NHẤT THẦN GIÁO và CHỦ NGHĨA MAO
DƯỚI MẦU SẮC PHẬT GIÁO
Minh Thạnh
Sau 2 bài báo về
quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” của tác giả Duy
Tuệ, số lượng những ý kiến trên mạng bênh vực, đề cao tác giả quyển sách cho
thấy tổ chức “Đại gia đình Minh Triết” do tác giả Duy Tuệ, người tự phong “đạo
sư”, thành lập và chỉ đạo, điều hành đã tập trung khá đông đảo người tham gia
tổ chức, đặc biệt là ở Việt Nam.
So
với những trường hợp xuyên tạc và công kích Phật giáo khác mà các trang mạng
Phật giáo Việt Nam đã đề cập, thì đây là trường hợp đặc biệt hơn cả, với mức độ
công kích Phật giáo có cường độ mạnh chưa từng có, và các ý kiến phản ứng dưới dạng
đề cao người đứng đầu tổ chức cũng mạnh và cực đoan hiếm thấy!
Tại
sao người tham gia tổ chức của ông Duy Tuệ lên đến mức có những biểu hiện như
thế? Phải chăng tác giả Duy Tuệ có nói lên được điều gì đúng, hay mới lạ? Có
như thế mới thu hút được nhiều người vào tổ chức?
Nhất
là, phải có cái mới thì mới có thể thu hút được người theo, gia nhập tổ
chức.Vậy cái mới mà tác giả Duy Tuệ đã nói và viết là gì?
Những
yếu tố ban đầu và nổi bật mà chúng ta có thể ghi nhận qua các bài nói và viết
của ông, nhất là trong sách ““Ta là ai? Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn
năm” là công thức: Nhất thần giáo + Chủ nghĩa Mao + màu sắc Phật giáo
“đội lốt”.
TẠO
HÓA!
Trong
các tác phẩm và bài nói của mình, nhất là quyển ““Ta là ai” thông tỏ sự hiểu
lầm sau hàng ngàn năm”, tác giả Duy Tuệ, nhìn chung, không nói về thượng
đế, về chúa trời, hay về Ala với sự tôn kính, nhưng có một điều đáng lưu ý, là
lại xuất hiện khá phổ biến khái niệm “tạo hóa”, như là đấng tạo ra con người và
vũ trụ.
Khái
niệm “tạo hóa”, sống theo “tạo hóa”, thuận với “tạo hóa”, khai thác tiềm năng
mà “tạo hóa” đã ban phát, đón nhận những cơ hội tạo hóa…, là những điều thường
gặp trong những bài nói, bài viết của tác giả Duy Tuệ
Tuy
nhiên, cũng phải thấy rằng “tạo hóa” trong các tác phẩm của tác giả Duy Tuệ là
một đấng tạo hóa phiếm chỉ, không xác định. Hiểu chung chung là trời, tạo vật
chủ cũng được, mà hiểu cụ thể là chúa, là Ala… cũng đều được?!
Khái
niệm “tạo hóa” này có tác dụng đưa những người đã tham gia vào tổ chức “Đại gia
đình Minh Triết” hay chỉ mới đọc sách của tác giả Duy Tuệ tiến đến gần hơn với
những tôn giáo nhất thần, mà ở Việt Nam là Ca tô La Mã, Tin Lành… Việc tạo môi
trường tiếp cận này, nói theo từ ngữ cải đạo, là tạo nên “cánh đồng truyền
giáo”.
Việc
công nhận “tạo hóa” là một điều kiện tiên quyết, bắt buộc, nếu muốn thực hành
những chỉ dẫn trong các tác phẩm nói và viết của tác giả Duy Tuệ. Như vậy, ở
đây, nhất thần giáo chỉ mới có hai phần: nhận thức và kỹ năng thực hành. Nó
khuyết cái nội dung ở giữa vẫn thường thấy, là kiến thức tôn giáo cụ thể. Nếu
có yếu tố này, tức là đã thực hiện xong việc cải đạo.
CHỦ
NGHĨA MAO!
Cực
đoan của việc phủ nhận truyền thống biểu hiện trong thế kỷ XX ở chủ nghĩa Mao
Nói
chủ nghĩa Mao là nói theo cách nói thông thường, chứ thực ra, đó là chủ nghĩa
Giang Thanh, hay chủ nghĩa “Bè lũ bốn tên” (1), những người đã trực tiếp phát
động và chỉ đạo cuộc Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc trong thời gian 10 năm
(1966-1976), mà hiện nay các bộ sử Trung Quốc gọi là “Mười năm động loạn”.
Động
loạn đã đi vào tác phẩm của tác giả Duy Tuệ ở chỗ phủ nhận những khuôn mẫu được
để lại từ xưa. Tuy nhiên, mũi dùi của động loạn, trong các tác phẩm mà chúng ta
đang bàn luận, tập trung vào Phật giáo, với việc đả phá các chuẩn mực khuôn mẫu
là Phật, Pháp, Tăng. Động loạn xuyên suốt bài nói và viết của tác giả Duy Tuệ,
có chỗ được che giấu, ẩn lậu, có chỗ bộc lộ, cao trào như chúng ta đã thấy qua
các trích dẫn từ tác phẩm cụ thể ““Ta là ai” Thông tỏ sự hiểu lầm từ hàng
ngàn năm”. Cụm từ “Thông tỏ sự hiểu lầm từ hàng ngàn năm” cho thấy
rõ tư tưởng “động loạn”, đánh đổ truyền thống, mà ở đây được cho là “sự
hiểu lầm”.
Đánh
đổ truyền thống ở chủ nghĩa Mao bộc lộ cụ thể và cao trào bằng Đại Cách mạng
Văn hóa, trong đó, các nhà tu hành buộc phải hoàn tục, cải tạo, các cơ sở thờ
tự, kiến trúc truyền thống ở Trung Quốc đều bị hủy hoại ở mức độ khác nhau (chỉ
trừ Cố cung khi đó đã trở thành bảo tàng).
Điều
rất đáng lo ngại là có phải, tư duy “động loạn” này, hiện nay, lại bộc lộ trong
cái trước tác mới phát hành, phổ biến gần đây tại Việt Nam mà chúng ta bàn
luận? Tác giả những tác phẩm đó có thể truyền bá quan điểm nhất thần giáo, đề
xướng, chỉ dẫn những ứng dụng của nó, mà cụ thể là khai thác, phát triển những
tiềm năng mà “tạo hóa” đã ban cho con người. Điều đó cũng dễ chia sẻ.
Thế
nhưng, hà cớ gì phải “động loạn” với các “khuôn mẫu” truyền thống, mà tập trung
chủ yếu vào Phật giáo. Đây là câu hỏi lớn nhất và cũng là điều nguy hiểm nhất
đối với Phật giáo và đối với xã hội. Cái sức hấp dẫn một thời của chủ nghĩa Mao
là sự động loạn, mà cao điểm là kích thích, khơi dậy bản năng bạo động số đông
nhằm vào truyền thống, mà đỉnh cao ở Trung Quốc là xu thế “phê phán Khổng Tử”
Nay,
nếu một “đạo” nào đó mới phát minh ở Việt Nam lại khởi nguyên từ tư duy này,
lấy sự động loạn, đạp đổ truyền thống làm yếu tố hấp dẫn, thu hút quần chúng,
thì quả là cực kỳ nguy hiểm.
Đã
có sự động loạn theo kiểu Mao-ít trên những trang giấy tiếng Việt nói về lẽ
“đạo” từ ngòi bút “đạo sư”, còn thơm mùi mực in mới, và được một số người đề
cao trên mạng.
Chúng
ta có thể dễ dàng chia sẻ điều này, đạo đức rõ ràng không thể được xây dựng
trên sự động loạn. Một cuốn sách đạo, mà đọc mươi trang, là thấy tư duy
đạp đổ truyền thống đạo đức theo kiểu chủ nghĩa Mao, liệu đưa bạn đọc hâm mộ đó
đến đâu? Chúng ta cần tỉnh táo vì một lẽ, một “hiền giả” không thể là một vệ
binh Đại Cách mạng Văn hóa, hết sức hậm hực, cay cú đến mức cuồng điên với
truyền thống.
MÀU
SẮC ĐẠO PHẬT
Đối
tượng nhằm vào của tư duy nhất thần giáo và chủ nghĩa Mao mà chúng ta đang bàn
luận là những Phật tử, thậm chí, là tu sĩ Phật giáo. Vì vậy, cái mới lạ với
chừng ấy chưa đủ. Nó quá đắng, quá chát, quá nóng, quá, quá xốc… để người ta
đón nhận. Cần phải làm mềm nó, làm ngọt nó, là dịu nó, làm cho nó trở nên quen
thuộc. Vì thế, Phật giáo, đối tượng đả kích chính, lại được dùng đến với màu
sắc bên ngoài.
Ở
đây chúng tôi muốn nói đến những từ ngữ như “Pháp âm”, “đạo”, “Phật tâm”,
“Phật tâm danh”, “tu tập”, “thiền”, “hiền giả”,”duy tuệ thị nghiệp”… và rất
nhiều từ ngữ khác đại loại như vậy. Nếu không tìm hiểu kỹ, một sự lầm lẫn, ngộ
nhận có thể xảy ra, rằng đây cũng là Phật giáo.
Sau
khi tạo nên tâm lý Phật giáo bằng màu sắc Phật giáo của chiếc áo từ ngữ, tạo sự
dễ dàng để tiếp cận, thì ngay sau đó, là đính chính không phải Phật giáo, để “thông
tỏ sự hiểu lầm”. Đây là đoạn cuối của công thức. Nếu không có nó, những yếu
tố nhất thần giáo và Mao-ít động loạn sẽ rớt lại một bên đường, với sự dè dặt
và nghi ngại của người đọc.
Bài
này cũng nằm trong loạt bài phê bình sách, cụ thể là tác phẩm, có thể tạm coi
là tác phẩm “triết học” của tác giả Duy Tuệ. Những vấn đề của tác phẩm tương tự
cùng tác giả không dừng lại ở đây. Mong bạn đọc chúng ta cùng bàn bạc, thảo
luận từ điểm nhìn người đọc.
(1) Giang
Thanh, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều. Bốn người này, sau
khi Mao Trạch Đông chết, đã bị bắt, bị truy tố, bị xử tù giam về những tội
trạng đã gây ra trong thời Đại Cách Mạng Văn hóa.
Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)
Bài viết liên quan đến chủ đề:
●
CÙNG TÌM HIỂU CÁI GÌ ĐẰNG SAU HIỆN TƯỢNG NÀY? – Minh Thạnh
●
CÙNG TÌM HIỂU CÁI GÌ ĐẰNG SAU HIỆN TƯỢNG NÀY: CÔNG KÍCH PHẬT GIÁO ĐỂ LÀM GÌ? – Minh Thạnh
●
ÔNG DUY TUỆ PHỈ BÁNG TAM BẢO PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG NHƯ THẾ NÀO? GS001
Discussion about this post