KINH ĐIỂN VÀ CĂN MẠNG ĐỜI NGƯỜI
Nhụy Nguyên
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên
hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng
bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế:
ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo (thuật nhi bất tác). Vì sao nói lời nào
đều phải liên hệ với kinh điển? Nếu kinh điển không mang sinh khí thời đại,
không trực tiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh
điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không
còn tự bảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước
những phát hiện khoa học về con người và bản thể vũ trụ. Kinh điển ấy… lỗi
thời. Kinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều
có thể soi vào đó mà chỉnh sửa, ấy là kinh điển chân chánh.
Thế kỷ XXI được xem là thời đại khoa học
công nghệ. Những phát minh, khám phá của khoa học đã làm chấn động nhân loại.
Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước
đó khoa học đã khám phá ra bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với
hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước một cái hồ bẩn rộng
mênh mông, sau một buổi hồ nước trở nên trong. Thân thể người do tứ đại hợp
thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật xuất phát từ sân hận, mê
lú, chấp trước, phân biệt, xan tham, mê đắm, quyến thuộc, tật đố, si ám, ngã
mạn… (những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô). Nhiều ngôi chùa nhận
chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay,
nghe giảng đạo… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh, trong sáng) chứ không phải
chữa thân. Người bệnh mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh
cuối cùng ngăn cách sống chết. Chỉ với một yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe pháp,
lạy Phật mà họ cũng lắc đầu; trong lúc chùa không mảy may vụ lợi. Đủ thấy muốn
khai phá chấp trước cũng ngang bằng một người phải san bằng ngọn núi lớn. Đại sư Buddhadasa người Thái Lan trong cuốn
“Cốt lõi của cội Bồ đề” (Hoang Phong dịch) gọi đây là “bệnh tâm linh” – “là một
căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng
thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô
minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất
nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”.
Và “Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không
chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt
tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì
cả”. Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta – như áo quần). Theo đó những gì
bám víu sẽ nhẹ nhàng trôi xuôi. Thân như vậy là thân bóng bay với chỉ một sợi
dây duy nhất, ta muốn cắt lúc nào cũng được, vậy thì lo gì không lên được Cực
lạc?
Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển
nhận thức loài người, khoa học gia vĩ đại phải mất vô thiên lủng thời gian, đâu
hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật! Còn vô vàn những câu kinh nữa…
đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều, e rằng khi khoa học bật sáng
một góc trời đêm Phật pháp, thì hành tinh xanh đã hoang hóa. Càng khám phá,
khoa học càng thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng quá nhiều người
vẫn chỉ tin và “sử dụng” những câu kinh đã được khoa học minh chứng là đáng
tin. Thật đắc địa, một pháp sư gọi hiện tượng đó là “mê tín khoa học”!
Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất
cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?”. (Ở
đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai – không từ đâu đến, không đi về đâu – Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”).
Lời Hòa thượng Tuyên Hóa : “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng
suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Cũng là chỉ bản lai diện mục? Biết đâu chúng ta
đến hồng trần này từ bên châu Phi, biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷ hay từ cõi
trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình
sẽ về Tây phương Cực lạc khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám
sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật đã nhập diệt, ngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển [Đại thừa] và những
vị được giới chân tu xem là chứng quả, là Bồ tát thị hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc!” (Kinh
Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật. “Những kẻ không tin
lời Như-Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ” (Kinh). Một người đời nay không
thể không biết – pháp sư Tịnh Không. Ngài bảo những người cúi lạy Phật mà không
hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại
không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không ngồi thiền, học Tịnh độ lại không
chuyên trì niệm Phật) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên
biển cả. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. [Tuy nhiên],
cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma
thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào
chỉ một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được?! Y giáo phụng hành là lẽ căn
cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật
pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung
dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác.
Dưới đây là một số quan điểm lệch lạc về
đạo Phật do chính tôi tạo tác. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các
ấn phẩm, sách xuất bản; sự ảnh hưởng càng rộng, người viết ra nó sẽ nhận về
phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm – những ý nghiệp hằn sâu trong
tâm thức tôi trước ngày đến với Phật. Để thấy nếu không nương vào lời Phật dạy
thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một
câu song (do mức ảnh hưởng rộng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp.
Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều
cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đát, con người kêu gào
trời Phật, nhưng trời Phật dường như không nghe thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ
loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy
mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật
nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát
khỏi Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữ Không, tôi xem đó là sự phủ nhận trần
gian.
Cơ duyên sao
giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút tôi. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về
chữ Không thật sự nghiêm trọng. Bởi,
“Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết
lý Đại thừa” (Suzuki). Luận về Triết học và Tôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng
lẫn lộn không với không chi; cũng
đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này
đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là
tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp
hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh
và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ
của Tánh Không”.
Một Hòa thượng
người Việt Nam
ví Không như con số không. Nó vốn không là gì song thiếu số không (0) thì mọi
tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này – Tất cả pháp được
thành – Nếu không có nghĩa Không – Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận –
Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng
khác chi nói Phật giáo phủ nhận nhân gian. Kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc
biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật: “Các đức Phật chỉ vì
một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ
nhập tri kiến Phật”; “Khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư
sở hữu pháp, tâm thường đế trú độ thế chi đạo” (Kinh Vô Lượng Thọ); “Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh,
thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng
sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh
vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng…” (Trích mười
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); “Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheo,
nếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ni, nếu cần hiện thân cư
sĩ độ thì hiện thân cư sĩ” (Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều
phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho
kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người
khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng được sơ quả
liền “chán bỏ” thế gian, ngồi thiền chìm đắm, miên man hàng tháng hàng năm mới
chịu xuất định, quên mất mục tiêu tối thượng là hóa độ chúng sinh. Thế nên lời
Đức Phật dành cho những đệ tử đầu tiên chứng đạo là: “Hãy lên đường, này các tỳ
kheo, vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian,
vì lợi ích và an lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt lai Lạt ma răn: “Đã
tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự
xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả
mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc
chứng Bồ đề phải “vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người
mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả
chúng sanh”.
“Vạn
pháp giai không, duyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư
nghì. Ở cấp độ phàm phu, tôi chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm
thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là
một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt,
mức cực vi tế đó chỉ Phật nhãn mới thấy được. Lão pháp sư Tịnh Không giảng: một
giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt
chúng ta chỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại.
Mức sinh diệt quá nhanh nên nhục nhãn không thể thấy.
Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám
mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát
nhã Tâm kinh). Mỗi người khi sống chính là có [hình tướng], lúc chết thì tan rã
trở về không [hình tướng]. “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực
kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng
hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiến, Thế Thân). Không ấy đâu phải là không. Chính là còn
linh hồn (theo cách gọi dân gian; trong kinh Phạm Võng cũng có nhắc đến “linh
hồn đi đầu thai”); gọi theo Phật giáo là thần thức, linh tánh, hay thức a lại
da. Thức ấy không hình tướng trong mắt phàm, song lại là có hình tướng đối với
các nhà ngoại cảm hoặc trong mắt ngạ quỷ,… Tiếp tục lại bị “xóa” hình tướng
trong mắt Phật để hóa sinh ở Tây phương Cực lạc hoặc Thế giới Lưu Ly của Phật
Dược Sư… Và tột bậc của sắc không chính là do tâm tạo. Tam giới duy tâm. Tâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới
hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư, thế giới này bị quét sạch bởi
tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr.
39).
Sách Truyền
đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”:
Có
người hỏi Thiền sư Triệu Châu:
–
“Con chó có Phật tánh không?
Triệu
Châu đáp: “Không”.
Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh, sao con chó lại không. Không, là cái không đã chút ít giải ở trên. “Cái
không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn
là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không
là “vô”. “Vô”, theo một số luận sư, là vô nhị tướng. Nếu một chân tu miên mật,
họ chẳng những trừ được tạp niệm bất thiện, mà kể cả niệm thiện. Không cứ là
niệm thiện hay tà, hễ khởi niệm là vọng tâm. Ví như người tu Thiền Tịnh song
tu, lúc Thiền chỉ niệm “A Di Đà Phật”, tuyệt đối không có niệm khác xen ngang.
Hễ móng khởi tạp niệm, ấy là vọng/mê.
Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc tôi nghĩ oan cho Tánh Không, thì hàng loạt
suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý
nói Phật tuy lớn lao khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi
mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương
Y sợ rằng sẽ phát cho tôi thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên
không đạt được ở cõi trần.
Nói đạo lộ của Phật là ảo tưởng là bóp méo
kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện
thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Họ sờ
sờ sừng sững sao gọi là ảo tưởng được. Ở Việt Nam có Bồ tát Thích Quảng Đức; có
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hòa thượng Từ Đạo Hạnh,… Nước
ngoài có tổ Ấn Quang, thiền sư Hư Vân, hòa thượng Tuyên Hóa, pháp sư Tịnh
Không, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với
số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một danh sư xứ Ấn ví ấy là
kiến thức be bờ đắp đập (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào), lâu
ngày nước không cạn cũng đục. Còn bậc đắc đạo giảng pháp suốt cả đời người
không lặp chủ đề. Lão pháp sư Tịnh Không riêng giảng bộ Kinh Hoa Nghiêm đến 17
năm, chưa nói giảng nhiều bộ kinh khác nữa. Có vị suốt ba mươi năm không xem
thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ Ba la mật
tối thượng, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy không bao giờ cạn. Tôi, bởi
không đạt được nghị lực “không bình thường” thì gán phù hiệu ảo tưởng cho mình.
Thật muôn lần sám hối!
Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời
đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật, nhưng Phật từ chối. Vì Phật không phải
thần linh. Phật là người minh bạch, hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên
lời Phật đều là nói về bản thân con người và hoàn cảnh sống; có xa rời thực tế
bao giờ. Phật là chỉ con đường thoát khổ cho ai tỏ ngộ cuộc đời này vốn bể dâu.
Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạy. Thân tâm an lạc, cuộc sống thanh
tịnh chính là Cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứ và vị lai, chỉ giữ lấy
một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi ô trược thậm khổ này, dĩ nhiên quan niệm của
họ không sai. Học Phật chính là phá mê, “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn
cách với các kiếp trước sau tương tục. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnh và
giáo lý của Phật, không có con đường nào khác. Hễ ai thực hiện được Thập
thiện đạo, đã là một trong những người tốt nhất. Thập thiện đạo chính là
máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đế, Tứ chánh cần, Thập
thiện nghiệp đạo, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Lục độ, Lục hòa… là
những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là
thời… Diệt Pháp – hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Tôi cũng được
biết đến rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời“loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn đạo Phật làm Thầy.
Trong tác phẩm văn học khác, tôi cũng từng
sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại rùng mình. Xin lấy một ví dụ trong
nhiều tội đã gieo vào trang viết. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh
của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời sau: “Chứ mô như
cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này (ông đưa tay chỉ). Nhôông hắn
chết lâu rồi. Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh mô
nỏ thấy…”. Ấy là tội “báng bổ tăng bảo”, rất nặng. Xin sửa lại: “Chứ mô như
thằng cha giả cạo đầu làm sư hay
tới nhà con mệ đầu xóm này này…”. Tuy nhiên tôi chỉ đính chính được vài nơi;
nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không
thể sữa chữa ngoài việc sám hối, hồi đầu chuyển tâm về với Phật, dùng chánh
kiến sau đè lên tà kiến trước…
Những dòng chữ của tôi viết trên, dân gian
nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy,
rồi “quy kết” Mạt Pháp. Thực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến
thời Diệt Pháp (sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”.
Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn Pháp được nén vào 4 chữ; chuyên
nhất tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật” sẽ thoát khỏi luân hồi. Việc thoát luân hồi
phải là mục tiêu căn cốt nhất trong một kiếp người. Nếu không nhắm đến mục tiêu
này, “duyên” rơi vào tam ác đạo (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) dễ như bỡn. Chúng
sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính là Tam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà
lửa – Tam giới như hỏa trạch). Con
người không nhìn thấy ngạ quỷ và chúng sinh trong địa ngục (và không chịu tin
mình cũng có “cơ duyên” làm súc sinh) nên không tin đời là Bể Khổ, cũng dễ hiểu
(!).
Trong sự gọi là “Mạt Pháp”, chính
là do cá nhân tôi góp thêm tội nghiệp. Nếu không một lòng hướng về cõi Phật,
không chừng cửa địa ngục A Tỳ đang mở rộng… Kinh chép, thuyết giảng cho ngài
Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình
bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn
và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật,
gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể.
Đó là khổ báo mà trăm ngàn vạn năm người này phải thọ lấy”.
Bước được bước đầu tiên vào cửa Phật, đã
thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời cảnh giới, nhưng thật lạ kỳ là
tôi vẫn có một sự so sánh tai hại mà đến bây giờ ngẫm lại dẫu có chui xuống gầm
giường cũng không hết xấu hổ. Một nhân vật tôi nặn ra đã không thể cưỡng sức
hút ghê gớm của đàn bà (chuyện bình thường của kẻ sơ cơ), tai hại là nhân vật
ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm xanh Phật pháp mới
nhú.
Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi
thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu
luyện mà đạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” ngời sáng bị cơn lốc cuốn
theo mọi tạp vật nhơ uế vùi lấp; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ nắm trọn
hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của… hổ.
Hòa thượng Quảng Khâm từng hàng phục được cả hổ bằng tâm từ; hổ nhường hang cho
ông tu, dẫn con kiếm chỗ ở khác. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã
nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng
phục được hổ. Vạn ác dâm làm đầu;
người tu còn bị “hổ” kia gầm gừ thì đừng hòng nhấc chân khỏi mặt đất.
Ở truyện ngắn khác (may là chưa công bố và
đã có dịp chỉnh lại) tôi mô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương
thân lánh nạn, rồi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật
không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong
thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong
trăm ngàn người, để thấy người chân tu Tịnh độ nguyện sanh về Tây phương nước
Phật thì tôi phải tìm mờ mắt. Là bậc đại chân tu, tài sản của họ chỉ vài bộ y,
mỗi ngày ăn một đến hai bữa đạm bạc không thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ
nghèo”; họ không nắm tiền bạc, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn
tống kinh điển, hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựa núi
Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quả,
thực hiện ước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng
Tuyên Hóa tu đắc đạo, khi thiêu hiện xá lợi, trong một buổi giảng Kinh Địa Tạng
năm 1969 đã có đề cập vấn đề này: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy
là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường
(…). Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì
chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn
của Thường Trụ. Bởi Thường Trụ là ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng;
nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu
thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người “của chính
tôi” chạy đến chùa chiền xâm hại sẽ tội nặng hơn cả “mang lông đội sừng”. Kinh
Đại thừa trang nghiêm bảo vương nêu chi tiết những ai
phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báo ở địa ngục nhiều kiếp thật là
khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện với
hình hài dị tật.
Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt
nghĩa: Phật không phải thần thánh. Dĩ nhiên, người chứng sơ quả tức siêu phàm
nhập thánh, nghĩa là thần. Quả vị cao hơn như sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần
thông. Song không bao giờ có chuyện những người đó thị hiện trước chúng sanh.
Do chúng sanh cần tự ngộ; hiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ, đánh
mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không tự ngộ dẫu có tu được chút thần thông
cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyển sai lầm
của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật;
chập chững theo Phật, tôi lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ
hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánh là tín đồ của tôn giáo
(trong khi đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo Phật có
sẵn trong tâm vẩn đục kia, hãy tin ở chính bản thân mình, trọn làm theo lời ta
sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin như vậy mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn:
“Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe
giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt được chân Pháp.”
Gyalwang Drukpa XII gọi đó là “thông điệp
vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: “Nếu như vị A-La-Hán nghĩ thế
nầy: Ta chứng được quả vị A-La-Hán, thời chính là còn chấp-trước tướng ngã,
nhân, chúng-sanh, thọ-giả”. Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng quả (dẫu
là quả Tu đà hoàn thấp nhất), người ấy sẽ bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ
đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống… địa ngục.
Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là
Phật, Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng (Phật Di
Lặc), Hàn Sơn, Thập Đắc (Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A
Di Đà),…). Chuyện về tổ Ấn Quang (được xem là Ngài Đại Thế Chí tái lai hóa độ)
là một minh chứng điển hình.
Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã
có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu
pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánh. Pháp thí dụ không
thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai
giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếp); đạo
khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh – Lão Tử). Chúng ta thường dịch Thiền là
suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn trống không. Nếu “lập thiền” thì
nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền
Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ,
sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ
thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc
chết nằm trong quan tài rữa nát… Trụ lại ở hiện
tượng người ấy không xen cảnh khác. Còn nếu ngồi suy tư mặc tưởng, tâm chụp
cái này săm soi chưa chán đã chê rồi với cái kia như đứa trẻ trước đống đồ chơi
thì chẳng phải thiền nữa. Hoặc ngồi thiền niệm 6 chữ Phật hiệu; mỗi “Nam mô A
Di Đà Phật” là một mắt xích, cứ thế nối nhau thành sợi xích kéo cỗ máy phi thời
gian đi miết, nếu một niệm xen vào nghĩa là sợi xích bị đứt, trở thành thiền… loạn.
Đời nay vẫn có nhiều bậc tu trì giới một
cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người
nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Rồi múa rìu qua mắt thợ khuyên họ hãy
sống một cách tự nhiên, tùy duyên để có thể viên thành chánh quả. Đúng là Phật
đưa ra lối tu trung đạo (hành theo Bát
chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chính phải ngày
vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phật, lạy Phật, ở chùa
thì ai nấy 3 giờ sáng là đã thức dậy công phu. Đối với các bậc thượng căn thì
mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên
núi bế quan, chỉ ăn rau củ kiếm được, nhiều lúc suýt mất mạng vì thiếu thốn.
Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng
băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt cũng gục ngã. Nghị lực tâm phi thường
đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất
khổ nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí; luyện đan, luyện gang
thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Hòa
Thượng Tuyên Hóa đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái
sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong Tam ác đạo, hãy chọn.
Thế nên trước
đây đọc Thiền luận, tôi đã gán yếu tố
“cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộ. Kinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm,
nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. (Nếu
người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ
thành Phật đạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là “sẽ thành” như Phật
nói: “Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành”; còn thành lúc
nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm
chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lên thế giới của Phật A Di Đà. Xin dẫn
câu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ
đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong vô vàn đời quá khứ của ông không thấy có “nhân”.
Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó
các ông không thấy: có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ,
ông trèo lên cây; giữa lúc không còn hy vọng nào ông ngửa mặt lên trời “Nam mô
Phật” cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết căn mạng. Nhân lành
ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm
vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắn kiếp nào trên đường dài tiến về nước Phật,
có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được mảy may phước đức, có người tu
theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn là phàm phu.
Cũng như bản thân viết những dòng này đã
vô cùng hổ thẹn. Phật học là đại dương, tôi chỉ có một vốc nước để soi khuôn
mặt nhớp nhúa của mình. Tôi đã phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc mình chưa
đủ sức đuổi theo nó. Nên dăm lời thô mộc là hiểu đúng hơn chút xíu với những gì
chưa thật đúng, và sự hiểu này cũng cần phải được chỉ dạy thêm từ những bậc
chân tu Phật Pháp.
N.N
>
Discussion about this post