất, nhưng cũng không có nghĩa là cổ vũ sinh sản một cách
không cân nhắc về thế giới còn lại, kể cả cuả thế giới thứ nhất. Theo quan điểm
cuả tôi, điều này bao gồm vài cơ sở kỷ thuật thực sự làm tăng gia phẩm chất của
cuộc sống- vườn hoa, thú tiêu khiển, máy vi tính, dàn máy nghe nhạc với âm
thanh nổi, du lịch quốc tế, điện tử, tủ lạnh, sự đa dạng văn hoá và giáo dục
nhân bản- những thứ ấy không thể nào đáp ứng trong tình trạng dân số vô giới
hạn mà không có suy thoái tột độ về môi trường. Vì có nhiều thứ trong cuộc đời
cần phải từ bỏ và thỏa mản nhiều hơn là sinh sản, thì thật là lố bịch khi
ta phải từ bỏ những di sản văn hoá vừa kể để có nhiều dân số hơn mà thiếu van
hoá.
Lưu truyền “Chủng Tử
Giác Ngộ”: con đường Bồ Đề Tâm theo Đại Thừa và các động lực thúc đẩy sinh
sản
Vài tôn giáo, kể cả các
truyền thống chính tại Á Châu, mà Phật giáo cùng chung sống, đều răn dạy nối
dỏi tông đường là một bổn phận tôn giáo. Đối với Phật Tử, việc có con không
phải là một đòi hỏi tôn giáo chút nào.Theo quan điểm Phật Giáo, người ta không
cần phải sinh con để hoàn thành một điều cao cả trong mạng lưới hổ tương cuả
các sinh vật hữu tình hoặc là thực hiện được những điều đáng ca ngợi trong cuộc
sống. Mặc dầu qua các lập luận bảo thủ, thật ra, đề cao độc thân tốt hơn là lối
sống có gia đình, không có con tốt hơn là sinh con, phần lớn truyền thống Phật
Giáo đề nghị sinh sản có thể gây trở ngại cho việc giúp đở thế giới hay là thực
hiện những tiềm năng cao nhất của con người. Bởi vì cũng giống như những con
người khác, điều quan trọng và thích thú cho Phật Tử là khi khám phá ra cái gì
tạo cảm hứng cho họ giử gìn những lý tưởng tôn giáo mà không cần sinh sản và
cũng tìm hiểu các cuộc thảo luận của Phật Tử xem cách sinh sản nào thích
hợp.
Lời khuyên sinh con để
nối dỏi ảnh hưởng khá mạnh trong một vài truyền thống và tác động thêm thái độ
của giới khuyến khích sinh sản. Lời khuyên này luôn bao gồm cả những lý thuyết
và thực hành, kể cả chê trách là bất hiếu và sai phạm nặng nề bổn phận đạo đức,
khi người ta không có con trai, vì mọi người phải lập gia đình và sinh con và
phụ nữ có ít hoặc là không có quyền chọn lựa nào hoặc theo một thiên hướng nào
ngoài việc sinh con. Những truyền thống này lập luận rằng người ta phải sinh
con để hoàn thành một nhiệm vụ một cách hiếm quý; nếu được, còn bao gồm những
mệnh lệnh không nên sinh sản quá mức; điều này có thể mang đến một vài thái độ
được ưa chuộng hơn, do từ những hình thái cực đoan đến biến dạng cuả Trung
Đạo.Thật vậy, những truyền thống này làm nản lòng những nổ lực giới hạn sinh
sản và làm cho những người muốn theo đuổi công việc này có cảm tưởng không đáng
công nếu họ giới hạn sinh sản, kể cả người đã có con kế tự rồi. Phật Giáo coi
việc quan tâm đến thừa tự như là một mở rộng lòng ích kỷ, việc coi mình là
trung tâm gây ra đau khổ, nên không hề buộc tín đồ mình nên làm như thế. Phật
Giáo đã là mục tiêu của nhiều sự chỉ trích từ những tôn giáo khác ở Á Châu, vì
không đòi hỏi tín đồ phải sinh con.
Phật Tử bị coi là ích
kỷ, vì không nhất thiết phải sinh con; sự chỉ trích này tại Á châu gây cho họ
những cảm tưởng khó chiụ. Phật Tử có hai cách trả lời. Thứ nhất, cách đóng góp
quý giá nhất trong mạng lưới liên đới thuộc thế giới hữu tình không hoàn toàn
tùy thuộc vào sinh sản. Hơn nửa, sinh sản thường bị thúc đẩy bởi động lực ích
kỷ cá nhân. Ta hãy thử nghiệm xét hai lập luận này kỷ lưởng hơn, vì tôi nghĩ
rằng cả hai là quan trọng trong việc đương đầu lối đạo đức một chiều của phái
đề cao sinh sản.
Những kết luận này về
sinh sản không hẳn là những giới hạn tiêu cực do những người không thiếu thiện
chí dua ra. Đúng hơn, trong quan điểm Phật Giáo, những kết luận này bắt nguồn từ
những kiến thức sâu xa của người biết mình trong tận cùng muốn gì và cái gì
thỏa mãn những ước mơ thầm kín cuả mình. Phật Tử có thể nói rằng trong việc theo
đuổi cùng lúc vừa tri thức và vừa từ bi, để đạt tới giác ngộ và ngay cả vượt
qua nó, đó chính là điều làm thoả mãn những mơ ước sâu xa nhất của chúng ta, vì
nó nói lên nhân tính cốt yếu của chúng ta. Trái với suy nghĩ khá phổ cập, cả Á
Châu và Tây Phương, Phật Tử không sống theo một lối sống cho tiết chế, thiền
định và suy ni?m chỉ nhằm những mục tiêu tự kỷ để tránh mọi khổ đau. Phật Tử
không từ bỏ nối dỏi tông đường như một giá trị tối hậu, thay vào dó để tìm kiếm
viên mãn cho riêng mình. Phật Tử cho là ta không bao giờ đạt được viên
mãn qua sinh sản, hoặc quan trọng hơn, qua sản xuất kinh tế và tiêu thụ; còn
việc những theo đuổi này có thể phổ cập hay không hoặc là những truyền thống xã
hội hay tôn giáo có đòi hỏi họ quá cứng rắn hay không là điều không quan
trọng.Thay vào đó, chúng ta cần thực hiện tìềm năng tinh thần của chúng ta. Tìm
kiếm mục tiêu của cuộc sống qua tiêu thụ hay sinh sản chỉ khuyến khích điều mà
Phật Tử gọi là ái ngã, một khuynh hướng có cội rể sâu xa trong con người, chỉ
coi mình là chủ yếu, mà cuối cùng chỉ gây khổ đau cho chúng ta.
Đúng hơn, Phật Tử nhìn
vấn đề nối dỏi là bình thường so với vun bồi và lưu truyền di sản chung của
nhân loại và cung nhu quyền sinh sản so v?i sự tĩnh lặng và niềm vui giác ngộ.
Thay vì tìm kiếm tự lưu truyền nòi giống qua sinh sản, Phật Tử nổ lực khơi động
Bồ Đề Tâm, một hơi ấm quan trọng và lòng từ bi vốn có sẳn trong mọi chúng sinh.
Theo cách nói đầy những ẩn dụ của Phật Giáo cổ truyền, chúng ta đã cưu mang
Phật Tính (tathagata-garbha= Như Lai Mẩu). Chúng ta nguyện phát triển Bồ Đề Tâm
với lòng từ bi nhằm theo đuổi buông xả toàn diện. Thay vì nhìn vấn đề chọn lựa này
như một mất mát cá nhân, thì hãy xem đây như một tìm thấy bản sắc và mục đích
cuả riêng mình đầy vui thú trong khi lạc lối lang thang và tìm kiếm di truyền
không định hướng. “Hôm nay cuộc sống của tôi trở nên có giá trị” được
đọc trong những nghi thức cầu nguyện tuân giử Bồ Đề Tâm, lời nguyện quan trọng
trong Phật Giáo Đại Thừa. Làm theo lời nguyện này người ta được ca ngợi là đã
đi vào trong con đường thuộc về gia đình và giòng dỏi của giác ngộ
Bồ Đề Tâm được coi như
thừa kế chính và là tiềm năng cuả mọi sinh vật hữu tình, kể cả con người, thì
việc đánh thức và nuôi dưởng Bồ Đề Tâm trong từng cá thể cũng như khuyến khích
phát triển nó trong mọi chúng sinh là điều nuôi dưỡng liên tục truyền thống gia
đình với tất cả những ý nghĩa sâu xa của nó; một ý nghĩa vượt qua mọi giới hạn
chật hẹp của nòi giống gia đình, bộ lạc, đất nước hay chủng tộc.Qua phương cách
diển dịch hiện đại thuật ngữ Bồ Đề Tâm cho thấy những giá trị này nuôi dưởng sự
trường tồn những đặc điểm cao quý nhất của chúng ta: Bồ Đề Tâm luôn được dịch
là “Tâm Thân tỉnh thức”, sư phụ tôi đôi khi dịch là “Chủng Tử Giác Ngộ”, một
cách dịch nhằm nhấn mạnh đến Bồ Để Tâm như một trong những đường nét cố hửu căn
cơ nhất trong con người và là một di sản cho mọi sinh vật hữu tình. Ai có thể
lo âu nữa về di truyền nòi giống gia đình khi người ta có thể đánh thức, nuôi
dưởng và lưu truyền các chủng tử giác ngộ?
Ngược lại, những động
lực thúc đẩy sinh sản thường hoàn toàn chật hẹp và thiếu sáng suốt. Một vài
truyền thống tôn giáo đã phê bình tiêu thụ vật chất như phản tác dụng tâm linh:
Vài truyền thống khác lại cho sinh sản chỉ nhắm lòng ích kỷ và cuối cùng thì
không toại nguyện; hoặc sinh sản quá mức sẽ tạo nên cùng túng về tinh thần hay
tâm lý cũng giống như tiêu thụ quá mức.Tuy nhiên, Phật Giáo chỉ rõ rằng sinh
sản được thúc đẩy từ những động lực vị kỷ, đặc biệt do những mơ uớc di truyền
nòi giống và bành trướng tộc họ. Và mơ ước vị kỷ luôn tạo nên đau khổ, đó là
điều theo giáo lý cơ bản nhất của Phật Giáo. Biểu lộ chổ yếu về sự đa cảm của
mình và thèm muốn được sinh sôi nẩy nở, rồi đặt tên cho nó một cách chính xác
hay dẹp bỏ những lý tưởng hóa sai lạc về sinh sản quá mức là một điều quá trể.
Lý tưởng hoá này thuộc về quan điểm cổ vu sinh sản, nó thúc đẩy nhiều người chấp
nhận sinh sản mà trách nhiệm làm cha mẹ không hẳn là một đường hướng quan
trọng. Cho rằng sinh sản đều có lợi luôn luôn là một ảo tưởng, kể cả ngay trong
thời kỳ mà mật độ dân số ổn định và không hại đến môi sinh; tiếp tục thúc đẩy
hay đòi hỏi mọi người sinh sản để di truyền nòi giống trong hoàn cảnh hiện nay
là vô trách nhiệm.
Thường thì các bậc cha
mẹ dược thúc đẩy bởi mơ uớc duy trì nòi giống, nên cố sao sinh con mình như một
bản sao chép lại hình ảnh cuả mình, hơn là sinh con và cho phép nó tự tìm ra một
lối sống cá nhân độc đáo trong cuộc đời. Niềm đau khổ bắt nguồn từ những động
lực thúc đẩy sinh sản như vậy thường không được để ý và kéo dài qua nhiều thế
hệ. Khi người nào đó được cha mẹ dạy nên có con để thay thế cha mẹ và bắt con
theo những giá trị và lối sống của mình, đó là điều mà tôi không làm được. Tôi đã
quá quen thuộc vớí những cơn thịnh nộ của cha mẹ giáng xuống cho con cái khi
nhận ra rằng con cái không còn ràng buộc và làm tròn điều mình đặt ra. Kinh
sách Phật Giáo viết quá nhiều về đề tài này. Thông thường, hiếm muộn là cảm xúc
nung nấu làm cho người ta ham muốn sinh con.Thật ra, tâm trạng của một số người
muốn sinh con hoàn toàn xa rời sự tĩnh lặng được Phật Giáo đề cao.Tôi hoàn toàn
nghi ngờ đối về sự quân bình tâm lý và trong sạch trong những động lực cuả một
số người, khi mà họ cần và mong muốn có con. Theo kinh nghiệm của tôi, hầu hết
giới trẻ có học ở thành phố nghĩ rằng kiểm soát sinh sản là vấn đề sinh tử – cả
đối với một vài thành phần khác trong dân chúng – nhưng những động lực của họ
cho sinh sản càng nhiều càng tốt là điều không thể nào kiềm chế được. Mức chống
đối và ngăn ngừa đã nảy ra ý kiến là có lẽ họ bị thúc đẩy bởi mơ ước di truyền
nòi giống hơn thay vì tu tập Bồ Đề Tâm, điều này thuyết phục tôi rằng những
nghi ngờ của tôi là đúng.Tôi càng đào sâu mối nghi ngờ của mình hơn nửa, khi
những người này chịu bỏ ra chi phí tốn kém và chịu dau để được sinh con, thay
vì nhận một đứa con nuôi trong những đứa trẻ hiện nay dang cần được nuôi dưởng
trên thế giớí. Cuối cùng, một số người đã sinh con và cũng không hề có những
quyết định riêng mình về việc này mà chỉ do những áp lực từ tôn giáo, gia đình
hay bộ lạc đè nặng. Thay vào đó, họ bị thúc đẩy bởi những vị kỷ tập thể, mà
hoàn toàn không khác gì với vị kỷ cá nhân. Giống như mọi hình thức của vị kỷ,
vị kỷ tập thể cũng gây ra đau khổ.
Khi kêu gọi công nhận
việc thúc đẩy sinh sản là không thuyết phụ, điều này cũng hàm chứa lời đề cao
và công nhận giá trị một lối sống không sinh sản, gồm cả lối sống luyến ái của
người đồng tính và khác tính. Một trong những vũ khí tâm lý mạnh nhất cuả
phe cổ vu sinh sản là không khoan dung cho sự dị biệt trong các lối sống và dèm
pha những ngưòi có lối sống không giống ai. Những người dù không có con
cũng cần được đề cao, khi họ có đóng góp to lớn vào sự lưu truyền cho những
tiếp nối tinh thần giác ngộ, thay vì khai trừ và chỉ trích. Là một phụ nữ luôn
hiểu rộng để đóng góp những tài năng của tôi trong sinh vật hữu tình, tôi có lẽ
không cần phải có con. Tôi đã quen với thành kiến nhằm chống lại những người
đàn bà không muốn con do chính họ tự chọn lựa. Khởi đầu là sự cào nhào từ bố mẹ
đẻ hay bố mẹ chồng khi cho rằng họ mong muốn biết bao việc có cháu để nối dỏi
và cảm tưởng xấu hổ khi không có.Tiếp đến là những phản ứng liên tục cho rằng
con cái lơ là không theo đuổi ý định có con, và cuối cùng tiếc nuối cho là chỉ
vì lòng vị kỷ. Rồi thì sự cô đơn, cảm giác bị ruồng bỏ bắt nguồn từ bạn bè, vì
quá bận rộn với đời sống gia đình riêng tư. Và cuối cùng, đặc biệt nhất là hầu
hết những người đàn ông trung niên ích kỷ, bê tha, mà mục tiêu của họ trong mối
giao tiếp là lập một gia đình thứ hai với những người đàn bà trẻ, lối sống này
được một số người chấp nhận. Thuyết cổ vũ sinh sản theo phụ hệ có khuynh hướng xâu
xa dễ đưa tới những định kiến như thế.
Dĩ nhiên, không cần phải
nói, sinh sản có thể nằm trong một chương trình thích hợp với việc tu tập của
Phật Tử và nhiều tư tưởng tranh đấu cho phụ nử cuả Phật Tử hiện đaị đang khám
phá ra những đặc điểm trong việc sinh sản như là vấn đề trong tu tập của Phật
Tử. Theo quan điểm của tôi, sinh sản là một chọn lựa đầy giá trị của Phật Tử và
là một lối sống chấp nhận được; nó được thúc đẩy bởi những giáo lý Phật Giáo
nhu vị tha, buông xả, từ bi và Bồ Đề Tâm, không phải bởi những đòi hỏi của xã
hội và tôn giáo, những quy ước hay những phong tục tập quán, những mơ ước bị ép
buộc, những ngăn trở sinh lý hay là những ước mơ vị kỷ di truyền nòi giống.Tôi
tin tưởng rằng bậc làm cha mẹ luôn có sẳn những động lực thúc đẩy buông xã và
từ bi, mặc dầu không phải bất cứ ở đâu, các bậc cha mẹ nào cũng đều giống
nhau.Trong công việc của tôi là một nhà khoa học tôn giáo và Phật Tử tranh đấu
nữ quyền, tôi luôn nhấn mạnh đến nhu cầu giới hạn sinh sản và sản xuất kinh tế,
cũng như quan tâm đến sự chia sẽ trách nhiệm một cách công bình giửa nam và nữ giới
để các cu si có thể tu tu tập được.
Phật tử đề cao và khích
lệ một lối sống buông xả, theo Trung Đạo, có tri thức, từ bi và phát triển Bồ
Đề Tâm. Tuy nhiên, trong một vài quốc gia Phật Giáo, lối sống tu độc thân trong
các tu viện đuợc ưa chuộng hơn khác lối sống khác. Mặc dầu các sử sách của Phật
Giáo không ghi đầy đủ không phải trong tất cả, mà trong một vài xã hội Phật Giáo,
sự chọn lựa lối tu (trong tu viện) này rất thích hợp với nữ giới, khi họ không
còn coi việc sinh con như là làm tròn bổn phận nửa, trong khi nam giới lại luôn
coi việc nối giõi mang bầu là điều toại nguyện. Trong thế giới Phật Giáo hiện
đại, lối sống tu trọn đời nơi tu viện ít phổ biến và ít bền bỉ, nhưng phong
trào tu thiền cuả các cư sĩ Phật Giáo hiện đang lan rộng mạnh mẻ, không phải
chỉ trong Phật Tử Tây Phương mà ngay tại Á Châu, không phải chỉ nam mà cả nử cư
sĩ.Tu tập thiền định nghiêm chỉnh rất là khó khăn và mất nhiều thì giờ. Khi các
cư sĩ dấn thân vào đường tu tập, họ phải giới hạn mọi hoạt động khác vừa kinh
tế và sản xuất sao cho thích hợp. Cả hai việc tiêu thụ quá mức và thặng dư dân
số, hai thành tố tác hại đang lan tràn trên thế giới có thể được kiềm chế lại
cùng lúc, khi ta nhận chân ra giá trị của tiềm năng con người hướng về thức
giác, từ bi và nổ lực thực hiện.
Tri thức gíác ngộ giúp
ta nhận ra sự tương thuộc của chúng sinh và vượt qua ảo tưởng về sự chọn lựa cá
nhân mà cho rằng không ảnh hưởng gì đến phần còn lại trong mê trận của cuộc
đời. Từ bi giác ngộ giúp ta yêu thương chúng sinh, mà không hẳn là những người
trong gia đình, bộ lạc, đất nước hay nòi giống, mà chính vì họ đáng được chăm
sóc và quan tâm. Phần lớn nổi khổ đau trong thế giới sẽ giảm đi đáng kể nếu phuong cách buông xả theo Trung Đạo được phổ biến sâu rộng, nó giúp cho con
người hiểu phải làm gì về tiêu thụ và sinh sản. Theo quan điểm nhà Phật về Bồ
Đề Tâm, chủng tử giác ngộ do kế thừa hoặc di truyền từ sinh vật hữu tình, không
thể bị huỷ diệt, giúp cho cuộc đời có ý nghĩa viên mãn khi nó phát triển từ bi
và trở nên hữu ích, – không phải vì di truyền trong ích kỷ, đù đó là ích kỷ cá
nhân hay là di truyền gia đinh, bộ lạc hay đất nước.Trong trường hợp này, điều
không hiểu được là tại sao lòng từ bi không được coi như là một cái gì đó mà
người ta có bổn phận phát huy, nhung đúng hơn, được coi như sự kế thừa, mà sẽ
khám phá điều này làm cho cuộc đời có giá trị và vui thú hơn. Cổ vũ sinh sản
khi được coi như một bổn phận tôn giáo hay một nghiã vụ có thể không liên hệ gì
đến với việc một tín đồ lo luu truyền giác ngộ. Bỏ di định kiến cổ vũ sinh sản và
đề cao những đóng góp cho lưu truyền giác ngộ, không phải chỉ vì di truyền thừa
tự, con người có thể làm và ung dung để trở thành bậc cha mẹ, hay có thể sinh
con một cách tự do, thoát rời mọi động lực chỉ bắt nguồn từ những ràng buộc,
bổn phận hay truyền tự trong ích kỷ. Còn những người nào làm khác hon, có những
đóng góp khác quan trọng hon trong thế giới sinh vật hữu tình, thì cũng cần được
vinh danh tương tự như vậy.
Tình dục và Cảm thông:
Vài Bình Luận Của Kim Cang Thừa
Kết hợp với việc phê
bình của những người giới hạn hay từ bỏ sinh sản, thì giáo điều nối dõi tông
đường chỉ là một trong nguồn quan trọng dựa trên tôn giáo của phong trào cổ vũ
sinh sản. Những nguồn lập luận dựa trên các cơ sở khác thì ít nhất cũng tiềm
tàng. Lập luận tôn giáo chống tình dục thì quá quen thuộc trong tôn giáo, kể cả
trong giới cư sĩ Phật Giáo. Những sinh hoạt tình dục thường bị chê trách là một
cái gì đó có vấn đề, xấu xa hoặc làm tổn hại tâm linh con người. Những xấu xa,
sợ hải hay ngờ vực xoay quanh hoạt động và kinh nghiệm tình dục, tạo nên những
lập luận hay quy luật tôn giáo, đưa tới những biểu thức hay nối kết biểu tượng,
mà tất cả đều nhằm cổ vũ sinh sản, và trong đó có một vài tác dụng tiêu cực khác.
Coi những kinh nghiệm tình dục như là một kết quả cần cấm đoán thì sẽ không thể
nào phát triển tình dục trong ý thức và trách nhiệm.
Điểm đầu tiên của những
biểu thức quan trọng này phát sinh từ sự sợ hải chuyện tình dục, khi cho là có
sự đồng nhất giửa tình dục và sinh sản. Trong một vài tôn gíáo niềm tin này quá
mạnh. Một vài tôn giáo tán thành quan điểm ghi nhận mục đích chủ yếu, nếu không
nói là giá trị duy nhất, cuả tình dục là sinh sản. Hoạt động tình dục mà không nhắm
tới sinh sản chỉ đưa tới những bại hoại đạo đức hay tinh thần cho những ai đam
mê tình dục.Tuy nhiên, những liên hệ tiềm tàng giửa sinh hoạt tình dục và sinh
sản không đặt thành vấn đề và không nên tìm hiểu hoặc che lấp. Thủ dâm hay
luyến ái với người cùng giới hoặc khác giới tính để không lo chuyện có con
không được khuyến khích hoặc lên án.Tuy nhiên, hậu quả cuả những quan điểm này thường
là lập luận hổ trợ giới cổ vũ sinh sản. Khuyến khích người ta nghĩ xấu về tình
dục dường như không ngăn trở được những hoạt động tình dục một cách đáng kể. Nhưng
vì người ta được học tập là luôn có mối quan hệ giữa tính dục và sinh sản, hoặc
vì người ta bị cấm đoán tiến thêm một bước để tách biệt hai vấn đề này ra, những
quan hệ tình dục đưa đến sinh suất cao độ, sẽ tạo nên một tình trạng gia tăng
dân số quá mức, trong khi tình trạng tử suất lại xuống thấp.
Phá vở biểu thức đạo đức
giữa tình dục và sinh sản là một công việc cốt yếu nhất; cho đến chừng nào mà
chuyện quan hệ tình dục không sinh sản gây nản lòng hay bị kết án, thì tỷ lệ
sinh suất còn tiếp tục lên cao. Biểu thức này dể bị phá vở khi ta tự hỏi vấn đề
nền tảng đâu là chức năng chủ yếu của tình dục trong xã hội con người. Điều này
rất rỏ, khi ta so sánh thái độ tình dục của con người với hầu hết các thú vật.
Nhiệm vụ chủ yếu của tình dục trong xã hội con người là cảm thông và gắn bó.
Không giống như chủng loài khác, hoạt động tình dục giửa con người với nhau có
thể và thừơng xãy ra, kể cả khi không có thai nghén, dù là họ muốn, khi phụ nữ
không có khả năng thụ thai. Những kinh nghiệm tình dục không sinh sản rất quan
trọng trong sự gắn bó và cảm thông giữa những cặp vợ chồng và cho xã hội con
người. Thêm vào đó, tình dục, khi đã được hiểu biết và kinh qua, là một trong
những phương thức mạnh nhất trong cảm thông của con người. Thật vậy, sinh sản
ít quan trọng hơn và thường ít là kết quả của hoạt động tình dục hiểu theo
nghia cảm thông. Như vậy, khi đề ra quy luật quan hệ tình dục phải đưa tới tiềm
năng sinh sản, nếu không hoạt động tình dục dẫn đến vẩn đục đạo đức hay tâm
linh, thì thật là điều không thích hợp. Thay vào đó, tình dục với ý thức và
biết sơ đẳng mọi phương thức kiểm soát sinh sản phải được coi là tình dục có
đạo đức; hoặc là người ta chỉ có ý định mang thai trong trách nhiệm và có điều
kiện thích hợp; cả hai cần được các tôn giáo khích lệ.
Quan điểm cho rằng tình
dục phải đưa tới việc sinh con gắn liền đến những biểu thức khác mà trong cách
hàm ý này cũng coi nhu là một hình thức khác của cổ vũ sinh sản. Khi tình dục
không thể tách rời ra khỏi sinh sản, và khi người đàn bà không có bản sắc giá
trị và được đề cao hay một vai trò văn hoá nào khác hơn là làm mẹ, thì hầu hết những
người đàn bà đều muốn được làm mẹ. Thật vậy, bản sắc tiêu biểu và quen thuộc
giữa phụ nữ và thân phận làm mẹ được công nhận là như vậy. Cách đây vài năm
thôi, mọi người đều cho rằng tính cách thần thánh của người mẹ hẳn nhiên là làm
cho ngưòi mẹ là Thánh Nữ. Tôi nhớ rõ thái độ này khá lan rộng khi tôi bắt đầu
học cao học về lịch sử các tôn giáo. Tuy nhiên, giả định tất cả mọi bà mẹ là
thần thánh chứng tỏ cho thấy là ngây thơ và có gắn liền với văn hóa. Khi tìm
hiểu huyền thoại và biểu tượng về người mẹ thần thánh, nhất là thoát ra khỏi
những tiêu biểu đặc trưng văn hoá về mục đích của phụ nữ, người ta khám phá
tính cách thần thánh của phụ nữ có nhiều yếu tố khác đóng góp thêm vào cho
trong đó, thay vì chính là người mẹ. Người mẹ là người bạn đời, người bảo vệ,
người thầy, người hướng dẩn văn hoá, các loại nghệ thuật, bảo trợ tiền của…
Những liên hệ của họ về các hoạt động văn hoá khác tùy thuộc vào bản chất thì
cũng không phải nằm trong huyền thoại. Trong huyền thoại người ta bắt gặp một
vài phụ nử thần thánh có sinh hoạt tình dục, nhưng không là những người mẹ hoặc
là chuyên sinh sản không được đề cập. Hiển nhiên, những biểu tượng tôn giáo và
huyền thoại về những phụ nữ có quan hệ tình dục mà không có con không hổ trợ
cho cổ vũ sinh sản. Tuy nhiên, chú ý về cứu cánh là tất yếu. Cần phải cực kỳ
thận trọng trong việc tái tạo tượng trưng thân phận làm mẹ trong ý nghĩa tranh
đấu cho nữ quyền hiện đại, vì e rằng nhiều biểu tượng lại cũng cố thêm những đặc
trưng cho là nguời đàn bà luôn là người mẹ, hiểu theo nghĩa đen.
Biểu thức thứ ba quan hệ
đến sự nuôi nấng trong người me , một đặc trưng quá quen thuộc trong tôn giáo
cổ truyền, văn hoá dân gian và tâm lý học. Hậu quả tiêu cực và giới hạn cuả
biểu thức này rất đa dạng, không phải vì ít nhất nó là đường lối mà biểu thức
này giử vai trò trong chương trình hành động của giới cổ vu sinh sàn. Nếu nuôi
dưỡng được định nghĩa một cách hạn hẹp, thì người nào muốn nuôi duởng sẽ thấy
là không có cách nào khác hơn là chon lựa con đường làm bậc cha mẹ. Phương thức
giửa nuôi dưởng con và làm cha mẹ hổ trợ cho định kiến chống lại giới không con
đã được thảo luận, bởi vì thật dể dàng cáo buộc rằng họ là ích kỷ và không nuôi
nấng. Tuy nhiên, điều hàm chứa quan trọng nhất trong phương thức này là sự hiểu
biết giới hạn về nuôi dưởng. Nếu nuôi dưởng quan hệ chặt chẻ với điều kiện làm
mẹ, thì các sự chăm sóc khác đều không được coi là nuôi dạy và cũng không còn khích
lệ nửa, đặc biệt là ở những bậc nam giới. Giả đoán rằng dạy dỗ là một công việc
chuyên môn hay một độc quyền và trọng trách cuả bà mẹ, đây là một di sản nguy
hiểm nhất của những đặc trưng theo chế độ phụ hệ. Vì sức mạnh của khuôn mẩu
này, người ta thường cho rằng khi các bà theo các phong trào tranh đấu nữ quyền
không muốn lệ thuộc khuôn mẩu phụ hệ, cũng sẽ không nuôi dưỡng con cái. Nhưng
hiển nhiên, những phê phán về các bà theo phong trào này không hẳn là chỉ trích
vấn đề dạy dỗ thôi. Đó là một phê phán về những cung cách mà nam giới được miễn
cho việc dạy dổ, mà chỉ giới hạn công việc cham sóc cho nữ giới, và rồi giam
hảm họ trong ngục tù với vai trò trong khuôn mẩu phụ hệ. Tranh đấu cho nữ quyền
không hẳn chỉ là giới hạn dạy dỗ hay ngay cả làm cản trở cho công việc ấy,
nhưng là phải công nhận tính đa dạng của mọi hình thái nuôi dưởng và kỳ vọng
rộng điều ấy được mọi người trong xã hội chấp nhận. Vì cham sóc là quý báo và
thiết yếu cho sinh tồn con người, điều chỉ trích là những tư tưởng của chúng ta
về những gì có nghiã là nuôi nấng phải vượt qua hình ảnh của nguòi làm mẹ, mà
hướng tới những hoạt động khác như dạy dổ, chửa trị, chăm sóc môi trường, dấn
thân vào những hoạt động xã hội.Tất cả con người, kể cả nam giới, đều được định
nghiã là những người trực tiếp và hướng dẩn những kỷ thuật nuôi dưởng, hơn là
giao khoán công việc này cho các bà mẹ, đây cũng là điều quan trọng không
kém.
Vì một vài nguồn gốc của
sự sợ hải, nghi ngờ và tội lổi về tình dục dựa trên trong tôn giáo, một loại
gải pháp theo tôn giáo, mà đúng hơn là cần có một giải pháp thế tục và tâm lý.
Quan điểm tình dục phải có ý nghiã đối vớí việc thảo luận về đạo đức tôn giáo,
dân số, tiêu thụ và môi trường. Đánh giá tình dục theo tôn giáo như một biểu
tượng thiêng liêng và kinh nghiệm này sẽ giúp nhiều hơn là gây tổn hại đến phát
triển tâm linh, điều này cần nên đưa vào trong những nhận xét liên quan trong
diễn đàn này. Kim Cang Thừa Phật Giáo, một hình thái cuối cùng cuả Phật Giáo Ấn
Độ được phát triển, mà ngày nay rất quan trọng tại Tây Tạng và càng trở nên có
ý nghiã tại Tây Phương, bao gồm như cả một giãi pháp… Không cần phải nói,
điều chủ yếu là thảo luận về Kim Cang Thừa Phật Giáo phải tách rời ra khỏi
những chuyện khêu gợi dục tình, mà thật sự làm căn gốc cho sợ hải và tội lổi về
tình dục.
Biểu tượng và thực hành
tình dục thanh cao, như đã được tìm thấy trong Kim Cang Thừa Phật Giáo Tây Tạng
là điều hoàn toàn xa lạ trong các truyền thống tôn giáo, kể cả những truyền
thống đã quen thuộc với quần chúng phương Tây. Trong Kim Cang Thừa Phật Giáo có
một ưu điểm quen được sánh đôi, trí thức và từ bi được nhân cách hoá như là đàn
ông và đàn bà. Không những cả hai được nhân cách hóa, cả hai được tô vẻ và tạc
tượng khi họ yêu nhau, thường được gọi là những hình tượng yab-yum. Hình tượng
này thường được sử dụng làm cơ bản cho tu tập suy niệm và thiền định, kể cả tự
tưởng tượng khi cặp này đang yêu nhau. Sau một vài năm làm việc với những hình
tượng này cá nhân tôi hoàn toàn bị thu hút bởi sức mạnh khai phóng và an lạc
trong các biểu tượng này. Thay vì coi tình dục là một chuyện riêng tư và một
cái gì đó rắc rối, có lẽ là sự xoá tội, tình dục cần phải được mô tả công khai
như một biểu tượng của chân lý tôn giáo thâm sâu nhất và như một thực tập thiền
định cho việc phát triển sự giác ngộ bẩm sinh của con người
Một trong những ám chỉ
sâu xa nhất cuả hình tượng yab-yum và chủ điểm của nó là mối quan hệ nền tảng
của con người, thực tại này thường được biểu tượng hoá nhu là mối quan hệ chồng
vợ bình đẳng, nam và nữ được coi như hai người bạn đời, cùng hợp tác và cùng
chung vui với nhau. Điều này tương phản rõ nét với khuynh hướng nhằm giới hạn
biểu tượng tôn giáo trong mối quan hệ cha mẹ với con cái hoặc là như giửa Đức
Chúa Cha và Con hay Đức Mẹ va Con. Đây là điểm quen thuộc trong các truyền
thống tôn giáo. Nó cũng tương phản mạnh mẽ đối với sự ghê tởm của tình dục kỳ
diệu, mà cũng là một vấn đề trong các tôn giáo này. Ngườì ta phải suy đoán rằng
ca ngợi công khai tình dục như là kinh nghiệm thiêng liêng và tạo thông cảm và
chuyển hoá sâu xa giữa đôi bạn tâm linh, nó sẽ làm suy giảm đáng kể thuyết cổ
vu sinh sản, mà thuyết này dựa trên niềm tin tình dục mà không sinh sản là sai
lầm.
Trong phạm vi những quan
hệ nhân sinh hơn là những biểu tượng tôn giáo- tới một chừng mực mà cả hai có
thể tách ra được-, biểu tượng này, theo Kim Cang Thừa Phật Giáo, đã dẩn nam và
nữ đến một khà năng kết hợp thành đôi vợ chồng cùng trong tâm linh và cùng theo
một pháp môn. (Vấn đề đồng tình luyến ái có thể được không là một câu hỏi khó
trả lời). Mối quan hệ như thế không phải là những thoả thuận riêng tư thông
thường hoặc dự phóng lãng mạn và khao khát, mà là một tình bạn đồng song, một
sự giúp đở lẩn nhau trên con đường tu tập tâm linh. Tình dục được coi như một yếu
tố nội tại, nhưng không hẳn là nề tảng cho một mối quan hệ như thế. Dầu tương
đối bí truyền, mối quan hệ này đã và đang được công nhận và đề cao trong Kim
Cang Thừa Phật Giáo Bắc Ấn Độ cũng như Phật Giáo Tây Tạng. Phật Tử Tây Phương
bắt đầu khám phá hoặc khám phá lại tiềm năng này, một khả năng kết hợp vợ chồng
như một mối quan hệ đồng môn giữa hai con người cùng tìm kiếm một con đường và
cũng là một phương cách tìm hiểu và cảm thông với Ềtha nhânỂ sâu thẩm trong thế
giới hiện tượng. Xưng tụng mối quan hệ này sẽ làm giảm đi đáng kể những thành
kiến cuả giới đề cao sinh sản khi đề cập tới vai trò tình dục trong đời sống con
người, cũng như đóng góp quan trọng vào việc tạo lập một khuôn mẩu trong tình
tương quan đầy lành mạnh, trân trọng và bình đẳng giữa nam nữ.
Discussion about this post