MƯỜI CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Chúc Phú
Đạo đức Phật giáo y cứ vào giới luật. Nếu xem giới luật
là những nguyên tắc đạo đức mang tính bền vững, ổn định, không thay đổi, thì
yêu cầu từ thực tiễn đời sống đòi hỏi cần có sự bổ sung những chuẩn mực đạo đức
mang tính hỗ tương. Những chuẩn mực đạo đức bổ sung đó, theo sự phân định của
một số bộ luật Phật giáo, thì đôi khi được xem là giới không quan trọng (khinh
giới), có lúc được xem là những phép ứng xử (học pháp) giữa người với người.
Từ thực tiễn đời sống, để đạo đức
Phật giáo dễ dàng lan tỏa, thì việc làm sáng tỏ những chuẩn mực đạo đức Phật
giáo là yêu cầu bức thiết. Trong vô vàn những chuẩn mực đạo đức Phật giáo được
thể hiện rải rác trong các bộ kinh, luật, luận, sớ giải… người viết tạm thời đề
xuất mười chuẩn mực đạo đức cơ bản. Đó là: khiêm hạ, tàm quý, trung thực,
kiên định, không phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn, buông xả, dấn thân và
tiết tháo.
1. Khiêm hạ
Trước hết, khiêm hạ là một hành xử
đạo đức vắng bóng tự ngã, dẹp tan kiêu mạn. Kiêu mạn là một tập khí sâu dày của
chúng sanh nói chung. Kinh Tăng chi nêu ra ba thứ kiêu mạn căn bản(1). Theo kinh Tập, khi cái tôi nhỏ lại thì mọi sự va
chạm do kiêu mạn ít xảy ra: Ai phá hoại kiêu mạn/ Không còn chút dư tàn/ Như
nước mạnh tàn phá/ Cây cỏ lau yếu hèn(2). Và theo Đức
Phật, chỉ những ai chinh phục được tự ngã thì mới có thể nhiếp phục lòng kiêu
mạn. Câu chuyện khoác lác của chàng thanh niên Saccaka khi dõng dạc
tuyên bố: Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối
thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người
thường(3). Sau khi được Phật thuyết giảng, thanh niên Saccaka đã
nhận ra sai lầm và biết cách ứng xử khiêm hạ với Đức Phật và chúng Tỳ-kheo. Chuyện
tiền thân Đức Phật số 125 cũng đề
cập câu chuyện khoác lác tương tự, nhưng nhân thân là một vì Tỳ-kheo(4).
Thứ hai, khiêm hạ là thể hiện sự
tôn trọng kẻ dưới và kính nhường người trên. Biết tôn trọng lẫn nhau trong giao
tiếp, ứng xử là sự thể hiện đẳng cấp đạo đức. Từ câu chuyện ứng xử tôn trọng
lẫn nhau giữa chim đa đa, khỉ và voi(5), Đức Phật đã
dạy các thầy Tỳ-kheo: Những người rành rẽ Pháp/ Tôn kính bậc cao niên/ Kiếp
này được khen ngợi/ kiếp sau sanh về Trời(6). Trong những
hội chúng Sa-môn, Bà-la-môn thời Phật, chỉ có hội chúng đệ tử của Đức Phật là
có sự nhường nhịn, tôn trọng lẫn nhau thể hiện ở các hành vi: Kính lễ bậc
trưởng thượng/ Không ganh tị một ai(7). Truyền thống đạo đức này sở dĩ có được là do tính khiêm hạ
tạo ra.
Thứ ba, khiêm hạ không có nghĩa là
hạ thấp mình mà còn có nghĩa tự khẳng định bản thân, là tôn trọng chính mình
trong yên lặng tỉnh giác. Trong nghĩa này, khiêm hạ gần với lòng tự trọng. Đó
cũng là điều được Đức Phật huấn thị: Hãy học các dòng nước/ Từ khe núi vực
sâu/ Nước khe núi chảy ồn/ Biển lớn động im lặng/ Cái gì trống kêu to/ Cái gì
đầy yên lặng/ Ngu như ghè vơi nước/ Bậc trí như ao đầy(8).
Có thể thấy, một trong những chuẩn
mực ứng xử của người học Phật là thái độ khiêm hạ, định tĩnh, nhu nhuyến, thong
dong và vững chãi trước dòng xoáy của bản ngã và sở hữu của bản ngã.
2. Tàm quý
Theo Đại thừa bách pháp minh môn
luận giải(9) thì tàm là tự hổ với mình và quý
là thẹn với người. Trong nghĩa được sử dụng rộng rãi, thì tàm quý là sự hổ thẹn
với chính mình cũng như với người khác. Hổ thẹn là năng lượng đạo đức có tác
dụng trong nhiều phương diện.
Trong lãnh vực tu tập, nhờ lòng hổ thẹn thôi thúc, khi
nghĩ về công lao giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát, của các bậc Thánh tăng, nên nỗ
lực tu tập. Trong mười lý do phát tâm Bồ-đề, tất cả đều có liên quan đến lòng
hổ thẹn đối với ân đức lớn lao mà ta đã thọ nhận(10).
Chính nhờ lòng hổ thẹn này thúc đẩy mà chúng ta nỗ lực tiến tu. Không biết hổ
thẹn, khó lòng thăng tiến trong tu tập. Chiêm nghiệm sâu thêm lời dạy của ngài
Quy Sơn: Họ cũng là trượng phu, ta đây cũng như vậy, cũng là một dạng
thức khuyến tu dựa trên hiệu ứng của lòng hổ thẹn. Do bởi nghĩa này nên kinh
điển gọi hổ thẹn là hai pháp trong sáng, trắng sạch (二種白法)(11). Hổ
thẹn không những là động năng thăng tiến trong thiện pháp mà cũng có thể áp
dụng trong thực tiễn sinh động của con người.
Trong liên hệ đời thường, đạo đức
của gia đình, xã hội được hình thành cũng nhờ lòng biết hổ thẹn. Nhờ hai pháp
này nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là
vợ của anh hay em của mẹ…(12). Kinh điển Nikaya cũng gọi hổ thẹn là hai pháp trắng(13) và hai pháp này quyết định phẩm vị, đạo đức của con
người, vì nếu không có hai pháp này thì thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa
các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can(14). Nói theo kinh
Trung bộ, nếu một người không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy
không có việc ác gì mà không làm(15). Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định trong kinh Phật
thuyết như vậy(16).
Như vậy, hổ thẹn là một chuẩn mực
đạo đức quan trọng, không những khẳng định nhân cách của con người mà còn góp
phần tạo nên động lực thăng tiến ở nhiều phương diện, ở đời thường cũng như ở
tâm linh. Hình ảnh một thanh niên thích trang sức, nhưng bị quấn quanh cổ một
xác rắn hay xác chó… sẽ làm cho anh ta ngại ngùng, bứt rứt, xấu hổ, là minh
họa sinh động về việc vận dụng thường xuyên năng lực hổ thẹn, nhằm chuyển hóa
năng lượng dục vọng thấp hèn(17).
Là con người, phải biết hổ thẹn.
Không biết hổ thẹn thì chưa phải là con người đúng nghĩa. Chính bởi điều này,
chuẩn mực đạo đức hổ thẹn được Đức Phật khẳng định là hai pháp có khả năng che
chở cho thế giới(18).
3. Trung thực
Trung thực là một chuẩn mực đạo đức được nhiều người
mến mộ, tin yêu. Người trung thực luôn hứa hẹn một tương lai rộng mở. Trung
thực biểu hiện qua nhiều dạng thức và quan hệ; mà ở đây, trung thực với chính
mình và với tha nhân là hai tính chất chủ yếu.
Trước hết, cần phải trung thực với
chính mình. Thiết tưởng điều này không cần phải bàn cãi. Mặc dù vậy, khi khảo
sát sâu, mới thấy rõ đôi khi ta chưa trung thực với chính mình. Trung thực với
chính mình là ý thức rõ ràng về tất cả các phương diện của bản thân như: khả
năng, điều kiện, mặt mạnh cũng như mặt yếu, sở thích cũng như điều không ưa… Ẩn
dụ một người đứng trên hồ nước, thì có thể nhận ra các con ốc, con sò, đàn cá
bơi lội… với điều kiện hồ nước đó trong và lặng(19). Việc thắp sáng ý thức về những điều kiện của bản thân
cũng như thế. Từ sự nhận thức rõ ràng này và thái độ chấp nhận đúng hiện trạng
của bản thân, là sự khởi đầu cho thái độ sống trung thực với chính mình. Trung
thực với chính mình có ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của bản thân.
Thứ hai, trung thực với tha nhân.
Đây là tiền đề để xây dựng niềm tin trong mọi mối quan hệ. Khi trung thực thì
được người tin tưởng, và lòng tin là yếu tố quyết định sự bền vững cho mọi mối
quan hệ giữa người với người. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết: Ở đời
này, lòng tin/ Tối thắng cho con người(20). Mở rộng ý
nghĩa này có thể thấy, trong quan hệ thầy trò, vợ chồng, cha con, bạn bè… thì
sự tin tưởng lẫn nhau quyết định đến hạnh phúc, bình yên cũng như tính bền vững
của các mối quan hệ. Sống mà không tin nhau là hoạt cảnh của địa ngục. Và muốn
tin nhau thì phải trung thực, không dối nhau. Ở nghĩa này, không trung thực hay
lừa dối nhau là cửa ngõ của tội ác. Chính vì vậy, trong kinh Phật thuyết như
vậy, Đức Phật đã khẳng định rất mạnh mẽ: Phàm một người nào đã vi phạm
một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là
một pháp? Này các Tỳ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo(21).
Trung thực hay không dối nhau là một chuẩn mực đạo đức
cơ bản, là chất kết dính của mọi mối quan hệ, là yếu tố thành công trong mọi
hoạt động của con người.
4. Kiên định
Kiên định là ý chí, là sự vững vàng
trong quyết định, trong dự tính, trong mối quan hệ, trong lý tưởng hay con
đường đã chọn. Tùy theo bối cảnh cụ thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Chuẩn
mực đạo đức kiên định quyết định tính cách, năng lực, giá trị… của con người.
Kiên định là sự nhất quán trong pháp tu. Với Đức Phật,
đại thệ nguyện bên cội Bồ-đề trước đêm chứng đạo là sự thể hiện cho sự kiên
định vững vàng: Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô cằn, máu trong thân
này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ này(22). Có thể sự nỗ lực đó là đỉnh điểm của một tiến
trình, nhưng qua đó đã cho thấy sự kiên định rất cần trên mọi chặng đường tu
tập. Từ thệ nguyện của Đức Phật, liên hệ với con đường mà chúng ta đã và đang
chọn hiện nay, có thể nhận ra những bất cập do vì không kiên định. Bởi lẽ,
trong những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy, mỗi pháp hành có những yêu cầu
khác biệt nhau, sự dao động trong pháp môn tu đôi khi phải trả giá bằng thời
gian của cả đời người. Hơn thế, sự khác biệt giữa chúng sanh và Bồ-tát liên
quan thâm thiết đến chuẩn mực kiên định này. Vì lẽ, trước hiện thực đau khổ, cả
hai đều phát nguyện như nhau, tuy nhiên, yếu tố căn bản tạo nên sự khác biệt,
chính là sự kiên định của mỗi bên.
Trong cuộc sống đời thường, kiên định rất cần trong mọi
mối quan hệ. Trong bối cảnh này, chuẩn mực kiên
định có thể được hiểu là tấm lòng trung thành, chung thủy, sắt son với tổ chức,
với bạn bè, với người phối ngẫu. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong
kinh Tăng chi: Chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung
kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được(23). Đây là một
khái quát thấm đẫm trí tuệ của bậc Giác ngộ. Vì lẽ, phẩm chất đạo đức của con
người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Câu chuyện một dạ thờ chồng
của Công chúa Yashodhara được ghi lại trong kinh Tiểu bộ(24) là hình ảnh tuyệt mỹ về đạo lý chung thủy, sắt son của
người phụ nữ theo chuẩn mực đạo đức Phật giáo.
Dù trên bước đường tu hay trong
thực tiễn đời sống, chuẩn mực đạo đức kiên định luôn được ca ngợi và vinh danh.
Kiên định là dấu son trong phẩm hạnh cần có của một con người.
5. Không phóng dật
Trong những lời dặn dò thống thiết
của Đức Phật trước khi Niết-bàn, thì không phóng dật là huấn thị thấm đẫm yêu
thương(25). Không phóng dật là không buông lung,
không chạy theo dục vọng, siêng năng tu tập các pháp lành. Đây là chuẩn mực đạo
đức quan trọng, được đề cập trong nhiều bản kinh.
Theo kinh Tăng
chi, không phóng dật là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao
trùm và an trú hai lợi ích: lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai(26). Chỉ một pháp nhưng tác
dụng không chỉ một đời, đủ thấy sự diệu dụng của pháp ấy to lớn đến mức nào.
Kinh Tăng chi vừa dẫn còn sử dụng nhiều hình ảnh ấn tượng để biểu thị
cho hạnh không phóng dật: như dấu chân voi, có thể dung nhiếp các dấu chân, như
một ngôi nhà nóc nhọn thì mọi rui, kèo đều hướng về, như ngắt một chùm xoài thì
các trái xoài đều nằm gọn trong tay, như vua Chuyển luân thì nắm quyền các
vương quốc phụ thuộc, như ánh sáng của mặt trăng thì hơn hẳn những vì sao…
Không những thế, các bản kinh quan trọng như kinh Pháp cú(27), kinh Tương ưng(28), kinh Tập(29)… đều ca ngợi phẩm chất
đạo đức không phóng dật.
Trên phương diện tu tập, không
phóng dật là yếu tố quyết định sự thành công của mọi pháp hành. Vì lẽ, thu thúc lục căn,
không chạy theo ngũ dục là nghĩa thứ nhất của không phóng dật. Hình ảnh con dã
can gầy gò chực chờ con rùa cử động được ghi lại trong kinh Tương ưng(30) là ẩn dụ sinh động về
việc thu thúc các căn. Bởi lẽ, chỉ cần con rùa thò bất cứ một thân, phần nào
ra, thì dã can sẽ tóm lấy. Do vậy, không phóng dật còn mang nghĩa tồn vong
không những trong tu tập mà liên quan đến mọi dạng thức sinh tồn. Ở phương diện
thứ hai, không phóng dật đồng nghĩa với tinh tấn, là siêng năng. Cần phải thấy,
nhận thức được việc lành là điều quan trọng tuy nhiên đưa nhận thức vào thực
tiễn đời sống là do bởi siêng năng. Siêng năng tạo nên sự thăng hoa, thành công
trong mọi lãnh vực và là quán hạnh dung thông giữa pháp thế gian và pháp xuất
thế.
Nếu coi quá
trình tu tập và mọi sự thành công trong cuộc đời là những cỗ xe, thì không
phóng dật là động lực cơ bản, không những giữ gìn cỗ xe đó không nghiêng, đổ,
mà còn đưa cỗ xe tiến về phía trước.
6. Nhẫn nhục
Nhẫn nhục là
sự chịu đựng, chấp nhận những khổ đau, bức bách, hủy nhục, khó chịu… do các
điều kiện bên ngoài đem đến, nhưng tâm tư vẫn an tịnh. Đây là một phẩm chất đạo
đức được thể hiện trong nhiều cấp độ. Trong kinh Trung bộ, hình ảnh kẻ
đạo tặc dùng cưa, cưa tay chân nhưng hành giả vẫn không khởi sân tâm hay phẫn,
não(31), là sự thể
hiện của một phẩm chất nhẫn nhục cao tột. Phật giáo Đại thừa xem nhẫn nhục là
một trong sáu hạnh quan trọng của con đường Bồ-tát.
Trước hết,
trước những thách thức của điều kiện tự nhiên cũng như những tác động của con
người, muốn tồn tại, cần phải biết an hòa và nhẫn nhịn. Tức là tạm an với điều
kiện sống tự nhiên và nhẫn nhịn trong sự va đập, tương tác với môi trường xã
hội. Nhẫn để mà sống chính là nghĩa này. Kinh Tăng chi còn gọi đó là
kham nhẫn: có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân
hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn. Này các Tỳ-kheo,
đây gọi là đạo hành kham nhẫn(32).
Thứ hai, trong cuộc sống đời
thường, đôi khi nhằm chuyển hóa người, thì nhẫn nhục cần thể hiện trong giới
hạn nhất định. Câu chuyện quỷ dạ xoa Alavaka được ghi lại trong kinh Tập(33) là một ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng, một độ nọ, Đức
Phật đang ở tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Dạ xoa Alavaka yêu cầu Đức Phật đi
ra, Đức Phật hoan hỷ đi ra; dạ xoa lại yêu cầu Đức Phật đi vào, Ngài vẫn chấp
nhận thực hiện. Đến lần thứ tư, Đức Phật không thực hiện theo yêu cầu của dạ
xoa, kiên quyết bảo: Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra. Ông cần gì thì hãy làm
đi?(34). Ba lần đi ra, đi vào theo yêu cầu tinh quái
của quỷ dạ xoa, đủ thấy Đức Phật đã ứng xử nhẫn nhịn nhuần nhuyễn đến mức nào.
Thứ ba, nhẫn nhục là sức mạnh. Sức
mạnh đây chính là sức mạnh làm chủ bản thân mình. Vì một khi thực hiện được
hạnh nhẫn nhục, chứng tỏ một năng lực tu tập hùng mạnh. Nhờ năng lực đó, mới có
thể kiểm soát tâm mình. Vì chiến thắng bản thân mình là chiến công oanh liệt
nhất(35). Con đường thực tập để có sức mạnh này bắt
đầu bằng sự mở rộng tâm, trải tâm như đất như Đức Phật đã dạy Rahula trong kinh
Trung bộ(36).
Nhẫn nhục là
nhịn được những điều khó nhịn mà tâm vẫn an ổn, tuy là chuẩn mực đạo đức, nhưng
mang ý nghĩa như một kỹ năng sống hướng thượng, thanh cao.
7. Biết ơn
Biết ơn được
hiểu ở đây bao hàm cả việc báo ơn. Theo kinh Tăng chi, người biết ơn là
một trong hai hạng người khó tìm được ở đời(37). Trong liên hệ duyên khởi, để hình
thành con người, thì phải thọ nhận nhiều công ơn. Trong vô vàn những công ơn,
theo kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa quán, phẩm Báo ân(38), thì có bốn ơn cơ bản:
ơn cha mẹ, ơn những người liên hệ quanh ta, ơn quốc gia và ơn Tam bảo.
Sự hiện sinh
của một con người là do cha mẹ. Từ việc kế thừa nền tảng vật chất, cho đến nuôi
dưỡng, kiện toàn tri thức, dựng vợ gả chồng, trao của thừa tự và hướng con về
đường lành. Thực sự, khó có thể kể hết cũng như báo đáp công lao của cha mẹ.
Nói như kinh Tăng chi: nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm
vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi… cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha(39).
Kế đến, với một người bình thường,
sở dĩ vững vàng về kiến thức, vững chãi trong địa vị, thuận lợi trong nhịp mưu
sinh, an tâm và an toàn trong đời sống… là do sự hỗ trợ của nhiều người: từ
thầy tổ, thân hữu, láng giềng, dòng họ… Nhận thức rõ về các công ơn đã thọ
nhận, là thái độ sống đúng mực của một người trưởng thành.
Thứ ba, được sống và sống ổn định,
an toàn là phước báo của con người. Vì một khi môi trường sống được đảm bảo,
thì hạnh phúc mới vững bền và có thể an tâm hoàn thành sở nguyện. Sự đảm bảo về
môi trường sống là do sự quan tâm, nỗ lực và hy sinh của giới chức lãnh đạo
quốc gia. Nhận thức đúng về điều này để hành xử cho hợp lẽ, là tâm thế đúng
mực.
Cuối cùng, sở
dĩ hiểu được bản thân, nhận ra con đường hạnh phúc, có được phương tiện phù hợp
với điều kiện nghiệp lực của mình, là do diệu hạnh của Tam bảo. Nếu như cha mẹ,
bạn bè, thầy tổ, quốc gia có thể giúp ta vơi khổ và hạnh phúc trong một đời,
thì Tam bảo có thể giúp ta vĩnh viễn thoát khổ và an lành trong nhiều kiếp. Và
do vậy, người đệ tử Phật phải nhớ ơn và nỗ lực báo đáp thâm ân Tam bảo.
Biết ơn là
chất liệu dệt nên phẩm hạnh của một con người. Nhận thức đúng và đầy đủ về các
ơn cũng như nỗ lực báo đáp bằng những gì có thể, là chuẩn mực đạo đức tối cần
của một người học Phật.
8. Buông xả
Buông xả là
nghệ thuật ứng xử trong các mối quan hệ, là sự buông bỏ những ý nghĩ mừng vui,
lo khổ đồng thời nỗ lực từ bỏ các tật xấu tích lũy từ nhiều đời.
Trước hết, lo nghĩ thường gắn với
phiền muộn, nhất là lo nghĩ vẩn vơ, không liên hệ đến thiện pháp. Buông bỏ mọi
điều lo nghĩ, sống với thực tại hiện tiền thì hạnh phúc gõ cửa. Điều này được
Đức Phật chỉ dạy trong kinh: Quá khứ không truy tìm/ Tương lai không ước
vọng/ Quá khứ đã đoạn tận/ Tương lai lại chưa đến/ Chỉ có pháp hiện tại/ Tuệ
quán chính ở đây(40).
Trong thực tế
đời sống, đôi khi cũng khó tránh khỏi việc lo nghĩ về những điều do cuộc sống
đặt ra. Tuy nhiên, học cách buông bỏ những điều nhỏ nhặt, thì đôi khi gặt hái
những kết quả lớn lao. Biết buông bỏ, biết hy sinh là tiền đề dẫn đến mọi sự
thành tựu. Câu chuyện chú khỉ trong kinh Tiểu bộ(41), vì hốt hoảng lo tìm hạt
đậu bị đánh rơi, nên đã buông tay đánh rơi cả nắm đậu, là ẩn dụ sinh động về
trường hợp này.
Không những thế, biết cách buông
bỏ những ký ức liên hệ đến khổ đau là một liệu pháp điều phục tâm tích cực. Vì
có những chuyện u hoài xảy ra trong quá khứ xa xưa, nhưng tâm tư cứ giữ chặt,
và nỗi đau đôi khi tái hiện về, làm cho người quằn quại, tái tê. Buông xả những
chuyện không hay là một trong những cách thức giữ gìn nhựa sống cho chính mình.
Hạnh buông xả
còn là một dạng thức biểu hiện cho tâm thương yêu. Vì lẽ, nhờ buông xả nên dễ
dàng tha thứ lỗi lầm của người, tạo cho kẻ có lỗi một cơ may để phục thiện.
Buông xả còn giúp người ta trở nên rộng rãi, không ích kỷ, nhỏ nhen: Các sở
hành của mình/ Không nhỏ nhen vụn vặt(42). Nhờ hạnh buông xả, nên tâm bố thí
được khởi sinh. Nói theo kinh điển, nhờ buông xả, tâm thoát khỏi cấu uế của
xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở(43). Ngoài ra, buông xả còn là an trú tâm
với những gì hiện có. Biết cách buông bỏ những đòi hỏi không hợp lý, là một
trong những cách thức để đem đến sự an ổn đời thường.
Muốn có được
một cuộc sống đúng nghĩa và trọn vẹn thì phải học cách buông bỏ, xả ly. Buông
xả không những giúp thanh lọc tâm, mà còn là phương thức vươn lên bằng cách từ
bỏ những hiểu biết bất toàn, khiếm khuyết.
9. Dấn thân
Dấn thân là sự
phát tâm vì lợi ích của tha nhân, trong một số trường hợp phải chấp nhận sự hy
sinh, mất mát. Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát, vì đó là sự phát
tâm đem lại lợi ích cho nhiều người.
Dấn thân là phát tâm Bồ-đề, được
dẫn khởi từ sự lập nguyện, phát tâm. Vì nguyện lập thì có thể độ chúng sanh,
tâm phát thì Phật đạo có thể thành(44). Ở nghĩa
này, Đức Phật là minh chứng cao cả cho sự lập nguyện, dấn thân: Ta mang cỏ
munja/ Vững thay, đây đời sống/ Thà Ta chết chiến trận/ Tốt hơn, sống thất bại(45). Công cuộc tự
chuyển hóa mình cũng đồng thời là một quá trình nỗ lực, dấn thân.
Dấn thân là
hành động mang tâm nguyện Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và lắm khổ
đau, người mang tâm nguyện Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có thể, nhằm làm
vơi khổ cho đời. Dấn thân không đồng nghĩa với sự liều mạng, quên thân. Dấn
thân theo chuẩn mực Phật dạy phải dựa trên cơ sở của sức mạnh, tình thương và trí
tuệ. Chỉ có như vậy thì sự dấn thân mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những tổn
thất không đáng có trong khi thực thi hạnh nguyện giúp đời.
Đạo Phật mang
nghĩa vị tha, và dấn thân là một biểu hiện tạm quên đi bản ngã. Dấn thân là sự
tận hiến cho đời mà không nghĩ về tư lợi. Trong nhiều cách thức nhiếp hóa mọi
người được đề cập trong kinh Duy Ma Cật(46), thì việc làm lợi lạc cho
tha nhân (Lợi hành nhiếp) có ý nghĩa ưu thắng. Hình ảnh một cây
hương tự đốt cháy mình có thể hiểu ở nhiều nghĩa, nhưng việc dâng tặng cho đời
sự thơm thảo, là sự thực được ghi nhận từ cây hương. Qua những nét sơ phác về
cuộc đời Đức Phật, từ nhiều kiếp sống trong 547 chuyện tiền thân, cho đến bốn
mươi lăm năm thuyết giảng sau khi Thành đạo, là một thiên trường ca bất tận về
hạnh nguyện dấn thân: vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và
loài người(47).
Một khi sở dục
đang lên ngôi, cái ác đang chờ chực, ngấp nghé, thì cuộc đời cần lắm sự lập
nguyện, dấn thân. Dấn thân biểu lộ của dũng khí, lưu xuất từ cơ sở tâm thương
yêu và thể hiện bằng con mắt tuệ. Chỉ có như vậy hạnh dấn thân mới đem đến hạnh
phúc, an lạc cho nhiều người.
10. Tiết tháo
Tiết tháo là
khí tiết, là danh dự và phẩm vị của con người. Sống đúng với chuẩn mực đạo đức
cơ bản của một con người, theo những nguyên tắc đạo đức làm nền tảng nào đó,
được gọi là tiết tháo.
Phẩm chất của
một con người gồm một cái tên để phân biệt, cộng với những phẩm hạnh đạo đức
tương ưng. Giữ gìn phẩm hạnh đạo đức riêng có đồng nghĩa với việc giữ gìn tiết
tháo. Một khi phải sống trong sự tương giao, đối đãi, khi chuyện nhục vinh,
danh lợi vẫn có khả năng chi phối con người, thì việc giữ gìn tiết tháo là vấn
đề mang nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân văn. Trong hệ quy chiếu tương đối của đạo
đức thế gian, thì tiết tháo vẫn đóng một vai trò quan trọng. Không nên lẫn lộn
giữa các hệ quy chiếu khác nhau để xét đoán vấn đề.
Trong kinh Tiểu
bộ, câu chuyện con sư tử bị làm nhục chứa đựng nhiều giá trị tham khảo(48). Chuyện kể rằng, có một
con sư tử cái sống gần hang của chó rừng. Một ngày nọ, hội đủ nhân duyên, chó
rừng ngỏ lời cầu hôn sư tử. Buồn bực và uất ức vì lời cầu hôn vô lễ, sư tử cái
định lấy cái chết để rửa nỗi nhục kia. May mắn được gặp được sư tử em, là tiền
thân Đức Phật, đã tận tình giải bày, nên sư tử chị đã vượt qua tình trạng khó
xử đó. Có thể, câu chuyện chỉ là liên hệ gợi mở, nhưng qua đó cho thấy sự quý
trọng tiết tháo đôi khi còn quan trọng hơn cả sinh mạng của chính mình.
Mỗi con
người, mỗi chúng sanh sở hữu những phẩm vị tương ứng. Vì danh phải tương
xứng người(49). Từ kẻ thứ dân cho đến nam nữ, Sa-môn, Bà-la-môn đều có những phẩm vị đạo
đức cơ bản. Sống đúng theo những chuẩn mực này được gọi là sống có tiết tháo.
Kinh Tương ưng đã đưa ra một khái quát đầy giá trị về tiết tháo: Giữa
các loài hai chân/ Chánh giác là tối thắng/ Giữa các loài bốn chân/ Thuần chủng
là tối thắng/ Trong các hàng thê thiếp/ Nhu thuận là tối thắng/ Trong các hàng
con trai/ Trung thành là tối thắng(50). Có
thể cần bổ chính thêm vài điều trong những phẩm vị vừa dẫn, nhưng ít ra qua đó
đã cho thấy rằng, tiết tháo là điều rất mực quan trọng trong việc định hình nên
phẩm chất của con người.
Tạm kết
Đạo đức là
chất liệu tạo nên những hệ giá trị riêng có của con người và xã hội loài người.
Đạo đức Phật giáo ngoài những nguyên tắc siêu
thế, thanh cao, còn bao hàm những chuẩn mực thiết thực, không khô cứng, có thể
kiểm nghiệm hiệu năng ngay bây giờ và tại đây. Mười chuẩn mực đạo đức vừa nêu
tuy chưa phải là tất cả, nhưng nếu như được thực thi, thì nhất định quả ngọt sẽ
đong đầy.
Chú thích
(1) Kinh Tăng chi,
chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của Trời, kinh Kiêu mạn. Nguyên văn: kiêu
mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh, kiêu mạn của sự sống.
(2) Kinh Tiểu bộ,
kinh Tập, kinh Rắn.
(3) Kinh Trung bộ, tập
1, Tiểu kinh Saccaka, số 35.
(4) Kinh Tiểu bộ,
tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật,
chuyện Người nô lệ Katahaka, số 125.
(5) Cullavagga, chương 6, Sàng tọa, tụng phẩm thứ hai, chuyện Chim
đa đa, khỉ và voi, đoạn 262. Xem thêm, kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền
thân Đức Phật, chuyện Con chim trĩ, số 37.
(6) Cullavagga, Sách đã dẫn, bài kệ về sự kính trọng, đoạn 263.
(7) Kinh Tiểu bộ,
kinh Tập, kinh Thế nào là giới.
(8) Kinh Tiểu bộ,
kinh Tập, kinh Nalaka.
(9) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 四 冊 No. 1836, 大 乘 百 法 明 門 論 解.
(10) Xem, Bài văn khuyến khích phát tâm Bồ-đề, HT.Trí Quang dịch, bản ấn
tống, 1997.
(11) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 五
冊 No. 1910, 慈 悲 水
懺 法 卷 下.
(12) Kinh Tăng chi,
chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(13)Kinh đã dẫn.
(14) Kinh đã dẫn.
(15) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo giới La Hầu La ở Am Bà
La, số 61.
(16) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy, chương Hai pháp, phẩm 2.
(17) Kinh Trung bộ, tập
1, kinh An trú tầm, số 20.
(18) Kinh Tăng Chi,
chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(19) Xem, Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Đặt hướng và trong
sáng, kinh Tâm đặt sai hướng.
(20) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(21) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy.
(22) For the first time edited in the original Pali by Y Fausboll, and
translated by T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories or, Jataka Tales. The
oldest collection of folk-lore extant: Being the Atakatthavannana. Volume
I, London,
1880, p. 96. “My skin, indeed, and nerves, and bones, may become arid, and
the very blood in my body may dry up; but till I attain to complete insight,
this seat I will not leave!
(23) Kinh Tương ưng, tập 1, chương ba, Tương ưng Kosala, phẩm
thứ hai, kinh Bện tóc.
(24) Kinh Tiểu bộ, tập 8, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện
Đôi ca thần Canda, số 485.
(25) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16.
(26) Kinh Tăng chi, chương Sáu pháp, phẩm Dhammika, kinh Không
phóng dật.
(27) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Không phóng dật.
(28) Kinh Tương ưng, tập 1, phẩm Thứ hai, kinh Không phóng dật, tập 5, thiên Đại phẩm,
chương 1, Tương ưng đạo, phẩm Không phóng dật.
(29) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Đứng dậy; kinh Bại vong.
(30) Kinh Tương ưng, tập 4, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần g,
kinh Con rùa.
(31) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ cái cưa, số 21.
(32) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Đạo hành, kinh
Kham nhẫn.
(33) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(34)Kinh đã dẫn.
(35) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Ngàn, câu 103.
(36) Kinh Trung bộ, tập
2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62.
(37) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng.
(38) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 159, 大
乘 本 生 心 地 觀 經, 卷 第 二, 卷 第 三.
(39) Kinh Tăng chi, chương
Hai pháp, phẩm Tâm thăng bằng, kinh Đất.
(40) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Nhất dạ hiền giả, số 131.
(41) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Một nắm đậu, số 176.
(42) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Từ bi.
(43) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương
ưng dự lưu, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.
(44)Đại sư Thật Hiền, Phát Bồ-đề tâm văn, HT.Trí Quang dịch, bản ấn
tống 1997, tr.30.
(45) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Tinh cần.
(46) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 十 四 冊 No. 474, 維
摩 詰 所 說 經, 善 權 品 第 二.
(47) Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Một người, kinh Như
Lai.
(48) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Con chó rừng, số 152.
(49) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 7, Tương ưng Bà-la-môn, phẩm
A-la-hán thứ nhất, kinh Bất hại – Ahimsaka.
(50)
Kinh Tương ưng, tập 1, thiên có kệ, Tương ưng chư Thiên, phẩm Vườn hoan
hỷ, kinh Giai cấp Sát-đế-lỵ.
Chúc Phú
(Nguyệt san Giác Ngộ)
Discussion about this post