MỘT MÌNH
Ngọc Bảo
Buổi sáng một mình đi bộ trên con đường
ngập cây lá đã thành một thói quen không thể thiếu của tôi. Cũng là một nhân
duyên, trước đây lâu lắm rồi, nơi tôi ở chỉ cách khu này chừng vài block đường,
thỉnh thoảng có dịp đi ngang thấy có cảm tình với khung cảnh ở đây, nhưng không
bao giờ nghĩ là sẽ có ngày dọn về đây ở. Thế mà, như có sự xếp đặt, chỉ một ít
năm sau tôi đã về sở hữu một căn nhà trong khu này, mặc dù là căn nhà nhỏ nhất..
Bốn mùa xuân hạ thu đông tôi đã đi
qua những lối đi uốn khúc bên ngoài những ngôi nhà xinh xắn, qua công viên bát
ngát cỏ xanh, gặp những bóng dáng quen thuộc, dù trời nóng hay lạnh, trong ánh nắng
lung linh hay dưới mây mù bao phủ. Mùa xuân đang đến cho hoa nở rộ, trong những
mảnh vườn nhà những đóa freesias đủ mầu đang tưng bừng khoe sắc bên cạnh những cụm
azaleas tươi thắm, những luống hồng rực rỡ. Khu phố này lúc nào cũng tĩnh mịch
như tờ, lâu lâu mới thấy có một bóng người hay một chiếc xe đi ngang. Không
gian hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có một mình ta với ta – nhưng cũng ngập tràn bình
yên, đầy đủ trong sự hòa điệu cùng thiên nhiên. Sự hài hòa của không gian yên tĩnh và những âm
thanh của tiếng gió rì rào, tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim hót
líu lo, tiếng chó sủa, cũng như tiếng bước chân và … tiếng nói trong tâm.
Con người ta thường rất sợ cô đơn, một
mình. Thế nhưng có những lúc một mình lại là lúc an bình và thanh thản nhất.
Suy cho cùng thì chúng ta sinh ra một mình, chết đi cũng một mình, và có những
nỗi niềm không thể diễn tả cùng ai, chỉ có một mình mình biết. Thế thì tại sao
không tập làm quen sống một mình, hay nói cách khác, sống với chính mình? Có thể
vì chúng ta không biết “mình là ai” và cảm thấy bất an, sợ hãi trước
sự bất minh ấy. Câu hỏi muôn thuở “ta từ đâu tới, và đi về đâu” không
bao giờ có câu trả lời rõ ràng nhất định, mà phải mỗi người tự tìm ra cho mình. Chính những lúc ở một mình, không bị cuốn
theo những cảnh tượng xôn xao bên ngoài, ta mới có dịp để nhìn lại chính mình,
hay nói đúng hơn, trở lại với tâm mình. Tâm ta lúc nào cũng ở đó, như ngôi nhà
quen thuộc bị bỏ quên, hay như người bạn tri kỷ nhưng không bao giờ được biết đến.
Tôi chợt nhớ đến những lời phiếm luận
gần đây của một nhóm bạn về chữ “tri kỷ”. Tri kỷ như Bá Nha và Tử Kỳ, một người đem tâm
sự trải vào tiếng đàn mà chỉ người kia mới có thể thấu hiểu được tâm sự ấy. Khi không còn người kia, tiếng đàn cũng không
còn ý nghĩa. Nỗi niềm biết tỏ cùng ai ấy thật là ai oán. Và chỉ khi có nỗi niềm
người ta mới muốn có tri kỷ. Nỗi niềm của Nguyễn Du đã được gởi gấm vào những nhân
vật hồng nhan đa tài mà đa truân bị đời vùi dập, qua những lời than thở:
hờn kim cổ trời khôn hỏi Cái
án phong lưu khách tự mang) Để rồi cảm khái cho chính mình: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Chẳng
biết ba trăm năm lẻ nữa Người
đời có ai khóc Tố Như ?)
Thiên hạ bao la, nhưng trên đời này
có mấy ai gặp được tri kỷ, để nhiều lúc phải cười đau khóc hận, ôm mối tâm sự một
mình. Thế thì đi tìm tri kỷ cũng như tìm trăng dưới đáy nước, nếu có gặp được
cũng chỉ là một cái duyên, có hợp rồi có tan, như tất cả những nhân duyên trên
cõi đời này. Dù có gặp được tri kỷ, mỗi người
cũng vẫn là một thế giới cách biệt, có cảm thông cũng chẳng làm gì được cho
nhau, vì ai nấy đều phải sống cuộc đời của mình, đối diện với những vấn đề của
mình, không ai có thể cảm nhận được hoàn toàn những điều người khác cảm nhận. Mặc
dù vậy, nếu biết hiện tại có một người tri kỷ, dẫu người ấy ở xa ngàn trùng, cũng
cảm thấy ấm lòng.
Nếu xây đắp hạnh phúc hay sự an lạc của
mình trên những đối tượng bên ngoài hay những gì do duyên hợp, chắc chắn sẽ không
khỏi có lúc buồn đau hụt hẫng, bởi vì những gì do duyên hợp đều phù du huyễn ảo
như giấc mộng, như bọt nước, như sương rơi. Trên thế giới này, tất cả mọi thứ đều
luôn luôn chuyển biến, và con người cũng không ngừng thay đổi, không bao giờ đứng
lại một chỗ. Vì vậy, những vấn đề của ngày hôm qua có thể không còn là vấn đề của
ngày hôm nay, và những nỗi niềm ôm ấp lâu nay đến lúc nào đó sẽ nhạt nhòa phai
tàn cùng với thời gian. Tri kỷ ngày hôm
nay có thể không còn là tri kỷ của ngày mai. Có những người bạn trước đây thật
thân thiết nhưng ngày nay gặp lại nhiều khi cũng chỉ trao đổi vài ba câu chuyện
rồi đường ai nấy đi, vì hoàn cảnh đã thay đổi, tâm tình cũng không còn như xưa.
Một lúc nào đó, dù có một đời sống
thế nào, hạnh phúc hay đau khổ, may mắn hay bất hạnh, chúng ta sẽ chỉ còn lại một
mình, đối diện với chính mình. Nếu chưa bao giờ biết sống một mình, chắc hẳn sẽ
có rất nhiều bất an và phiền muộn, không biết làm gì cho lấp đầy khoảng trống. Biết sống một mình không có nghĩa là xa lánh
đời, xa lánh người mà chỉ biết đến mình. Sống một mình như vậy chỉ là theo hình
tướng, nếu thực chất vẫn còn đầy vô minh phiền não thì cũng chẳng ích gì. Biết
sống một mình là ý thức được sự huyễn hóa trong cuộc đời và đi tìm sự thường hằng
an lạc nơi chính mình, qua sự tìm hiểu khai phá thân và tâm mình. Tập trung tư tưởng trong sự thấy biết thân và
tâm, cảm nhận sự sống hiện tại qua từng hơi thở, từng niệm khởi đến đi là trở về
với Tánh Giác thường hằng sẵn có. Và từ nền tảng bao la của Tánh Giác đó, những
năng lực chuyển hóa mầu nhiệm có thể được phát khởi, cho ta sức mạnh nội tại để
có thể an nhiên vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc đời.
Trong kinh Phật có kể chuyện một vị
tỳ kheo khất sĩ lúc nào cũng thích sống một mình, đi khất thực một mình, thọ
trai một mình, ngồi thiền một mình, không giao du hòa nhập với các tỳ kheo khác
trong Tăng chúng. Đức Phật nghe kể lại mới gọi ông đến hỏi rằng:
– Nghe nói ông thích sống một mình,
vậy ông sống một mình như thế nào?
Khất sĩ đáp:
– Bạch Thế Tôn, con chỉ sống một mình
một nơi, ca ngợi hạnh sống một mình, một mình đi khất thực, một mình ra khỏi xóm
làng, một mình ngồi thiền, thế thôi.
Phật bảo:
– Ông đúng là người thích sống một mình
– tôi không nói vậy là không phải, nhưng tôi biết có một cách sống một mình thật
là mầu nhiệm. Đó là sự quán chiếu thấy rằng quá khứ đã không còn, tương lai thì
chưa tới, nên an nhiên sống trong hiện tại mà không vướng mắc vào những ước vọng
ràng buộc. Người thức giả sống như thế, tâm không do dự, bỏ hết mọi lo âu hối
tiếc, xa lìa mọi tham dục trên thế gian, cắt đứt những sợi dây ràng buộc lôi kéo
mình. Đó gọi là thực sự biết sống một mình. Không có cách nào sống một mình mầu
nhiệm hơn thế được.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ như sau:
Quánchiếu vào cuộc đời Thấy
rõ được vạn pháp Không
kẹt vào pháp nào Lìa
xa mọi ái nhiễm Sống
an lạc như thế Là
biết sống một mình.
Như vậy, sống một mình tức là sống
an vui tự tại vì đã thấy rõ được bản chất hư ảo của cuộc đời, nên xả bỏ cái Ngã
đầy chấp trước si mê, nguồn gốc của mọi phiền não đau khổ. Điều nghịch lý kỳ diệu là người biết sống một mình lại chính là người biết quên mình đi, như thiền sư Đạo
Nguyên nói:
đạo là học về tự ngã Học
về tự ngã là quên đi tự ngã…
Có những người sống trong cảnh cô độc
nhưng không cô đơn, lúc nào cũng an nhiên tự tại, vì họ đã có một niềm tin để
nương tựa. Niềm tin đó có thể là nơi một năng lực tối cao nào đó, có thể là nơi
chính mình. Những người tu niệm Phật có
thể chuyển hóa được tâm thân, có sức mạnh vượt qua những hoàn cảnh khó khăn đau
khổ. Những người quen tu Thiền quán chiếu tâm có thể khai phát được khả năng tự
biết mình của trí tuệ Bát Nhã thấu suốt, từ đó có cái nhìn chánh kiến đối với
những gì đến và đi trước mắt. Và trong
quá trình trở về tâm đó, một lúc nào đó bỗng khám phá ra một người bạn tri kỷ từ
muôn kiếp ở ngay nơi tâm mình. Người ấy
chính là ta, vì đã trải qua tất cả những gì ta đã trải qua, cảm nhận tất cả những
gì ta đã cảm nhận, nhưng
không phải là cái ta của vô minh phiền não, mà là một hiện hữu không hình không tướng, không sanh không diệt, tách
rời khỏi thân tâm vô thường hoại diệt đầy những cảm xúc hỷ nộ ái ố này. Người ấy bao la như hư không, trước khi ta
sinh ra người ấy đã có mặt, và khi thân
này trở về với cát bụi, người ấy cũng không mất đi. Đại sư Sogyal Rinpoche nói
rằng mỗi khi ngồi thiền là cảm thấy vui mừng hoan hỉ như gặp lại được một người
bạn thân từ thuở nào. Người ấy vẫn ở cạnh
ta từ lâu nay, nhưng ta không bao giờ biết đến vì mây mù của vọng tưởng che khuất.
Chỉ khi nào thức tỉnh, tâm đã trong sáng, ta mới nhận ra rằng thật ra người ấy
vẫn hiển lộ với ta từng giây từng phút, qua Tánh Giác thường chiếu, qua
“tiếng nói Lương Tri” nhắc nhở làm lành lánh dữ, giữ thân tâm thanh tịnh
để không gây tạo nghiệp báo oan khiên. Ngộ được người ấy nơi chính ta là tìm lại
được người chủ cho căn nhà thân tâm của mình đã bị bỏ hoang phế từ lâu nay, và có
được một nguồn an trú bất tuyệt để có thể sống tự tại ngay trong vòng ảo hóa của
tử sinh. Một thiền sư đã có bài kệ như
sau:
nhờ ai tìm kiếm Lần
hồi lơ với Ta Giờ
một mình Ta bước Đâu
đâu cũng gặp mi Nay
mi chính là Ta Ta
không phải là mi Nếu
hiểu được như thế Mới
gặp đúng Như Như…
Khi chưa ngộ thì ta không phải là
Người ấy, nhưng khi ngộ rồi thì Người ấy chính là ta. Khi chưa ngộ thì chúng
sanh không phải là Phật – khi ngộ rồi thì Phật chính là chúng sanh. Biết được như vậy
thì ta có thể sống tự tại thoải mái với chính mình, dù trong chốn thâm sơn cùng
cốc, hay ngay giữa đám đông ồn ào náo nhiệt. Đó là cách sống một mình mầu nhiệm
nhất.
Ngọc Bảo
Mùa
xuân, 2013
(ngocbao.org)
Discussion about this post