PHẬT DẠY 20 ĐIỀU KHÓ
Thích Đạt Ma Phổ Giác
Phật dạy 20 điều khó không mang một
sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải
ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống
trên nền tảng của nhân quả; và chúng ta phải cố gắng, rèn
luyện nhân cách, đạo đức tâm linh để vượt lên trên những gì tầm thường của thế
gian. Hễ được làm người là một điều vô cùng cao quý và hơn hẳn
các loài khác nhờ biết suy nghĩ, nhận định phải quấy, tốt xấu, đúng sai. Cuộc
sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên chằng chịt đan xen lẫn nhau, cho
nên ta phải có trách nhiệm thương yêu, bảo bọc, che chở cho nhau bằng trái tim hiểu biết. Ai sống mà có hiểu biết chân
chính và nhận thức đúng đắn nhờ tin sâu lời Phật dạy thì
họ sẽ dễ dàng vươn lên những chướng duyên, nghịch cảnh mà vượt qua cạm bẫy cuộc
đời bằng tình người trong cuộc sống. Hai mươi điều “Khó” ở đây không có nghĩa
là không làm được, mà Phật muốn nhắc nhở chúng ta ý thức rằng ai muốn trở thành những bậc Thánh nhân, những vị Bồ
tát và thành Phật trong tương lai thì trước tiên cần phải vượt
qua 20 điều khó này. “Khó” được xem như là yếu tố quan trọng để nung đúc tinh thần chúng ta thêm sức
chịu đựng bền bỉ và vững vàng trên con đường Phật đạo, là hành trang quý báu
không thể thiếu trong đời sống tu hành của chúng ta.
Như chúng ta đã biết, dùng tâm đại từ bi rộng lớn để giúp cho mọi người
sống trong chánh niệm tỉnh giác thật là việc khó, tin sâu Tam bảo là một việc khó, tin sâu nhân quả, thiện ác cũng là một việc khó và tin chính mình có khả năng thành Phật lại
càng khó hơn. Chúng ta tin rằng, mọi người đều có thể chuyển
hoá được phiền não tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến là một việc khó, tuy những điều này là rất khó đối với những người
quá tham lam và ích kỷ.
1- Nghèo khổ bố thí là
khó
2- Giàu sang học đạo là
khó
3- Bỏ thân mạng vì lẽ
phải là khó
4- Hiểu được và thông
suốt kinh Phật là khó
5- Sinh cùng thời với
Phật và gặp Phật là khó
6- Nhẫn chịu được sắc
dục là khó
7- Thấy tốt đẹp không
ham cầu là khó
8- Bị nhục mà không oán
hờn là khó
9- Có thế lực không cậy
uy quyền là khó
10- Đối cảnh tâm không
lay động là khó
11- Học rộng, nghiên
cứu nhiều là khó
12- Trừ diệt cống cao
ngã mạn là khó
13- Không khinh khi
người chưa học là khó
14- Thực hành tâm bình
đẳng là khó
15- Chẳng nói phải trái là khó
16- Gặp được thiện tri
thức là khó
17- Học đạo, kiến tánh
là khó
18- Tùy duyên hóa độ là
khó
19- Thấy cảnh vô tâm là
khó
20- Khéo biết phương
tiện độ sinh là khó
CHÚ GIẢI 20 ĐIỀU KHÓ
1. Nghèo khổ bố thí là khó
Cái khó đầu tiên được nêu lên trong bản kinh Tứ Thập Nhị Chương trong
chuỗi dài 20 cái khó lại là sự bố thí của người nghèo khổ. Người nghèo khổ được định nghĩa là người thiếu thốn, khó khăn về phương
diện sở hữu tài sản, vật chất như tiền bạc, của cải. Về vật chất, họ
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nợ nần chồng chất. Về tinh thần, họ khó mở rộng tấm lòng nhân ái. Bố thí là sự cho cùng khắp, rộng rãi với tinh thần cho,
tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ, ban, hiến, và cuối cùng là cúng dường
một cách tự nguyện với lòng tôn kính, đòi hỏi người cho phải giàu
có, dư dả nhiều tiền của; với người bình thường thì ta dùng từ cho, giúp đỡ, hiến, tặng; với người có địa vị cao trong xã hội thì ta dùng từ kính tặng hay kính biếu; với ông bà, cha mẹ hoặc thầy tổ, thầy cô giáo thì ta dùng từ cúng dường; cũng là từ bố thí nhưng tuỳ theo vị trí và chức năng, địa vị trong gia đình và xã hội mà ta dùng từ ngữ khác nhau để tỏ lòng
cung kính và tôn trọng.
Người tuy nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn, nhưng vẫn biết bố thí, cúng
dường thì còn gì cao quý hơn. Chúng ta hãy nên khích lệ và
tán thán những người như thế. Họ là những vị Bồ tát đích thực trong hiện tại và
mai sau. Nghèo khổ mà biết bố thí,
cúng dường nói lên ý nghĩa cao cả của lòng từ bi rộng lớn bằng tình người trong
cuộc sống; nói lên thái độ không oán trách, không than vãn, không đổ thừa hoàn cảnh, thể hiện lòng vị tha với sự bao dung và độ
lượng bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Người nghèo khổ mà biết bố thí,
cúng dường là người đã có lòng tin sâu sắc đối với nhân quả nghiệp báo. Họ nhận
ra rằng, sự nghèo khó là bởi ảnh hưởng của nghiệp nhân quá khứ do
tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, keo kiệt, và trộm cướp, lường gạt của người khác.
Trong các hạng người ở xã hội với đủ các thành phần từ bậc vua chúa, quan quyền, cho đến thứ dân bần cùng, người nghèo khổ mà biết bố thí là điều khó nhất. Vì sao? Vì nghèo thì thiếu
trước, hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nợ nần chồng chất thì thử hỏi làm sao có thể bố thí,
giúp đỡ cho người khác được. Chúng tôi có nhân duyên lớn với người bất hạnh và nghèo khó, nên cứ mỗi tháng Hội Ấn Tống Từ Thiện Duyên Lành cùng quý Phật
tử đạo tràng Pháp Hoa đã đến trung tâm bảo trợ xã hội Chánh phú Hoà – Tỉnh bình Dương để giao lưu chương trình “kết nối yêu thương- Sẻ chia cuộc sống” với tinh thần của ít lòng nhiều. Ngoài việc san sẻ và giúp
đỡ vật chất bằng sự nhín ăn, bớt mặc của quý Phật tử gần xa, chúng tôi còn chia sẻ để mọi người có được niềm tin trong cuộc sống bằng cách tin sâu
nhân quả, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nhờ vậy mà bà con
anh chị em trại viên ngày càng sống tốt hơn và sẵn sàng chia sẻ bớt phần quà
của mình nhận được. Đôi khi chỉ nhận được hai chục ngàn một người, nhưng họ dám
cúng dường lại Tam bảo hoặc giúp những người khác có hoàn cảnh khó khăn hơn
mình. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà một số người trong trung tâm đã làm được trong nhiều năm qua, chúng ta hãy nên
tán dương công đức đó và khích lệ cho nhiều người khác cùng làm theo. Nghèo khó như bà con
ở đây vậy mà vẫn có tấm lòng biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia, quả thật là điều hiếm có. Nhờ sự giáo
dục nhiệt tình của cán bộ nhân viên và học hiểu lời Phật dạy qua sự chia sẻ của
chúng tôi đã giúp cho họ có đủ niềm tin trong cuộc sống và ngày càng tín tâm
với Tam bảo, tin sâu nhân quả và tin chính mình có khả năng chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Vào thời đức Phật, có hai vợ chồng là Phật tử
thuần thành rất kính tin Tam Bảo, nhưng hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa
đói, bữa no, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Một hôm, người chồng đến chùa
làm công quả thấy các Phật tử xa gần đem nhiều vật thực đến cúng dường Tam Bảo,
anh phát tâm vui vẻ, tuỳ hỷ và vô cùng phấn khởi khi thấy
những việc làm có ích và cao cả như thế. Về nhà, trong lòng anh chợt dấy khởi lên
tâm mong muốn cúng dường Tam bảo, nhưng ngặt nỗi nhà anh quá nghèo, không có
cái gì để mang đến chùa cúng dường, anh ta tủi thân, buồn rầu, lo lắng đến mất
ăn, mất ngủ. Người vợ biết được tâm niệm tốt của chồng, bèn nói với anh “hay là anh đem bán em đi để lấy tiền cúng dường”. Người chồng nghe bà xã nói vậy càng buồn thêm vì ai nỡ nhẫn
tâm làm như thế. Cuối cùng, cả hai vợ chồng bàn nhau đi mượn nợ cúng dường và sau đó
chấp nhận ở đợ, làm mướn suốt đời. Sau khi suy tính, đắn đo, chọn lựa kỹ càng, hai vợ chồng liền đến nhà ông phú hộ
trong làng để trình bày ý muốn như thế. Sau khi cúng dường xong, hai vợ chồng phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời cho phú
ông. Phú ông nghe nói thế liền cho mượn và trong lòng cũng vui theo. Nhận được tiền, hai
vợ chồng vui mừng mang đến cúng dường Trai Tăng với tất cả tấm lòng thành kính
và sự biết ơn. Buổi lễ cúng dường đã được sáu ngày và chỉ còn một ngày nữa thôi
là hai vợ chồng phải đến nhà ông phú hộ ở đợ trả nợ suốt đời. Cũng cùng ngày đó, nhà vua muốn làm một việc phước đức nên đã đến chùa cúng
dường. Sau khi biết được câu chuyện có hai vợ chồng nhà nghèo mượn nợ cúng
dường Trai Tăng, nhà vua cảm động và thương xót vô cùng. Về triều, nhà vua đem
chuyện này thuật lại cho các quan quân, quần thần cùng nghe, ai cũng đem lòng
mến mộ và cảm phục hai vợ chồng nghèo kia. Sau đó, nhà vua truyền lệnh cấp phát
tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn cho hai vợ chồng nghèo đó có tiền trả nợ và còn
dư chút đỉnh để làm ăn sinh sống. Từ đó, hai vợ chồng trở nên giàu có và càng
tin sâu Tam Bảo hơn nên thường xuyên phát tâm bố thí, cúng
dường và giúp đỡ người nghèo khó nhiều hơn.
Người nghèo khổ mà dám phát tâm thực
hành bố thí, cúng dường là một điều rất khó, như hai vợ chồng trong câu chuyện
trên thật là hiếm thấy trong thời của chúng ta. Một vị minh quân hay một ông vua sáng suốt hiểu được đạo lý
làm người, biết phát huy những việc làm phước đức như ông vua kể trên
thật là hạnh phúc cho tất cả mọi người. Lịch sử nhân loại đã từng có rất nhiều
vị lãnh đạo quốc gia làm được những việc như thế. Ở Việt Nam có vua Trần Nhân Tông, một vị vua lãnh đạo đất nước bằng tinh thần
Bi-Trí-Dũng của đạo Phật, hướng dẫn dân chúng
tu hành theo tinh thần Phật dạy, xây dựng nên một nước Việt nam hùng cường về
mọi mặt, bên ngoài chiến thắng giặc ngoại xâm, bên trong dân chúng sống cơm no,
áo ấm và bình yên, hạnh phúc.
Đạo lý nhà Phật dạy con người sống có
ích cho đời và đạo, không vì lợi ích riêng tư mà làm khổ mình, khổ người. Người
Phật tử khi thực hành bố thí cho con người, dù họ là người ăn xin hay kẻ tật
nguyền cũng đều phải cung kính, tôn trọng, không cho mình là người cao
quý mà có thái độ xem thường hay khinh rẻ. Tóm lại, người nghèo khổ mà biết thực hành bố thí, cúng dường với lòng
thành kính quả là một điều rất khó, ngoại trừ người này đã kính tin Tam bảo,
tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc.
2. Giàu sang học đạo là
khó
Ở thế gian này, nhiều người giàu có, sung mãn, đầy đủ vật chất thì ít bao giờ nghĩ đến việc tu học, tín tâm Tam bảo và tin sâu nhân quả. Họ
đam mê, dính mắc vào những tài sản, vật chất như đất đai, ruộng
vườn, nhà cao cửa rộng, xe hơi và tiền bạc. Chính sự giàu có về sở hữu vật chất
quá đáng đã làm cho họ bị trói buộc trong tham ái và lo sợ mất mát. Họ cho rằng
vật chất là mục đích tối hậu của cuộc sống, nên suốt ngày họ đua đòi, bon chen, chạy theo tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều. Tại sao giàu có học đạo khó? Người giàu có luôn bận rộn trong
việc kiếm tiền nên niềm đam mê của họ giống như chất keo dán sắt dính vào khó
gỡ ra. Họ mải mê lo làm giàu, bận rộn trong đời sống đua chen, giành giật và sợ
bị mất mát, hao hụt nên càng bám víu vào đó để giữ gìn. Trong kinh Phật dạy, quả báo của những kẻ giàu sang nhờ biết bố thí nhưng
không chịu tu học hạnh giác ngộ, giải thoát, nên không có
trí huệ; sau khi thân hoại, mạng chung sẽ có thể tái sinh làm voi, ngựa quý cho nhà vua. Hai
loài đó sẽ được trang sức lộng lẫy để chở nhà vua và hoàng hậu đi đây
đó ngắm cảnh, xem hoa, vui thú cảnh sông hồ, thiên nhiên đẹp đẽ. Chính vì thế, giàu sang mà biết buông xả để học đạo
giải thoát quả là một điều rất khó. Cho nên, giàu sang mà biết học đạo được liệt vào hàng thứ hai, đối lập với nghèo
khổ mà biết bố thí.
Quá giàu và quá nghèo mà làm được việc ân nghĩa là điều hy hữu, hiếm có
xưa nay, nhưng không phải là không có. Những tấm lòng vàng, những
nhà hảo tâm, triệu phú, tỷ phú, họ đã từng đóng góp đáng kể
vào các dịch vụ từ thiện, xây dựng, mở mang cầu đường, chùa to
Phật lớn… đều do những người giàu có nhất phát tâm ủng hộ. Và quan
trọng hơn hết, ngoài việc bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia, họ còn biết buông xả những tâm tư chấp trước, dính mắc, mê muội, nên cuộc sống của
họ lúc nào cũng bình yên, hạnh phúc; cũng như vua Tần Bà Sa
La, trưởng giả Cấp Cô Độc khi Phật còn tại thế, họ vừa phát tâm bố
thí, cúng dường và vừa phát tâm học đạo giải thoát, nên ngày hôm
nay chúng ta biết được những tấm gương sáng ngời có cả hai mặt phước báo và trí
tuệ. Có phước báo nên giúp được nhiều người, có trí tuệ nên không tham đắm, dính mắc vào bất cứ một thứ tài sản sở hữu nào, do đó tâm an
nhiên, tự tại mà không bị phiền não tham-sân-si chi phối. Để nói lên giá trị của
người giàu có nhưng vẫn thiết tha học đạo, chúng tôi sẽ kể
cho quý vị nghe một câu chuyện.
Thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng
giả tên là Tu-Đạt, nhà giàu nhất nước Kiều-Tát-la do vua
Ba-Tư-Nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma-kiệt-đà của vua
Tần Bà Sa La, mua bán xong ông trở về nhà người anh rể của mình để nghỉ ngơi.
Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra trước ngõ đón tiếp ân
cần, niềm nở, nhưng hôm nay ông thấy không ai quan tâm, để ý đến ông cả. Thật lạ lùng! Ông lấy làm ngạc nhiên mới hỏi người anh rể và biết cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để
cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến
đức Phật, Tu-Đạt thắc mắc với người anh rể “Phật là gì mà mọi người phải cung kính,
tôn trọng?” Người anh rể nói, “Đức Phật trước đây là Thái tử
Tất-Đạt-Đa, con vua Tịnh-Phạn và Hoàng hậu Ma-Da, ông là người được kế thừa
ngôi vua
nhưng dám từ bỏ ngôi vị, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ để xuất gia tu
hành, nay đã thành Phật. Tu-Đạt nghe qua bỗng cảm thấy trong lòng an ổn lạ thường
nên muốn gặp đức Phật liền tức khắc, nhưng lúc này trời đã tối nên đành chờ lại sáng mai. Vì khao khát và
mong muốn được gặp đức Phật nên suốt cả đêm ông không sao ngủ được. Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi
đức Phật đang tịnh dưỡng. Vừa mới tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng “này Tu-Đà Cấp Cô Độc, ta là người mà ông cần gặp đây”. Tu Đạt
rất đỗi ngạc nhiên, “tại sao cái tên Tu-Đà của ta chỉ có
người trong gia tộc mới biết và không ai được gọi, thế mà ở đây lại có người
biết và gọi mình như vậy?” Tu Đạt nghĩ rằng, “hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình?” Trong lúc còn đang ngớ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo
trang nghiêm, điềm đạm đi tới. Bất giác, Tu-Đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật,
trong lòng cảm thấy thoải mái và an lạc vô cùng. Và ngay lúc đó, ông được đức
Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia. Nghe xong bài pháp,
Tu-Đà Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là được vào dòng
Thánh, không còn bị đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ.
Sau đó, ông phát nguyện quy y Tam Bảo, gìn giữ năm điều đạo đức và
phát tâm cúng dường, hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người
bất hạnh, nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin Phật cho xây dựng
một Tịnh xá lớn để chư Tăng có chỗ giáo hoá và tu hành. Đức Phật chấp nhận lời
thỉnh cầu của ông.
Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần
thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo
khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ mọi người không
phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp Phật, ông càng mở rộng tấm lòng bao la, rộng lớn hơn. Từ đó, ông trở về nước để tìm mua một
khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, nhằm xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư
Tăng tu học, giáo hoá và hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào có miếng
đất vừa ý ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-Đà, con vua Ba-Tư-Nặc. Thái tử Kỳ-Đà giàu
có nên đâu cần bán đất để làm gì, nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua. Thái tử Kỳ-Đà bảo rằng, “tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với một
điều kiện duy nhất, ông phải trải vàng lót đầy đất”. Nghe Thái tử nói thế, Cấp Cô Độc mừng quá nên đồng ý liền và
cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là
xong. Cấp Cô Độc đang suy nghĩ nên lấy số vàng trong kho nào để lót cho đủ,
Thái tử Kỳ-Đà đến hỏi “bộ ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn
người ra như thế?” Cấp Cô Độc trả lời “thưa Thái tử, không phải thế đâu! Tôi đang tính xem phải xây dựng Tịnh xá như thế nào để chứa
đủ chư Tăng và Phật tử các nơi về đây nghe pháp và tu tập”. Nghe vậy, Thái tử Kỳ-Đà cảm phục tấm lòng cao cả của
ông đối với đức Phật và Tăng đoàn, Thái tử tuyên bố “kể từ giờ phút này, ông khỏi cần lót vàng nữa, đất khu vườn này thuộc về ông, còn rừng cây trong vườn tôi
xin hoan hỷ cúng dường cho đức Phật”.
Ngày nay, đọc các bản kinh chúng ta
thường thấy, “tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp
Cô Độc…”, đây chính là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô Độc và
Thái tử Kỳ-Đà cùng dâng cúng. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp độ sinh, đức
Phật đã ở tại Tịnh xá này suốt 25 mùa An Cư Kiết Hạ.
Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức
Phật đã luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người
cô độc, bần cùng với lòng thành kính của mình. Suốt mấy chục năm
thực hành bố thí, cúng dường, tài sản nhà ông cuối cùng cũng
cạn kiệt do bị lũ lụt cuốn trôi. Gia tài, sự nghiệp đã tan tành theo mây khói,
cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn một lòng
tín tâm, chia bớt phần ăn của mình để cúng dường chư Tăng. Nhờ phước đức bố thí, cúng dường quá lớn lao cùng với lòng
thành kính của ông trong quá khứ và hiện tại, chẳng bao lâu sau, gia đình ông
làm ăn được khấm khá trở lại, và ông vẫn tiếp tục thực hành bố thí,
cúng dường như trước đây mà không phân biệt thân, sơ.
Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng
ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí, sẻ chia. Qua đó,
chúng ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng tôn kính như
trường hợp của ông Cấp Cô Độc một lòng gieo duyên với ruộng
phước lớn. Ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này. Chúng ta
nên nhớ rằng, phát tâm bố thí, cúng dường như gởi tiền vào ngân hàng, tuy không
thấy có tiền nhưng khi cần xài liền rút ra. Cấp Cô Độc phát tâm cúng dường Tam Bảo không biết mệt mỏi,
nhàm chán, ông còn giúp đỡ những người cô độc, nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng
nhân dân tặng cho danh hiệu là Cấp Cô Độc. Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh
bố thí, cúng dường để chúng ta học hỏi, noi theo. Con người muốn hoàn thiện
nhân cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập, hành trì. Người có đủ niềm tin Tam bảo được chứng quả bất
thối chuyển thì
dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ
vững tấm lòng tốt của mình.
Bố thí, cúng dường là con đường dẫn đến
tình yêu thương nhân loại bằng tình người trong cuộc sống, là cách thức xóa bỏ
ân oán, hận thù để ta cùng ngồi lại bên nhau bằng trái tim yêu
thương và hiểu biết. Bố thí, cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát
để từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí, cúng dường mà tâm ta được
an lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy
ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng thương yêu và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau hơn. Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại
và tương lai được đầy đủ, giàu sang, như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra
xài; còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có
đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của
dư. Cấp Cô Độc là người giàu có, ngoài việc biết bố thí, cúng
dường, giúp đỡ, sẻ chia, ông còn là tấm gương sáng trong việc tu học và còn hướng dẫn
toàn thể gia tộc tin sâu nhân quả và tín tâm Tam bảo. Nhờ vậy, trước khi mạng
chung,
ông được Tôn giả Xá Lợi Phật và Tôn giả A Nan đến khai thị và
sau đó an nhiên, tự tại ra đi mà được sinh về cõi trời.
Chúng ta bây giờ là người xuất gia lúc
nào cũng khuyên nhủ mọi người buông xả, nhưng ngược lại ta lại tham đắm, chất chứa, nên một số người sống tèn tèn, chẳng làm gì lợi ích cho ai mà vẫn thọ dụng của đàn na tín
thí. Nhiều người giàu có sẵn sàng bỏ ra hàng trăm tỉ để cúng dường
Tam bảo, xây chùa to, Phật lớn nhằm tạo thêm lòng tin cho mọi
người biết. Sự cao quý và giá trị thiết thực của đạo Phật được xây dựng
trên nền tảng nhân quả, nên giàu có mà biết bố thí, cúng dường
và khiêm tốn thấp mình học đạo là gương sáng chỉ có các vị đại Bồ tát mới có thể làm được. Chúng ta phải biết trân
trọng và tôn kính. Do đó, Phật dạy giàu có mà biết bố thí, cúng
dường là điều khó.
3. Bỏ thân mạng vì lẽ phải là
khó
Mạng sống con người rất quý giá vô cùng nên xã hội đều có luật pháp hẳn hòi để trừng trị những ai đánh mắng, gây thương tích hoặc giết người. Bởi thế cho nên, đã là con người tất
nhiên ai cũng tham sống, sợ chết. Tâm lý ấy phổ biến đến nỗi nó trở thành bản năng số một của con người. Bản năng thứ hai
là sống để hưởng thụ. Vì sao bỏ thân mạng vì lẽ phải rất là khó? Vì ai cũng quý trọng
thân này, ai cũng tham sống, sợ chết, không ai muốn chết một cách vô lý hoặc chết vì một lý tưởng nào đó nếu
không có lợi ích.
Lẽ phải đứng trên quan điểm Phật giáo mà phân tích thì nó là chân lý của
cuộc đời. Làm cách nào để con người biết thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết, nhờ vậy mà giải thoát mọi phiền muộn, khổ đau? Chết vì lẽ phải là thực hiện và bảo vệ chân lý lời Phật dạy trên bước đường hoằng hóa, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Đó là cách thức bảo vệ lẽ phải tối cao nhất trong
cuộc đời của người Phật tử chân chính. Đứng về cuộc đời, nó có thể là sự hy sinh cao cả và bảo vệ sự tồn vong của
một đất nước, vì quyền lợi của một dân tộc và nói chung là của cả toàn thể nhân
loại. Nếu thế giới này không có những đất nước vì quyền lợi chung bảo vệ hoà
bình cho nhân loại thì trái đất này sẽ là bãi chiến trường đẫm máu, bởi lòng
tham lam và sự ích kỷ của một số người quá cuồng tín. Có nhiều người cho rằng, lẽ phải thuộc về kẻ chiến thắng và người thua là kẻ nghèo, nghèo không có
quyền nói hay đóng góp một cái gì đó cho kẻ chiến thắng. Đây là quan niệm sai
lầm của một số người thiếu hiểu biết, họ chỉ vì quyền lợi riêng tư mà dùng thế
lực để đè bẹp thiên hạ. Muốn hiểu hết được ý nghĩa
sâu xa lời Phật dạy, trước hết ta cần phải nêu ra những tấm gương sáng dám hy
sinh thân mạng của mình để bảo vệ đạo và đời được trường tồn. Đời người cuối
cùng rồi ai cũng phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, nhưng nếu được kết thúc vì mục đích lợi tha
hướng thượng sẽ đem lại giá trị thiết thực cho nhân loại và mang ý nghĩa cao cả
vô cùng, xứng đáng được tán dương và khen ngợi.
Trong lịch sử Phật giáo, chúng ta hết sức khâm phục tấm gương sáng của tôn giả Phú Lâu Na về tinh thần học đạo chí thiết và tấm lòng vô ngã, vị tha, muốn đem ánh đạo vàng tới một nước dân chúng sống không
biết lẽ phải, tàn nhẫn và ác độc. Đức Phật biết dân ở xứ này khó giáo hoá độ sinh, phải là những người có
tấm lòng từ bi rộng lớn và cao cả thì hoạ may mới cảm hoá được họ. Sau một loạt
chất vấn thử thách đệ tử của mình, Tôn giả Phú Lâu Na chứng tỏ được khả năng và
bản lĩnh của mình qua sự chịu đựng, an nhẫn vô điều kiện. Phật hỏi “giả sử người dân nước đó chửi, đánh mắng, ném đá hoặc dùng
dao gậy giết ông thì ông phải đối xử với họ ra sao?” – “Nếu họ có chửi hoặc đánh mắng hay ném đá và sau đó có thể
dùng dao gậy để giết con thì con sẽ cám ơn họ, vì nhờ
họ mà con tăng thêm khả năng chịu đựng trong hoàn cảnh không được hài lòng, vừa ý; và nếu họ có giết con thì con càng cám ơn họ hơn, vì họ đã
giúp cho con thoát khỏi cái thân nhơ nhớp này”. Với tấm lòng bao dung và độ lượng đó, Tôn giả đã độ được 500 người xuất
gia và vô số người quy y Tam bảo phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức.
Tóm lại, Phật dạy “dám chết vì lẽ phải” là một điều khó làm vì bản tính con người vốn tham sống, sợ chết. Điều
này cũng không đáng chê trách, vì mặt khác Đức Phật cũng dạy “mạng sống con người vô cùng quý giá”. Cho nên, chúng ta phải biết trân
trọng nó, gìn giữ nó, bảo vệ nó, nhưng gặp đúng trường hợp đòi hỏi sự hy sinh
mạng sống quý báu này để phục vụ lợi ích cho nhiều người, một chân lý tuyệt mỹ
hoàn hảo hơn, thì chúng ta cần phải hy sinh cái ta của mình đi. Như có một kiếp khi Bồ tát chưa thành Phật, trên một chiếc thuyền có 500
thương buôn sắp sửa bị một bọn cướp khống chế, hành hung để lấy tài sản, của
cải. Bồ tát phải hy sinh thân mạng của mình nên đã ra tay giết chết bọn cướp kia và cứu được 500 người thương buôn. Về
mặt nhân quả, Bồ tát đã giết người nên sẽ chịu tội oán thù với bọn cướp đó; về mặt nhân sinh, Bồ tát đã giúp cho những người thương nhân đem hàng hoá, của cải để nuôi sống nhiều người dân. Tinh thần này rất được tán thán và
ca ngợi, vì đó là bảo vệ chân lý, bênh vực cho lẽ phải. Nếu
không có Bồ tát ra tay nghĩa hiệp thì số người thương buôn sẽ bị khống chế, bị
đánh đập, bị giết chết và những tài sản của cải đó rơi vào tay bọn cướp.
Ngày nay, tinh thần này được tiếp tục phát huy qua các chàng hiệp
sĩ đường phố sẵn sàng hy sinh tánh mạng của mình để lấy lại tiền bạc của người
bị giựt bởi những tên cướp khát máu, không có tình người trong
cuộc sống. Cho nên, chúng ta phải hiểu
rằng, khi Đức Phật liệt sự hy sinh vì lẽ phải là một điều khó
làm thì chúng ta phải biết tuỳ nhân duyên mà làm những việc lợi ích cho số đông. Điều
mà chúng ta đang thực hiện nó thuộc về sự bất đắc dĩ mà
không có sự tính toán, chỉ thấy khổ thì giúp, thấy nguy thì cứu, để đem lại lợi ích cho cả cộng đồng. Từ đó, chúng ta rút ra kinh nghiệm
làm được việc nghĩa để giúp người, cứu vật quả thật là một
điều rất khó làm. Ai mà làm được
điều đó thì chính là những vị Bồ tát
đích thực trong hiện tại và mai sau.
4. Hiểu được và thông suốt kinh
Phật là khó
Kinh Phật ở đây chỉ chung cho Tam tạng thánh điển, nó thuộc về những lời
dạy vàng ngọc của Phật, bao gồm Kinh-Luật-Luận, và ngay cả những lời thuyết pháp của các pháp sư và các
vị cư sĩ. Hiểu hết kinh Phật là một điều rất khó, vì Phật tuỳ theo căn cơ của
mọi người mà chỉ dạy nên có rất nhiều loại Kinh chẳng tương đồng với nhau.
Người nào muốn giác ngộ, giải thoát thì Phật chỉ dạy pháp Tứ đế, mười hai nhân duyên; muốn thành Phật thì hành Bồ
tát đạo, tu lục độ vạn hạnh: bố thí, trì giới, tinh tấn,
thiền định, nhẫn nhục và trí huệ; muốn đời sau làm người trở lại, sống có nhân cách đạo đức, Phật khuyên quy y Tam bảo và gìn giữ năm điều
đạo đức: không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói
dối hại người và không uống rượu say sưa hay dùng các chất kích thích có hại
như xì ke, ma tuý. Ai muốn được sinh các cõi trời, hưởng phước muốn gì được nấy, Phật dạy tu mười điều thiện lành, tốt đẹp và các bậc Thiền định.
Giáo lý của Phật chỉ dạy có ba mục đích: Một là dành cho người xuất gia
giải thoát sinh tử. Hai là tu Bồ tát hạnh cho đến khi thành Phật mới thôi. Ba
là tu còn trong luân hồi sinh tử, hưởng phước báu cõi Trời, Người. Tóm lại, hiểu được kinh Phật hẳn là một điều khó, ta
chỉ cần nắm vững ba cương yếu trên thì khi đọc kinh Phật sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa lý sâu xa của nó. Ta sẽ không bàng hoàng, sửng sốt khi có quá nhiều
loại kinh, tất cả cũng chỉ vì tuỳ bệnh cho thuốc của mọi người. Chúng sinh có
nhiều bệnh thì Phật pháp có nhiều thuốc để trị liệu, ai hợp với thuốc nào thì
mau lành bệnh. Cho nên, hiểu được kinh Phật là điều
khó.
5. Sinh cùng thời với Phật và
gặp Phật là khó
Được sinh ra trong thời Phật là rất khó và gặp Phật để học hỏi những lời
dạy của Ngài lại càng khó hơn. Phật ra đời đã trên 2600 năm, Ngài là con người giác ngộ, tỉnh thức hoàn toàn, không còn bị phiền não tham-sân-si làm tổn hại. Ngài tuỳ duyên giáo chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm
chán. Ngài là một con người bằng xương bằng thịt như tất cả mọi người chúng ta.
Ngài là bậc vĩ nhân trên các vĩ nhân. Ngài không phải là một đấng thần linh
thượng đế ban phước, giáng hoạ. Ngài
chỉ là vị thầy dẫn đường trong đám người lạc hướng, giúp chúng ta biết được chân lý cuộc đời, mình làm lành được hưởng phước,
mình làm ác chịu khổ đau. Cho nên, sinh cùng thời với Phật và được gặp Phật là
một phước duyên to lớn mà ít ai có được nhân duyên tốt đẹp, chính vì vậy mà ta cứ mãi chịu luân hồi sinh tử. Sự ra đời và thị hiện của các
Đức Phật đã hiếm mà có duyên được gặp Phật lại càng hiếm hơn, vì nếu không đủ
phước đức, nhân duyên như bà lão giữ kho cho trưởng giả Cấp Cô Độc
thì tuy sinh ra cùng thời với Phật nhưng không được gặp Phật. Trong
khi đó, cả gia đình và họ tộc của trưởng giả ai cũng được gặp
Phật và nhờ vậy tất cả đều sống nhân từ, đạo đức vì biết tin sâu nhân quả và tin chính mình.
6. Nhẫn chịu được sắc dục là khó
Nhẫn không chỉ giới hạn ở sự chịu đựng những lời nhục mạ, dèm pha hay bị
chỉ trích hoặc bị vu khống. Nhẫn ở đây còn có ý nghĩa sâu rộng hơn là không đam
mê, không dính mắc, nhiễm đắm ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều. Người đời gặp chuyện bất bình chịu nhẫn,
không nổi nóng, gặp điều trái ý, nghịch lòng vẫn chịu đựng, an nhẫn, không bực tức hay tỏ thái độ gì buồn phiền; nhẫn được như vậy được coi là có trình độ cao về nhẫn rồi,
nhưng chưa phải là nhẫn cao thượng. Cái nhẫn xuất thế là sự kham nhẫn đối với sắc dục, mắt thấy sắc không bị sắc lôi cuốn làm cho dao động và nô lệ
cho sắc. Lòng ham muốn sắc dục rất mãnh liệt vì
đó là bản năng mạnh thứ hai của con người. Bản năng thứ nhất là tham sống, sợ chết. Bản năng thứ hai là hưởng thụ luôn thúc bách con
người tìm kiếm lạc thú, lạc thú cao nhất là ân ái nam nữ. Phật
dạy, “nếu có thêm một cái thứ hai nào hấp dẫn như sắc dục thì chúng
ta khó có thể tu đến giác ngộ, giải thoát”.
Như có cô gái nọ làm tại một khách sạn
lớn, khi thấy một chàng trai ăn mặc bảnh bao, dáng người sang trọng, quý phái thì lập tức trái tim cô rung động ngay lần tiên mới gặp. Trong lòng cô luôn thổn thức theo tiếng gọi của con tim, cô không biết làm
sao để quen được chàng trai đó. Cuối cùng, cô cũng tìm ra kế sách sơ ý ngã vào
lòng chàng trai, để rồi đêm hôm đó nàng không tự chủ được bản thân nên đã hiến
đời mình cho chàng trai đó. Thói quen hưởng thụ sắc dục làm cho con người luôn
thèm khát, luôn luyến tiếc và cảm thấy dật dờ, khó chịu khi nhớ đến nó. Điều quan trọng trong cuộc sống của chúng ta là sắc dục trở
thành nhu cầu cao trong nhiều người, rất khó nhịn chịu mà vượt qua được. Sự
trói buộc của sắc dục rất đa dạng như vòi của bạch tuột. Trong Kinh đề cập đến
sự trói buộc giữa người nam, người nữ là sự trói buộc qua nhan sắc, qua tiếng
cười, qua lời nói, qua lời ca tiếng hát, qua nước mắt, qua áo quần, qua vật
tặng, qua sự xúc chạm. Phật rất từ bi đáo để nên đã không ngại nói
ra những cái lầm mê của chúng ta. Chúng ta cứ bị ái ân cột trói mãi mãi không
có ngày thoát khỏi, nên thấy sắc đẹp thì ta muốn ngắm nhìn
và chiếm đoạt; tiếp theo là lời nói, tiếng cười, giọng nói, nước mắt, quần áo,
vật tặng và sự xúc chạm êm ái làm ta cứ mải mê, thẫn thờ trong luyến ái đó; ngay cả khi mới chết, người nữ vẫn còn là lực hấp dẫn với người nam, vì vậy Phật nói nhẫn được sắc dục là khó. Nhẫn được sắc dục thì con đường
hiền Thánh mở ra, nên chúng ta phải khép lại cánh cửa ái ân để vươn lên vượt
qua cạm bẫy cuộc đời.
Như chúng ta đã biết, tai hại của sắc dục có thể làm băng hoại nhân cách
đạo đức của con người khi chúng ta bị đam mê, dính mắc vào nó. Ở đây, nhẫn được sắc dục là chế ngự, thu thúc được lục
căn, không cho chúng bị đắm nhiễm; như mắt thấy sắc đẹp thì thích thú muốn ngắm nhìn và chiếm đoạt; tai nghe tiếng nói của người nữ thì sinh tâm thèm khát và luyến
ái; mũi ngửi mùi thơm của nước hoa cảm thấy lòng rạo rực, xao xuyến; lưỡi nếm vị ngọt của tình
ái; thân xúc chạm êm ấm, nhẹ nhàng và ý biết thọ nhận, luyến tiếc. Một vị thiền sư đã ngộ đạo nên nói “thấy sắc, nghe tiếng như hoa trồng trên đá”; thấy sắc đẹp, nghe tiếng nói của người nữ mà trong lòng cảm thấy như trồng hoa trên đá,
như vậy thì đâu có bị dính mắc vào sắc dục. Hoa làm sao mà trồng trên đá được, nếu không trồng được thì thấy sắc dục cũng vậy thôi, có gì mà phải bận
tâm. Do đó, nhẫn được sắc dục là một việc làm hy hữu mà ít ai
trên đời này có thể làm được trọn vẹn, ngoại trừ những vị quyết chí
tu hành để thoát khỏi kiếp luân hồi này, hay là các đại Bồ tát hoặc
chư Phật mới vượt qua nỗi. Tuy nhiên, Phật, Bồ tát làm được thì chúng
ta cũng sẽ làm được, vấn đề là ta có quyết chí, can đảm
buông bỏ những thói quen xấu hay không mà thôi, và phải cố gắng làm những điều thiện
lành, tốt đẹp.
7. Thấy điều tốt đẹp không tham cầu là
khó
Đẹp là một trong các yếu tố của thẩm mỹ
học. Đẹp theo quan niệm thông thường là những cái thấy hợp nhãn gây nhiều ấn
tượng tốt cho người xem, người đọc. Căn cứ theo quan điểm triết học Phật giáo,
đẹp là những giá trị mặc ước, tùy thuộc vào quan điểm của con người và phong tục tập quán. Có những cái ở đây cho là đẹp nhưng ở một
nơi khác thì lại cho là xấu. Thấy tốt tức là thấy người đẹp, vật tốt, công việc
tốt đẹp, nói chung là tất cả những cái thấy vừa lòng, thích ý, phù hợp với sở cầu của mình. Ai thấy đẹp cũng mong
ước cái đẹp ấy sẽ là của mình và ai cũng mong chiếm hữu nó. Chính vì ai cũng
ham thứ tốt đẹp nên thứ tốt là đối tượng để tranh chấp, giành giựt, chém giết lẫn nhau. Do mong cầu thứ tốt nên khi gặp thứ hay cái gì xấu thì sinh ra bất mãn, bực tức và tìm cách đấu tranh để loại bỏ nó; cho nên cuộc sống trở nên rối rắm và phiền não, bất an. Nhưng nhìn chung, cái đẹp cũng có giá trị nhất định theo cái thấy của mọi người, cũng là
một bông hoa hồng mà có người cho là đẹp nhưng người khác lại cho là xấu; và căn cứ vào giá trị của nó thì cái đẹp vẫn là cái quyến rũ, hấp dẫn, thôi thúc con người muốn chiếm hữu nó. Nhìn vào một bông hoa đẹp, mặc dù
hoa vô tình, nhưng nó vẫn gây ấn tượng đam mê ở người ngắm. Bản thân của cái
đẹp hiện hữu không tội lỗi gì cả, chỉ là do con người nhận định, quyết đoán; nhưng nếu chúng ta nhìn nó
với cái nhìn đam mê, yêu thích bởi lòng tham lam
thì cái đẹp đó trở thành sợi dây ràng buộc sự giải thoát của chúng ta.
Người thấy đẹp mà không ham cầu là người
thấy rõ sự nguy hiểm của cái đẹp, và cái đẹp đó cũng vô thường, tạm bợ, nên họ không mong cầu cái tốt đẹp đó mà chỉ tuỳ duyên mà thôi. Nhờ có trí tuệ quán chiếu nên chúng ta
thấy sâu sắc về sự vật, bản chất chúng không trường tồn, nên ta mới có thể làm
chủ được tâm lý mong cầu của mình; nhưng mấy ai có được trí tuệ để vượt
thắng những cám dỗ thông thường đó. Thế nên, Phật nói “thấy đẹp, thấy tốt không ham cầu là khó”.
Chúng ta nhìn vạn sự, vạn vật với một cái nhìn
tuệ giác, biết nó là không thực thể, sự có mặt của nó chỉ là nhân duyên tụ tán. Chính vì bản chất của nó là vô thường, vô ngã, nên cái đẹp của nó chỉ tạm thời, không dài lâu, không có một giá trị cố định. Nhớ lại khoảng những năm 1980, chúng tôi làm công tác khai
thác Lồ Ô ở tỉnh Bình Phước, tôi có người bạn tên Trang hằng ngày thường đến gia đình anh Tư nói chuyện, ca hát, uống rượu rất thân mật. Nghiệt ngã thay, lúc đó bạn tôi có đeo chiếc đồng hồ Citearen rất đẹp, trị giá khoảng 5 phân vàng. Lòng tham khởi lên vì muốn
chiếm đoạt cái đồng hồ đó, anh Tư và gia đình đã vu oan Trang sàm
sỡ với con gái nhà anh ta rồi đánh bạn tôi nhừ tử và trấn lột chiếc đồng hồ
đó. Quý vị thấy chưa, vì ham đẹp và có của để khoe với thiên hạ mà con người ta đành lòng nhẫn tâm đến như
thế. Nhất là các cô gái thời bây giờ, họ thích mang đeo đồ trang sức
để làm đẹp thân mình và làm duyên dáng với thiên hạ. Bọn phường đạo chích lợi
dụng chỗ đó mà tuỳ nghi cướp giật, gây đau khổ cho nhiều người, kẻ mất của, người tạo án phải chịu tù tội.
Vào ngày 1 tháng 5 vừa qua, khi chúng tôi đứng chờ xe để đi trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hoà – Tỉnh Bình Dương thì thấy một cô gái đang đứng chờ xe tại ngã ba Hàng Xanh, một chiếc Honda chở hai người kè sát vô giựt sợi dây chuyền cô đang đeo. Do cô tiếc của nên nắm chắc
sợi dây chuyền, chúng kéo cô ta lê lề đường, không ngờ gặp một anh chàng hiệp sĩ chạy ngang tống cho một đạp, xe ngã lăn, anh ta khống chế hai tên cướp và giải giao cho công an Phường
gần đó. Để chuyển hoá tâm thấy đẹp mà không tham cầu, chúng ta phải
nhìn mọi hiện tượng, sự vật và con người đúng
với bản chất của nó. Từ đó, khi đối duyên xúc cảnh thấy đẹp nhưng ta vẫn giữ được thái độ thản
nhiên, không khởi ý tham cầu, chiếm hữu nó, không biến nó
thành vật sở hữu của ta. Ta biết nó có mặt mà không hiện hữu, đẹp như không
đẹp, nên ta không luyến ái, chấp giữ, do đó không gây sự đau khổ cho
mình và người.
8. Bị sĩ nhục không oán hờn là
khó
Nhục là những hành vi lăng mạ của người khác làm cho ta cảm thấy bức rức, khó chịu. Nó phát xuất từ tâm lý ganh ghét hay tật đố bằng sự nóng giận
do không kìm chế được bản thân. Nhục nếu thể hiện bằng lời
nói là những lời bôi nhọ, xuyên tạc bằng cách nguyền
rủa, chửi thề, mắng nhiếc một cách căm thù tột độ, làm cho người bị lăng mạ đau khổ, xót xa như cắt đứt từng khúc ruột mình; nếu thể hiện bằng hành động của thân thì có thể dùng tay chân đấm đá
để gây thương tích cho đối tượng; nếu thể hiện bằng ý thức là
sự ngấm ngầm hãm hại người đó một cách trắng trợn và công khai bất chấp mọi hậu
quả của nó. Cả ba đều đem lại cho người khác tâm lý lo âu, sợ sệt và
khổ đau bởi trạng thái tức tối, giận hờn và thù địch. Đứng trước hoàn cảnh bị người khác nhục mạ như vậy, người ta thường hay oán
giận, thù hằn, đôi lúc phản kháng trở lại bằng cách trả đũa
quyết liệt với những ngôn từ không văn hoá tí nào hay nặng hơn là đánh đập, giết hại. Chỉ có những ai đã thật sự
tu tập chuyển hoá mới thấu hiểu được sự tác hại của nó, nên không chống trả, đối đầu lại mà dùng tâm Từ để làm lắng dịu sự xung đột đó. Nếu lấy hận
thù diệt hận thù thì hận thù càng thêm chồng chất, chỉ lấy tình thương mới chuyển hoá được hận thù.
Bị vu oan, sĩ nhục về một việc làm xấu nào đó thì ta cảm thấy bị chạm tự ái
vì sĩ diện với mọi người, ta tức tối, ta hờn giận và cảm thấy đau khổ vô cùng. Ngày xưa,
có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần năm trăm đồ chúng, đến khi tuổi già,
sức yếu, bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí
trong nhà Thiền, vị cao Tăng này mới bày ra kế “điệu
hổ ly sơn”, tung tin bị mất trộm tiền của Tam bảo, làm trong chúng ai
cũng hoang mang, nghi ngờ lẫn nhau. Một hôm,
chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn “ăn
trộm, ăn trộm”. Mọi người hoảng hốt chạy theo tiếng la, một vị đệ tử lớn
chạy vào, vị cao Tăng liền thộp cổ áo mà nói rằng, “bắt
được tên trộm rồi”. Chú đệ tử nói “dạ
thưa thầy, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm, con
chạy vô để phụ thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt,
không ai có thể chối cãi được, chư huynh đệ pháp lữ trong chúng ai cũng thấy rõ
ràng thầy mình tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn
trộm, ăn trộm”. Cho nên,
vị đệ tử lớn bị khai trừ ra khỏi chùa ngay liền tức khắc, không được giải bày,
minh oan gì cả. Đuổi xong, thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác không
được chứa chấp thầy vì cái tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa nay
được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, còn là người mô phạm dạy
dỗ chúng Tăng, đột nhiên bữa nay bị mang danh nghĩa là tên trộm, đích thân
bị thầy mình viết giấy khai trừ và tuyên bố trước mặt đại chúng. Chỉ trong
thoáng chốc, bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi
người khinh chê, coi thường vì tội ăn trộm. Ai
nằm trong hoàn cảnh đó mới thật tội nghiệp cho vị sư huynh, đường đường cũng là
một vị Tăng tướng mạo trang nghiêm, có chức
sắc trong chùa mà giờ đây đành chịu nuốt lệ đau thương,
ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ. Bị ông thầy hủy
nhục như vậy trước mặt đại chúng, bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng phút
chốc tan tành theo mây khói, nhưng vị đệ
tử lớn này không hề có một chút buồn giận nào thể hiện ra nét mặt,
hoặc tỏ bất cứ thái độ nào oán
ghét ông thầy. Chú ta vẫn một lòng cung kính và tôn trọng, xin thầy mình hãy từ
bi cho ngủ đỡ ngoài cổng Tam Quan cũng được, để mỗi ngày mình còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc, nhưng
ông thầy cũng không chịu mà nói “nếu ở đó thì phải chịu trả
tiền ngủ nhờ”. Dù bị thầy hủy nhục,
hành hạ, làm khó dễ đủ điều, nhưng chú ta vẫn một lòng
tôn kính thầy mà siêng năng, tinh tấn tu hành. Thời gian
như vậy kéo dài gần 3 tháng, vị đệ
tử vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn
hay trách móc một điều gì. Cuối cùng,
vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền. Hôm
đó, ông ta chính thức tuyên bố trước đại chúng, “ta
bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi,
hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các ngươi”.
Nói xong, thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong
lịch sử nhân loại từ xưa nay, biết bao nhiêu bậc vĩ nhân,
hiền Thánh vẫn thường bị vu oan, giá họa,
nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên,
chứng minh cho đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi và vô ngã,
vị tha. Vị đệ tử đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì ông thầy
làm sao biết đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng
có đủ niềm tin mà nương tựa, học hỏi tu hành. Nếu gặp
thầy nào còn quá yếu, khi bị vu oan, giá họa như vậy thì
chắc có lẽ sẽ oán hận ông thầy của mình suốt đời. Nhờ thử thách đó, người thầy biết rõ vị
đệ tử của mình qua được Tám gió: được mất, khen chê, danh
thơm, tiếng xấu và khổ vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối
với người trí chỉ là thử thách, nên họ vẫn bình thản,
an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật trước mặt mọi người. Giả sử như lúc đó chúng
tôi đang ở trong hoàn cảnh này, có lẽ tôi sẽ đùng đùng nổi
giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ ra đi không một lời từ giã. Đức Phật dạy, “bị sĩ nhục không sân là khó”.
Ai chịu đựng được những hoàn cảnh trái ngang như vậy mà không sân giận hay tỏ
ra oán ghét thì coi như đã thành tựu đạo pháp.
9. Có thế lực không cậy quyền là khó
Cái khó được nêu ra ở đây thật là một vấn đề nan giải đáng cho những nhà
cầm cân nẩy mực, những nhà lãnh đạo cần nên suy nghĩ, nghiền ngẫm nhiều hơn. Thông thường, những người có quyền cao chức trọng hay cậy thế ỷ quyền ức hiếp kẻ dưới, bắt phải cống nạp hoặc chèn
ép bằng nhiều hình thức. Trong đời sống xã hội, dòng
văn học hiện thực phê phán ở nước ta đã viết nên những trang lịch sử rõ nét
thái độ lẫn hành động áp bức, bất công của những tên quan lại cường hào bức
hiếp dân lành từ xa xưa. Đó là hậu quả của chế độ phong kiến với những quan
niệm hết sức độc đoán. Ta là trung tâm của vũ trụ,
ta có quyền sinh sát trong tay bằng sức mạnh của đấng bề trên. Góc độ nguy hại nhất của sự cậy quyền, ỷ thế lại có mặt nhiều nhất ở những
chế độ độc tài, phát xít. Họ là những con người cuồng
tín, độc đoán, không biết lắng nghe tiếng nói từ trái tim của những
người bị đàn áp một cách bất công, vô tội vạ. Họ sống an nhiên
dẫm đạp trên sự đau khổ của người khác. Từ đó, họ càng kết thêm
oán giận, thù hằn trong lòng những người vô tội. Những luật vua,
phép nước hết sức phi lý, bất công, nhưng đã một thời khiến những người dân
trong nước hay những người con trong gia đình,
nghĩa là những kẻ thấp cổ bé họng phải cắn răng chịu đựng những
chính sách khắc nghiệt buộc mọi người phải cam chịu mà không dám hó hé gì.
Cho nên, có thế lực mà không ỷ quyền cậy thế, không thị uy, tức bản thân
ta đã kiến tạo cho mình một nếp sống đúng Chánh mạng, Chánh nghiệp,
không gieo rắc Ác nghiệp cho ai hết; và người như vậy là người hữu
ích cho nhân quần xã hội, là người biết hướng thiện, luôn làm lợi ích cho nhiều
người. Được vậy, quả thật là đáng quý!
10. Đối cảnh tâm không lay động
là khó
Đối cảnh tâm không lay động là bước đầu để đến
vô tâm, có nghĩa là không còn dính mắc, đắm nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng,
ăn ngon, ngủ nhiều hoặc hình sắc, sự vật, cho đến tai nghe tiếng, mũi
ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tác duyên. Người thấy tiền bạc không
tham đắm, dính mắc quả thật là điều khó vì tiền bạc là phương tiện để nuôi sống
bản thân và gia đình. Người đối với mọi hình sắc vừa thấy liền khởi niệm say mê rồi tác ý ưa thích, nghĩ tưởng hình sắc; thế là lòng tham chìm đắm
trong cảm thọ, thấy đẹp-xấu và dính mắc vào đó. Nếu
tâm dính mắc càng lớn mạnh thì tâm Bồ Đề càng bị lu mờ, do đó dấy khởi
phiền não làm tâm không an định. Không những đối với sắc thì đắm mê gây những cái hại như thế mà
đuổi theo tiếng hay, êm ái rồi dính mắc vào đó, đuổi theo hương vị thơm tho rồi tham đắm vào đó, bám theo vị ngon ngọt thì thích thú, khen ngợi, thân xúc chạm thì thích êm ái, nhẹ nhàng và ý tác động vào
đó, cũng có những cái hại tương tự như thế. Người thấy sắc không nhiễm sắc, tuy mắt thấy sắc mà tâm vẫn an trú trong Chánh niệm nên không chạy
theo cảm thọ lạc hay cảm thọ khổ, đã không chạy theo cảm thọ thì
tâm không dính mắc nơi sắc, thấy sắc như thế nào thì thọ
nhận như thế ấy, không khởi tâm phân biệt, thủ xả, chấp trước, hằng ở trong Chánh niệm tỉnh giác thì phiền não trần lao khổ không dấy khởi.
Một hôm, Tôn giả Phú Lâu Na đến đảnh lễ đức Phật rồi thưa, “bạch Thế Tôn, con muốn đến một chỗ vắng vẻ để tu. Xin Thế
Tôn dạy cho con phương pháp tu đơn giản, dễ nhớ để con đến đó tu hành chóng đạt được đạo. Phật dạy, “mắt thấy sắc không nhiễm
trước, không dính mắc thì thành tựu đạo pháp; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm không nhiễm
trước, không dính mắc thì thành tựu đạo pháp; ngược lại, nếu nhiễm trước, nếu dính mắc thì quên mình theo vật”. Phật dạy tu rất đơn giản. Tại sao mắt thấy sắc nhiễm trước, dính mắc thì đồng với người
thế gian? Mắt của chúng ta hiện thấy hình sắc, cái thấy đó có giống nhau không?
Nếu có sự quán chiếu vào bên trong thì thấy chỉ là thấy, sự vật như thế nào thì
thấy rõ như thế nấy, còn nếu có phân biệt đẹp-xấu thì tâm dính mắc dấy khởi; như có 4 người vào tiệm mua vải, có nhiều xấp vải cùng loại khác màu, nào trắng, xanh, vàng, đỏ, đen, tím, lam,
hồng… Khi chọn hàng mua, kẻ thì chọn màu trắng, người thì chọn màu xanh, kẻ thì chọn màu vàng, người thì chọn màu hồng, mỗi người tùy theo sở thích của mình mà chọn mỗi màu khác nhau. Người
chọn màu trắng cho màu trắng đẹp, người chọn màu xanh cho màu xanh đẹp, người
chọn màu vàng cho màu vàng đẹp, người chọn màu hồng cho màu hồng đẹp. Mỗi người
có mỗi nhận định, sở thích khác nhau. Vậy màu nào đẹp thật? Nếu ai cũng cho
rằng màu mình thích là đẹp nhất thì chắc chắn sẽ có tranh luận.
Như vậy, nếu thấy sắc bám víu vào đó thì sanh nhiễm trước, rồi bảo
vệ cái thấy của mình. Do bảo vệ cái thấy của mình, ai nói khác đi thì mình
chống đối lại, từ đó sinh phiền não, giận hờn, mà gây ra nhiều
đau khổ cho nhau. Cho nên, đối cảnh tâm không lay động
là khó, vì chúng ta còn “cái thấy của phàm phu”. Cái nghe cũng vậy, nhiều người cùng nghe một bản nhạc, người
thì khen hay, kẻ thì chê dở. Nếu hai nguời khen,chê cùng tranh chấp thì sẽ cãi lộn với nhau. Đến cái ngửi cũng thế, thông thường hương thơm thì
mũi ai cũng ghi nhận thơm, mùi hôi thì mũi ai cũng biết hôi. Tuy nhiên, có những cái người này khen thơm,
người khác lại chê hôi; chẳng hạn như người chưa từng
ăn sầu riêng thì chê sầu riêng hôi, còn người quen ăn sầu riêng
thì khen sầu riêng thơm. Thơm hay hôi tùy theo sở thích của mỗi nguời, nó không cố định. Kế đến là lưỡi nếm vị, vị nếm có giống nhau không? Cùng ăn
một món mà người khen ngon, kẻ chê dở; chẳng hạn cô đầu bếp quen ăn mặn nên nấu thức ăn vừa với khẩu vị của cô. Khi dọn cơm lên mời khách thì họ ăn thấy mặn. Người nói mặn,
người nói vừa ăn, vậy ai đúng? Bây
giờ tới thân xúc chạm, thân xúc chạm cũng không
giống nhau nữa. Ví dụ vào mùa Đông, người có thân hình mập mạp
và người có thân hình gầy yếu cùng ở chung một phòng. Người có thân mập mạp cảm
thấy mát mẻ, còn người thân gầy cảm thấy lạnh lẽo. Trong phòng có bao nhiêu cửa sổ
người gầy đều đóng lại để giữ hơi ấm.
Khi đóng cửa thì người mập cảm thấy nóng nực, khó chịu. Chúng ta thấy, xúc chạm cũng không giống
nhau, tuỳ theo cơ địa của mỗi người mà sự xúc chạm, cảm nhận khác nhau.
Tóm lại, đối duyên xúc cảnh tâm không lay động là khó đối với người chưa
biết tu, người có chút công phu dễ dàng làm chủ cảnh duyên, nhưng vẫn có những
lúc bất giác bị vọng tưởng làm cho tâm Bồ Đề mờ tối.
11. Học rộng, nghiên cứu nhiều
là khó
Học rộng, nghiên cứu nhiều là tìm hiểu, lãnh hội, mổ xẻ vấn đề cho đến nơi
đến chốn. Nó thuộc về văn huệ trong văn-tư-tu của nhà Phật. Một học sinh, sinh viên muốn đỗ đạt cao phải siêng năng, chăm chỉ, kiên trì, bền bỉ học rồi ôn tới, ôn lui, sau dùng ý thức để xem xét việc
học của mình, nhờ vậy mới thanh đạt trong tương lai. Cũng vậy, người
học đạo giác ngộ, giải thoát trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh không thể lơ là trong việc học rộng, nghiên cứu nhiều. Nó phải được song hành với văn-tư-tu mới giúp cho chúng ta thành tựu viên mãn.
Trong sự nghiệp xây dựng hiện đại hoá đất nước ngày nay, xã hội ta ngày
một phát triển và tiến bộ nhanh, cùng với đó là sự hiểu biết, trình độ học rộng, nghiên cứu nhiều là điều
không thể thiếu của mỗi người. Học là hoạt động tiếp thu những tri thức của
nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở
trường qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở bạn bè, tự học ở sách vở và thực tế cuộc sống. Học rộng, nghiên cứu nhiều để nâng cao trình độ hiểu biết của bản
thân. Ví như một bác sĩ đem những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình
đào tạo 6,7 năm ở trường đại học để vận dụng vào việc chữa bệnh cho
mọi người; những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng đem kiến thức đã học để
thiết kế và thi công nhiều công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công
viên để phục vụ đời sống con người.
Mục đích cuối cùng của sự học rộng, nghiên cứu nhiều là nhằm
phục vụ cho mọi công việc đạt hiệu quả cao hơn. Nếu chỉ học lí thuyết thì dù cao siêu đến đâu chằng
nữa mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian,
công sức, tiền bạc vô ích mà thôi vì chẳng giúp gì cho ai; bởi trong công việc, cái người ta cần, người ta
quan tâm hàng đầu là sản phẩm, thành quả lao động, chứ không phải là hiểu biết trên lí thuyết. Một khi không đạt chỉ tiêu đó thì dẫu cho có học rộng, nghiên cứu nhiều đến đâu thì cũng chỉ bằng thừa vô ích; như một học sinh học tập rất tốt, điểm môn công dân luôn cao, vậy mà khi
thấy một bà lão ăn xin té ngã bên đường, không những chú không giúp đỡ mà ngược lại còn tỏ thái độ khinh thường, ghê tởm bà ấy. Ví dụ này đã phần nào cho ta thấy những tác hại của việc học rộng, nghiên cứu nhiều mà chẳng giúp một ai. Ngược lại, nếu chúng ta đem sự
hiểu biết của mình ra để giúp người, cứu vật thì lợi ích biết
bao.
Là học sinh trong thời gian
học ở nhà trường, việc chăm chỉ học tập tốt, nghiên cứu sâu rộng là một điều khó. Kiến thức cần học phải bao gồm cả văn hoá, chữ
nghĩa và kinh nghiệm cuộc sống để nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt và để có cơ hội phục vụ gia đình và
đóng góp thiết thực cho xã hội; như vậy cũng đủ thấy sự học
rộng, nghiên cứu nhiều quý giá và lợi ích đến chừng nào! Chính
nhờ sự học rộng, nghiên cứu nhiều mà người Phật tử chân chính biết được những điều hay, lẽ phải và hiểu rõ chân lý cuộc đời, biết được đâu là chính, đâu
là tà, đâu là phải, đâu là quấy, đâu là tốt, đâu là xấu và đâu là đúng, đâu là
sai, đâu là con đường hướng thượng giúp ta đi suốt cuộc hành
trình để thành tựu Phật pháp. Học rộng, nghiên cứu nhiều nghiễm nhiên trở thành kim chỉ nam để làm hành trang
trên bước đường tu học của chúng ta, nó còn là tấm bản đồ, là
hành trang cần thiết cho mọi lãnh vực trong cuộc sống. Do đó, chúng ta cần phải
trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ của mình bằng cách học rộng, nghe nhiều, hầu đem lại những thành công tốt đẹp trong hiện tại và mai
sau.
12. Trừ diệt tâm cống cao, ngã mạn là khó
Người cống cao, ngã mạn là người coi trọng bản ngã của mình lên trên hết. Nó
là biểu hiện của tâm hiếu thắng, kiêu ngạo, cống cao, thiếu nhã nhặn, thiếu
khiêm tốn và không chịu nhún nhường bất cứ một ai. Người ngã mạn thường song
hành với các tâm lý cố chấp, bảo thủ và độc đoán. Cống cao, ngã mạn, khinh người là con đẻ của sự chấp ngã thân này là thật ta và
của ta. Nghiệp dụng của nó là luôn coi trọng mình mà hay khinh khi, miệt thị người khác. Dù người đó thật sự hơn mình đủ về mọi
mặt, nhưng vì chấp ngã, tự ái nặng nề, nên họ lúc nào nào cũng
thấy mình hay,
mình giỏi hơn thiên hạ nên dễ dàng coi thường người khác. Người cống cao, ngã mạn khi làm được một công việc nào
đó thành công thì họ lên mặt hống hách, có vẻ như ta đây là người tài ba, lỗi lạc bậc nhất. Họ tự thấy mình là người có công lao lớn
rồi khinh thường, mạt thị kẻ khác nên dẫn đến nhiều người không ưa thích.
Đó là họ đang mắc phải chứng bệnh “công thần” khá nặng mà không hay biết. Từ đó, mọi người sẽ tìm cách xa lánh và
thù hằn, ghét bỏ họ. Đó là hậu quả do tâm cống cao, ngã mạn gây ra.
Như chúng ta đã biết, ngã mạn là một trong sáu
món căn bản phiền não, đó là tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến, có gốc rễ sâu dày từ si mê, chấp ngã mà ra; không phải ai cũng có thể dễ dàng diệt trừ nó được; muốn đoạn trừ nó chỉ có cách là chúng ta phải cố gắng, ra sức nỗ lực tu học và hành trì buông xả ngay nơi
từng ý niệm khi vừa phát sinh thì mới có thể lần hồi chuyển
hoá chúng được. Điều chủ yếu là chúng ta phải hằng tỉnh giác trong từng phút
giây, quán chiếu sâu vào bản chất của nó để thấy rõ tự tánh của nó vốn là không có thực thể. Nếu chúng ta không đề cao cảnh giác thì sẽ làm nô lệ cho nó sai khiến. Hậu quả xảy ra sẽ rất tai hại. Có Chánh niệm tỉnh giác thì chúng ta mới nhận diện nó một cách rõ
ràng, và như thế nó không thể nào gây tác hại cho chúng ta được.
Đó là do ý chí phấn đấu, nỗ lực, dụng công tu hành
của mỗi người mà sự diệt trừ nó nhanh hay chậm mà thôi.
Trong kinh, Phật đưa ra 3 dạng tâm lý ngã mạn: Ngã mạn tuổi trẻ, ngã mạn không bệnh và ngã mạn sự
sống. Ngã mạn tuổi trẻ là thái độ chủ quan, lấn lướt, bảo thủ sai lầm. Ngã mạn không bệnh là không bệnh dễ sinh, là ỷ cậy thân thể. Ngã mạn sự sống là cậy sống lâu mà làm
việc bất thiện về 3 nghiệp thân-miệng-ý. Cả ba loại ngã mạn này đều làm cho con người đắm nhiễm,
sa đọa vào những ác nghiệp. Vì ngã mạn là
chấp thủ, là cống cao, là chấp nhất, nên người lìa ngã mạn sẽ thoát ly mọi ràng
buộc, hệ lụy. Phật dạy, “này các Tỳ kheo, ai đoạn trừ
tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho nó không còn hiện hữu lại,
người ấy là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn bất
cứ một hệ lụy nào”. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn
là một việc khó làm.
13. Không khinh khi người chưa
học là khó
Điều 11, Phật dạy học rộng, nghiên cứu nhiều là khó.
Điều 12, Phật dạy cần phải đoạn trừ tâm cống cao, ngã mạn là khó. Phối hợp hai điều này chúng ta thấy, nếu học rộng, nghiên cứu nhiều mà có tâm
cống cao, ngã mạn thì sự học rộng, nghiên cứu nhiều ấy không được lợi ích bao nhiêu cho mọi người; vì người ấy chỉ là một học giả cao ngạo, chỉ thích phê phán, chỉ trích,
bình phẩm người khác mà không xây dựng, đóng góp gì nhiều cho việc
giáo dục mình và người. Nếu học rộng, nghiên cứu nhiều mà không có tâm ngã mạn thì kiến thức đó sẽ được truyền
bá rộng rãi, làm lợi lạc cho nhiều người, làm xã hội thật sự tiến bộ.
Qua điều thứ 13 này, Đức Phật dạy không khinh người sơ học quả là một điều
khó. Lời dạy này còn hàm ý nói rằng, kẻ tài cao thường có nhược
điểm “mục hạ vô nhân”, nghĩa là dưới con mắt của mình
không có ai hơn mình và khinh khi người ít học.
Một điểm nữa Phật gián tiếp khuyên chúng ta
càng học cao thì càng phải khiêm cung thấp mình đối với
mọi người thì phẩm chất và giá trị của ta càng lớn. Người ta thường nói, tri thức mà không có nhân
cách, phẩm chất đạo đức là nguy hiểm và tác hại vô cùng hơn
nhiều những kẻ ác độc mà không có trình độ. Học lời Phật dạy “không khinh người chưa học”, ta thấy lòng từ bi thật rộng lớn bằng tình người trong cuộc sống của Phật
được thể hiện rõ nét trong mọi trường hợp. Lời dạy này cũng có ý nghĩa với hạnh
vô ngã, vị tha, đề cao Phật tánh bình đẳng của Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa; dù có bị chửi mắng, đánh đập nhưng Ngài cũng không tỏ thái độ giận hờn, oán
trách một ai mà còn nói “tôi không dám khinh quý ngài,
vì quý ngài đều sẽ thành Phật”.
14. Thực hành tâm bình đẳng là
khó
Bình đẳng giải thích theo ngôn ngữ thì
“đẳng” là chỗ đứng và “bình” là ngang nhau, nói gộp lại bình đẳng là ngang nhau về vị trí,
vai trò, quyền lực, nghĩa vụ và thụ hưởng các quyền lợi khác trong xã hội. Bình
đẳng nam nữ là nền tảng văn hoá thể hiện nét đẹp của con người trong gia đình
và xã hội. Nam nữ bình đẳng giúp cho gia đình an vui, hạnh phúc và góp phần làm cho xã hội giàu mạnh, văn minh.
Vai trò của phụ nữ được phát huy bình đẳng trong gia đình và xã hội mang một ý nghĩa lớn đối với truyền thống tốt đẹp của con
người Việt Nam. Nhờ bình đẳng nên trong gia
đình vợ chồng thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, nên con cái mới được
chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm, hạnh phúc. Một gia đình như vậy sẽ luôn là điểm tựa cho con người vượt qua
mọi chướng ngại, khó khăn trong cuộc sống.
Dù tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh
nữ đã dần mất đi, nhưng một nghịch lý vẫn đang tồn tại là việc nội trợ, nuôi
dưỡng con cái, chăm sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là công việc
của phụ nữ. Tuy nhiên, trên thực tế, thời gian làm việc của
phụ nữ trong gia đình thường nhiều hơn nam giới. Dù pháp luật quy định trong gia đình vợ chồng đều bình đẳng
với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia
sẻ mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ; nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia
đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng, còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong nhà
thường được coi là “thiên chức” của người nữ. Để chấm dứt tình trạng bất bình đẳng
giới trong gia đình, điều quan trọng là chúng ta phải biết nâng cao chất lượng
giáo dục, tuyên truyền rộng rãi không chỉ với phụ nữ mà còn với nam giới. Công
tác giáo dục về bình đẳng nam nữ đối với các đối tượng thanh thiếu niên ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường giúp các em có sự hiểu biết, ý thức và trách
nhiệm trong việc xây dựng cuộc sống gia đình sau này.
Bên cạnh đó, việc thực hiện bình đẳng
nam nữ trong gia đình cũng nên được xây dựng thành một trong những tiêu chí
quan trọng hàng đầu, để mọi người cùng được học hỏi lẫn nhau và được công nhận
là gia đình văn hóa. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng nam nữ nhằm loại bỏ tư tưởng
“trọng nam, khinh nữ”, từng bước thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ trong lao
động, sản xuất và các hoạt động khác trong xã hội. Bình đẳng là biểu hiện văn
hoá trong đời sống con người, có bình đẳng trong gia đình mới thực sự có bình
đẳng trong xã hội. Hạnh phúc bao giờ cũng là tài sản quý giá nhất trong gia
đình mà mỗi thành viên luôn ước mơ và mong muốn để sống đời an vui, hạnh phúc.
Bình đẳng trong Phật giáo vừa gắn liền với lịch sử thế giới là xóa bỏ giai
cấp, phủ nhận mọi kỳ thị, phân chia, phân biệt giữa con người với con người và
giữa con người với con vật. Theo
Phật giáo, mọi con người phải có giá trị ngang nhau khi người ta hoàn thiện đạo
đức. Chỉ có đạo đức mới phân định chính xác giá trị, nhân phẩm con người. Giai cấp, địa vị, sự sang trọng, quyền
uy, thế lực… tất cả những thứ này đức Phật đều phủ nhận để đề cao bình đẳng.
Bình đẳng trong Phật giáo là nam nữ bình đẳng theo tinh thần trách nhiệm của
một con người. Trong kinh có nói Pháp Hoa Long Nữ 8 tuổi cũng thành Phật, và cụ thể nhất là mọi người nữ đều được gia nhập Tăng đoàn, trở thành các Tỳ kheo ni với những quyền lợi ngang nhau như
các Tỳ kheo Tăng trong lịch sử Phật giáo xưa và nay. Tính bình đẳng của Phật giáo ra đời nhằm chuyển hoá mọi định
kiến, kỳ thị lâu đời của những quan niệm cổ hủ từ xa xưa. Giá trị bình đẳng cao
nhất trong Phật giáo là Phật tánh, là tính biết sáng suốt của mọi người, ai
cũng có khả năng quay lại chính mình để trở thành con người có trí tuệ và từ bi
viên mãn. Phật tánh không phải chỉ có trong loài người mà có cả trong các loài có
tình thức. Tất cả chúng sinh đều tiềm tàng một năng lực sáng suốt là
tính biết của mình đi ngược lại các tập tục, truyền thống từ xa xưa. Mọi người đều bình đẳng với nhau trong mọi phương
diện, không có kẻ ban phước giáng hoạ hay quan niệm chồng chúa vợ tôi.
Nhờ sự ra đời của Phật giáo đã giúp mọi người biết tôn trọng, bình đẳng với nhau về mọi phương diện. Chỉ với những quan điểm bình đẳng
trên cũng đủ chứng minh sự siêu việt của Phật giáo trong việc đề cao nhân bản
và đem lại cho con người sự bình đẳng tuyệt đối; do đó thực hành bình đẳng là một điều vô cùng khó, nhất là đối với những người
có quyền lực, địa vị cao trong xã hội, những gia đình nặng về gia giáo,
phong kiến và nặng nhất là sự chấp ngã của con người.
15. Chẳng nói phải trái là khó
Trong xã hội, bất kỳ một cơ quan đoàn thể nào, kể cả những người tu trong chùa như chúng tôi vẫn nói chuyện
phải trái, bởi hoàn cảnh cuộc sống, suy nghĩ và làm việc không ai giống ai
dù là anh em sinh đôi. Sống trên đời, chúng ta khó có thể làm
vừa lòng hết tất cả mọi người được, bởi có thân này nên chúng ta phải làm
việc để nuôi sống bản thân và gia đình; chính vì vậy mà có sự vận động và va
chạm, tất nhiên sẽ không tránh khỏi những lời phải quấy, tốt xấu trong cuộc sống. Bị người ta nói xấu, nói không đúng
sự thật về mình thì mình sẽ xử trí ra sao? Trước tiên, mình
phải xét lời người ta nói có đúng về mình không, nếu đúng thì mình nên cám ơn
họ, nếu sai thì ta sẽ dùng lời nói nhẹ nhàng để giải thích cho họ hiểu. Sự việc sẽ càng phức tạp khi ta lời qua tiếng lại để tranh
chấp việc đúng sai, phải trái. Dù ta đúng hay sai, nếu cố
biện minh, cố làm sáng tỏ vấn đề bằng tranh luận hơn thua thì chỉ càng làm mọi chuyện trở nên rắc rối, trầm trọng hơn. Ta có
thể giải thích và nói lại chuyện này sau nếu thấy cần thiết khi mọi thứ đã dịu
lại, nếu thấy không đáng để quan tâm nữa thì ta cứ bỏ qua một bên, không nên mang trong lòng sự ấm ức và bực bội chỉ vì người khác không
hiểu đúng, nói đúng về mình.
Ngày xưa, một ông vua trong lúc rãnh rỗi
mới hỏi vị quan cận thần của mình, “Trẫm thấy khanh nhân cách và phẩm chất
luôn thể hiện sự hài hoà đối với mọi người, tại sao lại có nhiều tiếng thị phi
chê ghét khanh như thế?” Vị quan trả lời “tâu bệ hạ! Mùa mưa thì người bán dù luôn vui mừng,
nhưng người phơi bánh tráng lại buồn khổ. Trời đất kia vốn vô tư, không thiên vị mà cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian
trách hận, ghét thương. Hạ thần đâu phải một người vẹn toàn thì
làm sao tránh khỏi tiếng chê bai, chỉ trích. Cho nên, ngu thần trộm nghĩ, đối với tiếng thị phi trong thế gian
chúng ta hãy nên bình tâm suy xét, đừng nên vội tin, nghe một điều gì”. Vua tin, nghe lời thị phi phải quấy không đúng sự thật thì quan thần
bị hại. Cha mẹ tin, nghe lời thị phi phải trái thì con cái
bị ruồng bỏ. Vợ chồng tin, nghe lời thị phi phải quấy thì gia đình
ly tán. Tiếng thị phi, phải trái của thế gian là việc bình
thường trong thế gian này, mọi người hãy nên suy nghĩ, nghiệm xét.
Qua câu chuyện trên, chúng ta hãy nghe vị vua Thiền sư Trần Thái Tông nói về thị phi, phải trái như sau:
Phải
trái rụng theo hoa buổi sớm.
Danh lợi
lạnh với trận mưa đêm.
Hoa tàn mưa
tạnh non im vắng.
Xuân cỗi còn
nguyên một tiếng chim. (HT. Thích Thanh Từ dịch)
Trong năm giới của người tại gia, giới
không nói dối hại người là giới có nội dung cấm người Phật tử nói lời thị phi, phải quấy. Thị phi đôi lúc ở một vài trường hợp cũng chính
là lời nói đòn xóc hai đầu, đến người này ta nói xấu người kia, đến ngươi kia
ta nói xấu người nọ. Tác hại của nó là làm cho hai bên hiểu lầm nhau mà gây ra
ân oán, hận thù và làm yếu đi sức mạnh của một cá nhân hay một tập
thể nào đó khi đứng trước những hiện
tượng thị phi hay chính mình phải quấy với người khác làm cho tình nghĩa bạn bè, người thân bị rạn nức, sức mẻ do hiểu lầm nhau.
Đối với Phật giáo, thị phi được cấm chỉ ở giới không nói dối dóc, nói láo, hư vọng và giới ly gián. Người Phật tử chân chính không bao giờ sử dụng ngôn ngữ mang tính cách hại
người, không gieo rắc đau khổ đến với bất cứ một ai mà chỉ nên nói những lời có
ích, chân thật mang lại an vui, hạnh phúc cho mọi người.
Như vậy, sống không thị phi là cách hoàn thiện nhân cách sống của người Phật tử; vì thế, không nói lời thị phi, phải quấy là một điều khó
mà chúng ta ai cũng phải hoàn thiện chính mình qua thân-miệng-ý.
16. Gặp được thiện tri thức là khó
Sinh ta ra là cha mẹ, giúp ta nên người là bạn bè, con người nên hay hư phần lớn đều ảnh hưởng từ bạn bè. Thiện tri thức là bạn lành, bạn tốt, những người thường xuyên
giúp đỡ ta hay làm các điều lành và tránh xa điều xấu ác, chỉ
cho ta biết cách thăng hoa đạo đức tâm linh để sống đời hạnh phúc. Khi có những
người bạn như vậy, cuộc sống của chúng ta sẽ ổn định, tương lai sẽ tốt đẹp theo
thời gian. Người bạn Thiện tri thức thì lúc nào họ
cũng mong cho ta được bình yên, hạnh phúc và giúp ta thành công trên đường đời. Nếu ta không may gặp phải
bạn bè xấu thì gọi đó là Ác tri thức. Loại bạn bè này thường đến với ta khi ta
ước muốn, ham thích những thú vui thấp kém. Họ hay xúi giục, khích lệ, đồng tình với
ta vào con đường thấp kém đó. Nếu ta là người giàu có, đủ khả năng vui chơi hoan
lạc thì bạn bè càng đông. Chính vì vậy, cuộc đời ta sẽ lún sâu vào tội lỗi mà ta không hay biết.
Thiện tri thức là những người bạn lành, bạn tốt giúp ta nâng cao trình độ
hiểu biết, biết cách tiếp cận những lời dạy chân lý của Đức Phật. Ngoài ra, Thiện
tri thức còn được hiểu là những pháp môn, giáo lý, kinh điển của Đức Phật giúp
ta thăng hoa nhân cách, phẩm chất và nếp sống đạo
đức. Người Thiện tri thức còn có nghĩa là vị thầy dẫn dắt ta
trên con đường giác ngộ, giải thoát, gặp được Minh sư chân chính
thì mục đích của ta mới dễ thành tựu. Nếu người dẫn dắt ta là Tà sư thì chắc chắn ta sẽ đi theo con đường tối tăm, nguy hiểm.
Ở đời, thầy lành bạn tốt dễ gì gặp và khi gặp làm sao phân biệt được? Làm sao chúng ta có thể biết người đó là Thiện hữu tri thức? Phương cách duy nhất là thân cận, tiếp xúc lâu ngày với người đó, sống với người đó trong những hoàn cảnh
khó khăn, nghe người đó nói năng, luận bàn thì ta mới có thể thấy được đức hạnh, trí tuệ và sự chứng đắc của người ấy.
Vì vậy, chúng ta phải sáng suốt chọn thầy lành, bạn tốt thì quá trình tu tập của ta mới có thể thành tựu viên mãn trong
tương lai.
17. Học đạo, kiến tánh là khó
Quan niệm về cái khó ở điều 17 này bao gồm hai phạm trù “học đạo, kiến tánh là khó”. Học đạo là khó vì phải đi
ngược lại dòng đời. Người đời tham thì ta không
tham, người đời dính mắc, luyến ái vào gia đình, vợ con, còn ta thì phải vượt lên trên đời sống gia đình ràng buộc
đó.
Dòng Thiền Bắc tông được truyền từ Tổ Ca Diếp đến Sơ Tổ Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma, đến tổ Huệ Năng cũng là tổ cuối cùng của dòng thiền Ấn Hoa với chủ trương
“bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
Phật”. Yếu chỉ của lập trường Thiền
tông vốn đi thẳng vào tâm để tu hành, chuyển hoá các vọng niệm đã ăn sâu vào
tàng thức của chúng ta. Cho nên, trước khi tu pháp này, nó đòi hỏi mỗi hành giả phải học rộng, hiểu nhiều để biết rõ lời Phật dạy mà đạt tới đỉnh cao giác ngộ, giải
thoát và thành Phật. Do đó, bất lập văn tự là không dính mắc vào văn tự, chữ nghĩa, chấp vào từng chữ trong Kinh,
cho nên có câu “Y Kinh giải nghĩa là oan cho
chư Phật ba đời, lìa Kinh một chữ tức đồng ma nói”. Mặc dù trên chủ trương là giáo ngoại biệt truyền, bất
lập văn tự, nhưng để kiến tánh thì mỗi Thiền sinh vẫn dùng
phương tiện thiện xão để thể nhập. Một trong các cửa ngõ phương tiện trước tiên
là học đạo. Học đạo có nghĩa là xem, nghe lời Phật, Tổ dạy và dùng trí tuệ bát nhã để thể nhập tự tánh bằng
cách tu tâm.
Thiền sư Sùng Tín là con của một nhà bán bánh bao gần chùa. Vì tín tâm Tam bảo nên mỗi ngày ông đem 10 cái bánh bao vào chùa cúng dường. Mỗi lần cúng dường như vậy, Thiền sư Đạo Ngộ cho lại ông một cái để đem về
mà không nói lý do. Ông tức quá mới hỏi Thiền sư sao lại như thế, nhưng Thiền sư
chỉ mĩm cười và nói rằng “ta cho lại ông có lỗi gì?” Một hôm, ông quyết tâm hỏi cho ra lẽ thật. Thiền sư bảo, “ông xuất gia đi, ta sẽ chỉ tâm yếu cho”. Sùng Tín nghe lời liền xin xuất gia, trải qua 3 năm như thế mà Thiền sư Đạo Ngộ chẳng chỉ dạy cho ông điều gì khiến ông tức tối, bực bội trong lòng, cảm thấy bất an, nghĩ rằng Thiền sư đã lừa dối mình. Thiền sư lại có chủ ý để cho tâm nghi vấn của ông
lên đến tột độ. Một hôm, vì chịu hết nỗi ông bèn hỏi “sư phụ hứa chỉ tâm yếu cho
con mà mấy năm nay sao sư phụ không thèm nói một lời?” Thiền sư Đạo Ngộ bảo “từ ngày ngươi vào đây, ta đã
từng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi rồi” – “Sư phụ từng chỉ dạy hồi nào?” – “Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp; ngươi đem cơm đến, ta vì ngươi mà nhận; ngươi xá lui, ta vì ngươi gật đầu; ta đã chỉ cho ngươi tâm yếu mỗi ngày, tại ngươi chẳng chịu tiếp
nhận mà thôi!” Ngay khi đó, sư Sùng Tín cúi đầu, lặng thinh giây lâu. Thiền sư Đạo Ngộ bảo, “thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai”. Ngay câu nói này, sư Sùng Tín nhận ra tâm yếu.
Tâm yếu trong nhà Thiền chỉ dạy rất đơn giản, ngay nơi mặc áo, ăn cơm, đi
tiểu, đi đại là tâm yếu rồi đó, chẳng phải tìm cầu đâu xa.
Bây giờ chúng tôi xin hỏi quý vị, ai biết mặc áo,
ai biết ăn cơm, ai biết đi tiểu, ai biết đi đại; Những việc này có ai làm thế cho ta được hay không, ngoại trừ ta bị liệt và mất tự chủ. Chiêu thuật của Thiền sư là dồn người đệ tử vào một nghi vấn và thắc mắc
suốt mấy năm liền từ khi còn làm cư sĩ cho đến khi xuất gia. Nếu người không có
ý chí thì bỏ mặc, nhưng vì thiết tha học đạo nên cuối cùng nhận ra đạo lý chân thật không ngoài nơi thân này. Chính vì
vậy, học đạo, kiến tánh là khó!
18. Tùy duyên hóa độ là khó
Một trong những công tác hàng đầu của tu sĩ Phật giáo là đem lời dạy của Phật và sự tu học của mình để truyền đạt cho mọi người cùng
tham khảo, học hiểu và tu học theo; nhưng để đạt được mục tiêu giáo dục này đòi hỏi người truyền bá phải biết
vận dụng nhuần nhuyễn, hợp lý, hợp tình, biết được
căn cơ của mọi người. Thiếu đi yếu tố quyết định này thì sự hoằng pháp có thể dẫn đến thất bại. Tùy theo điều kiện
nhân duyên và căn cơ, trình độ của mỗi người mà
chúng ta có thể giúp đỡ để họ chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Điều này không
phải dễ, thường thì chúng ta hay áp đặt lên quan điểm và trình độ
của kẻ khác bằng sự hiểu biết của mình
mà quên đi mục đích chính là giúp người qua biển khổ, sông mê chứ không phải phổ biến quan niệm hay truyền đạt lối tu của mình. Có đủ trí tuệ và khả năng để tùy duyên hoá độ chúng sinh là rất khó.
Bồ Tát Quán Thế Âm có 32 tướng ứng hóa thân để độ chúng sinh bằng tứ nhiếp
pháp bố thí-ái ngữ-lợi hành-đồng sự làm phương tiện hướng chúng sinh quay về đường
thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Tùy duyên mà vẫn giữ được mục đích và bản chất của nó ta thường gọi là tùy
duyên mà không bị biến đổi. Có người nội lực còn yếu kém nên tùy duyên quá đành
phải chịu cho duyên trần kéo lôi, làm đánh mất bản thân mình
mà dính mắc vào đời sống thế tục. Ngay cả đến Đức Phật khi thuyết pháp cũng phải vận dụng phương tiện thiện xảo để tuỳ duyên, tuỳ căn cơ mọi người mà tìm
cách độ họ. Các vị Thiền sư, đạo sư, cao Tăng sau này cũng nhờ tùy duyên hóa độ
mà làm rạng rỡ truyền thống tốt đẹp của Phật giáo. Do đó, tùy duyên hóa độ là
cần thiết, là khó thực hiện, là nền tảng của sự hoằng pháp, giáo dục, nên tuỳ duyên hoá độ là khó.
19. Thấy cảnh vô tâm là khó
Nội dung của điều khó này cũng tương tự với nội dung ở điều khó thứ 10, nhưng vô tâm ở đây được đề cập với mức độ cao hơn, sâu hơn, khó thực hiện
hơn, có nghĩa là hoàn toàn không dính mắc vào mọi sự vật dù kiếm bén kề sát cổ
ta vẫn không sợ hãi. Vô tâm là hoàn toàn an nhiên, tự tại, giải thoát. Không động tâm là bước đầu để đạt đến vô tâm. Khi ta
còn động tâm thì không thể nào thành tựu được vô tâm hoàn toàn trước cảnh trần. Người tu đạo giác ngộ, giải thoát phải từng bước huấn luyện cho tâm mình
không dao động trước mỗi hoàn cảnh. Mọi sự tiếp xúc ta phải tập làm chủ trực
tiếp từ sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.
Vua Trần Nhân Tông lên ngôi năm hai 20 tuổi, xuất gia năm 41 tuổi, thị
tịch năm 51 tuổi. Ngài là vua lãnh đạo đất nước, thừa hưởng cung vàng điện ngọc, thụ hưởng dục lạc thoải mái, hai lần cầm quân đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ yên nước nhà qua
cơn loạn lạc. Khi đi xuất gia Ngài tu khổ
hạnh, hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, tích cực truyền bá Chánh pháp,
phá bỏ tập tục mê tín, khuyến khích mọi người giữ
gìn năm giới, tu mười điều lành, ngài hoằng hoá độ sinh không
biết mệt mỏi, nhàm chán. Điểm đặc biệt của Ngài là
khi làm vua thì hy sinh quên mình giữ nước, chống giặc ngoại xâm, hết mực thương yêu, lo lắng cho dân được an cư, lạc nghiệp; khi xuất gia thì quyết chí tu
hành sáng đạo; đến khi hoằng pháp lợi sinh thì hướng dẫn cho mọi người bỏ
ác, làm lành và cùng nhau sống yêu thương bằng trái tim hiểu
biết. Ngài là tấm gương sáng cho nhân loại, nhắc nhở chúng ta là không có gì không thể
làm được, chỉ có ta có quyết chí vươn lên vượt qua lầm lỗi hay không mà thôi. Chính vì thái độ dứt khoát, rõ ràng trong từng giai
đoạn, nhờ vậy mà ngài tự tại làm chủ bản thân, sống đời an nhiên, giải thoát. Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ của ngài:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi kiếm tìm
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi Thiền.
Sống giữa cuộc đời trần tục với muôn vàn cám dỗ, nào lợi danh, sắc đẹp, tiền tài, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều; nhưng khi sáng đạo thì mọi thứ chỉ là ảo ảnh không thật
có. Duyên cảnh biến thiên, tình đời đổi trắng thay đen nhưng ta vẫn thấy an vui, hạnh phúc; như khi đói đến thì ăn, khi mệt đến thì nghỉ, không toan tính nghĩ suy mà tự làm khổ mình. Người đời không biết cứ dong duỗi tìm cầu bên ngoài mà không biết ngay nơi
thân này có tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm
lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Cái khéo
của chúng ta là khi đối duyên xúc cảnh tâm ta vẫn an nhiên, bất động. Vậy thì còn tìm hỏi Thiền ở
đâu nữa. Thật đơn giản, nhẹ nhàng, không cần tìm cầu đâu xa.
Ngài chỉ tu trong một thời gian ngắn chỉ khoảng 10 năm thôi, nên mọi người đều tôn xưng ngài là ông vua Thiền sư – Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phật đã vạch sẵn nên
không phải mất công tìm kiếm đâu xa, do đó mà công phu đơn giản, nhẹ nhàng, chỉ nhìn thấy từng tâm niệm sinh diệt mà không cần phải đối
trị quán chiếu. Cho nên, đối cảnh vô tâm là một việc
khó làm vì nó là điểm đích sau cùng khi thành tựu đạo pháp. Như thế, chúng ta cũng biết rằng, từ không dính mắc, động tâm sẽ dẫn đến vô tâm. Vô tâm là không còn dính
mắc ta người và hoàn cảnh, là thể nhập như như bất động, là tự tại, giải thoát
và thường biết rõ ràng.
20. Khéo biết phương tiện là khó
Quan niệm về cái khó cuối cùng này cũng ít nhiều liên quan đến nội dung
điều thứ 18 là tuỳ duyên giáo hoá chúng sinh. Điểm giống nhau giữa hai
điều là cả hai cùng đề cập đến tính phương tiện thiện xảo trong vấn đề giáo hoá độ sinh và hướng dẫn mọi người là quan
trọng cấp thiết hàng đầu. Điểm khác nhau ở hai điều là điều 20 này là điều
kiện, là môi giới, là chất xúc tác để thành tựu điều 18. Có phương tiện thiện xảo thì chúng ta mới có thể tùy duyên hóa độ. Vận dụng nhuần nhuyễn phương tiện khế lý, khế cơ thì tùy duyên hóa độ sẽ hoàn bị chu tất. Phương tiện và tùy duyên
hóa độ là hai phần được liên kết với nhau rất chặt chẽ không thể thiếu trong
công tác giáo dục, tuỳ duyên hoá độ là tuỳ bệnh cho thuốc, ai cần thuốc nào thì ta cho thuốc đó; còn phương tiện thì người
hoằng pháp phải biết vận dụng từ thấp đến cao, thay vì giáo lý của đức Phật mục đích là giác ngộ, giải thoát, nhưng vì mọi người chưa đủ sức nên Phật phải dẫn dụ từ từ nhằm giúp chúng sinh từng bước tỉnh thức. Phật dạy có ba hạng người không khéo biết phương tiện
thù thắng:
_ Hạng thứ nhất đã không thực
chứng trong tu hành lại còn hướng dẫn, truyền đạt giáo lý một cách
tối nghĩa, khó hiểu làm cho người nghe hiểu sai ý nghĩa, nội dung nên thực hành sai.
_ Hạng thứ hai tuy không thực
chứng, nhưng lại hướng dẫn, truyền đạt rõ ràng, chính xác nên người nghe dễ tiếp thu. Do
sự nói và làm không tương ưng nên làm người nghe cũng dễ bất mãn mà sinh ra thái độ sống không tốt.
_ Hạng thứ ba tuy có quá
trình thực tu, thực chứng, nhưng truyền đạt, hướng dẫn kém, không linh động, uyển chuyển làm cho người
nghe khó nắm bắt nên thực hành không có kết quả, lợi ích thiết thực.
Khi xưa, ngài A Nan chỉ dạy hai người đệ tử tu hành, người giữ nghĩa địa ngài dạy quán hơi thở, người làm lò rèn ngài dạy quán thân bất tịnh.
Hai người tu hoài mà không thấy tiến, ngài A Nan bèn thỉnh Phật chỉ dạy lại. “Ông dạy người như vậy là sai
rồi, người giữ nghĩa địa thì chỉ họ quán thân bất tịnh vì quanh năm suốt tháng
họ luôn tiếp xúc với xác chết; còn người làm lò rèn tối ngày
thổi lửa bịt bùng thì ông dạy quán hơi thở để họ
định tâm trở lại”. Do đó, công tác hoằng pháp
hay giáo dục vô cùng hệ trọng trong hiện tại và mai sau. Nó có thể dẫn đến ảnh
hưởng tốt hoặc xấu cho cả nhiều thế hệ. Truyền đạt một quan điểm lệch lạc, mê
tín, cuồng tín, tà kiến làm ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hoá giáo dục, đạo
đức tâm linh và sẽ đem lại bất hạnh cho nhiều người. Khi ta truyền đạt đúng với Chánh pháp, đúng với chân lý cuộc đời thì lợi
ích của nó thật lớn lao, đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhiều người.
Chính vì vậy, những người làm công tác tuyên truyền văn hóa, giáo dục phải ý
thức rõ việc làm của ta phải có lợi ích cho nhiều người, nên nói khéo biết phương tiện là khó.
Discussion about this post