Về nguyên tắc, Phật pháp chính là giảng về những sự vật tồn tại trong vũ trụ không lìa khỏi phép tắc Nhân Quả.
Các pháp này từ giới tự nhiên, xã hội đến tâm hiểu biết, tất cả đều có đủ, cũng gọi là pháp Nhân Duyên sinh ra. Lệ như sự sinh trưởng và tồn
tại của một chậu hoa, hẳn có nhân giống và đất, nước, ánh sáng mặt trời… làm trợ duyên mới có thể sinh trưởng ra được, đó là loại cỏ cây trong giới tự nhiên. Về động vật, khoáng vật cũng vậy.
Theo khoa học, bởi nước mà hóa thành khinh khí (H2), dưỡng khí (O2). Nước chính là pháp được sinh ra từ những nhân duyên khinh, dưỡng khí – chính là phân tử vật chất. Phân tích đến rất nhỏ cũng lại còn từ nguyên tử cấu thành. Từ đây phân tích mãi xuống, thì điện tử cũng là một “pháp”
sỉnh ra từ nhân duyên.
Lớn đến địa cầu hoặc thái dương hệ, cho đến tinh hải tinh vân cũng vậy.
Về Phật học thì đại thiên thế giới, hoa tạng thế giới, không gì không phải là pháp nhân duyên sinh.
Gần lại xem xét đời người, cũng là pháp được sinh ra từ nhân duyên. Phàm sinh mạng động vật, đều là nhân duyên nối nhau.
Nhân sinh mạng, gặp các duyên cha mẹ mới có thể sinh khởi. Sinh ra rồi lại do các thứ trong trời đất chăm bón mới có thể trưởng thành. Đó đều là phép nhân quả, li khai khỏi phép nhân quả là không có gì tồn tại.
Về khoa học, nghiên cứu rõ ràng, cũng chỉ là một bộ phận trong pháp nhân quả. Bởi vì chỗ khoa học nghiên cứu đến các bộ phận, tổng hợp lại, truy tìm căn nguyên của nó. Nhân đây tiến một bước nữa, nghiên cứu các nguyên lý, về tất cả những duyên quan hệ biến hóa, tồn tại, đó là triết học. Ngoài hai thứ nghiên cứu ấy ra, lại có các thứ tôn giáo.
Nhưng cần nhận rõ rằng, các tôn giáo, hoặc lập một thần, hoặc lập nhiều thần, sinh sản ra tất cả vạn hữu trong vũ trụ, về thực chất, đó là
ảo tưởng.
Ngoài vũ trụ vạn hữu, chúng ta không cần phải có một thần nào sáng tạo ra cả.
Phật pháp là triết học của khoa học, tôn giáo của triết học. Phật giáo không cùng với những tôn giáo nào có mê tín.
Điểm xuất phát của Phật giáo là thế giới vô lượng chúng sinh hiện thực, đó đều là sự thật mà khoa học đã nghiên cứu tới. Cho nên Phật giáo
hoàn toàn là khoa học hiện thực.
Khoa học với Phật pháp, tuy cùng lấy thế giới chúng sinh hiện thực làm đối tượng, mà khoa học chỉ nghiên cứu đến một bộ phận của hiện tượng, mà Phật pháp thì làm một cuộc tổng quan sát (quan sát chung) hiểu
biết khắp cả.
Sở dĩ Phật pháp không những có khoa học mà lại có triết học của khoa học nữa. Phật pháp dạy người ta hiểu biết tất cả pháp tắc nhân quả; đều không phải là cố định.
Từ trên mặt của nhân có thể dự đoán có nhiều cải biến, khiến cho loài
người tiến mà cải thiện. Rõ ràng một phương pháp cải thiện ấy như thế có thể đạt đến cảnh giới rất màu nhiệm, rất thuần túy trong sạch, rất cao thượng, rất đầy đủ sáng tỏ, như thế gọi là Phật.
Từ thực tiễn thực hành, cầu cải tiến, cầu tiến bộ, mà đạt tới
cảnh giới rất cao thượng, rất hoàn thiện này, chính là thế giới cực lạc, tâm đại từ bi của Phật, là cần tất cả chúng sinh, cùng một thể dạng
như Phật, được đến yên vui. Vì vậy Ngài đem cảnh giới Ngài đã giác ngộ,
và phương pháp đạt tới giác ngộ, chỉ bảo người ta, đó là ý tứ “biết trước rước biết sau”.
Sở dĩ Phật pháp là khoa học mà chẳng những là khoa học, là triết học, mà Phật giáo là tôn giáo khoa học triết học.
Phật là bậc giác ngộ rất triệt để. Chỗ giác ngộ pháp nhân quả, ngoài sự giác ngộ không có một phần nào khác nữa. Ngài đem điều giác ngộ bảo cho cả, khiến cho đều có thể giác ngộ, mà cùng đạt tới cảnh giới hoàn toàn tốt đẹp mầu nhiệm. Đây chính là Phật giáo, cũng có thể gọi là Phật học, Phật pháp.
Bởi thế, Phật giáo bàn đến việc làm người. Hãy nói tới nhân loại địa cầu phạm vi rất nhỏ, ở trên nguyên lý Phật pháp trên địa cầu trong chúng
sinh, nhân loại là trọng yếu nhất. Ở trong chúng sinh tuy loài người là
hơn, lại có chủng loại hay hơn, nhưng vì con người có năng lực hoạt động, sáng tạo lớn, vì thế trong Phật pháp coi nhân loại trong thế giới là có thể đạt tới giác ngộ như Phật,
cho nên Phật dạy “làm người khó được”, mà con người là có ý nghĩa rất sâu, giá trị rất lớn, hiểu rõ giá trị nhân sinh như thế sẽ thành lập một
thứ nhân sinh quan có ý nghĩa.
Trong vũ trụ, lực lượng hay biến hóa là Tâm chúng sinh.
Lẽ như sự thịnh suy của một nước là quan hệ tâm lý người dân cả nước, có thể đem lòng người cải thiện chấn hưng nhà nước giầu mạnh, trái lại nước nhà sẽ suy yếu.
Tuy không phải không có những nguyên nhân khác, nhưng “tâm lực” là điểm nguyên nhân chủ yếu.
Nhằm vào điểm chủ yếu ấy Đức Phật dạy người trước tiên hãy giữ năm giới, tu mười thiện, dập tắt phiền não chính là để hợp lý hóa sinh hoạt của loài người, cảm hóa nhân gian thành trong sạch và lương thiện.
Dùng mười điều thiện trong Phật pháp: không tàn sát, không trộm cướp lừa đảo, không dâm loạn, không nói năng dối trá, thêu dệt, đơm
đặt nguyền rủa, không tham nhũng, không căm thù nổi nóng, không tin nhảm theo càn, lấy những điều này để thể hiện trong những hành vi sinh hoạt hàng ngày.
Đối với gia đình xã hội, kinh tế, giáo dục, pháp luật, chính trị cho đến công pháp quốc tế chính nghĩa đều có thể lấy gốc từ tinh thần Phật pháp mà làm việc, thì đều có thể đến chỗ chí thiện, giảm bớt được những sai sót và nỗi thống khổ của nhân sinh.
Vì vậy đời sống hiện thực của con người, có thể theo Phật pháp mà cải thiện tịnh hóa hơn lên.
Đây tuy là một khoa học, triết học, và những học thuật khác cùng chung, mà Phật pháp còn có thể phát huy, nói rõ những đặc chất khác nữa,
những đặc chất ấy đem hòa vào những mục đích, sở trường để cải thiện nhân sinh cho đời sau thăng tiến.
Vì sinh mệnh là một dòng dài vô tận theo nghiệp lực (sức nghiệp hay thiện ác), để nhận quả báo sống chết, chết lại sống vòng quanh nơi này chốn kia cho nên không những mưu đồ cải thiện cho đời hiện đại mà còn phải tiến cầu đời sau thăng tiến, tu nghiệp mười thiện và thiền định, để
được sinh lên cõi trời, trì niệm hiệu quả nhờ vào sức các Ngài có thể vãng sinh vào cõi Phật ở “địa phương” khác.
Tuy chưa hết được nghiệp sống chết nhưng thần thức và chỗ ở nơi ấy cũng đã thăng tiến tốt hơn khỏi khổ ở cõi người, cõi quỷ thần, địa ngục và súc sinh, nghĩa là siêu xuất trên loài người.
Đó là hiệu quả có thể tiến lên, nhờ vào Phật pháp, chú trọng vào phép
tu tịnh, trên lý thuyết, tôn giáo cao đẳng ở thế gian như Gia–tô giáo cầu sinh thiên đường, đều chung mục đích này, đó chỉ là một tầng dưới.
Đời sau thăng tiến không phải là bất thiện, đã biết mọi việc đều vô thường, có hữu lậu sai sót, đều khổ, sinh ra thì không thể không chết, trụ cũng phải diệt, quyết không triệt để, thế thì làm thế nào để đoạt tuyệt được gốc khổ, và diệt được mọi phiền lão hữu lậu.
Sinh ra phải chết thì cầu lìa mọi sinh, trụ thì phải diệt, thì mọi cái có không trụ, dứt vòng sinh tử, vượt qua bể khổ, mà đứng lên bờ giác
Niết bàn tịch diệt. “Cái sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không chịu thân sau nữa”. Thế là Phật pháp đã tiến lên mục đích xuất thế một tầng nữa.
Đó là hiệu quả của ba bậc tu hành dùng tới (Thanh văn, Duyên giác, Bồ
tát). Đây là chỗ mọi loại tôn giáo, học thuật ở thế gian không sánh kịp.
Tuy nhiên Niết bàn giải thoát như thế thì tốt thật, nhưng chưa hết tập khí, chưa đoạn được chướng che lấp chính trí, không được nhất thiết trí, đối với tất cả pháp giới còn không thể sáng suốt, vả chăng các loài
có tri giác tình cảm đều là lục thân quyến thuộc với ta nỡ nào tịch diệt mà không hỏi đến.
Vì thế bậc đại Bồ tát, gộp tất cả chúng sinh làm một thể của mình, đau như cắt thịt mà thốt lên lời thế nguyện, tự
đáy lòng đại bi, thể tế độ cho hết, dù phải trải qua bao thời gian kiếp
số, cầu được phúc trí vô biên, đoạn hết tập khí chướng ngại, cuối cùng độ khắp chu đáo mà không chướng ngại.
Đó mới là hiệu quả rất mực của Đại thừa cũng là mục đích cứu kính của Phật pháp.
Nay nói thuyết nhân sinh Phật giáo ý tứ ở chỗ: từ nhân sinh hiện thực, làm nền tảng cải thiện, tịnh hóa, lấy thực tiễn việc làm kết quả của loài người mà giải thích, chân lý Phật pháp một cách viên mãn, từ con người mà tiến đến Bồ tát, ngôi Phật là kết quả Phật giáo ở nhân gian.
Sa môn Thích Phổ Tuệ
Trích: “Trí tuệ là sự nghiệp” của Đức Đệ tam Pháp chủ GHPGVN – Đại Trưởng lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ.
(Phattuvietnam.net)
Discussion about this post