KÍNH CHIẾU HẬU
Huỳnh Trung Chánh
Thanh
thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần
vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn
Tám Thà – tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do
bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng. Thanh cắm cúi
học suốt ngày, không giao du la cà hàng quán, không chạy theo nếp sống
phóng túng tình cảm như bạn bè cùng trang lứa. Vừa mãn niên học –
năm thứ hai Đại Học Nông Nghiệp Cần Thơ- , Thanh vội vã về quê nhà
tại xã Thoại Sơn vui sống với cảnh ruộng vườn. Về nhà thì Thanh thoải mái đóng vai
trò “thằng Út” cưng yêu của mẹ và các bà chị. Đúng ra, chàng thích nếp
sống thiên nhiên cây cỏ, quanh quẩn bên cha mẹ, vun xới bón phân gốc
xoài, gốc mít, hay thỉnh thoảng, bị nài ép lắm cũng chạy ra quán ăn
Sơn Hà của chị Hai, tọa lạc dưới chân núi Sam, đỡ đần cho chị vào
thời điểm đông khách. Xế trưa hôm đó, trời mưa lất phất nên thực khách
cũng thưa thớt, Thanh rảnh rỗi lơ đãng nhìn xe cộ vùn vụt ngược xuôi
trên đường lộ, vô tình chứng kiến cảnh đôi trai gái đèo nhau trên chiếc
xe gắn máy phóng như bay về hướng Tịnh Biên bất chấp khúc đường cong trơn
trợt, bỗng nhiên, chiếc xe hàng phía trước tránh xe ngược chiều đột
ngột nép sát lề, khiến anh chàng lái gắn máy trờ tới hoảng hốt thắng
gấp lết bánh, xe bị giựt xoay ngang kéo lê anh ta dưới mặt đường, còn
cô gái ngồi hờ hững phía sau bị hất bay vào lề. Tiếng rít ghê rợn,
khiến bà con cô bác đang ngồi nhâm nhi trong dãy hàng quán bên đường túa
ra xem. Thanh cũng bước ra ngay mà vẫn lọt ở vòng ngoài. Chàng trai bê
bết máu, nhưng có lẽ vết thương không đến nổi nguy hiểm, riêng cô gái do
không đội mũ an toàn, lại rủi ro té đập đầu vào cạnh phiến đá bên
lề, lòi óc nằm “thẳng cẳng”, dường
như đã tắt thở. Trong khi kẻ bàng quan đang xúm xít vây quanh lo lắng
cho sanh mạng cô gái, thì chàng trai cố lê lết ngồi dậy, liếc nhìn cô
gái, rồi bỗng anh ta chồm dậy, dựng xe lên, lấm lét nhìn quanh, rồi
đột ngột nổ máy phóng nhanh, khiến không một ai có phản ứng ngăn cản
gì được. Thanh đang tần ngần, cảm thương cô gái nạn nhân nằm bất động
thê thảm trên vũng máu, bỗng nghe tiếng chị Hai réo vang: “Út ơi! Út!”. Chàng
vội lên tiếng: “Dạ! Em nghe rồi! Em về liền!”.
Thanh
lững thững về giúp chị thu dọn quán mà hình ảnh ghê rợn của nạn
nhân cứ chập chờn ám ảnh. Đêm đến, Thanh vẫn trằn trọc bất an về
thân phận bọt bèo của kiếp người, giấc ngủ mộng mị nặng nề đến
thật chậm… Trong chiêm bao Thanh nghe tiếng cô gái lạ gọi chàng, âm
điệu ngọt ngào như điệu hát nỉ non: “Út
ơi! Đừng bỏ em một mình! Trời lạnh
quá! Trời lạnh quá, sao đành bỏ em một mình! Út ơi!”. Thanh không chống cự
nổi sức quyến rủ của điệu hát, chàng mở cửa bước ra ngoài, ngoan
ngoản theo cô gái lạ, dạo chơi quanh vườn, đoạn nàng kéo chàng ngồi
xuống gốc nhãn thân mật choàng vai chàng, nhưng Thanh vốn nhát gái nên
ngay ngắn ngồi cạnh mà chẳng dám suồng sã rọ rạy tay chân. Hai người
tỉ tê tâm sự cho đến khi nghe tiếng gà gáy, thì cô gái hấp tấp từ
giã, Thanh cất tiếng can ngăn nhưng thoát cái nàng đã biến đâu mất.
Thanh giật mình, ráng mở mắt ra, bỗng hốt hoảng khám phá ra cảnh mình
đang ngồi dựa vào gốc nhãn trước nhà, ngủ gà ngủ gật, mà miệng
vẫn còn ú ớ gọi kẻ trong mơ… Thanh cuống quýt chạy nhanh vào nhà,
chui rúc trong phòng riêng trùm mền kín, hi vọng vụ ngủ bờ ngủ bụi kỳ
quái nầy không một ai hay. Thanh cảm thấy mệt mỏi, nhưng cố gắng che
đậy giữ mọi sinh hoạt thường nhật, mặc dầu óc chàng bần thần rũ
rượi vì suốt ngày cứ quay cuồng bởi giấc mơ ma quái. Chàng lo lắng thầm
nghĩ: “Có lẽ, do mục kích thảm cảnh của cô gái mà chàng trằn trọc,
rồi nằm mơ. Thế nhưng, cái động lực nào thúc đẩy chàng hành động
như kẻ mộng du, lang thang rời nhà, quả khó lòng giải thích?” Cử chỉ
kém tự nhiên của Thanh làm sao thoát khỏi tầm quan sát của bà mẹ.
Mẹ lo lắng gặng hỏi con mãi, nhưng Thanh một mực chống chế cho rằng
vì mải mê đọc sách mà mất ngủ, nên hơi uể oải bần thần vậy thôi. Đêm
đó, bà mẹ âm thầm canh chừng con, chờ con ngủ yên mới an lòng trở về
phòng mình nghỉ ngơi. Quá nửa đêm thức giấc, bà mẹ hấp tấp trở dậy
sang phòng con thăm chừng nhưng thằng Út đã biến dạng tự lúc nào? Bà
mẹ hoảng hốt kêu ầm lên, dựng cả nhà dậy để thắp đèn lục soát
trong ngoài. Cuối cùng, chị Hai cũng tìm thấy em, đang ngồi lơ láo
dưới gốc cây nhãn, chị phải lay mạnh kêu réo một lúc mới hoàn
hồn. Đến tình huống nầy thì Thanh
đành phải kể lể tường tận diễn biến nội vụ, từ lúc đang ngủ bỗng nghe
trong mơ điệu hát ma quái “Đừng bỏ em một mình!” lôi cuốn, rồi như kẻ
mộng du chàng theo cô gái lạ lãng đãng dạo chơi quanh khu vườn nhà, cho
đến khi trời gần sáng thì tựa nhau bên gốc nhãn tâm sự. Bà mẹ cẩn
thận động viên người nhà canh giữ Thanh một phút chẳng rời, nào ngờ,
vào lúc nửa khuya, chị Tư đang trực phải vào phòng vệ sinh giây phút trở
ra, thì Thanh đã biến đâu mất rồi. Lần nầy, cả nhà đổ xô tìm kiếm
quanh vườn chẳng dấu vết, cuối cùng mới bắt gặp Thanh đang lơ láo
ngồi dựa bên vách rào khu nhà bên cạnh. Tình trạng đã khẩn trương
lắm rồi, bà mẹ cuống cuồng đến chùa Tây An xin khóa lễ cầu an cho
con, rồi đến Miễu bà Chúa Xứ khẩn cầu phù hộ. Cảm thấy chưa an
lòng, bà lăng xăng cầu cứu mấy vị thầy bùa, thầy pháp không ngại
tốn kém nhưng người nào miệng mồm cũng khoác lác khoe khoang là “cao
tay ấn” mà trổ tài thì “trớt quớt” chẳng ra gì… Thế rồi, gặp bất
cứ ai, dù thân hay sơ, bà mẹ cũng than khóc kể lể bệnh trạng con, cầu
mong có người chỉ dẫn để tầm cầu vị pháp sư tài đức chuyên trừ nạn
quỷ ám nầy. Câu chuyện ma ám nhanh chóng trở thành bản tin thời sự nóng
nổi cho thiên hạ có đề tài hấp dẫn bàn bạc. Anh Sáu, người tài xế
xe ôm, sáng sớm như trường lệ, vào quán Sơn Hà nhâm nhi cà phê chờ
khách, vừa bắt được tin nầy liền sốt sắng hỏi chủ quán:
–
Cô Hai à! Nghe nói cậu em của cô, bị cô gái té xe chết thảm hôm trước
đeo theo ám quấy phá phải không cô?
–
Dạ phải! Má tui đôn đáo khẩn cầu chạy chữa khắp nơi, mà tình trạng
ngày càng tệ hại! Rầu quá, lo sợ quá, chú Sáu ạ!
–
Tưởng gì, chứ vụ oan hồn uổn tử đeo đẳng nầy cũng dễ trị mà! Thứ
dữ “dàn trời mây” mà sư Tâm Bi cũng thu phục như giỡn chơi!
– Hay quá! Vậy xin chú Sáu hướng dẫn gia
đình em gặp sư, tốn kém bao nhiêu chúng em cũng không nề hà gì cả!
–
Tầm bậy nà! Sư chẳng bao giờ nhận tiền bạc lễ lộc của ai! Sư căn
dặn đến gặp sư chỉ cần mang theo “tấm lòng chân thật” là đủ rồi!
–
Sư đúng là bậc tu hành hiếm có.
Cô
Hai ngập ngừng giây phút, rồi ra vẻ dè dặt:
–
Mà… mà…do nhân duyên nào chú Sáu biết được sư vậy? Chú từng
chứng kiến sư trị bịnh đôi lần, phải không chú?
–
Hơn 10 năm về trước, tôi vượt biên
ngả miệt thứ(1) Rạch
Giá, bị bắt giam chung với sư một thời gian, và được sư hướng dẫn
dạy dỗ, nên tuy chưa quy y mà tôi vẫn tôn kính người là bậc ân sư. Sau
nầy tôi vẫn tiếp tục liên lạc với sư, nhân đó mới mục kích tường
tận tài cứu nhân độ thế của sư, cô ạ!
–
Uả! Sư cũng vượt biên bất thành sao chú?
–
Không! Sư bị giam giữ về tội hoạt động tôn giáo trái phép. Sư vốn có
lòng bi mẫn đối với những vong linh lạc loài, những oan hồn uổng
tử… đặc biệt là những chiến sĩ vì nước vong thân. Sư giải thích
là chiến sĩ luôn luôn được nhồi sọ là phải xả thân cho tổ quốc, nên
có người khi chết mà tư tưởng đó vẫn bám chặt trong tâm chẳng rời, khiến
cho vong linh ôm ấp mãi khó siêu thoát. Đất nước yên rồi, mà không
thấy ai quan tâm đến họ, nên sư lủi thủi một mình, len lỏi tìm đến
các chiến trường cũ, âm thầm tụng niệm cầu cho vong linh tử sĩ sớm
siêu thoát. Đi lang thang, làm chuyện khó tin nầy, nên nếu sư từng bị
giam giữ đôi lần vì nghi ngờ có hành động ám muội thì cũng bình
thường thôi. Sư có tâm nguyện cứu độ vong linh, cảm hóa vong linh bằng
tình thương vô bờ, nên vong linh nào gặp sư cũng ngoan ngoản quy y cả.
–
Hiện giờ sư ngụ ở đâu vậy chú Sáu?
–
Sau khi ra tù, thì có biến cố tháng tư năm 1978(2), tức vụ trên ba ngàn đồng bào ta tại xã Ba
Chúc, quận Tri Tôn bị bọn lính Pôn Pốt tràn qua biên giới tàn sát một
cách thảm khốc, nên sư quyết định về núi
Tượng dựng am tranh, hầu gần gũi với những vong linh chết oan uổng
nầy để ngày đêm tụng niệm khai thị cứu giúp họ sớm siêu thoát.
–
May thiệt là may! Vậy xin chú Sáu làm ơn đặc biệt giới thiệu gia đình
tôi cho sư nhé!
–
Với bất ai sư cũng tận tâm tận lực, nên đâu cần phải long trọng giới
thiệu chi cho bận bịu, cô Hai! Gia đình cô Hai cứ tự nhiên đến núi
Tượng, hỏi thăm ông đạo Bi thì ai cũng biết. Nhớ nhé! Người dân quê
quen gọi là ông đạo Bi, chớ danh xưng đại sư Tâm Bi, rắc rối họ chẳng
biết đâu mà mò!
Không
chần chờ giây phút nào cả, Cô Hai tạm đóng cửa tiệm rảo
nhanh về nhà, hợp với mẹ và cô Tư đón xe “áp giải” Thanh đi Ba Chúc,
Tri Tôn. Cô Hai vốn lanh lợi hoạt bát, nhưng khi xuống xe tại chốn vắng
lặng “ma quái” xa lạ nầy bỗng cảm thấy ớn lạnh rùng mình, cô lo sợ
bâng quơ nên tình cờ có một thanh niên cỡi xe đạp đi ngang, định cất
tiếng thăm hỏi đường đi mà chần chờ để vuột mất . Cô bối rối nhìn quanh,
chợt thấy ngôi chùa cổ Tam Bửu gần đó, vội mon men đi đến tìm gặp
được một lão niên tóc bới theo truyền thống Tứ Ân, đang quét lá
trước sân, cô mừng rỡ chào hỏi:
–
Thưa Ông đạo! Chúng con muốn tìm am Ông đạo Bi núi Tượng mà không biết
ở đâu, xin Ông đạo làm ơn hướng dẫn dùm!
–
Tìm đạo Bi để trừ tà hả?
–
Dạ! Dạ!
–
Am đạo Bi ở cạnh hang Vồ Đá Dựng đó!
–
Thưa hang Vồ Đá Dựng ở đâu, tụi con cũng không biết Ông đạo ạ!
–
Hì! Hì! Cứ theo theo đường trước mặt lên núi, đi một đổi thấy cái nhà
sàn gọn ghẽ, trước cửa có cây vú sữa lão và cây mít tơ, thì đúng
là am đạo Bi chẳng sai!
Một
đổi là bao xa, bao lâu… cô Hai “bù trất” nhưng chẳng dám lải nhải e
“mết lòng”, cứ dẫn bừa thân nhân theo
đường mòn lên núi, dò dẫm từng bước mà đi. May là núi Tượng thấp
lè tè, nên “phái đoàn” lần mò “một đổi”, độ chừng một bửa ăn – ăn
nhanh hay chậm tùy người mà đoán – bỗng gặp cái nhà lá xinh xắn chông
chênh trên sườn núi – có lẽ tuy nền mặt tiền nhà tựa trên đất đá,
nhưng phần hậu, vị thế lồi lõm bất thường nên phải dựng theo lối
nhà sàn – Nhận thấy sân trước nhỏ hẹp có cây vú sữa và cây mít lủng
lẳng trái, đúng theo chỉ dẫn, nên cô Hai bèn rón rén bước lên bục đá
ghé mắt nhìn vào. Vị tu sĩ mặc bộ đồ lam, có lẽ vừa chấm dứt
khóa lễ, thỉnh chuông, chắp tay xá bàn thờ nghi ngút khói, rồi lui
ra. Chị kính cẩn lên tiếng:
–
Thưa sư! Dạ gia đình chúng con…
–
Mời vào! Tất cả mọi người tự nhiên vào nhà, rồi từ từ kể chuyện…
Bước
vào căn nhà trống trơn, khách luống cuống chẳng biết đứng ngồi ở
đâu, thì sư đã trải chiếu ra mời ngồi, sư cũng niềm nỡ hỏi thăm danh
tánh từng người. Vừa an vị, cô Hai vội ra hiệu cho cả nhà nghiêm
chỉnh, hầu cô sẽ thay mặt thưa thỉnh sư cứu chữa cho Thanh, nhưng chưa kịp
mở lời bỗng nhận thấy dường sư đang trầm ngâm suy nghĩ chuyện gì
khác, đành phải ngừng lại. Thế rồi, bỗng nhiên sư đứng dậy bước đến
cửa, ngước đầu chắp tay cất tiếng: “Xin chư Hộ Pháp cho phép vong nữ
vào, để tăng tôi có đôi lời cần bàn bạc!”. Dứt lời, sư khép cửa
lại, nói trống không như đang đối diện với kẻ vô hình nào đó: “Con cứ
tự nhiên, chẳng có gì phải lo sợ cả!”
Cảm
thấy có hồn ma lẩn quất đâu đây, cả đám cảm thấy ớn lạnh rởn gai
ốc, cô Tư, người yếu bóng vía nhất mặt mày trắng bệch như mất hết
cả máu ôm vai mẹ cứng ngắc. Sư tiếp tục màn độc thoại, giọng ngọt
ngào: “Con chết thảm, con cuống cuồng kinh hãi, vì bỗng thấy tối tăm
mù mịt, u mê không biết phải làm sao nên đành bám đại theo cậu nầy
hầu có nơi nương tựa phải không?.. Tội cho con quá! Nhưng âm dương hai
cõi khác nhau, con đeo đẳng chẳng lợi gì cho con, mà khiến cho người
ta bệnh hoạn khốn đốn, cả nhà người ta chịu khổ… thì nghiệp con
càng nặng nề, biết đến bao giờ mới siêu thoát được… Chi bằng con
theo thầy tu tập, nghiệp chướng lần lần tiêu tan, rồi sớm tái sanh về
cõi lành hưởng vô vàn hạnh phúc… Con tu sẽ có kết quả chớ, nghiệp
con khá tốt mà! Con tạm thời tối tăm chỉ vì tai nạn khủng khiếp
khiến cái tâm sợ chết bao trùm, che lấp không cho các hạt giống khác sanh
trưởng nên u mê ám chướng chẳng biết đường về nhà, chẳng biết mình
là ai? Nếu con ý thức được rằng sống
chết là sự thường, ai cũng từng trải qua hằng hà sa số kiếp, chết
rồi lại tái sanh, nên chết chẳng có gì đáng sợ cả… thì cái u
mê đó sẽ giảm lần… Con quyết định theo thầy tu tập phải không? Vậy
hứa chắc không đeo đẳng một ai cả nhé!.. Ờ! chờ khách về thầy sẽ
làm lễ quy y cho con…Từ nay, con sẽ có pháp danh là Bi Hoa nên nhớ
lấy!..” Vừa chấm dứt phần đối thoại với kẻ vô hình, sư liền chuyển
sang gia đình Thanh, ôn tồn cất tiếng:
–
Mọi việc coi như ổn thỏa rồi! Vong linh đồng ý quy y với thầy và ở
đây tu tập. Bà Tám cứ yên tâm dẫn cậu con về nhà, chẳng có gì đáng
lo sợ nữa!
Bà
Tám dáo dác như chẳng tin lỗ tai mình, chưng hửng hỏi:
–
Uả! Uả! Thầy trị bệnh “tà” cho cháu như vậy là xong rồi sao thầy?
–
Đúng vậy! Thầy đã thu phục vong
linh rồi, đã là đệ tử Phật thì đâu còn quấy phá ai nữa? Có điểm là
thầy khuyên bà Tám nên thiết trí bàn thờ Phật tại nhà, cho cháu
Thanh có cơ hội thắp hương lễ Phật
và niệm chú Chuẩn Đề mỗi ngày chừng bảy biến, ngoài ra, nếu hai mẹ
con hàng tháng đến chùa lễ sám hối tiêu trừ nghiệp chướng lại càng
tốt.
Đoạn
quay qua Thanh, thầy dặn dò:
–
Con vốn hiền hậu mềm lòng nên dễ
xúc động trước cảnh chết thảm, nhưng bi lụy suông không hẳn là tốt,
nếu con phát tâm thành nguyện cầu cho họ sanh về cõi lành hay niệm
Phật, niệm chú vãng sanh… hồi hướng cho họ thì lợi lạc vô cùng…
Cô
Hai từng mục kích nhiều thầy bà, thiết trí nghi thức rườm rà, lễ lộc
linh đình, bắt ấn, vẻ bùa, đọc thần chú bí hiểm rùng rợn…, có
vị còn cầm roi dâu quất tróc tróc dọa nạt trừng trị nặng nề “con
ma”, rồi bắt ma nhốt đời đời vào hũ dán bùa Lỗ Bang… mà kết quả chẳng
ăn thua gì, huống chi nhà sư nói năng hiền khô, khuyên bảo vài lời…
mà cho rằng đã trừ khử xong cái nạn ma nữ, thì làm sao tin cho nổi.
Cô ngập ngừng vặn hỏi:
–
Dạ thưa thầy! Thầy không giam nhốt con ma vào hũ, rủi nó sổng ra chạy
theo thằng Thanh, thì nguy cho gia đình con lắm thầy à!
–
Thầy chưa từng nghĩ đến chuyện trừng phạt giam nhốt ai con à! Đối
với thầy thì các vong linh mà người ta gọi là ma hay quỷ, một loại
chúng sanh trong cõi Quỷ Thần, cũng là Phật sẽ thành, nên thầy rất
thương yêu kính trọng, đâu có nỡ lòng nào hành hạ họ cho đành. Thầy đối
xử với họ với lòng bi mẫn chân thật nên tin tưởng họ cũng tương kính
mình, vì vậy, hễ vong linh đã hứa, thì thầy tin chắc không sai…
–
Thưa… thưa…
–
Được rồi! Nếu con vẫn còn chút nghi thì thầy bảo Bi Hoa trực tiếp hứa
một lời cho gia đình con yên tâm…
–
Sư nhìn sang hướng khác lên tiếng: “Bi Hoa! Con hãy kể đầu đuôi nội vụ
và tỏ bày tấm lòng của con cho gia đình bà Tám rõ. Ơ… con tạm nói
chuyện qua thân xác cô Tư cũng được!”
Cô
Tư nghe nói sợ điếng nhưng chưa kịp phản ứng gì, bỗng “ngớ người” ra,
rồi lên tiếng với một giọng khác hẳn:
–
Thưa bà Tám và các anh chị! Con là Nguyễn thị Bông, xin Bà và anh
chị tha lỗi đã quấy rối cả nhà mấy ngày qua. Số là ngày đó con
theo anh bạn tên Út đi chơi, đang lúc tâm tình vui nhộn, ảnh cao hứng
phóng xe như bay, khi đến chân núi Sam bỗng gặp nạn, con chỉ hét một
tiếng kinh hoàng rồi tối tăm không biết gì nữa. Thoạt thấy tối tăm, con
chới với sợ hãi, càng sợ lại càng quýnh quáng mù mịt chẳng biết
mình là ai? nhà cửa đâu nữa? Chỉ nhớ láng máng một điều là đang đi chơi với anh Út mà
thôi. Trong cơn u mê bối rối tột cùng đó, bỗng nghe tiếng gọi “Út ơi! Út!”,
rồi có tiếng trả lời: “Dạ! Em nghe rồi! Em về liền!”, con mừng rỡ,
yên trí đó là anh Út bạn con, nên cứ nương theo âm thanh đó mà bám
theo chẳng dám rời… Lần lần thì con cũng biết anh Thanh nầy không
phải là anh Út, nhưng con đang mù mịt bối rối bất an chẳng biết phải
làm sao, đành phải tiếp tục theo anh nương tựa cho đỡ sợ, chớ thật
tâm con đâu cố ý quấy phá ai. Giờ đây, con đã được thầy thu nhận, con
bớt u mê phần nào rồi, con cảm thấy an ổn lắm, nên con xin cảm ơn gia
đình bà Tám đã dẫn dắt con đến đây. Con cũng xin bà, nếu tiện thì
nhờ ai nhắn cho má con là cô Ba bánh lọt chợ Nhà Bàng, là “con đã
theo thầy tu hành, con an vui lắm, xin má bớt lo buồn!”
Dứt
lời, bỗng cô Tư “rùng
mình”, ngơ ngác nhìn quanh. Bà Tám
không kịp giải thích cho con gái, ra dấu cho các con đồng chắp tay vái
sư:
–
Gia đình con chân thành cảm tạ ân đức sư, chúng con xin phép được cúng
dường…
Sư
khoát tay chận lại:
–
Thầy không có nhu cầu gì, các con đừng quan tâm đến chuyện cúng
dường, huống chi thầy chỉ giúp gia đình con một việc nhỏ, mà còn
thâu được đệ tử ngoan thì kể như có lời rồi. Hôm nay, coi như mình có
duyên lành gặp nhau hàn huyên một buổi vậy thôi, kể lể ân nghĩa mà
chi con.
Cô
Hai tuy được anh Sáu xe ôm cho biết sư trị bệnh miễn phí, nhưng nhận
sự giúp đỡ mà không dâng cúng tiền tài ai chẳng áy náy, chần chừ
một lúc cô chợt thấy cái bàn thờ Phật trống hoát, vì ngoài cái có
lư hương và quả chuông nhỏ, chẳng có tượng Phật nào cả, cô hi vọng
có thể xin cúng dường một tượng Phật được, nên dò hỏi:
–
Thưa thầy! Xin thầy cho gia đình con cơ hội được đóng góp chút ít công
đức, thí dụ như một pho tượng Phật ngọc thạch Miến Điện trên bàn
thờ được không thầy?
–
Thầy tán thán lòng thành của con, nhưng rất tiếc là khi về dựng
thảo am nầy, thầy không có ý phát
triển đạo tràng nên cũng không dự kiến tôn trí tượng Phật con ạ!
–
Uả! Bộ thầy bị ai ngăn cấm sao?
–
Nói bị cấm đoán thì cũng không đúng hẳn. Thật ra, thì sau năm 1975 khi thầy rời chùa Giác
Viên để âm thầm theo đuổi bi nguyện cứu giúp vong linh tử nạn vì
chiến tranh, thầy đã không đăng ký vào một tổ chức tôn giáo nào
thành thử trên nguyên tắc thầy không có quyền truyền đạo: thuyết
giảng, hành lễ, thâu nhận đệ tử… Mười mấy năm về trước, vấn đề đi
lại, hành đạo, tụ hợp… tương đối bị kiểm soát khá khắt khe, do
đó, muốn hoàn thành tâm nguyện cư ngụ ở đây hầu được gần gũi cứu
giúp vong linh đồng bào bị lực lượng Pôn Pốt tàn sát, mà không bị
phiền hà vô ích, thầy chủ trương hội nhập vào nếp sống thôn dã như
một nông dân bình thường, thận trọng giao tiếp và vì vậy mà thầy đã
quyết định không tôn trí tượng Phật, không thuyết giảng và quy y cho ai
ngoại trừ các vong linh…
–
Cô Hai vội chống chế:
–
Hiện nay, vấn đề tôn giáo đã cởi mở rồi thầy ạ! Giờ nầy dẫu thầy
có tôn trí tượng Phật vàng, Phật bạch kim, Phật ngọc, to lớn cỡ nào
cũng chẳng gặp trở ngại gì đâu! Vã lại, tượng Phật ngọc Miến Điện
hấp dẫn Phật tử lắm thầy ạ!
Có
lẽ nhận thấy cô Hai cứ kèo nài mãi thỉnh nguyện cúng dường tượng
ngọc thạch, sư nghiêm nghị cất tiếng:
–
Tới giờ phút nầy thầy vẫn nghĩ am lá nầy chưa có nhu cầu tôn trí
tượng Phật, mà nếu như cần, thì thầy cũng chỉ chọn loại tượng khiêm
tốn bằng gỗ, xi măng mà thôi! Thầy nghĩ tượng Phật là phương tiện
nhắc nhở ta tưởng nhớ đến hành trạng, đức độ, những lời giáo huấn
của Đức Bổn sư để ta nương theo đó thành tâm tu tập, trở về với cái
chân tâm bản tánh của mình. Theo tinh thần nầy thì tượng vàng, tượng
ngọc thạch đâu có điểm nào cao quý hơn tượng gỗ, xi măng hay giấy. Người
Phật tử chân chánh luôn ý thức minh bạch rằng tượng là một hình
thức bên ngoài, một phương tiện để giúp ta nương theo đó thành khẩn tu
tập trở về với chân tâm Phật tánh của chính mình; ngược lại, những
ai bám víu cái hình thức hào nháng bên ngoài, hùa nhau vẽ vời là
tượng Phật linh thiêng, vĩ đại, quý giá… hầu khai thác những kẻ mê
tín chạy theo cầu cạnh, xin xỏ lợi lộc… để trục lợi, thì rõ ràng
chính là kẻ đã nhân danh Phật để phỉ báng Phật Pháp vậy…
Sư
trâm ngâm giây lát rồi tiếp lời:
–
Đức Phật thầy Tây An, Giáo chủ Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhân muốn chỉ rõ
cái lề lối lạm dụng Phật tượng của các vị nhân danh tu hành, nhân
danh Phật mà làm chuyện bại hoại, nên chủ trương dùng tấm trần điều(3)
tượng trưng Phật Pháp, đó là một cảnh tỉnh tuyệt vời… Phần thầy, thầy
cũng có lý do riêng… Thanh! con
mỉm cười chắc đã hiểu ý thầy rồi, đúng không con?
Thanh
tuy ít nói, nhưng lại có nhận xét tinh tế:
–
Thưa ngay lúc đầu con đã nhận thấy bàn thờ không tượng Phật nhưng lại
có tấm gương. Con đoán rằng tấm gương cũng biểu tượng cho đạo Phật
tợ như tấm trần điều, nhưng ý nghĩa sâu xa của tấm gương quả thật con chưa thông
suốt, kính xin thầy rộng lòng chỉ dạy!
–
Tấm gương soi phản ảnh diện mạo mình, nó là phương tiện nhắc nhở
mình biết nhìn lại mình thấy rõ con người thật của mình, nhờ vậy
mình biết tỉnh thức tự quán sát lỗi lầm để ngày đêm tu sửa sao cho
hiển lộ Phật tánh xưa nay của mình…
Thanh
reo vui:
–
Giờ thì con hiểu rõ ra rồi: Bậc tu hành cần “hồi quang phản chiếu” nhìn
lại mình để con đường tu không lầm lạc, tương tợ như người tài xế
cần nhìn kính chiếu hậu mới tránh khỏi tai nạn hiểm nghèo.
Tháng 11.2010
Lời
cuối truyện:
Truyện
nầy viết do gợi ý từ chuyện “Vong hồn theo phá Niệm Phật được giải
kết” trong tập “Những chuyện Niệm Phật Cảm Ứng – “Mắt thấy tai nghe”
của cụ bà cư sĩ Lâm khán Trị, xuất bản tại Đài Loan 1969 (bản Việt ngữ không ghi
dịch giả). Chuyện kể rằng: Năm năm trước tại Đài Bắc, có một thanh
niên chạy lái xe lạng lách cẩu thả khiến cô gái ngồi sau té chết
chạy chỗ mà anh ta vẫn chạy tiếp tục. Trong khi có nhiều kẻ hiếu kỳ
bu quanh thương xót cho người vắn
số, thì có tiếng gọi to: “A Tam!”, trong nhóm hiếu kỳ có tiếng
đáp: “Tôi đến đây!”.
Kể từ đó, anh thợ hớt tóc A Tam, hàng đêm khi anh đang trong cảnh giới
nửa tỉnh nửa mê, cứ bị một cô gái đẹp rủ đi chơi, cho đến gần sáng thì
ngủ gục dưới cột đèn điện. Tình trạng nầy tái diễn mãi, anh thợ A
Tam lánh về quê, vẫn bị ma nữ theo đuổi như cũ. Gia đình cung thỉnh
vị thần Vương gia Công qua đồng cốt, thì thần cho biết: “Cô gái đi chơi
với bạn tên A Tam, khi chết thảm vong linh mờ mịt không chỗ nương, nghe
tiếng gọi A Tam và A Tam lên tiếng, vong linh tưởng là bạn trai mình
nên tức thời quấn quýt bám theo chẳng rời”. Về sau, nhờ được tụng
kinh siêu độ mà người sống và vong linh đều an lành
Ghi
chú:
1. miệt thứ: vùng đất biển
Rạch Giá nằm sát địa phận tỉnh Cà Mau.
2. Biến cố tháng tư năm
1978: Vào ngày 18 tháng 4 năm 1978, quân Pôn Pốt từ Campuchia tràn vào xã Ba
Chúc (nay là thị trấn Ba Chúc), huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang chiếm đóng 11
ngày đêm. Dân chúng chạy vào hai ngôi chùa Tam Bửu, Phi Lai ẩn náo,
hoặc trốn vào các hang đá sâu và hẻo lánh của núi Tượng như Vồ Đá Dựng,
Cây Da, Ba Lê, Tám Ất… để ẩn nấp, nhưng hầu hết đều bị chúng truy lùng tàn
sát dã man. Số thường dân bị thảm sát tính
ra là 3.157 nhân mạng.
3. Trần điều: Theo tinh
thần giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, thì trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông mõ, chỉ có một tấm Trần
bằng vải màu điều (Phật Giáo Hòa Hảo sửa lại là màu dà hay đà
), tượng trưng cho Phật đạo.
Discussion about this post