PHẬT GIÁO MÔNG CỔ ĐANGTRÊN ĐÀ TUỘT DỐC
Michael Khon
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch:
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: “Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi” (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: “Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà” (Le Bouddhisme Mongol en perte de vitesse).
Chữ “Christianity” trong bản gốc tiếng Anh mang ý nghĩa rất tổng quát nhằm chỉ chung tất cả các tôn giáo thờ Chúa Giê-Su. Chữ này sẽ được dịch là Ki-tô Giáo trong bản chuyển ngữ tiếng Việt, tuy nhiên cũng có thể dịch chữ này là Cơ Đốc Giáo hay Thiên Chúa Giáo. Chữ Thiên Chúa Giáo có vẻ quen thuộc hơn hết thế nhưng lại thường được hiểu lầm là Thiên Chúa Giáo La Mã tức là Đạo Thiên Chúa của Giáo Hội Vatican. Ki-tô Giáo phát sinh từ Do Thái Giáo và gồm rất nhiều tông phái khác nhau, Thiên Chúa Giáo La Mã chỉ là một trong các tông phái ấy.
Sau phần chuyển ngữ người dịch cũng xin mạn phép chia sẻ một bài phân tích với hy vọng cùng người đọc suy tư về một vài khía cạnh nêu lên trong nội dung của bài báo. Ngoài ra người đọc cũng có thể xem bản gốc bằng tiếng Anh của bài này trên trang mạng của tờ San Francisco Chronicle (SFGate): http://www.sfgate.com/news/article/Christianity-growing-fast-in-Mongolia-3268816.php, và bản dịch tiếng Pháp trên trang mạng Buddhachannel: http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article2645#nb2
Phật Giáo Mông Cổ đang trên đà tuột dốc
Ulaan Bataar, Mông Cổ
Mitch Tillman trở thành một vị cứu rỗi linh hồn thật khá bất ngờ. Sáu năm trước anh ta còn nằm rã rượi trong các khám đường của tiểu bang Alabama chờ ngày ra tòa vì tội tàng trữ ma túy, thế nhưng ngày nay thì lại là người đang đứng ra xây cất bệnh viện, nuôi trẻ bụi đời và cứu rỗi linh hồn cho người Mông Cổ.
H.1: Cảnh người Mông Cổ đang cầu nguyện trong giáo đường của đạo “Những Lời Phúc Âm Sinh Động” (Evangelic Living Word Church) một giáo phái Tin Lành Phúc Âm, ở Ulaan Bataar (thủ đô Mông Cổ), quy tụ khoảng 1000 tín đồ. Giáo đường này nằm trong khuôn viên của Cung Ulaan Bataar (UB Palace), một trung tâm văn hóa và thương mại to lớn của thủ đô, và cứ mỗi cuối tuần thì lại biến thành nơi ăn nhậu và hộp đêm.
H.2: Mitch Tillman đang giảng đạo cho các tín đồ Mông Cổ thuộc giáo xứ của mình tại một tòa nhà mà trước đây dưới chế độ Cộng Sản đã từng là Bảo tàng viện tôn vinh Vladimir Lenin.
(các ảnh này là của tác giả Michael Khon dành cho nhật báo San Francisco Chronicle)
Đối với những người truyền giáo Ki-tô, chẳng hạn như trường hợp của mục sư Tillman, thì Mông Cổ đúng là một vùng đất vàng (trong bản gốc là tiếng Tây Ban Nha Eldorado, có nghĩa là Bằng Vàng, ý nói là một vùng đất mới tha hồ tung hoành và bành trướng). Sau khi chế độ Cộng Sản cáo chung năm 1990 và theo danh sách đăng ký của các giáo phái Tin Lành, chẳng hạn như Mormon (còn gọi là Latter-days Saints Church, có nghĩa là đạo của các Thánh trong những ngày cuối cùng. Khái niệm “Những ngày cuối cùng” là một khái niệm chung trong giáo lý của các tôn giáo độc thần chủ trương một sự tận thế sẽ xảy ra đánh dấu sự chấm dứt của một giai đoạn dài, và sau đó sẽ bắt đầu một thời đại mới. Thế nhưng khái niệm “tận thế” này lại mang các ý nghĩa khác nhau tùy theo các tông phái và giáo phái trong Ki-tô Giáo. Đối với giáo phái Mormon thì thời đại mới sẽ là thời đại của Chúa Ki-tô), giáo phái Adventist Ngày Thứ Bảy (Seventh-day Adventist Church, chữ Adventist do chữ La Tinh adventus mà ra và có nghĩa là “xuất hiện”, ý nói sự trở về của Chúa Giê Su sau khi đã tận thế, tuy nhiên giáo phái này lại chọn ngày thứ bảy làm ngày thánh mà không chọn ngày chủ nhật), các giáo phái Tin Lành khác cũng như Thiên Chúa Giáo La Mã (Catholics), thì có khoảng 60 000 người Mông Cổ đã theo Ki-tô Giáo (tổng số dân Mông Cổ là 2.839.000 người theo thống kê năm 2013).
L.Chimgee một sinh viên 18 tuổi trường Đại Học Kỹ Thuật Ulaan Bataar cho biết như sau: “Nhiều bạn bè của tôi theo đạo Ki-tô, vì thế tôi cũng muốn tìm hiểu đức tin là gì. Tôi bèn tham dự một khóa tu học cuối tuần tại một trại họp mặt Ki-tô Giáo thiết lập trong một vùng nông thôn. Khóa tu thật hết sức là vui nhộn và nhờ đó tôi đã cảm thấy được ý nghĩa đích thật của giáo phái này. Và cũng chính vì thế mà tôi đã theo đạo”.
Năm 2002 Tillman được tòa tha bổng về tội tàng trữ nha phiến, anh ta quả quyết rằng sở dĩ được trắng án là nhờ mình cầu nguyện khi nằm trong khám. Tillman gốc gác ở tỉnh Chattanooga (một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Tennessee), sau khi được phóng thích bèn bán cửa hiệu chuyên sơn sửa và làm đồng xe hơi của mình và sau đó lên đường sang Mông Cổ tìm cha mình là một mục sư Tin Lành Báp-tít (Baptism là đạo Tin Lành trong đó gồm chung một số các giáo phái đặt nặng tầm quan trọng của việc rửa tội, căn cứ vào sự tích của vị tiên tri John The Baptist được xem là đã từng rửa tội cho cả Chúa Giê-Su) đã thiết lập được một cơ sở truyền giáo tại đây.
Tilman lúc đó 53 tuổi và có sáu con, trong số này có ba đứa là con nuôi gốc Mông Cổ, đã cho biết như sau: “Nước Mông Cổ đang bước vào một thời đại tự do và dân chủ, người dân đổ xô tìm kiếm một cái gì đó mới lạ hơn. Họ ước mong khám phá ra một niềm hy vọng và mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con cái mình. Tôi tin rằng Chúa sẽ ban cho họ những điều ấy”.
Các nhà sư Phật Giáo trong tình trạng hốt hoảng
Thế nhưng chiến dịch cải đạo người Mông Cổ [của các giáo phái Tin Lành] cũng đã gióng lên một hồi trống cảnh tỉnh trong các hành lang cổ kính của các ngôi chùa trong khuôn viên của tu viện Gandan, trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong nước với 8000 nhà sư thường xuyên tu học. Vị trụ trì Khunhur Byambajav rất lo ngại khi nhận thấy người đến chùa ngày càng thưa thớt.
Nhà sư Byambajav không ngần ngại tuyên bố: “Mọi chuyện cũng là do đồng tiền mà ra cả. Những người truyền giáo [Ki-tô] có sẵn tiền xây cất trường học và giáo dục trẻ con. Họ không từ nan bất cứ một phương tiện nào”. Nhà sư này muốn ám chỉ những người truyền giáo đã mang đến cho [các tín đồ của mình] đủ mọi thứ, từ thức ăn, quần áo, đến cả học bổng để du học ở nước ngoài (nước ta có câu tục ngữ “Theo đạo lấy gạo mà ăn”, thế nhưng cũng có câu “Áo rách phải giữ lấy lề”. Ngày nay sau hàng bao thế kỷ cách biệt, thế nhưng ở Mông Cổ việc cải đạo cũng chẳng có gì khác hơn: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”). “Trên phương diện tài chính thì làm thế nào mà chúng tôi theo kịp họ được, tuy thế chúng tôi cũng phải cố gắng thôi, nếu không thì sẽ không còn ai trong giới trẻ theo Phật Giáo nữa”.
Chẳng hạn như Trung tâm Phúc Âm Quốc Tế (Harbor Evangelism International) của Tillman có đến hai bệnh viện, một viện mồ côi, một nơi ăn uống miễn phí cho người nghèo, một chương trình cai rượu trong một nước mà nạn nghiện rượu đang lan tràn, và theo các nhà quan sát thì kể cả trong giới các nhà sư Phật Giáo!
L. Odonchimed một cựu dân biểu quốc hội cho biết: “Chùa chiền Mông Cổ còn quá yếu kém, nhận tiền cúng dường của bá tánh nhưng lại không đủ sức hồi đáp lại [những gì mà họ mong cầu]. [Trong khi đó] những người truyền giáo thì lại mang tặng đủ mọi thứ quà cáp và trợ giúp mọi người – thiết nghĩ đấy cũng là trọng trách của một tổ chức tôn giáo”.
Có nhiều nhóm cải đạo hoạt động lén lút
Nhà sư Byambajav cho biết là ông rất lo ngại vì có nhiều nhóm Ki-tô Giáo hoạt động lén lút, nhồi sọ trẻ con và xúi dục người Phật Giáo đốt bỏ các lễ cụ (religious articles, các vật sử dụng vào việc hành lễ và thờ cúng) và đập phá các bảo tháp (stupa, là các kiến trúc to lớn biểu trưng cho sự giác ngộ). Ông cho biết thêm: “[Nhà nước] không có một biện pháp kiểm soát nào cả, và cũng chẳng có ai quan tâm đến hành động của các nhóm hoạt động lén lút này”.
Trong tình trạng một nước [đang gặp phải khó khăn vì] chủ trương tách rời giữa tín ngưỡng và nhà nước – tương tự như Hoa Kỳ – Byambajav đã đề nghị với chính phủ nên đưa Phật Giáo lên hàng quốc giáo. Theo ông thì đất nước cần đưa ra một đạo luật cho phép sử dụng ngân quỹ quốc gia để giúp đỡ các nhà sư và cho phép giảng dạy Phật Giáo trong các trường học nhà nước.
Nhà sư Byambajav còn cho biết thêm: “Chúng tôi đã từng gửi thư lên chính phủ xin thay đổi đạo luật về tín ngưỡng, thế nhưng các tổ chức tôn giáo nước ngoài vừa có thế lực lại có nhiều tiền. Họ tạo áp lực với các người lãnh đạo chính trị bằng cách đút lót tiền bạc. Điều này khiến chúng tôi bị thiệt thòi rất nhiều”.
Trở về với Phật Giáo
Vị dân biểu lập pháp Odonchimed cũng xác nhận là một số lớn người Mông Cổ đã bị mê hoặc bởi mọi thứ dịch vụ của các nhóm Cơ Đốc Giáo, tuy nhiên ông cũng tiên đoán rằng mọi người sẽ không còn quan tâm đến các nhóm này nữa một khi tình hình kinh tế trong nước phát triển khá hơn (một lời tiên đoán quá đỗi ngây thơ) qua câu phát biểu sau đây: “Với thời gian rồi đây người dân sẽ dần dần không còn nhờ vả những người truyền giáo nữa, và sẽ không còn để ý đến họ nữa. Mọi người sẽ trở về với Phật Giáo” (đây là một sự suy nghĩ vô cùng thiển cận và thiếu hiểu biết, một hình thức cam phận và thụ động của các dân tộc quen chịu ách nô lệ, họ không thể hình dung được là một ngày nào đó sẽ có những người Mông Cổ Tin Lành hay Thiên Chúa Giáo – hoặc cũng có thể là những người chủ trương một chủ thuyết ngoại lai không tưởng – được ngoại bang đưa lên nắm chánh quyền, điều khiển quốc gia và đưa xứ sở vào vòng nô lệ. Nên hiểu rằng không có ai giúp đỡ mình một cách bất vụ lợi cả).
Trong khi đó, Liên Đoàn Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (Federation for the Preservation of the Mahayana Tradition, một tổ chức Phật Giáo phi lợi nhuận đặt trụ sở tại tiểu bang Oregon, Hoa kỳ) lại sử dụng chính các phương pháp tiếp cận của người Tây Phương nhằm giúp người Mông Cổ tìm về với Phật Giáo (dầu sao tổ chức nhỏ này cũng không thể đọ sức với những ý đồ và sức mạnh tiền bạc của các hội đạo Tin Lành ở Mỹ – và phía sau biết đâu cũng có những nguồn tài trợ khác to lớn hơn – rất sở trường trong việc cải đạo người nghèo, các bộ tộc thiểu số ở các nước đang phát triển). Liên đoàn trên đây đã mở trường dạy học trong các chùa thuộc Tu Viện Trung Tâm ở Ulaan Bataar. Vị chủ tịch Liên Đoàn là Ueli Minder, người Thụy Sĩ, đã lên tiếng như sau: “Sở dĩ giới trẻ Mông Cổ ngày nay không có một kiến thức nào về Phật Giáo chẳng qua là vì chùa chiền không đủ sức giúp những người tu tập tại gia giữ vững được lòng tin của họ. Chủ đích của chúng tôi là giúp đỡ mọi người tìm hiểu đâu là cội nguồn của văn hóa và tín ngưỡng”.
Phương pháp của người Tây Phương
Nhà sư Byambajav cho biết là tu viện Gandan cũng đã tìm cách sử dụng các phương pháp của người Tây Phương, chẳng hạn như thiết lập một đài phát thanh [Phật Giáo] và thực hiện nhiều dự án mở trường tư cũng như thành lập một đài truyền hình.
Tuy nhiên vị chủ tịch Minder cũng thú nhận rằng các nhà sư Phật Giáo hiện đang phải đương đầu với một sự thách đố thật kinh hoàng khi quyết định chống lại những người truyền giáo Ki-tô: bởi vì đối với việc cải đạo người khác thì hầu hết trong số họ (tức là các nhà sư Phật Giáo) từ trước đến nay không có ai quen làm công việc này.
Vị giám đốc Minder của Liên Đoàn Bảo Vệ Đại Thừa còn cho biết thêm: “[Dù rằng] không nên biến việc ấy thành một thứ tôn giáo nhằm cải đạo kẻ khác, thế nhưng chúng ta cũng phải có một kế hoạch nhằm xóa bỏ [ảnh hưởng] tuyên truyền tệ hại [dưới chế độ chính trị] trước đây cũng như các kế hoạch mê hoặc của những người truyền giáo [ngày nay]. Các vị lạt-ma (Tây Tạng và Mông Cổ) cần phải học hỏi thêm về các phương cách bảo vệ tín ngưỡng của mình…, hầu giúp phục hồi lòng tin của quảng đại quần chúng”.
Sự bành trướng của Cơ Đốc Giáo trong một xứ Mông Cổ theo Phật Giáo
Trước khi chế độ Cộng Sản cấm tôn giáo từ năm 1921 thì hầu hết người Mông Cổ theo Phật Giáo Tây Tạng (Phật Giáo Tây Tạng được đưa vào Mông Cổ từ thế kỷ XIII, kinh sách, việc học hỏi và tụng niệm đều phải dùng tiếng Tây Tạng. Đến thế kỷ XVI thì Phật Giáo trở thành quốc giáo với hơn 90 phần trăm dân chúng theo tôn giáo này, thế nhưng việc dịch thuật vẫn không đáng kể. Xin nhắc thêm là người Trung Quốc phải mất nhiều thế kỷ để dịch kinh sách từ tiếng Phạn). Năm 1990 Cộng Sản sụp đổ, Mông Cổ được tự do bèn hợp thức hóa Phật Giáo và cho phép chùa chiền hoạt động trở lại, thế nhưng đồng thời cũng đã mở cửa cho các tín ngưỡng ngoại lai [được hoạt động trong nước].
Theo thống kê của CIA (cơ quan tình báo của Mỹ) thì hiện nay 50 % dân chúng Mông Cổ theo Phật Giáo Tây Tạng, 6 % theo tín ngưỡng Sa-man (Shamanism: một hình thức tín ngưỡng dân gian với ít nhiều “mê tín”, chủ trương một sự liên hệ thần bí giữa con người, thần linh, ma quỷ, kể cả linh hồn của các loài thú vật. Tín ngưỡng này cũng khá tương tự với “đồng bóng” ở Việt Nam), và khoảng 40 % tuyên bố là mình không theo đạo nào cả.
Công việc bảo toàn Phật Pháp chống lại các kế hoạch cải đạo của các tín ngưỡng Cơ Đốc là cả một sự thách đố vì phải vượt qua một trở ngại thật nan giải là vấn đề ngôn ngữ. Các nhà sư thì tụng niệm bằng tiếng Tây Tạng, một ngôn ngữ mà hầu hết người Mông Cổ không hiểu gì cả, trong khi đó thì Thánh Kinh và các bài thuyết giáo [của những người cải đạo] thì được viết và quảng bá bằng tiếng Mông Cổ (cũng gần tương tự với trường hợp của Việt Nam: các thuật ngữ và các khái niệm triết học Phật Giáo đều là tiếng Hán và kinh sách cũng chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ Hán ngữ, giới trẻ ngày nay dù có đọc cũng không hiểu gì cả – đôi khi ngay cả đối với một số người tu hành cũng vậy).
Theo các danh sách đăng ký các giáo phái Cơ Đốc hoạt động tại Mông Cổ thì có 60 000 người theo các đạo Cơ Đốc – mức độ gia tăng là 20% trong tám năm vừa qua. Về phần chính phủ Mông Cổ thì không thấy có một bảng liệt kê nào về số người theo các tín ngưỡng khác nhau.
Theo phúc trình của Bộ Ngoại Giao Mỹ (U.S. State Department) thì một nửa dân chúng sinh sống ở thủ đô Ulaan Baatar theo Cơ Đốc Giáo (Christians), và các nhà thờ thì nhất loạt tập trung tại các khu sang trọng, chẳng hạn như giáo đường của giáo phái “Năm Câu Chuyện của đạo Mormon” (Five-story Mormon tabernacle) sừng sững bên cạnh khách sạn lộng lẫy nhất của thành phố. Người dân trong các khu này còn được xem cả các chương trình truyền hình của các giáo phái Cơ Đốc [của Mỹ] trên đài TV Chim Ưng (Eagle TV, là một đài truyền hình của Tin Lành và Thiên Chúa Giáo Mỹ), truyền đi khắp nơi [trên thế giới] bằng vệ tinh và do các hội đạo Tin Lành ở Mỹ tài trợ.
Cách thuyết giáo theo kiểu Mỹ cũng rất phổ biến, trong các thính đường chật ních người, các vị mục sư hăng say và hùng hồn thuyết giáo, cứ như là lên đồng nhập bóng. Các lời thuyết giáo lại còn được đệm thêm nhạc rock, quang cảnh diễn ra dưới ánh đèn nê-ông sáng choang và hình ảnh video với kỹ thuật cao được chiếu lên các màn ảnh thật rộng. Các hộp bằng plastic trong (mục đích cho thấy các quà biếu bên trong) nhét đầy quà tặng được đem ra phân phát, bọn trẻ vị thành niên thì chen nhau ghi danh tham dự các buổi “Họp trại Giê Su” (“Jesus Camps”) tổ chức ở các vùng nông thôn.
Vị mục sư Báp-tít Tillman cho biết: “Đây chính thực là thể dạng (trong nguyên bản là tiếng La Tinh statu quo, có nghĩa là “hiện trạng”, “thực trạng”) giải thoát. Từ bao nhiêu năm nay người dân chỉ biết có Phật Giáo, và sau đó thì bị Cộng Sản ức chế. [Ngày nay] họ mong cầu tìm thấy một sự mới lạ và họ đã tìm thấy được sự mới lạ ấy nơi Chúa Giê Su”.
Vài lời ghi chú của người dịch
Thiết nghĩ nếu muốn tìm hiểu phong trào cải đạo vô cùng tích cực ngày nay của các giáo phái Tin Lành Mỹ thì chúng ta cũng cần mở rộng tầm nhìn hơn, tức là phải trực tiếp ngược dòng lịch sử di dân đã đưa đến sự hình thành của nước Mỹ và tình trạng tín ngưỡng ngày nay của quốc gia này. Một trong số các động cơ chính yếu thúc đẩy người di dân Âu Châu vượt Đại Tây Dương để đến nước Mỹ là tình trạng kỳ thị tín ngưỡng và chiến tranh tôn giáo triền miên trên quê hương họ. Nơi miền đất mới “tự do tín ngưỡng” trở thành cả một sự ám ảnh đối với họ, thế nhưng sự tự do tín ngưỡng hay sự ám ảnh đó lại bị đẩy đi quá xa để đưa đến việc làm phát sinh ra thêm vô số các giáo phái mới và quyết tâm thật hăng say cải đạo kẻ khác, không những đối với người trong nước mà còn lan rộng ra khắp thế giới. Trên thực tế quả thật hết sức khó có thể nắm bắt những chủ đích tàng ẩn phía sau sự “hăng say” ấy. Dầu sao các kế hoạch cải đạo của các giáo phái Tin Lảnh Mỹ hiện nay trên thế giới cũng cho thấy một vài đường nét tương đồng nào đó với các nỗ lực truyền bá đạo Ki-tô tại các lục địa Phi Châu, Á Châu, và cả Mỹ Châu của các nước thực dân qua nhiều thế kỷ trong các thời kỳ thuộc địa trước đây.
Lịch sử nước Mỹ có thể thu gọn trong lịch sử của một phong trào di dân
H.3: Cảnh người di dân chờ đến lượt
đăng ký trên đảo Ellis Island năm 1907
Dưới một góc nhìn nào đó, lịch sử nước Mỹ có thể được xem như là lịch sử diễn tiến của một cuộc di dân ào ạt nhất trong lịch sử nhân loại xuyên qua nhiều thế kỷ và vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Trong vòng thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, mỗi năm có hơn một triệu người di dân từ các nước Âu Châu đến vùng “đất mới”. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế xảy ra vào các năm 1920 và 1930, việc di dân vào nước Mỹ bị hạn chế và do đó đã có phần giảm xuống từ năm 1915 đến 1965, thế rồi sau đó lại gia tăng với gần một triệu người mỗi năm trong suốt thập niên sau cùng của thế kỷ này!
Ở Âu Châu trong khoảng thời gian từ 1641 đến 1661, những cuộc xung đột, hiềm khích và chiến tranh đã xảy ra triền miên giữa Anh Quốc, Tô Cách Lan (Scotland) và Ái Nhĩ Lan (Ireland), và số người di dân đến Mỹ không đủ, nên chính phủ hoàng gia Anh đã phải trực tiếp đứng ra mua bán nô lệ và chính thức lập ra “Công ty Hoàng Gia buôn bán nô lệ Phi Châu” (Royal Company of African Slave Trade) năm 1660, với mục đích giữ độc quyền lùa bắt, chuyên chở và buôn bán nô lệ Phi Châu. Năm 1650 số người da đen trên toàn nước Mỹ là 5%, và con số này đã tăng lên 22% vào năm 1775, đặc biệt nhất là trong khoảng thời gian này ở tiểu bang Virginia số người da đen đã gia tăng từ 2 000 lên 188 000 người.Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá ra Mỹ Châu vào cuối thế kỷ XV (trong đêm 11 rạng ngày 12 tháng 10 năm 1492). Không lâu sau đó người dân từ các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Hòa Lan bắt đầu đổ xô đến vùng đất mới này.
Giai đoạn di dân đầu tiên trên đây kéo dài từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII, và trong số những người di dân thì người Anh là đông nhất. Chính phủ hoàng gia Anh Quốc khuyến khích dân chúng nhất là người nghèo nên di dân đến vùng đất mới để khai phá, và thường thì họ phải vay nợ để ra đi. Dù số người di dân rất đông nhưng cũng không thấm tháp gì với đất Mỹ mênh mông, người khai khẩn vẫn thiếu. Bắt đầu từ năm 1622 hoàng gia Anh Quốc trực tiếp đứng ra huy động và tổ chức việc di dân sang Mỹ bằng cách giúp đỡ phương tiện cho người nghèo trong nước. Chính phủ trả tiền phí tổn chuyến đi cho cả gia đình và hứa sẽ cấp đất cho họ, bù lại thì người di dân phải làm việc không lương từ 4 đến 7 năm khi đặt chân lên đất Mỹ. Những người ra đi theo diện này được gọi là những người “giúp việc theo giao kèo” (indentured servants). Họ làm lụng cực khổ không khác gì những người nô lệ da đen được đưa đến từ Phi Châu. Theo ước tính thì từ 50% đến 60% người di dân đến Mỹ trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1776 đều là những người “giúp việc theo giao kèo”.
Tiếp theo là giai đoạn di dân thứ hai mang tính cách phức tạp và đa dạng hơn giai đoạn thứ nhất trên đây. Ngoài số người nô lệ vẫn được tiếp tục đưa vào Mỹ, hàng triệu người Tô Cách Lan, Ái Nhĩ Lan, Đức, Pháp, Hòa Lan, Ý, Nga, Ba Lan, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hy Lạp, Trung Hoa, Nhật Bản, các nước Trung và Nam Mỹ kể cả một số nước Phi Châu, ào ạt rời bỏ xứ sở của họ để đến Mỹ mong tìm một cuộc sống dễ dãi hơn. Giai đoạn di dân thứ hai này kéo dài gần một thế kỷ, từ năm 1680 đến năm 1760. Người “da đỏ” trở thành thiểu số, người di dân tứ xứ gọi họ là “natives” có nghĩa là dân “bản xứ”, đó là cách gián tiếp tự nhận mình là kẻ ngoại lai, thế nhưng trên thực tế thì người da đỏ “bản xứ” bị kỳ thị, khinh miệt và gạt ra bên lề xã hội. Dù phong trào di dân không ngớt ào ạt và người nô lệ vẫn tiếp tục được đưa vào Mỹ, thế nhưng chính phủ Anh vẫn tìm đủ mọi cách gia tăng thêm số người di dân theo diện giao kèo (nô lệ không công trong một thời gian), chẳng hạn như đưa ra biện pháp trả tự do cho các tù nhân chấp nhận ký vào các giao kèo di dân và lên đường sang Mỹ. Hầu hết các sử gia đều cho rằng các biện pháp trên đây của Anh Quốc là nhằm đưa người nghèo và các thành phần bất hảo ra khỏi nước, nhưng dường như không thấy có sử gia nào (?) nghĩ rằng nước Anh đưa người ào ạt lên đất Mỹ là một cách gián tiếp áp đặt văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng của mình, tức là một hình thức thiết lập thuộc địa một cách kín đáo, không cần tuyên bố. Tưởng cũng nên hiểu rằng thời kỳ này là một giai đoạn lịch sử thật căng thẳng mà các nước thực dân Âu Châu bắt đầu dòm ngó nhau và tranh dành thuộc địa gay gắt nhất.
Nếu nhìn vào vấn đề tín ngưỡng thì ngay trong chuyến du hành đầu tiên khám phá ra Mỹ Châu của Kha Luân Bố, cũng đã có một vị cố đạo Thiên Chúa Giáo La Mã trên tàu. Trong thời kỳ thực dân, các linh mục dòng Tên (Jesuits) của Thiên Chúa Giáo La Mã đã tạo được nhiều ảnh hưởng ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản, và các mục sư Tin Lành người Anh đã gây được nhiều ảnh hưởng ở Madagascar, Trung Quốc và Hawaii. Nhiều sử gia cho rằng các vị cố đạo ra đi khắp nơi là vì nguyện vọng truyền bá đạo Ki-tô và các đạo quân xâm chiếm thuộc địa thì chỉ giữ vai trò bảo vệ họ mà thôi, thế nhưng trên thực tế thì một sự cấu kết và hiểu ngầm nào đó dường như có vẻ là một sự kiện tất yếu và đương nhiên.
Trở lại với vấn đề di dân thì tiếng đồn về một “Miền Đất Hứa ” (Promised Land), rộng thênh thang, phong phú và tự do ngày càng được phóng đại thêm và đã biến nước Mỹ trở thành một huyền thoại, chẳng những thu hút người nghèo đói hoặc bị kỳ thị tín ngưỡng mà cả một số người khá giả ôm mộng rời bỏ quê hương mình trên lục địa Âu Châu già nua, chật hẹp và bon chen. Quả cũng lạ, những người di dân đến trước cảm thấy mình là người dân Mỹ “chính thống” không thích những người di dân mới tràn ngập nước Mỹ “của họ” và cạnh tranh với họ. Những sự xô xát, kỳ thị, khinh miệt, ngược đãi thường xuyên xảy ra ở một số tiểu bang như South Carolina, Maryland, Virginia…, nhất là đối với những người Ái Nhĩ Lan thường là người nghèo khổ, quá đông và nhất là họ lại theo Thiên Chúa Giáo La Mã. Miền Đất Hứa đôi khi cũng không hẳn là dễ sống và thật sự tự do như nhiều người mơ tưởng khiến một số người thất vọng đã phải quay về quê hương họ ở Âu Châu.
Thế nhưng đặt chân lên Miền Đất Hứa thì nào có phải là chuyện dễ dàng đâu. Tùy biển êm hay bão tố, cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương mất từ 6 tuần đến 6 tháng. Hành khách chen chúc trên tàu, không chỗ nằm, thiếu vệ sinh, lây bệnh, ói mửa…, nhiều người già yếu và trẻ con đã không đến được bờ. Nếu cuộc hành trình kéo dài quá lâu thì thiếu nước, thiếu ăn. Năm 1741 một chiếc tàu Ái Nhĩ Lan chở 106 hành khách, khi đến được đất Mỹ thì chỉ còn 60 người sống sót, sáu xác trong số những người chết đã bị những người khác ăn thịt. Năm 1752 một chiếc tàu Hòa Lan chở 340 hành khách cặp bến ở tiểu bang Philadelphia thì chỉ vỏn vẹn còn lại 21 người sống sót, những người khác đều chết vì đói. Người di dân ra đi là cả một sự liều lĩnh, bọn chủ tàu hám lợi chở khách chật ních, thiếu thức ăn, thiếu nước. Thế nhưng nếu gặp gió thuận biển êm, tàu đến sớm thì bọn thủy thủ lại không cặp bờ, lấy cớ là còn phải chờ kiểm dịch để hạch sách hành khách bắt họ phải trả thêm tiền, cho đến khi nào hết sạch thì mới cho lên bờ. Những chuyện đại loại như thế thường xuyên xảy ra cho đến giữa thế kỷ XIX. Năm 1853 người di dân Na Uy trên một chuyến tàu đưa khách của người Anh thuật lại là hành khách bị đối xử như thú vật, phụ nữ lo sợ bị hãm hiếp, những chuyện gây hấn và xô xát giữa các gia đình hay tập thể trên tàu xảy ra ngày một. Cứ mỗi lần phân phát thực phẩm thì không sao tránh khỏi chuyện tranh dành và cướp giật lẫn nhau.
Đến được bờ cũng không có nghĩa là mọi sự gian nan chấm dứt. Những người “làm công theo giao kèo” bị chủ đến tìm và mang đi, trong cùng một gia đình mỗi người một ngã. Theo giao kèo nếu gia đình nào cha mẹ chết hết thì người chủ thuê phải nuôi đám con cái sống sót và chúng phải làm việc thay cha mẹ đến 21 tuổi mới được trả tự do. Thật xa với nước Mỹ, nơi các vùng ven biển xa xôi của lục địa Phi Châu, cả ở bờ phía tây lẫn phía đông, các bộ lạc người da đen bị bao vây và lùa bắt. Tất cả đàn ông khỏe mạnh đều bị bắt sạch, một số ít đàn bà và trẻ em cũng bị bắt. Anh và Pháp là hai nước lùng bắt nô lệ nhiều nhất và quy mô nhất. Nhiều làng và bộ lạc chỉ còn lại phụ nữ, trẻ con và người già yếu. Người nô lệ bị nhốt chật ních dưới khoang tàu, họ bị say sóng, đói khát, bệnh tật, chết chóc rất nhiều. Mỗi chuyến tàu phải mất từ hai tháng hoặc có khi phải lênh đênh hàng nửa năm mới đến được các bến cảng ở Âu Châu. Ở Pháp các cảng tạm chứa người nô lệ hầu hết nằm ven bờ biển Đại Tây Dương như Bordeaux, La Rochelle, Nantes…, và ở Anh là các cảng Luân Đôn, Liverpool, Bristol, Playmouth… Từ các nơi này những người người nô lệ sống sót được chuyển sang tàu khác để đưa đi Mỹ. Tuy nhiên cũng có những đường tàu chuyên chở người nô lệ thẳng từ các bờ biển phía tây Phi Châu đến các cảng ở bờ biển phía đông của nườc Mỹ.
H.4: Sơ đồ một chiếc tàu (frigate, một loại tàu lớn có ba cột buồm) chở nô lệ của Pháp, tên tàu là Aurore, chủ nhân là một người ngụ ở cảng Nantes (Pháp). Tàu gồm ba tầng: boong tàu, tầng giữa và gầm tàu. Gầm tàu dùng để chứa các thùng gỗ đựng nước uống. Tầng giữa cao vừa đầu người dùng để chứa nô lệ, có thể chứa được 600 người, trong số này thường là gồm khoảng 400 đàn ông, 120 đàn bà và 80 trẻ em. Ngoài ra tầng này còn có thêm các gác hẹp dọc theo vách tàu với diện tích chung là 55 m² có thể chứa thêm 190 người. Tính đổ đồng mỗi người nô lệ được 1/3 m² trên tàu.
H.5 và 6: Quảng cáo trên báo ở Mỹ về việc buôn bán nô lệ. Xin lược dịch quảng cáo trong hình số 6 như sau: Charleston (tiểu bang Nam Carolina), ngày 24 tháng 7 năm 1769. Sẽ rao bán vào thứ năm, ngày thứ ba trong tháng 8, một chuyến hàng gồm 94 người mọi thuộc loại tốt nhất, đầy đủ sức khỏe, gồm 39 đàn ông, 15 con trai, 24 đàn bà và 16 con gái, do thuyền nhỏ hai cột buồm (brigantine) tên tàu là Dembia vừa mới cặp bến, thuyền trưởng là Francis Bare, tàu đến từ Sierre Leone (Phi Châu), (các tư liệu trên đây được trích từ các sách giáo khoa cấp Trung Học ở Pháp)
Một quốc gia trên nguyên tắc được hình thành từ một cộng đồng dân chúng với ngôn ngữ, văn hóa, tín ngưỡng và quá trình lịch sử của họ, nói lên một sự hòa hợp và đồng nhất nào đó. Thế nhưng nước Mỹ lại là một trường hợp đặc biệt, được hình thành từ một cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Như đã nói trên, trong số những người di dân thì người Anh là đông nhất và họ đã áp đặt ngôn ngữ, văn hóa, tập quán và cả tín ngưỡng của mình cho toàn thể quốc gia mới mẻ này. Vì thế nếu muốn tìm hiểu tín ngưỡng của nước Mỹ thì tất phải tìm hiểu tín ngưỡng mà người di dân Anh Quốc đã mang vào vùng đất “trinh nguyên” ấy. Chúng ta hãy thử trở ngược về nguồn gốc và nguyên nhân đưa đến sự hình thành của các tín ngưỡng trên đất Anh trước khi được người di dân đưa vào nước Mỹ.
“Thâm cung bí sử” và sự hình thành của Anh Giáo vào thế kỷ XVI
Tiền bán thế kỷ XVI dưới triều đại của vua Henry VIII là một giai đoạn lịch sử khá quan trọng của nước Anh, riêng trên phương diện tín ngưỡng đã đưa đến sự hình thành của đạo Tin Lành Anh Quốc còn gọi là Anh Giáo (Anglicanism). Sự hình thành của tín ngưỡng này cũng trùng hợp với các đợt di dân đầu tiên của người Anh vào đất Mỹ. Thật hết sức trớ trêu, nguyên nhân đưa đến sự hình thành của Anh Giáo, đánh dấu một sự chuyển hướng tín ngưỡng vô cùng trọng đại của cả một dân tộc cũng chỉ là hậu quả của những “chuyện thâm cung bí sử” thời bấy giờ. Những gì trớ trêu chính là những chuyện “tình sử” dưới đủ mọi hình thức “mưu mô” và ” dàn xếp” xảy ra bên trong các lâu đài kín cổng cao tường, thế nhưng đã mang lại những hậu quả thật sâu rộng bên ngoài dân gian, làm chuyển hướng và thay đổi đức tin của cả một dân tộc, và còn gây ra ảnh hưởng đến cả nền tín ngưỡng của nước Mỹ sau này.
Cho mãi đến đầu thế kỷ XVI người Anh hoàn toàn theo Thiên Chúa Giáo La Mã và thần phục Giáo Hoàng Vatican, thế nhưng năm 1534 thì vua Henry VIII (1491-1547) đột nhiên đoạn giao với La Mã! Quyết định này đã đưa đến sự hình thành của Anh Giáo, và sau đó đã được những người di dân Anh đưa vào nước Mỹ.
Henry VIII thừa kế vua cha năm 1509 lúc 18 tuổi. Sau khi lên ngôi ông cưới bà Catherine d’Aragon (lớn hơn mình 6 tuổi), và là góa phụ của anh ruột mình là Arthur Tudor, mất 7 năm trước đó lúc mới 15 tuổi sau khi lấy vợ được ba tháng. Việc hôn phối trên đây giữa Henry VIII và bà Catherine d’Aragon đã vượt quyền Tòa Thánh La Mã, bởi vì Giáo Hoàng chưa cho phép. Lý do là vì theo luật nhà thờ La Mã thì việc kết hôn giữa hai người có họ hàng với nhau bị cấm đoán (bà Catherine d’Aragon trước đây là chị dâu của vua Henry VIII). Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt này thì việc hôn phối cũng có thể được Giáo Hoàng cho phép nếu có giấy tờ chứng minh là người phụ nữ còn trinh (mới lấy chồng được ba tháng và chồng mới 15 tuổi). Tuy nhiên nhờ các sự “dàn xếp” khéo léo nên sau đó cũng đã được Giáo Hoàng Jules II miễn cho các giấy tờ này. Thế nhưng phía sau việc hôn phối này cũng lại còn có thêm một sự “dàn xếp” khác nữa do hoàng triều Anh Quốc chủ xướng, nguyên nhân là vì bà Catherine d’Aragon là một công chúa Tây Ban Nha (con vua Ferdinand II d’Aragon của vương quốc Castille, thuộc Tây Ban Nha ngày nay). Sự “dàn xếp” này mang tính cách vừa chính trị lại vừa tài chánh, trước hết là vì thế lực của vương quốc Castille lúc bấy giờ rất mạnh, và sau đó là của hồi môn của bà Catherine d’Aragon rất lớn. Vương triều Anh Quốc trước đây đã từng tìm đủ mọi cách không cho bà Catherine d’Aragon trở về Tây Ban Nha sau khi chồng chết, và sau đó đã “dàn xếp” việc hôn phối giữa bà và Henry VIII nhằm các lý do vừa nêu lên trên đây. Thế nhưng cũng lại thật trớ trêu, phía sau cả hai sự “dàn xếp” ấy thì giữa hai người trong cuộc là Henry VIII và bà Catherine d’Aragon thì việc hôn phối lại là vì “tình yêu” say đắm.
Bà Catherine d’Aragon mang thai sáu lần, thế nhưng hoặc bị sẩy thai, hoặc đứa bé chết khi mới sinh, sau cùng chỉ nuôi được một đứa con gái sinh lần thứ tư năm 1516 tên là Mary (sau này trở thành Nữ Hoàng Đệ Nhất của Anh Quốc). Trong khi đó thì một bà “tình nhân” chính thức (đối với vua chúa Á Châu là các cung phi sủng ái xếp theo thứ bậc) là Elisabeth Blount lại sinh được một đứa con trai tên là Henry FitzRoy, thế nhưng vì đứa bé này là con ngoại hôn nên trên nguyên tắc theo luật nhà thờ La Mã thì không được hưởng quyền thừa kế. Hoàng triều bèn phong tước cho đứa bé để dự trù trong trường hợp nếu sau này Henry VIII không có con trai thì sẽ “dàn xếp” cho đứa bé này được quyền lên thay.
Năm 1520 Henry VIII lại giao du “thân mật” với một bà khác trong đoàn tùy tùng của vợ mình là Mary Boleyn, bà này đã có hai con, một gái và một trai tên là Catherine và Henry. Tìếng đồn rằng hai đứa bé này là con của Henry VIII, thế nhưng không như trường hợp của cậu bé Henry FitzRoy con trai của bà Elisabeth Blount, Henry VIII không hề chính thức thừa nhận hai đứa bé này. Ngoài ra ông ta còn say mê cả cô em gái của bà tình nhân mới này là Anne Boleyn, một người phụ nữ rất quyến rũ cũng trong đoàn phụ nữ và phu nhân tùy tùng của hoàng hậu Catherine d’Aragon.
Thật ra thì Henry VIII đang phải đối đầu với một tình thế thật nan giải và vô cùng rắc rối, liên quan đến việc thừa kế sau này. Ông có thể trông cậy vào cậu bé Henry FitzRoy sẽ nối ngôi ông, thế nhưng lại nơm nớp lo sợ là Giáo Hoàng La Mã sẽ không chấp thuận vì là con ngoại hôn (dầu sao thì cậu bé này sau đó cũng đã chết yểu lúc mới ba tuổi). Con gái duy nhất và chính thức của Henry VIII là Mary thì lúc đó chưa đầy mười tuổi, chờ đến lúc có cháu ngoại trai nối ngôi thì biết đâu cũng sẽ quá muộn vì mình cũng có thể sẽ chết trước. Giải pháp thứ ba là ly dị bà Catherine d’Aragon để chính thức cưới bà Anne Boleyn (em gái của người tình nhân mà mình đang say mê). Sau cùng Henry VIII đã quyết định chọn giải pháp thứ ba này. Thế nhưng nếu muốn ly dị thì lại phải được Tòa Thánh La Mã cho phép (luật nhà thờ cấm ly dị).
H.8: Công chúa Catherine d’Aragon
(1485-1536), tranh họa khoảng
năm 1501, lúc bà mới lấy chồng lần đầu
(người chồng là anh ruột của Henry VIII).
H.9: Bà Catherine d’Aragon sau khi đã trở thành hoàng hậu, vợ của Henry VIII, tranh họa khoảng năm 1525.
Henry VIII theo Thiên Chúa Giáo La Mã, rất ngoan đạo và thành tín, và theo các sử gia thì ít nhất là vào thời kỳ khi vừa mới lên ngôi, ông đã từng trước tác một tập chuyên luận đả kích Martin Luther, một giáo sư thần học người Đức cha đẻ ra đạo Tin Lành. Chính là nhờ vào tập chuyên luận này mà Henry VIII đã được Giáo Hoàng Leon X phong cho danh hiệu “Người bảo vệ Đức Tin”. Martin Luther là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Ki-tô Giáo và có thể là của cả nhân loại, do đó cũng xin mạn phép được nêu lên thêm một vài dòng về nhân vật này. Theo thiển ý của người ghi chú thì Martin Luther (1483-1546) là một trong số ba người Đức mà tư tưởng đã làm cho nhân loại phải đảo điên, hai nhân vật kia là Karl Marx (1818-1883) và Adolphe Hitler (1889-1945). Martin Luther công khai chống lại uy quyền và sự độc tôn của Tòa Thánh La Mã, ông cho rằng chỉ có Thánh Kinh mới thật sự đại diện cho Ki-tô Giáo và biểu trưng cho uy quyền của Chúa, và chỉ có Chúa Giê-Su mới là vị Cứu Thế đích thật (Messie/Messiah) mà thôi. Thêm vào đó đạo Ki-tô không bắt buộc phải thông qua trung gian của Tòa Thánh La Mã. Martin Luther bèn bị Tòa Thánh khai trừ (excommunication, tiếng La Tinh là ex-communicare, là một thủ tục khai trừ một tín đồ ra khỏi đạo) ngày 3 tháng giêng năm 1521.
H.9: Bà Catherine d’Aragon sau khi
đã trở thành hoàng hậu,
vợ của Henry VIII,
tranh họa khoảng năm 1525.
Học thuyết thần học mang tính cách “cải tổ” và “cách mạng” trên đây của Martin Luther (Lutherianism) đưa đến một sự ly giáo (schism) và sự hình thành của đạo Tin Lành (Protestantism), đánh dấu một khúc quanh vô cùng trọng đại trong nền văn minh Tây Phương, từ xã hội, văn hóa, tín ngưỡng cho đến chính trị. Chúng ta quen gọi Protestantism là đạo Tin Lành (Tin Mừng) thế nhưng thật ra thì chữ protestation/protest theo nghĩa xưa vào thời bấy giờ là “sự biểu lộ công khai” và nghĩa mới hơn sau này là sự “phản kháng” hay “chống đối”. Dù là theo ý nghĩa nào thì quan điểm của Matin Luther và sự hình thành của đạo Tin Lành cũng đã đưa đến chiến tranh tôn giáo triền miên và khắp nơi trên toàn thể lục địa Âu Châu suốt trong gần hai thế kỷ (1524-1704). Một khi uy thế và quyền lợi của một tập thể bị va chạm và sứt mẻ thì những sự xung đột không sao tránh khỏi.
H.10: Cảnh chém giết người theo đạo Tin Lành ở thủ đô Paris vào dịp lễ thánh Saint Barthélémy ngày 24 tháng 8 năm 1572, kéo dài nhiều ngày liên tiếp và sau đó đã lan ra hơn hai mươi thành phố khác trên toàn thể nước Pháp, (tranh họa của François Dubois.)
H.11: Cảnh người Tây Ban Nha (theo Thiên Chúa Giáo La Mã) tàn sát dân chúng (theo Tin Lành Giáo) ở thành phố Oudewater Hòa Lan, một trong số các cảnh tượng chém giết xảy ra trong một cuộc chiến kéo dài 80 năm (1568-1648) giữa hai nước.
Chúng ta hãy trở lại với vua Henry VIII và các mưu mô của ông nhằm ly dị bà Catherine d’Aragon. Một mặt ông kín đáo ra lệnh đưa bà Catherine d’Aragon vào tu viện với lý do xem bà này là góa phụ của anh mình, một mặt đưa đơn lên Tòa Thánh xin ly dị. Thế nhưng bà Catherine d’Aragon nhất định không đi tu và tuyên bố mình là “người vợ duy nhất và chính thức của vua Henry VIII” vì lý do việc hôn nhân của bà và Henry VIII trước đây đã được Tòa Thánh chính thức cho phép. Quả thật đáng thương cho một người phụ nữ sáu lần mang thai, nhưng không sinh được một người con trai nào sống sót. Trong khi đó thì đơn xin ly dị của Henry VIII cũng bị Giáo Hoàng Clement VII bác, chẳng qua là vì Giáo Hoàng không muốn lấy quyết định trái với vị tiền nhiệm trước đây đã chính thức cho phép Henry VIII kết hôn với bà Catherine d’Aragon. Thế nhưng phía sau việc bác đơn này cũng lại còn tàng ẩn nhiều lý do khác nữa: Giáo Hoàng Clement VII rất nể sợ Charles Quint, hoàng đế Tây ban Nha, một người theo Thiên Chúa Giáo La Mã và đang cai trị một đế quốc rộng lớn gồm Tây Ban Nha và các thuộc địa, trải rộng từ phía nam Hòa Lan đến toàn vùng nam nước Ý, và tiếp tục kéo dài đến tận Jerusalem. Hơn nữa trước đây Charles Quint cũng đã từng tràn vào La Mã cướp phá, và nhất là Charles Quint lại là cháu của bà Catherine d’Aragon. Các lý do này đã không cho phép Tòa Thánh hủy bỏ việc hôn phối giữa Henri VIII và bà Catherine d’Aragon.
Nhằm tránh né không muốn tự mình lấy quyết định cấm Henry VIII ly dị, Giáo Hoàng Clement VII bèn cho thành lập một Tòa Án Giáo Hội ngay trên đất Anh vào tháng 10 năm 1528 với chủ đích đẩy cho người khác lấy quyết định này. Hồng Y Lorenzo Campeggi đại diện cho Tòa Thánh được đề cử chủ tọa tòa án này. Sau hai tháng tranh cãi chưa ngã ngũ thì bất thần dưới áp lực của Charles Quint, Giáo HoHoàng Clement VII ra lệnh đưa tòa án trở về La Ma. Trên thực tế, quyết định này lại là một cách gián tiếp tạo dịp thuận lợi giúp cho Tòa Thánh không cho phép Henry VIII ly dị, lấy cớ là vì tòa án ở Anh không giải quyết được nên Tòa Thánh Vatican đành phải đứng ra lấy quyết định này. Việc ly dị thất bại, Henry VIII rất bực tức bèn quay ra kết án Hồng Y Thomas Wolsey là người cố vấn và cũng là chiến lược gia thân tín của mình là phản nghịch (không thành công trong việc dàn xếp với tòa án cho phép ông ly dị), và đề cử một người khác vào chức vụ này là Thomas More, một nhà thần học, triết gia, sử gia và luật gia. Mặc dầu vậy Henry VIII vẫn chưa hả giận và đã tìm đủ mọi cách để báo thù, khiến cho Hồng Y Thomas Wolsey phải thân bại danh liệt, tán gia bại sản, và Hồng Y Thomas Wolsey qua đời một năm sau đó. Thế nhưng cũng thật hết sức bất ngờ và vượt ra ngoài mọi dự đoán cũng như trí tưởng tượng của mọi người: Thomas More người lên thay lại theo Thiên Chúa Giáo La Mã, không những rất ngoan đạo mà trước đây đã từng đứng vào phe chống lại việc ly dị của Henry VIII!
H.12: Giáo Hoàng Clement VII (1478-1534)
H.13: Hồng Y Thomas Wolsey (1473-1530)
H.14: Thomas More (1478-1535), quân sư và chiến lược gia (Lord Chancellor) của Henri VIII, lên thay Hồng Y Thomas Wolsey
H.15: Tổng Giám Mục Cantorbery Thomas Cranmer (1489-1556), người tạo dựng ra Anh Giáo (Anglicanism) theo chỉ thị của Henry VIII
Thật ra thì tàng ẩn phía sau việc đề cử Thomas More là một mưu kế thật tinh vi của Henry VIII nhằm tạm thời trấn an Tòa Thánh La Mã. Năm 1531, tức là hai năm sau đó, ông bất thần trục xuất bà Catherine d’Aragon ra khỏi các phòng ốc dành riêng cho bà trong lâu đài hoàng gia và giao các nơi này cho người tình nhân của ông là Anne Boleyn. Bà này là một phụ nữ rất thông minh, khôn khéo, có xu hướng nghiêng theo các quan điểm của Tin Lành Giáo, tuy rằng theo các sử gia thì thật ra xu hướng này của bà chưa hẳn là một sự thực tâm mà chỉ là bề ngoài. Năm 1532, Tổng Giám Mục Cantorbery (Archbishop of Cantorbery, tức là người lãnh đạo Giáo Hội Ki-tô Giáo Anh Quốc) là William Warham qua đời. Lúc còn sống vị này luôn tìm đủ mọi cách ngăn chận không cho đạo Tin Lành du nhập và bành trướng ở Anh. Thế nhưng sau khi ông qua đời thì thế lực của bà Anne Boleyn tăng vọt, và dưới áp lực của bà Giáo Hội Ki-tô Giáo Anh Quốc đã chọn người kế vị là Hồng Y Thomas Cranmer là người dễ sai bảo, có thể chấp nhận việc ly dị của Henry VIII sau này. Việc đề cử này cũng đã được Tòa Thánh La Mã chấp thuận, có thể là vì tin tưởng nơi vị Tổng Giám Mục Cantorbery trước đây là William Warham cũng như toàn thể những người trong Giáo Hội Ki-tô Anh Quốc dưới quyền ông là những người trung thành với Tòa Thánh La Mã.
Năm 1532, Henry VIII và Anne Boleyn bí mật tổ chức đám cưới, và sau đó thì bà này mang thai, tức thời một lễ cưới thứ hai được tổ chức công khai và thật long trọng ngày 25 tháng giêng năm 1533. Sau đó Hồng Y Thomas Cranmer đích thân chủ tọa một tòa án đặc biệt được tổ chức ngày 23 tháng 5 nhằm hủy bỏ việc hôn phối giữa Henry VIII và bà Catherine d’Aragon. Đúng năm ngày sau đó thì cũng chính Hồng Y Thomas Cranmer đứng ra hợp thức hóa việc kết hôn giữa Henri VIII và Anne Boleyn. Bà Catherine d’Aragon mất chức hoàng hậu và trở thành một “công chúa góa phụ” vợ của Arthur Tudor, người anh quá cố của Henry VIII. Ngày 1 tháng 6 năm 1533, bà Anne Boleyn chính thức được đăng quang hoàng hậu. Thế nhưng thật hết sức oái oăm, ba tháng sau đó vào ngày 7 tháng 9, bà lại hạ sinh một đứa con gái. Đứa con gái này được đặt tên là Elisabeth, nhằm vinh danh mẹ của Henry VIII là Elisabeth York (không thấy có sử liệu nào cho biết là ai đã đặt tên cho đứa bé, thế nhưng biết đâu cũng có thể là chính bà Anne Boleyn có ý kiến này và đã đặt tên con trùng với tên mẹ của Henry VIII hầu hy vọng làm nhẹ bớt đi bầu không khí nặng nề khi mình sinh con gái?).
Việc chính thức kết hôn trên đây đã đưa đến một tình trạng thật rắc rối: trước hết là bất chấp giáo luật, sau đó là các truyền thống hoàng tộc và các điều luật thừa kế. Tất cả các chuyện này phải được dàn xếp và sửa đổi lại. Nhằm để giải quyết một cách “ổn thỏa” và “trọn gói” các khó khăn trên đây, một đạo luật (Act of Supremacy) được ban hành vào tháng 11 năm 1534 đưa Henry VIII lên làm vị Lãnh Đạo Tối Cao của Giáo Hội Anh Quốc, đánh dấu sự tách rời của Giáo Hội này ra khỏi quyền lực của Tòa Thánh La Mã (vị lãnh đạo Giáo Hội Anh Quốc không còn là một vị Tổng Giám Mục do Vatican đề cử hoặc chấp thuận mà là vua nước Anh). Giáo Hoàng Clement II bèn khai trừ (excommunication) Henry VIII và cả Tổng Giám Mục Cantorbery là Thomas Cranmer ra khỏi đạo Thiên Chúa La Mã. Sự tuyệt giao trên đây đã đưa đến sự hình thành chính thức của Anh Giáo. Theo các sử gia thì các sự kiện xảy ra trên đây cho thấy là Tòa Thánh La Mã đã bị mắc mưu của Henry VIII và bà Anne Boleyn (nhằm chính thức hóa việc hôn nhân của mình mà không cần sự cho phép của Tòa Thánh).
“Tình yêu” đôi khi mạnh hơn cả tín ngưỡng: một người con trai mê gái có thể theo đạo vợ và cam chịu nhục nhã suốt đời, một người con gái có thể mê trai mà bỏ đạo và có thể bị cha mẹ từ. Thế nhưng cặp “trai tài” “gái sắc” Henry VIII và bà Anne Boleyn thuộc giới vua chúa và quý tộc nào có chịu cam phận như thế đâu? Vì “tình yêu” thúc đẩy họ đã lừa được cả Tòa Thánh và chuyển cả tín ngưỡng của dân tộc mình theo một đường hướng mới là đạo Tin Lành! Thật vậy động lực thúc đẩy của bản năng truyền giống đôi khi rất mạnh, có thể vượt lên trên cả bản năng tín ngưỡng.
Thế nhưng tiếc thay cuộc sống hạnh phúc giữa Henry VIII và bà Anne Boleyn cũng chỉ kéo dài chưa đầy một năm, lý do là vì bà này là một phụ nữ quá ư thông minh, khôn ngoan và tự chủ. Sự lanh lợi và khéo léo của bà là một lợi điểm thu hút kẻ khác, thế nhưng lại là một sự bất lợi trong vai trò của một bà hoàng hậu. Henry VIII bắt đầu chán ghét bà này sau khi bà sinh đứa con gái đầu lòng. Năm 1934 bà bị sẩy thai (một vài sử gia cho rằng bà bị sẩy thai đến hai lần trong cùng năm này). Vào dịp Giáng Sinh cuối năm, Henry VIII bàn riêng với Tổng Giám Mục Cranmer và vị quân sư Thomas Cromwell về quyết định của mình là sẽ ly dị bà Anne Boleyn. Năm 1536 một lần nữa Annne Boleyn lại bị sẩy thai và thai nhi là một đứa con trai mới bốn tháng. Bà chưa kịp hồi phục thì đã bị Henry VIII trục xuất ra khỏi các phòng ốc dành riêng cho hoàng hậu và giao các nơi này cho người tình mới của ông là Jeanne Seymour. Trong hai ngày 30 tháng tư và mùng 2 tháng 5, liên tiếp năm người đàn ông bị bắt giam – trong số này có cả người anh ruột của Anne Boleyn là George Boleyn – vì phạm vào tội thông dâm và loạn luân với hoàng hậu. Cả năm người đàn ông này đều bị tử hình. Ngày 17 tháng 5 bà Anne Boleyn bi chém đầu trong lâu đài Tower of London bên bờ sông Thames. Hoàng hậu ngoại tình và bị xử trảm thì vua có quyền lấy vợ khác, không cần phải xin phép ai cả, và nếu có xin phép thì Henry VIII cũng là vị Lãnh Đạo Tối Cao của Giáo Hội Anh Quốc, đã tách ra khỏi quyền lực của Tòa Thánh).
H.16: Anne Boleyn (1500-1536), vợ thứ hai của Henry VIIII,
bị xử trảm ngày 17 tháng 5 năm 1536
tranh họa năm 1534
Một tuần sau khi xử trảm Anne Boleyn thì Henry VIII làm lễ cưới linh đình với người tình nhân mới của mình là Jeanne Seymor, một phụ nữ dòng dõi quý tộc, nhu mì, khiêm tốn và điềm đạm. Năm 1537 bà sinh một đứa con trai (sau này lên ngôi với vương hiệu là Edouard VI), thế nhưng sau khi sinh được 12 ngày thì bà qua đời vì hậu sản.
H.17: Jeanne Seymour (1508-1537), vợ thứ ba của Henry VIII, tranh họa năm 1536
Quân sư của Henry VIII là Cromwell khuyên ông vì mục đích chính trị nên cưới bà Anne De Kleve, em gái của quận công de De Kleve, cai trị một “vương quốc” (trong vùng tây bắc nước Đức ngày nay) thuộc đế quốc rộng lớn của Charles Quint, nhằm làm kế hòa hoãn, bởi vì ông rất e sợ Charles Quint theo Thiên Chúa Giáo La Mã có thể sẽ tấn công Anh Quốc theo Tin Lành Giáo bất cứ lúc nào. Khi gửi hình minh họa bà Anne de Kleve cho Henry VIII xem thì chân dung này vì áp lực họa sĩ đã phải vẽ bà “trông cũng không phải là tệ lắm”. Thế nhưng khi giáp mặt trong lúc lễ cưới đang được long trọng tổ chức thì Henry VIII chê bà này “không đẹp”. Thế nhưng sau đó nhờ tính tình hiền hậu và ngoan ngoãn nên Henry VIII chỉ giáng chức hoàng hậu và phong bà này làm “em gái vua” (không ly dị cũng không chặt đầu!). Con người dù gian ác và hung dữ đến đâu, đôi khi cũng bùng lên trong lòng mình một chút nhân từ, hoặc cũng có thể là vì nể sợ anh của bà này là quận công De Kleve.
H.18: Anne de Kleve (1515-1557), vợ thứ tư của Henry VIII, tranh họa năm 1539
Henry VIII sau đó lại si mê một người bạn gái của bà này là Catherine Howard, cháu gái của Thomas Howard, quận công Norfolk (một vùng lãnh thổ thuộc bờ biển phía tây Anh Quốc) và cũng là một trong số các vị quân sư của Henry VIII. Trước tình thế này “thủ tướng” và cũng là một vị “quân sư” khác (chancellor/chief minister) của Henry VIII là Thomas Cromwell rất lo ngại cho vị thế của mình, bởi vì trước đây giữa ông và Thomas Howard đã từng xảy ra nhiều chuyện ganh tị và hiềm khích. Đúng với sự tiên đoán của Thomas Cromwell, các bộ hạ của ông lần lượt bị đưa lên giàn hỏa và sau đó đến lượt chính ông bị thất sủng. Dưới áp lực của Thomas Howard và những lời dèm pha của người cháu gái của ông là Catherine Howard (tình nhân của Henry VIII), Thomas Cromwell bị kết án mưu phản, nghịch đạo, tham nhũng và bị hành quyết ngày 28 tháng 7 năm 1540. Cùng trong ngày hôm đó Henri VIII chính thức cưới bà Catherine Howard, trẻ hơn ông 30 tuổi. Bà này sau đó ngoại tình với một kẻ xu nịnh trong triều đình là Thomas Culpeper và một người đàn ông khác là Francis Dereham mà bà đã từng hứa hôn, tuy không chính thức, trước khi trở thành hoàng hậu, vợ của Henry VIII. Tiếng đồn đến tai Henry VIII, thế nhưng vì quá si mê bà này nên ông không tin, dù trước đó chính ông cũng đã bí mật ra lệnh cho Tổng Giám Mục Thomas Cranmer điều tra và vị này cũng đã xác nhận với ông là đúng thật như thế. Dầu sao thì sau đó mọi việc cũng đã bị đổ bể, Henri VIII nổi trận lôi đình, Catherine Howard bị xử trảm ngày 10 tháng 11 năm 1541, và người tình nhân của bà là Francis Dereham bị treo cổ, mổ bụng và moi ruột.
H.19: Catherine Howard (1521-1542), vợ thứ năm của Henry VIII,
bị xử trảm ngày 13 tháng 2 năm 1542
Sau đó Henry VIII lại cưới bà vợ thứ sáu là Catherine Parr đã hai lần góa bụa, theo đạo Tin Lành và rất ngoan đạo. Henri VIII mất ngày 28 tháng giêng năm 1547, và ngày 5 tháng 9 cùng trong năm này, bà Catherine Parr lấy chồng lần thứ tư, và người chồng này cũng không phải ai xa lạ, mà là cậu của con trai của bà vợ thứ ba của Henri VIII. Với người chồng thứ tư này bà Catherine Parr mang thai lần đầu và sinh được một người con gái, thế nhưng sau đó đã chết vì hậu sản ngày 5 tháng 9 năm 1548.
H.20: Catherine Parr (1512-1548), vợ thứ sáu của Henry VIIII, tranh họa khoảng năm 1645
Trong các câu chuyện trên đây, nếu kéo lên tấm màn hậu cảnh vương giả, cao sang và quyền quý thì trên sân khấu các diễn viên cũng sẽ chẳng khác gì với những con người bình dị như chúng ta hôm nay: những người đàn ông luôn bị bản năng truyền giống và dục tính thôi thúc và những người phụ nữ luôn phải gánh chịu thân phận đàn bà của chính mình. Tất cả đều khổ đau, đều bị chi phối bởi bản chất tham lam và nô lệ cho bản năng dục tính và truyền giống của chính mình. Dù làm vua thế nhưng nếu muốn thỏa mãn các thứ bản năng ấy cũng phải bày ra đủ mọi trò lương lẹo, gian ác và mưu mô, kể cả việc thiết lập một Giáo Hội và thay đổi đường hướng tín ngưỡng cho cả dân tộc mình. Dù mang cái vinh dự của một bà hoàng hậu thế nhưng cũng phải cố gắng đẻ, để rồi hoặc bị sẩy thai hay hậu sản, hoặc cũng có thể sẽ bị chém đầu nếu không sinh được con trai. Thiết nghĩ được làm những con người bình dị như chúng ta thì may ra biết đâu nhờ đó cũng sẽ có ít vấn đề và khổ đau hơn chăng? Henri VIII khi về già trở nên phì nộm, cân nặng 178 kí, vòng bụng 1,35m, cưới một cô gái 20 tuổi. Thương thay cho một người phụ nữ, dù mang danh là một bà “hoàng hậu” đi nữa, thế nhưng chỉ vì những đòi hỏi của “dục tính” dưới làn da và những tiếc nuối của một “tình yêu” xưa cũ trong con tim, mà đã phải bị chặt đầu.
Những lời ghi chú trên đây có vẻ như vừa dài dòng lại vừa lạc đề, thế nhưng các câu chuyện “thâm cung bí sử” thì bao giờ mà lại chẳng tràng giang đại hải, do đó cũng phải dông dài hầu có thể nêu lên những gì tàng ẩn kín đáo phía sau những tình tiết ấy để tìm hiểu các nguyên nhân đưa đến sự hình thành của đạo Tin Lành Anh Quốc. Thật vậy các câu chuyện “thâm cung bí sử” trên đây đã phơi bày cho chúng ta thấy là các nguyên nhân sâu xa làm phát sinh ra Anh Giáo cũng “chỉ là con người” và mang bản chất cũng “rất là con người”, những con người bình thường, lại gây ra những tác động vô cùng sâu rộng trong dân gian đưa đến các cảnh kỳ thị, xung đột và đàn áp tôn giáo, và người di dân đã mang theo với họ những đường hướng “cải cách” ấy sang tận nước Mỹ để phát triển thêm, và rồi một ngày đẹp trời, cha con Tillman lại tiếp tục mang theo sang tận xứ Mông Cổ xa xôi để cải đạo những người dân ở cái xứ này, những người dân chất phác chẳng hiểu biết gì về những chuyện “thâm cung bí sử” của Anh Quốc xảy ra từ năm thế kỷ trước.
Ngày 20 tháng 2 năm 1547, cậu bé Edward Tudor con trai của Henry VIII và bà vợ thứ ba của ông là Jeanne Seymour mới 9 tuổi lên ngôi lấy vương hiệu là Edouard VI, và cậu bé này cũng là vị vua đầu tiên của nước Anh theo Tin Lành Giáo. Một hội đồng nhiếp chính được để cử để giúp vua mới cai trị xứ sở. Tổng Giám Mục Cantorbery là Thomas Cranmer đứng ra tổ chức lại Anh Giáo và nhân dịp này đưa ra một số các giáo luật mới, chẳng hạn như mục sư được phép lấy vợ, loại bỏ ảnh tượng trong giáo đường và cách hành lễ mi-xa (messe/mass/ người VN thường gọi là đi xem lễ) của Thiên Chúa Giáo La Mã, không dùng tiếng La Tinh mà phải dùng tiếng Anh trong mọi nghi thức hành lễ. Henry VIII khi còn sống dù đoạn giao với Tòa Thánh Vatican thế nhưng ông chưa bao giờ chỉ trích giáo lý của Thiên Chúa Giáo La Mã, hoặc công khai tuyên bố là mình từ bỏ đạo này. Sở dĩ ông đứng ra thành lập Anh Giáo, giữ chức Giáo Chủ và đề cử một vị Tổng Giám Mục có khuynh hướng cải tổ và dễ sai, chẳng qua cũng chỉ vì mục đích ly dị vợ để cưới bà khác thế thôi.
Cuộc đời của Henry VIII từng làm đầu đề cho nhiều luận án về sử học và cũng đã từng gợi lên thật nhiều cảm ứng cho đủ mọi ngành nghệ thuật: từ văn chương, kịch nghệ, phim ảnh, vũ , opera, nhạc kịch… Hàng chục cuốn phim của nhiều nước trên thế giới đã được thực hiện về cuộc đời sôi động của ông. Trong số các phim do Hollywood sản xuất thì có hai phim do hai tài tử lừng danh của Mỹ thủ vai Henry VIII là Richard Burton (phim Anne the Thousand Days, 1972) và Charlton Heston (phim Crossed Swords, 1978). Ngay từ đầu thế kỷ XVI, văn hào và kịch gia William Shakespeare cũng đã mượn tiểu sử của ông để viết vở kịch The Famous History of the Life of King Henry the Eight (Cuộc đời lừng danh của vua Henry VIII). Vở kịch nổi tiếng này được viết năm 1613, tức là 66 năm sau khi Henry VIII qua đời. Trong giới dân gian thì người ta thường ví Henry VIII với gã “Râu Xanh” (Barbe Bleue/Bluebeard/Yêu Râu Xanh) một nhân vật trong một câu chuyện cổ tích của Charles Perrault, một nhà văn Pháp thế kỷ XVII, tác giả của nhiều câu chuyện cổ tích nổi tiếng như Bạch Tuyết, Công chúa Ngủ Trong Rừng, Chú bé Tí Hon, Cô bé Quàng Khăn Đỏ, Cô bé Lọ Lem…. Yêu Râu Xanh là một người thuộc giới quý tộc, giàu có và hung ác, giết hết các người vợ của mình.
Sự hình thành của các giáo phái Tin lành Mỹ
Miền Đất Hứa không nhất thiết chỉ thu hút những người nghèo đói hoặc nuôi mộng làm giàu mà còn là mảnh đất an toàn cho những người mong muốn tìm được sự tự do tín ngưỡng, được tôn thờ Thượng Đế theo quan điểm của mình. Nơi Miền Đất Hứa sự tự do tôn giáo đó đã bùng lên thật mạnh và đưa đến sự hình thành của vô số các giáo phái thật đa dạng. Các giáo phái này tuy thuộc chung trong Ki-tô Giáo nhưng tất cả đều chủ trương đứng ngoài quyền lực của Tòa Thánh La Mã. Sau đây là một vài giáo phái thịnh hành và tiêu biểu đã được đưa vào nước Mỹ hoặc được hình thành trên đất Mỹ.
Giáo phái Thanh Giáo (Puritanism) được hình thành năm 1559 ở Anh Quốc với chủ đích triệt để “thanh lọc” (purify) Anh Giáo, chẳng hạn như loại bỏ các tàn tích nghi thức hành lễ của Thiên Chúa Giáo La Mã còn sót lại trong Anh Giáo. Các hình thức cải cách khá cực đoan của Thanh Giáo đã khiến các thành phần bảo thủ trong Anh Giáo chỉ trích thậm tệ và xem Thanh Giáo là “ngoại đạo”. Những người theo Thanh Giáo bị kỳ thị và ngược đãi bèn di dân sang Mỹ và thiết lập trở lại giáo phái này ở các vùng New England (gồm sáu tiểu bang thuộc tây bắc nước Mỹ).
Giáo phái Quakersism (còn gọi là Society of Friends/Hiệp Hội Thân Hữu, hoặc cũng còn được gọi một cách vắn tắt là Đạo của những người Quakers, chữ quakers có nghĩa là “những người run sợ” [trước Thượng Đế]) là một giáo phái Tin Lành do George Fox (1624-1691) thành lập ở Anh Quốc năm 1647 dưới hình thức một sự ly giáo chống lại Anh Giáo. Giáo phái này chủ trương một sự bình đẳng tuyệt đối, phá bỏ mọi đẳng cấp, tôn tri và thứ bậc (chủ trương đức tin mang tính cách cá nhân, tất cả mọi người đều là thân hữu và bình đẳng trên phương diện đức tin, không có chức tước, cha con hay giáo phẩm gì cả, và cũng không phân biệt Chúa Trời qua ba ngôi là Cha, Con, Thánh Thần). Người theo đạo Quaker bị kỳ thị, ngược đãi và tàn sát ở Anh, thế nhưng họ có đức tin rất vững và là những người rất gan lì (dù rằng được gọi là những người run sợ/quakers). Giáo phái này được đưa vào tiểu bang New-Jersey năm 1660 và bành trướng sau đó ở một số các tiểu bang như Rhode-Island, Maryland, Pennsylvania…
Giáo phái Báp-tít (Baptism) là một giáo phái Tin Lành do John Smyth (1570-1612) một mục sư người Anh thành lập ở Hòa Lan năm 1609, sau đó giáo phái này được chính thức đưa vào nước Anh năm 1689 và người di dân Anh Quốc đã mang sang Mỹ vào đầu thế kỷ XVII. Báp-tít là một giáo phái có nhiều tín đồ, nhiều tiền và cũng thế lực nhất ở Mỹ ngày nay (Tillman là một mục sư của giáo phái này). Chủ trương của Báp-tít là phải trực tiếp căn cứ vào giáo lý nêu lên trong Thánh Kinh và đặt vai trò của Giáo Hội cũng như uy quyền của hàng giáo phẩm vào hàng thứ yếu, đặc biệt nhất là rất tin vào phép rửa tội bằng cách trầm mình và ngụp đầu trong nước (theo tác giả Jay E. Adams trong quyển Meaning and Mode of Baptism, thì phép rửa tội theo cách trên đây đã được áp dụng từ những năm 1643). Trong thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc ở Mỹ, đạo Báp-tít bị chia đôi thành hai giáo phái: Báp-tít Bắc và Báp-tít Nam, và sau đó mỗi giáo phái lại làm phát sinh ra nhiều chi phái nhỏ hơn.
H.21: Rửa tội bằng cách trầm mình trong nước của các giáo phái Báp-tít. Trên phương diện tổng quát, ý niệm tội lỗi là một sự ám ảnh rất sâu kín và nặng nề trên phương diện tâm lý con người nói chung, và những người theo các giáo phái của Ki-tô Giáo nói riêng. Rửa tội là một hình thức bên ngoài mang tính cách biểu trưng giúp làm nhẹ bớt đi sự ám ảnh đó bên trong nội tâm.
Giáo phái Methodism (nguyên nghĩa của chữ này là “phương pháp” hay “phương cách”) chủ trương phát huy các phương pháp thuyết giảng thật hữu hiệu nhằm thuyết phục người nghe và giúp họ phát huy đức tin,. Mục đích chính yếu của giáo phái này là làm gia tăng số người tin có Thượng Đế. Giáo phái Methodism do John Wesley (1703-1791) thành lập ở Anh vào thế kỷ thứ XVIII. Các mục sư của giáo phái này phải tích cực hô hào và thuyết giảng ở các nơi công cộng nhằm thu hút, quy tụ và thuyết phục người nghe. Anh Giáo chính thống không công nhận giáo phái này. Có thể kể ra một số các nhân vật nổi tiếng theo giáo phái Methodism như: Margaret Thatcher, George W. Bush, Hillary Clinton, Nelson Mandela…
Giáo Phái Presbyterianism là một giáo phái Tin Lành do John Knox (1513-1572) thành lập ở Tô Cách Lan (Scotland) vào thế kỷ XVI với chủ đích độc lập và đứng ra ngoài Giáo Hội Anh Quốc (trong lịch sử, Tô Cách Lan và Anh Quốc là hai “nước” khác nhau, luôn kình chống và gây chiến với nhau). Giáo phái này chủ trương một sự bình đẳng tuyệt đối, không chấp nhận các hình thức phẩm trật của Thiên Chúa Giáo La Mã như các vị phó tế (deacon), linh mục, giám mục, tổng giám mục… và mỗi tín đồ đều là một “mục sư”. Gần đây hơn, ngày 17 tháng 3 năm 2015 vừa qua, có tin là giáo phái Presbyterianism (Presbyterian Church) ở Mỹ chính thức cho phép những người đồng tính luyến ái được kết hôn.
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm (Adventism), là một giáo phái do nhà tiên tri William Miller (1782-1849) sáng lập ở Mỹ năm 1844, chủ trương sự “xuất hiện trở lại của Chúa Ki-tô”. William Miller gốc nông dân, tự học và say mê nghiên cứu Thánh Kinh, trước đó theo Tin lành Báp-tít. Theo các con tính của ông thì Chúa Ki-tô sẽ hiện xuống địa cầu trong khoảng thời gian giữa 21 tháng 3 năm 1843 và 21 tháng 3 năm 1844, thế nhưng sau thời điểm trên đây chẳng có gì khác thường xảy ra cả. William Willer bèn giải thích là trong các con tính của mình có một chỗ sai nhỏ, và sau khi tính lại thì ông nhất định là Chúa Ki-tô sẽ hiện xuống địa cầu ngày 22 tháng 10 năm 1844. Thế nhưng lại thêm một lần nữa cũng sai nốt. Các tín đồ theo ông bèn tách ra làm hai nhóm, một nhóm quay về với các giáo phái trước đây của mình, một nhóm tiếp tục tin theo William Miller và thành lập ra giáo phái Adventism (Evangelical Adventists, còn gọi là Giáo Phái ngày Thứ Bảy, có nghĩa là ngày chết của Chúa và cũng là ngày báo hiệu sự phục sinh của Ngài).
Giáo phái Mormonism (còn gọi là “Giáo Hội Ki-tô của Các Thánh Cuối Cùng”) do Joseph Smith (1805-1844, chết vì bị ám sát) sáng lập ở Mỹ năm 1830. Những người theo giáo phái này diễn đạt Thánh Kinh theo quan điểm của họ và viết thành một quyển Thánh Kinh mới gọi là Kinh Mormon. Họ tin rằng Chúa Ki-tô đã phục sinh và hiện nay vẫn còn sống trên địa cầu, do đó họ không sử dụng các biểu tượng như thánh giá, các ảnh tượng Chúa Giê Su…, mà chỉ duy nhất sử dụng ảnh tượng của vị tiên tri Moroni của họ, dưới thể dạng một vị thiên thần ngước cổ thổi kèn biểu trưng cho việc quảng bá Phúc Âm. Giáo phái này chủ trương đa thê với mục đích làm gia tăng tín đồ cho giáo phái (ngoài việc thuyết phục người khác). Giáo chủ Joseph Smith có khoảng 30 đến 40 vợ, trong số này các bà vợ trẻ nhất chỉ mới 14 tuổi (1/3 các bà vợ của ông ở lứa tuổi từ 14 đến 20). Chế độ đa thê được áp dụng trong suốt 50 năm, trong thời gian này khoảng 20% đến 40% tín đồ đàn ông đã thực thi chế độ đa thê, có một ông có đến hơn 50 bà vợ. Giáo phái này cho biết là chế độ đa thê chỉ là hình thức tái lập lại những gì mà các vị tiên tri trong quá khứ đã từng nói đến, và theo lời các vị tiên tri ấy thì ngay cả Chúa Trời cũng đã từng tạm thời cho phép với mục đích làm gia tăng số con chiên của Ngài trên địa cầu. Trong các năm gần đây dư luận và báo chí ở Mỹ và khắp nơi trên thế giới bỗng xôn xao trở lại về chuyện này vì cho rằng giáo phái Mormonism ở Mỹ đang âm thầm tái lập lại chế độ đa thê.
H.22: Một số vợ và con của giáo chủ Joseph Smith.
H.23: Joe Darger và ba bà vợ, và cũng là ba người em họ của ông.
Trong số này hai người là hai chị em sinh đôi.
H.24: Gia đình của Joe Darger, vợ và 24 người con.
(hình trích từ trang mạng MailOnline của Mỹ đăng ngày 2 tháng 5 năm 2012. Nhiều trang mạng khác và báo chí khắp nơi trên thế giới (trong số này có tạp chí Nouvel Observateur của Pháp số ngày 3 tháng 3 năm 2014) cũng đã tường thuật về sự kiện này và đăng lại các hình trên đây, và cho rằng chế độ đa thê dường như đang được giáo phái Mormon kín đáo tái lập (theo bản tin của hãng thông tấn AFP).
Giáo phái Nhân Chứng Giê-hô-va (Jehovah’s Witness) tách ra từ giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm (Adventism), do Charles Taze Russell (1852-1916) sáng lập năm 1870 ở tiểu bang Nữu Ước. Giáo phái này bác bỏ khái niệm về Chúa Ba Ngôi (Trinity/Cha, Con, Thánh Thần) và chỉ tin vào một vị Trời duy nhất mang tên là Giê-hô-va. Về phần giáo lý thì họ tin vào thuyết tận thế (echatology), và con người hiện nay đang sống ở giai đoạn cuối cùng trước khi tận thế xảy đến. Bằng các phương tiện như chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai (nhất là động đất)…,vị Trời Giê-hô-va sẽ tận diệt tất cả những ai không thần phục Ngài, và sau đó sẽ khởi đầu một giai đoạn mới gọi là “Thời đại của Chúa Ki-tô”, và thời đại này sẽ kéo dài 1000 năm. Trong “Thời đại của Chúa Ki-tô” sẽ không còn những cảnh bất công, chiến tranh, thiên tai, động đất…, và nhất là con người sẽ không còn bệnh tật và tất cả đều trở nên bất tử. Giáo phái này cấm tiếp máu dù bị tai nạn hay bệnh tật ngặt nghèo, bởi vì sinh mạng của mỗi người là do ý chí và sự quyết định của Trời. Ngoài ra giáo phái này còn khuyến cáo tín đồ không được tố cáo những chuyện lạm dụng tính dục với trẻ em (pedophilia) vì có thể làm phương hại đến thanh danh của giáo phái, v.v…
Thật ra còn rất nhiều các giáo phái và chi phái khác phát triển ở Mỹ, thế nhưng không sao kể ra hết được trong khuôn khổ những lời ghi chú này. Nói chung Tin Lành Giáo là một hình thức ly giáo, tách ra khỏi Thiên Chúa Giáo La Mã vào thế kỷ XVI, với chủ đích phủ nhận uy quyền của Giáo Hoàng và toàn bộ hệ thống Giáo Quyền của Tòa Thánh Vatican, và đồng thời đưa ra một số cải cách trên phương diện giáo lý cũng như việc thực thi nghi lễ. Trước đó vào năm 1054 cũng đã từng có một sự ly giáo quan trọng khác xảy ra đưa đến sự hình thành của Chính Thống Giáo (Orthodox Christianity), thế nhưng sự ly giáo này lại chủ trương một đường hướng trái ngược lại với Tin Lành Giáo bằng cách tự cho mình là trung thực và theo đúng truyền thống của Ki-tô Giáo và cho rằng Thiên Chúa Giáo La Mã là lệch lạc.
Một cách tổng quát, Tin Lành Giáo gồm có bốn nhóm chính, mỗi nhóm phát sinh và bành trướng trong các vùng địa lý khác nhau. Nhóm thứ nhất là đạo/giáo phái Luther (Lutherianism) do Martin Luther thành lập ở Đức năm 1521. Ông bị Tòa Thánh La Mã khai trừ và phải lánh nạn ở Thụy Sĩ. Giáo phái Luther sau đó phát triển ở Đức, Đan Mạch và các nước Bắc Âu. Nhóm thứ hai là Anabaptism (nguyên nghĩa của chữ này trong tiếng Hy Lạp là “rửa tội trở lại” với hậu ý nói lên một sự “cải cách” hay “đổi mới) gồm chung nhiều phong trào “cách mạng” tách ra khỏi Thiên Chúa Giáo La Mã. Các nhóm này lần lượt được hình thành trong suốt thế kỷ XVI ở Đức và Thụy Sĩ, và sau đó được đưa vào Hòa Lan và Anh Quốc. Ngày nay các giáo phái trong nhóm thứ hai này được gọi chung là đạo Tin Lành Phúc Âm (Evangelical Church), trong số này có thể kể ra các giáo phái Báp-tít và Tin Lành Ngũ Tuần (Pentecotism). Nhóm thứ ba là Anh Giáo (Anglicanism) do vua Henry VIII thiết lập năm 1534 (đã được nói đên trên đây). Nhóm thứ tư là giáo phái Calvin phát sinh từ nhiều nhóm khác nhau do nhiều người chủ xướng, trong số này có Jean Calvin (1509-1564) là người nổi bật nhất, do đó “phong trào” cải cách gồm nhiều nhóm trên đây được gọi chung là giáo phái Calvin hay Calvinism. Jean Calvin là người Pháp, bỏ đạo Thiên Chúa La Mã và gia nhập các phong trào cải cách này năm 1530, trong lúc mà Tin Lành Giáo đang bị ngược đãi và sát hại ở Pháp, và Jean Calvin đã phải lánh nạn sang Thụy Sĩ. Giáo phái Calvin phát triển ở các nước Thụy Sĩ, Hòa Lan, Tô Cách Lan, Hung Gia Lợi, Ba lan và Pháp.
Ngoài lý do sinh tồn, bối cảnh tín ngưỡng sôi sục ở Âu Châu tạo ra bởi tình trạng kỳ thị các giáo phái Tin Lành vừa được thành lập, đã thúc đẩy một số người Âu Châu theo các giáo phái này rời bỏ quê hương họ để lánh nạn ở Mỹ. Nơi Miền Đất Hứa tự do, các giáo phái này lại được tổ chức trở lại, và sau đó tiếp tục biến dạng và làm phát sinh ra vô số những giáo phái mới đưa đến sự hình thành của nền tín ngưỡng đặc thù của nước Mỹ.
Những đóng góp của người di dân vào sự hình thành của nền tín ngưỡng ở Mỹ
Nếu sự pha trộn và hòa đồng giữa các nhóm di dân mang nguồn gốc khác nhau đã làm phát sinh ra “dân tộc” Mỹ, và nếu sức làm việc của họ đã mang lại sự phồn vinh cho một vùng đất mới mênh mông, thì các giáo phái mà họ mang theo cũng đã tạo ra một tình trạng tín ngưỡng vô cùng đa dạng và phức tạp. Người ta thường ví sự “pha trộn” và “hòa đồng” giữa những người di dân nơi Miền Đất Hứa với một “lò nung kim loại” (melting-pot). Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu năm 1924 và các thống kê thời bấy giờ cho biết là 80% dân chúng cho rằng hình ảnh so sánh ấy có thể biểu trưng trung thực cho xã hội Mỹ, thế nhưng ngày nay không còn mấy ai đồng tình với cách so sánh đó nữa mà nhiều người cho rằng sự “hòa đồng” ấy thật ra cũng chỉ là một “thố sà lách” (salad bowl, người Tây Phương thường trộn chung sà lách với cà chua, củ hành, v.v.). Lò nung kim loại hay cái thố sà lách ấy gồm có nhiều chủng loại và màu sắc khác nhau, từ xã hội, văn hóa, tập quán cho đến tín ngưỡng. Trong khuôn khổ những lời ghi chú này, chúng ta cũng sẽ chỉ tìm hiểu sơ lược một vài nét về sự hình thành của nền tín ngưỡng chung của nước Mỹ mà thôi.
Trong số các tập thể di dân thì tập thể nói tiếng Anh là đông nhất, gồm người Bắc Ái Nhĩ Lan (thời bấy giờ gọi là Scotch-Irish), người Anh, người Tô Cách lan, người Ga-lơ (Welsh/miền nam nước Anh). Trong số này người Bắc Ái Nhĩ Lan là tập thể đông nhất, họ theo Thiên Chúa Giáo La Mã và cũng thường là những người nghèo khổ nhất nơi quê hương họ trước khi ra đi. Trên đất Mỹ họ thường gây ra nhiều việc phạm pháp, do đó cũng mang nhiều tai tiếng nhất. Họ rất “liều lĩnh” và thường xung phong “di dân” lần thứ hai, ra đi tìm đất sống ở miền Viễn Tây xa xôi (Far West), và thường hay bị người da đỏ phục kích giết hại. Tống Thống Robert Kennedy là người gốc Bắc Ái Nhĩ Lan theo Thiên Chúa Giáo La Mã. Số còn lại trong tập thể những người nói tiếng Anh đều theo Tin Lành Giáo với nhiều giáo phái khác nhau.
Nhóm di dân quan trọng thứ hai là người Đức, thường tập trung ở tiểu bang Pennsylvania. Thống kê năm 1760, cho biết là 33% dân số của tiểu bang này là người gốc Đức. Họ rất khắc khổ, cần cù, chịu khó, rất giỏi về canh nông và chăn nuôi. Tín ngưỡng của họ cũng phức tạp nhất, gồm các giáo phái Tin Lành như: Pietist, Menonist, Moravian, Swenkfelder, Amish, Dunker, v.v… Họ sống chung đụng với nhau, nói tiếng Đức, chính vì thế mà những người di dân Anh không thích tập thể này, lý do là lối sống của người Đức đi ngược lại với chủ trương của họ là áp đặt tập quán, văn hóa cũng như ngôn ngữ của mình cho toàn thể nước Mỹ. Benjamin Franklin (1706-1790), gốc người Anh theo Thanh Giáo (Puritanism), là một trong những người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập và bản hiến chương của Hoa Kỳ, và cũng được xem là một trong những vị cha đẻ của nước Mỹ, rất lo ngại là nước Mỹ sau này sẽ bị Đức hóa. Trong một lá thư viết cho Ezra Stlies (1727-1795) theo đạo Tin Lành Calvin ông có viết một câu như sau: “Tôi chỉ tin vào một vị Thượng Đế duy nhất… Đối với Giê Su Nazareth…, thì tôi không tránh khỏi ít nhiều Nghi Ngờ về tính cách Thiêng Liêng của Vị này/I believe in one God… As for Jesus of Nazareth … I have … some Doubts to his Divinity). Năm 1754 “Hiệp hội quảng bá Kiến Thức Ki-tô Giáo cho người Đức ở Mỹ” (Society for the Propagating of Christian Knowledge among the Germans in America) đã được thành lập. Điều này cho thấy giữa các tập thể di dân cũng đã xảy ra rất sớm sự kỳ thị tín ngưỡng và các ý định “cải đạo” lẫn nhau.
Ở Pháp trong suốt hậu bán thế kỷ XVI, tám trận chiến tranh tôn giáo liên tiếp xảy ra giữa Thiên Chúa Giáo La Mã và Tin Lành Giáo, nhiều làng mạc bị giết sạch. Chiến tranh chấm dứt bằng “Sắc lệnh Nantes” (Édit de Nantes) do vua Henri IV ban hành năm 1598, cho phép những người theo đạo Tin Lành được tự do hành đạo, được giữ quyền công dân và tham gia chính trị. Thế nhưng gần một trăm năm sau sắc lệnh này lại bị vua Louis XIV hủy bỏ vào tháng 10 năm 1685 bằng một sắc lệnh khác gọi là “Sắc lệnh Fontainebleau”. Sau khi sắc lệnh mới này được ban hành, khoảng 300 000 người theo các giáo phái Tin Lành, thường được gọi chung là những người huguenots, đã rời bỏ nước Pháp. Hầu hết chạy sang Mỹ, số còn lại tản mác khắp nơi ở Âu Châu. Người Pháp di dân sang Mỹ rất sở trường về việc buôn bán và trở nên giàu có nhanh chóng. Câu tục ngữ “giàu có như người huguenots” rất phổ biến thời bấy giờ. Người di dân Pháp theo đạo Tin Lành sinh sống tại các vùng hải cảng dọc bờ Đại Tây Dương. Họ học tiếng Anh rất nhanh và ngoài việc thương mại ra thường được đề cử đảm trách các chức vụ hành chánh quan trọng. Không như người Đức, họ được người di dân Anh rất quý trọng. Thế nhưng sau khi các cuộc chiến tranh tranh dành các quyền lợi thuộc địa bùng nổ giữa Anh và Pháp vào đầu thế kỷ XIX thì người di dân Pháp trên đất Mỹ bị người di dân Anh kỳ thị và phải dần dần rút về phía miền nam (New Orleans).
Người Hòa Lan di dân đến Mỹ rất sớm và thiết lập “Quốc Gia Hòa Lan Mới” (1609-1674), với “thủ đô” là Nieuw Amsterdam (New Amsterdam). Năm 1664 người di dân Anh tiến chiếm thành phố này và đổi tên là New York (Nữu Ước). Cũng tương tự như trường hợp người Đức, người di dân Hòa Lan tìm cách sống chung với nhau nhằm bảo tồn tập quán, văn hóa và ngôn ngữ của mình. Các trường học của họ giảng dạy bằng tiếng Hòa Lan. Thế nhưng dần dần với thời gian, người di dân Hòa Lan cũng như người Đức không sao tránh khỏi bị đồng hóa bởi văn hóa, tập quán và ngôn ngữ của người Anh. Phần đông người di dân Hòa Lan theo Do Thái Giáo, một ít theo Tin Lành. Nói chung ở Mỹ người di dân theo Do Thái Giáo vẫn bị kỳ thị không kém gì ở Âu Châu, tuy thế trong khoảng thời gian từ 1880 đến 1924 cũng đã có hơn ba triệu rưởi người theo Do Thái Giáo rời bỏ Âu Châu để đến Mỹ, nhất là từ các nước Đông Âu, tập thể này chiếm một nửa tổng số những người di dân trong khoảng thời gian trên đây. Trước khi xảy ra Thế Chiến Thứ Hai, lại có thêm một đợt di dân khác của những người theo Do Thái Giáo ở Âu Châu, trong số những người này có nhà bác học Albert Einstein.
“Lò nung kim loại” của Miền Đất Hứa dần dần biến người di dân đến từ khắp nơi trở thành công dân của một quốc gia mới, hội nhập vào một nền văn hóa mới. Thế nhưng dường như trên phương diện tín ngưỡng thì vẫn còn là một “thố sà lách” gồm những gì mà họ mang theo từ lục địa Âu Châu kỳ thị, già nua và cằn cỗi. Thố sá lách đó được pha trộn thêm các gia vị mới, phù hợp với khẩu vị của một dân tộc đa nguyên trong một bối cảnh tín ngưỡng tự do quá trớn. Ngoài các giáo phái phát sinh từ trước ở Âu Châu tiếp tục được phát triển thêm trên đất Mỹ với ít nhiều biến dạng, thì người di dân trên đất Mỹ còn phát minh ra thêm vô số các giáo phái mới nữa. Thế nhưng thật ra “giáo lý” của tất cả các giáo phái này cũng như của các giáo phái đã được du nhập từ Âu Châu chẳng có gì mới lạ, cũng chỉ loanh quanh dựa vào các cách diễn đạt khác nhau về một vài câu hay một vài khái niệm nào đó trong Thánh Kinh, và nhất loạt không thừa nhận sự độc tôn của Tòa Thánh Thiên Chúa Giáo La Mã.
Sự tự do tôn giáo và nhà nước ở Mỹ
Như đã nói đến trên đây, một trong các động cơ chính yếu thúc đẩy người di dân là tình trạng kỳ thị tín ngưỡng Tin Lành trên quê hương họ. Tự do tôn giáo trở thành một nỗi ám ảnh to lớn nhất đối với người di dân nói chung. Trong lần sửa đổi Hiến Pháp đầu tiên của nước Mỹ, một bản Tuyên Ngôn các Quyền Hạn (Bill of Rights) đã được đưa ra và được biểu quyết ngày 25 tháng 9 năm 1789, và sau đó được áp dụng kể từ ngày 15 tháng 12 năm 1791. Điều khoản sửa đổi (Amendment) số I trong bản Tuyên Ngôn trên đây nêu lên hai điểm chủ yếu: thứ nhất là Quốc Hội không được quyền đưa ra bất cứ một đạo luật nào nhằm thiết lập một tôn giáo chính thức (có nghĩa là không được xem bất cứ một tôn giáo nào là quốc giáo), điều thứ hai là không được cấm đoán sự tự do hành đạo, tức là chủ trương sự tự do tôn giáo (Amendment I: Congress shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise thereof).
Thế nhưng trên thực tế thì thật hết sức trớ trêu, nghịch lý và mâu thuẫn, bởi vì chính quyền Mỹ cũng như xã hội Mỹ luôn tự nhận mình là một quốc gia theo Ki-tô giáo. Các vị tổng thống Mỹ khi nhậm chức phải áp tay lên một quyển Thánh Kinh để thề nguyện và mỗi khi đọc diễn văn thì thường là phải nhắc đến Thượng Đế. Ở đầu giường trong các khách sạn thường có đặt sẵn một quyển Thánh Kinh của Tin Lành Giáo (“King James Bible”, một bản “Thánh Kinh” được dịch ở Anh Quốc năm 1611, dưới triều đại của vua James Stuart). Trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Bang Xô Viết vào hậu bán thế kỷ XX, khẩu hiệu “Một Quốc Gia dưới [quyền lực/sự bảo vệ của] Thượng Đế” (A Nation under God) đã được nhà nước Mỹ nêu cao, quảng bá và tuyên truyền rầm rộ, với mục đích tự phân biệt mình với các nước Cộng Sản vô thần. Ngoài ra trên đồng đô-la cũng như trong bản quốc ca đều có câu “Chúng tôi đặt lòng tin nơi Thượng Đế” (In God we trust). Trên phương diện hiến pháp thì Nhà Nước phải độc lập và tách ra khỏi Nhà Thờ, thế nhưng trên thực tế thì Nhà Nước lại xem Ki-tô Giáo là “quốc giáo”.
H.25: Đồng đô-la có hàng chữ “In God we Trust” (Chúng tôi đặt lòng tin nơi Thượng Đế).
H.26: Kể cả đồng tiền một xu cũng có khắc câu này.
(Đồng tiền đôi khi cũng không được sạch sẽ gì, vì thế thiết nghĩ – nếu tin vào Thượng Đế – thì tốt hơn nên đặt Thượng Đế trong tâm hồn mình hay trong con tim của mình).
Đối với điều khoản thứ hai là sự tự do hành đạo thì như thế nào? Nếu điều khoản bắt buộc Nhà Nước phải độc lập và đứng ra ngoài Nhà Thờ không hề được tôn trọng ở Mỹ, thì trái lại điều khoản tự do hành đạo lại được tôn trọng một cách quá đáng, hơn nữa lại còn được đẩy đi quá xa: người dân chẳng những có quyền theo bất cứ đạo nào, giáo phái nào mà cả việc sáng chế ra các giáo phái mới cũng hoàn toàn được tự do. Sự tự do hành đạo và sáng chế ra các giáo phái mới chẳng phải là chủ đích mà những người di dân hằng mong cầu khi rời bỏ xứ sở của họ để đến Miền Đất Hứa hay sao? Thế nhưng sự tự do quá trớn đó đã đưa đến những sự lạm dụng không thể chấp nhận được. Chỉ cần nêu lên một thí dụ cũng đủ, đó là giáo phái “Giáo đường của người dân” (The People’s Temple) do James Warren Jones (1931-1978) thường được gọi dưới tên Jim Jones, sáng lập sau khi được thụ phong mục sư Tin Lành của giáo phái “Các tông đồ của Chúa Ki-tô” (The Disciples of Christ) năm 1964. Giáo phái do Jim Jones sáng lập cổ súy việc tự tử tập thể, và việc này cũng đã xảy ra ở Guyana (Nam Mỹ), ngày 18 tháng 11 năm 1978, khiến 918 người chết trong đó có cả Jim Jones, và trong số này có 276 trẻ em.
H.27: Mục sư Jim Jones và trẻ em
Người di dân Âu Châu sở dĩ phải ra đi cũng chỉ vì trên quê hương họ các giáo phái “cải cách” (non-conformist) bị ngược đãi và chính bản thân họ cũng bị hăm dọa. Họ vượt Đại Tây Dương để đặt chân lên đất Mỹ hầu tìm cho mình một mảnh đất “an toàn” (refuge). Sự tự do tín ngưỡng nơi Miền Đất Hứa trở thành một lý tưởng và cả một sự ám ảnh đối với họ. Trong khi đạo luật tách rời Nhà Thờ và Nhà Nước ở Pháp chỉ được Quốc Hội biểu quyết vào năm 1905, thì điều khoản này (dù chỉ là trên mặt lý thuyết) và sự tự do tín ngưỡng đã được đưa vào hiến pháp Mỹ từ năm 1791! Cũng xin mạn phép ghi chú thêm là ngày nay ở các nước Âu Châu, chính quyền vẫn thường xuyên canh chừng và kiểm soát các giáo phái nhằm ngăn chận mọi sự lạm dụng và lừa bịp những người yếu đuối và nhẹ dạ. Nói chung không như ở Mỹ nhiều giáo phái ngày nay ở Âu Châu không hề được xem là tôn giáo và không được hưởng các quy chế quy định cho một tôn giáo.
Năm 1777 Thomas Jefferson (1743-1826, trở thành tổng thống thứ ba của nườc Mỹ từ năm 1801 đến 1809) đã bắt đầu kín đáo soạn thảo Đạo Luật Tự Do Tín Ngưỡng của tiểu bang Virginia (Virginia Statute for Religious Freedom) và sau đó đã đưa ra bàn thảo trước “Đại Hội Dân Biểu” (Virginia General Assembly) của tiểu bang này năm 1779, và đã được Đại Hội Dân Biểu của tiểu bang biểu quyết và trở thành luật năm 1786. Trong lần sửa đổi hiến pháp đầu tiên của nước Mỹ năm 1791 đạo luật này đã được đưa vào Hiến Pháp của nước Mỹ dưới cái tên là Bản Tuyên Ngôn về các Quyền Hạn (Bill of Rights) như đã được nói đến trên đây.
Nếu nhìn vào trường hợp của Việt Nam thì làn sóng di cư từ miền Bắc năm 1954 với một số tập thể theo Thiên Chúa Giáo La Mã đã tạo ra ít nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt xã hội và chính trị ở miền Nam. Các ảnh hưởng đó có thể phản ảnh qua sự chi phối trực tiếp hay gián tiếp của ngoại bang vào chính trường Việt Nam xuyên qua các vị tổng thống theo Thiên Chúa Giáo La Mã. Dù rằng hình ảnh trên đây mang tính cách thật giới hạn và thu hẹp thế nhưng cũng có thể mang lại một vài ý niệm nào đó giúp chúng ta tìm hiểu và so sánh với ảnh hưởng của các phong trào di dân của các tập thể tín ngưỡng ở Âu Châu vào nước Mỹ qua nhiều thế kỷ liên tiếp. Thật vậy các giáo phái Tin Lành du nhập hay phát sinh trên đất Mỹ rất sinh động, tích cực và nhất là rất dồi dào về tài chính, đã gây ra nhiều tác động đối với sinh hoạt xã hội, và các đường hướng chính trị ở Mỹ. Tổ Chức Từ Thiện Hoa Kỳ (Foundation Giving USA) cho biết là tổng số tiền quyên góp với mục đích từ thiện của người dân Mỹ năm 2008 là 307.65 tỉ đô-la, xấp xỉ với ngân quỹ quốc gia của cả nước Pháp trong cùng năm này (người chuyển ngữ không tìm được các thống kê mới hơn). Trong số tiền quyên góp này, 35% là dành cho Nhà Thờ, trong khi đó các tổ chức khác chẳng hạn như các cơ quan y tế từ thiện chỉ nhận được 7% và các tổ chức bảo vệ môi sinh 2%. Các con số này cho thấy hết sức rõ ràng ảnh hưởng rộng lớn của tín ngưỡng trong sự sinh hoạt của xã hội Mỹ. Người làm chính trị tất nhiên là phải nhận thấy sự kiện này.
Tín ngưỡng phải chăng cũng là một thứ vũ khí?
Sở dĩ dông dài như trên đây là nhằm giúp chúng ta hiểu được tại sao Tillman đã bán hết cơ sở sinh nhai của mình để tìm cách cải đạo người dân Mông Cổ và cha của Tillman đã thiết lập được một cơ sở truyền giáo ở một xứ sở thật xa xôi. Thật ra các giáo phái Tin Lành của Mỹ và Ki-tô Giáo nói chung không những chỉ nhắm vào mục đích cải đạo người Mông Cổ mà cả thế giới. Nếu nhìn vào phúc trình năm 2013 của Chủng Viện Thần Học Gordon-Conwell (Gordon-Conwell Theological Seminary) thuộc giáo phái Báp-tít được thành lập từ năm 1888 với trụ sở chính ở tiểu bang Massachusetts, về sự phát triển nhanh chóng của đạo Ki-tô trên thế giới sẽ không khỏi khiến chúng ta phải kinh ngạc. Trong số 20 quốc gia mà các giáo phái Ki-tô phát triển nhanh nhất thế giới, có 11 nước theo Hồi Giáo (6 ở Trung Đông và 5 ở Phi Châu). Trong số 20 quốc gia này, nước chiếm kỷ lục là Nepal (theo Ấn Giáo) với chỉ số người theo Ki-tô giáo gia tăng trung bình hàng năm (Percentage Christianity Average Annual Growth Rate – AAGR) là 10.93%. Đứng hàng thứ hai là Trung Quốc (được xem là quốc gia không tôn giáo) với chỉ số 10.86%. Trong danh sách này có 3 nước Phật Giáo: Mông Cổ đứng hàng thứ 8 với 5.96%, Campuchea đứng hàng thứ 9 với 5.87%, và Singpore đứng hàng thứ 19 với 4.12%. Nếu so chỉ số cải đạo (Chrstianity AAGR) với chỉ số gia tăng dân số (Population AAGR) thì ba quốc gia có chỉ số cải đạo theo Ki-tô Giáo cao nhất thế giới là Trung Quốc, Nepal, Campuchea và Mông Cổ (xem phụ lục 1). Riêng đối với trường hợp Việt Nam thì Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa ra con số rất “ấn tượng” (nói theo ngôn ngữ mới của báo chí ngày nay) là 600% chung cho 10 năm sau này! (“Annual Report on International Religious Freedom for 2005 – Vietnam”. U.S. Department of State, 2005-06-30. Retrieved 2007-03-11). Trong khi đó thì Hồi Giáo nào có “buông tay” vô điều kiện đâu: chỉ số cải đạo của Hồi Giáo trên thế giới cũng gia tăng không kém, đặc biệt nhất là đối với những người gốc Trung Đông và Phi Châu đã du nhập và định cư bên trong lãnh thổ của các nước Tây Phương! Trên bình diện tổng quát, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2010, chỉ số gia tăng toàn cầu của Ki-tô Giáo là 1.31% và chỉ số gia tăng của Hồi Giáo là 1.83% (xem phụ lục 2).
Những gì nêu lên trên đây cho thấy là một cuộc xung đột kín đáo, êm thắm, không hề được tuyên bố, nhưng không phải vì thế mà kém sôi sục, đã và đang mở ra cho nhân loại, và vũ khí được mang ra sử dụng là tín ngưỡng. Thật vậy chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã lỗi thời từ cuối thế kỷ XX. Chiến tranh ngày nay đã thay đổi bộ mặt: đó là một cuộc chiến với các loại “vũ khí nguội” là kinh tế, kỹ thuật và tín ngưỡng. Chiến tranh kinh tế là cách làm cho kẻ địch phải lệ thuộc vào sự giàu có và giá trị đồng tiền của mình, nhằm biến họ trở thành những người nô lệ phục vụ cho sự tiêu dùng của mình. Chiến tranh kỹ thuật là cách làm cho kẻ địch luôn ở trong tình trạng lạc hậu, không bao giờ bắt kịp sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà mình đang có. Các nước tân tiến luôn luôn có sẵn các phát minh mới trong két sắt và chỉ tung ra khi nào các nước chậm tiến bắt đầu bắt chước được, hoặc theo kịp các kỹ thuật mà mình đang nắm giữ ưu thế. Chiến tranh tín ngưỡng là cách làm cho kẻ địch tự đánh mất nhân phẩm, cá tính và truyền thống văn hóa của dân tộc mình, biến họ trở thành những con người nô lệ, ngoan ngoãn trên phương diện tâm lý và mất gốc trên phương diện văn hóa. Nêu lên điều này không phải là một cách khích động sự hận thù giữa các tôn giáo và các dân tộc khác nhau mà trái lại là cách giúp mỗi người trong chúng ta ý thức được là không nên để mình vô tình trở thành những người lính của các đạo quân tín ngưỡng. Ý thức được điều ấy sẽ giúp chúng ta biết thận trọng hơn, không hăng say cải đạo người khác một cách mù quáng. Đấy mới thật là cách mang lại một sự hòa đồng tôn giáo đích thật và chân chính.
Nếu bom hạt nhân, hàng không mẫu hạm, phi cơ oanh tạc khổng lồ trong cuộc chiến tranh lạnh của hậu bán thế kỷ XX đã lỗi thời, thì thị trường các loại vũ khí nóng tầm cỡ trung bình và cá nhân vẫn tiếp tục được sản xuất mạnh và tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nước Mỹ đứng hàng đầu trong việc xuất cảng vũ khí nóng và cũng là nước xuất cảng vô địch về vũ khí “êm dịu” là các giáo phái Tin Lành rất hiện đại, tân tiến và dồi dào về tài chính. Dủ không tạo ra các tác động ngoạn mục, thế nhưng tín ngưỡng là một loại vũ khí hay ít ra cũng là một công cụ “đạo đức”, ít tốn kém và hữu hiệu trong lâu dài. Nước Nga đứng hàng thứ hai về xuất cảng vũ khí nóng thế nhưng Chính Thống Giáo thì lại quá xưa và không thấy ai mua! Trung Quốc đứng hàng thứ ba thế nhưng về vấn đề tín ngưỡng và tâm linh – kể cả đạo đức – lại là con số không, bởi vì không có gì để mà bán. Phật Giáo Trung Quốc ngày nay đã lỗi thời chỉ còn rơi rớt lại một chút vang bóng mà thôi. Hai nước xuất cảng vũ khí nóng đứng hàng thứ tư và thứ năm là hai nước cựu thực dân: đó là nước Pháp và nước Anh, hai nước này cũng đã từng tích cực sử dụng loại vũ khí “đạo đức” trên đây trong thời kỳ thuộc địa. Dù chế độ thực dân đã cáo chung vào đầu thế kỷ XX, thế nhưng hậu quả gây ra bởi các thứ vũ khí ấy vẫn còn tiếp tục gây ra tác hại ngày nay. Trong một số các quốc gia từng là thuộc địa, các cuộc xung đột kín đáo giữa những người dân cùng một giống nòi, xử dụng các loại vũ khí “êm thắm” mà những người thực dân lưu lại cho họ, đôi khi cũng đã bùng lên thật nóng bỏng
Trở về với nước Mỹ thì những người di dân trước đây cũng đã từng sử dụng loại vũ khí này trong các kế hoạch “phúc âm hóa” (evangelisation) người da đỏ bản xứ (natives) và người nô lệ da đen được mang từ Phi Châu vào nước Mỹ. Phúc âm hóa người da đỏ là để đồng hóa và diệt chủng họ, và người di dân Mỹ cũng đã thành công trong mục đích này. Đối với người nô lệ da đen thì ngày nay các kế hoạch phúc âm hóa đã đưa đến những kết quả như thế nào? Người nô lệ da đen được phúc âm hóa bắt đầu từ thế kỷ thứ XVIII, có nghĩa là vào giai đoạn gọi là “Sự Thức Tỉnh Lớn” (Great Awakening), một giai đoạn mà các giáo phái Tin Lành bộc phát rầm rộ và bành trướng đồng loạt ở Anh và ở Mỹ. Lúc đầu các giáo đường ngụy trang dành cho người nô lệ được dựng lên lén lút trong các vùng khai quang và đồn điền, dần dần sau đó mới được công khai hóa. Phúc âm hóa người nô lệ là một cách làm nhẹ bớt đi sự đày đọa của họ.
Ngày nay trong các nhà thờ Tin Lành của người da đen, các vị mục sư rất rành tâm lý và khéo léo, họ lợi dụng việc cầu nguyện và ca hát tập thể để tạo ra các hình thức xúc cảm thật mạnh. Đôi khi họ còn tận dụng cả sự mộ đạo (piety/sự thành tín) bằng các động tác trên thân thể, chẳng hạn như vỗ tay thật nhịp nhàng, lắc lư và nhún nhảy, tạo ra những xúc động thật mạnh khiến người tín đồ có thể la hét hoặc khóc sướt mướt. Các thể dạng xúc cảm này phản ảnh một sự mê mẫn tâm thần cao độ, tương tự như bị thôi miên (trance/nhập hồn hay lên đồng), nói lên một thể dạng hòa nhập nào đó với nhân vật mà mình tin tưởng và cầu xin. Cầu nguyện bằng cách ca hát và các động tác cơ thể được đệm thêm các điệu nhạc rock là một cách biểu lộ đức tin thật “căng thẳng” của người da đen và cũng là một phương tiện giúp họ tự nhân bản hóa mình (self-humanization) mang lại một hình thức tự do nào đó trong nội tâm, giúp họ quên đi – dù chỉ trong chốc lát – thân phận và nguồn gốc nô lệ của chính mình. Cách bộc lộ xúc cảm qua các hình thức ca hát và các động tác tay chân mang lại cho họ sự nhẫn nhục, giúp họ thoát ra khỏi sự tuyệt vọng và các ý nghĩ đen tối của sự nổi loạn và tình trạng hận thù chính mình và kẻ khác, Các hình thức biểu lộ xúc cảm trong khi hành lễ trên đây dường như nói lên một hình thức tín ngưỡng Tin Lành đặc thù dành cho người da đen. Chúng ta hãy thử tìm hiểu trường hợp tiêu biểu của ca sĩ quá cố Michael Jackson. Cách diễn đạt xúc cảm bằng tiếng hát gần như là la hét và các động tác cơ thể cực mạnh và “rắn rỏi” của ca sĩ này nói lên tâm trạng và sự “nổi loạn” sâu kín trong lòng mình, thế nhưng bên trong tâm thức thì người ca sĩ này lại không hề ý thức được sự kiện ấy và cũng không chấp nhận cái số phận ấy của chính mình, mà lại chỉ muốn mình trở thành người da trắng. Sự mâu thuẫn đó phải chăng cũng đã nói lên phần nào những nỗi khổ đau sâu kín trong lòng của người ca sĩ da đen, và biết đâu cũng đã phản ảnh ít nhiều tâm trạng, thân phận và những ước mơ của tổ tiên mình từ nhiều thế kỷ trước?
Khổ đau sâu kín của con người có thể phát lộ qua muôn ngàn hình thức khác nhau. Tillman tàng trữ ma túy nhưng nhờ cầu nguyện mà được trắng án nên đã bán cơ nghiệp của mình để làm phương tiện cải đạo người Mông Cồ. Thế nhưng cũng có những người cầu nguyện thế nhưng khi ra tòa thì vẫn bị lãnh án. Cũng tương tự như thế, có những thuyền nhân nhờ cầu nguyện mà đến được bờ thì gửi tiền về nước tu bổ hoặc xây nhà thờ, thế nhưng cũng có những người dù cầu nguyện thật chân thành nhưng đã không đến được bờ. Cha con Tillman là những người cải đạo thật hăng say, thế nhưng thật ra thì họ cũng chẳng khác gì những tay súng tình nguyện của một đạo quân yên lặng mà thôi.
Đến đây thiết nghĩ chúng ta cũng nên bỏ ra thêm vài phút để nhìn lại những người phụ nữ Mông Cổ trong tấm hình số 1 ở đầu bài chuyển ngữ, và biết đâu khi nhìn vào những người phụ nữ ấy chúng ta cũng sẽ khó tránh khỏi dâng lên trong lòng mình một niềm đau nào đó. Đôi mắt nhắm nghiền và động tác hai tay của những người phụ nữ ấy dường như nói lên là có những viên đạn bọc nhung đang bắn trúng vào giữa ngực mình. Phải chăng gương mặt đau thương và cử chỉ cầu cứu của những người phụ nữ ngoan đạo đó cũng chỉ là cách che dấu những niềm đau thật sâu kín trong nội tâm mình? Chỉ khi nào giải trừ được tất cả các loại vũ khí trong tâm thức và những vết đau cũng như những niềm tin mù quáng trong con tim mình, thì khi đó chúng ta mới có thể mang lại một sự hòa đồng tôn giáo chân thật, một sự giải thoát tâm linh đúng nghĩa của nó và một nền hòa bình lâu bền cho nhân loại. Cha con Tillman và những người phụ nữ Mông Cổ cũng chỉ là những nạn nhân của vô minh, của những thể dạng u mê trong tâm thức mình. Tín ngưỡng đơn thuần dưới một góc nhìn nào đó đôi khi cũng có thể chỉ là một phương tiện để đánh lừa và lợi dụng kẻ khác. Chỉ có sự “hiểu biết” mà đôi khi người ta còn gọi là “trí tuệ” mới có thể giúp chúng ta biết yêu thương và kính trọng con người một cách chân thật và sâu xa mà thôi. Tôn giáo không hẳn chỉ đơn giản là một phương tiện quảng bá đức tin mà phải mang lại “sự thật” và sự “hiểu biết” cho con người.
Bures-Sur-Yvette, 28.05.15
Hoang Phong chuyển ngữ
Phụ lục 1
Table 1. The Top 20 Countries Where Christianity Has the Highest Percentage Growth Rate
Độc giả có thể tham khảo toàn bộ tư liệu này trên trang mạng: https://discipleallnations.wordpress.com/2013/08/25/the-top-20-countries-where-christianity-is-growing-the-fastest/
Rank |
Country |
Continent |
Christian AAGR |
Years to double |
Majority Religion |
Percent Christian 1970 |
Percent Christian 2020 |
1 |
Nepal |
Asia, South Central |
10.93% |
6.6 |
Hindu |
0.1% |
3.8% |
2 |
China |
Asia, Eastern |
10.86% |
6.6 |
Non-religious |
0.1% |
10.6% |
3 |
United Arab Emirates |
Arabian Peninsula |
9.34% |
7.7 |
Muslim |
5.9% |
12.9% |
4 |
Saudi Arabia |
Arabian Peninsula |
9.27% |
7.8 |
Muslim |
0.3% |
4.6% |
5 |
Qatar |
Arabian Peninsula |
7.81% |
9.2 |
Muslim |
4.5% |
9.5% |
6 |
Oman |
Arabian Peninsula |
7.62% |
9.4 |
Muslim |
0.5% |
4.6% |
7 |
Yemen |
Arabian Peninsula |
7.09% |
9.1 |
Muslim |
0.0% |
0.2% |
8 |
Mongolia |
Asia, Eastern |
5.96% |
12.1 |
Buddhist |
0.3% |
2.0% |
9 |
Cambodia |
Asia, South-eastern |
5.87% |
12.3 |
Buddhist |
0.5% |
3.6% |
10 |
Bahrain |
Arabian Peninsula |
5.49% |
13.1 |
Muslim |
3.9% |
7.9% |
11 |
Benin |
Africa, Western |
4.85% |
14.8 |
Christian |
18.1% |
47.8% |
12 |
Burkina Faso |
Africa, Western |
4.81% |
15.0 |
Muslim |
9.0% |
24.8% |
13 |
South Sudan |
Africa, Eastern |
4.67% |
15.4 |
Christian |
22.7% |
63.8% |
14 |
Bhutan |
Asia, South Central |
4.60% |
15.7 |
Buddhist |
0.3% |
1.1% |
15 |
Mali |
Africa, Western |
4.54% |
15.9 |
Muslim |
1.4% |
3.8% |
16 |
Brunei |
Asia, South-eastern |
4.49% |
16.0 |
Muslim |
5.8% |
14.1% |
17 |
Guinea |
Africa, Western |
4.44% |
16.2 |
Muslim |
1.3% |
3.8% |
18 |
Kuwait |
Arabian Peninsula |
4.26% |
16.9 |
Muslim |
5.1% |
9.2% |
19 |
Singapore |
Asia, South-eastern |
4.12% |
16.3 |
Buddhist |
7.8% |
21.7% |
20 |
Turks and Caicos Islands |
Caribbean |
3.97% |
18.1 |
Christian |
99.5% |
91.6% |
Phụ Lục 2
World religious beliefs / Non-beliefs by adherents, 1910–2010 Độc giả có thể xem toàn bộ tư liệu thống kê tổng quát này với trên trang mang: http://en.wikipedia.org/wiki/Growth_of_religion |
|||||||
Religion / Irreligion |
1910 |
2010 |
Rate* |
|
|||
Adherents |
% |
Adherents |
% |
1910–2010 |
2000–2010 |
|
|
611,810,000 |
34.8 |
2,260,440,000 |
32.8 |
1.32 |
1.31 |
|
|
221,749,000 |
12.6 |
1,553,773,000 |
22.5 |
1.97 |
1.86 |
|
|
223,383,000 |
12.7 |
948,575,000 |
13.8 |
1.46 |
1.41 |
|
|
3,369,000 |
0.2 |
676,944,000 |
9.8 |
5.45 |
0.32 |
|
|
390,504,000 |
22.2 |
436,258,000 |
6.3 |
0.11 |
0.16 |
|
|
138,064,000 |
7.9 |
494,881,000 |
7.2 |
1.28 |
0.99 |
|
|
135,074,000 |
7.7 |
242,516,000 |
3.5 |
0.59 |
1.06 |
|
|
243,000 |
0.0 |
136,652,000 |
2.0 |
6.54 |
0.05 |
|
|
6,865,000 |
0.4 |
63,004,000 |
0.9 |
2.24 |
0.29 |
|
|
3,232,000 |
0.2 |
23,927,000 |
0.3 |
2.02 |
1.54 |
|
|
13,193,000 |
0.8 |
14,761,000 |
0.2 |
0.11 |
0.72 |
|
|
324,000 |
0.0 |
13,700,000 |
0.2 |
3.82 |
0.94 |
|
|
437,000 |
0.0 |
8,429,000 |
0.1 |
3.00 |
1.73 |
|
|
225,000 |
0.0 |
7,306,000 |
0.1 |
3.54 |
1.72 |
|
|
760,000 |
0.0 |
6,449,000 |
0.1 |
2.16 |
0.36 |
|
|
1,446,000 |
0.1 |
5,316,000 |
0.1 |
1.31 |
1.53 |
|
|
7,613,000 |
0.4 |
2,761,000 |
0.0 |
-1.01 |
0.09 |
|
|
119,000 |
0.0 |
197,000 |
0.0 |
0.51 |
0.74 |
|
|
Total Population: |
1,758,412,000 |
100.0 |
6,895,889,000 |
100.0 |
1.38 |
1.20) |
|
Discussion about this post