– Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Vì quá phiền muộn, người con nhắc đi nhắc lại ba lần như vậy, rồi lại nói:
– Mẹ ta ngày nay không bằng loài súc sinh. Ta thấy loài súc sinh như con hươu, mỗi khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời!
Chuyện con đại trùng trong kinh Đại phương tiện Phật báo ân.
Một hôm khi Đức Phật cùng ngài A Nan đi khất thực từ thành Vương-xá trở về, đến ngoại thành thì thấy có một vũng nước lớn và sâu. Vũng nước này rất dơ, bao nhiêu những cống nước thải, những thứ đại tiểu đều đổ vào đấy. Lúc ấy, ở trong vũng nước, có một con đại trùng, hình thù giống như người, nhưng tay chân lại rất nhiều. Con đại trùng từ xa trông thấy Đức Phật liền ngóc đầu lên khỏi mặt nước, nhìn Ngài mà nước mắt tuôn trào. Đức Phật nhìn thấy, lộ vẻ thương xót, liền trở về núi Kỳ-xà-quật.
Bấy giờ Ngài A Nan muốn biết nguồn gốc của con trùng ấy, liền giữa Đại chúng bạch hỏi Đức Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn! Con trùng trong vũng nước đó đời trước làm nghiệp ác gì mà sinh ở trong vũng nước ấy? Với thời gian là bao nhiêu? Và đến thời nào mới được thoát khỏi thân trùng?
Phật bảo A Nan và Đại chúng rằng:
– Đại chúng lắng nghe Ta sẽ giảng nói. Về đời quá khứ lâu xa, có Đức Phật ra đời giáo hóa chúng sanh, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, vào thời Tượng pháp có một vị Duy-na ở một ngôi chùa nọ, hàng ngày được Phật tử cúng dường đầy đủ. Một hôm có vị khách Tăng đến xin tá túc, Phật tử thấy bèn làm đồ ngon thiết đãi, trong đó dầu tô là món ngon nhất. Vị Duy-na vì lòng bỏn xẻn nên giấu món dầu tô không cho vị khách Tăng dùng.
Khách Tăng biết được bèn nói rằng:
– Sao ngài không đem món dầu tô cúng dường chúng Tăng?
Vị Duy-na đáp:
– Vì ông là khách, chúng tôi là thường trụ, vì thế chúng tôi không cúng dường ông.
Tỳ-kheo khách nói:
– Đó là vật thực Phật tử cúng dường Tăng hiện tiền.
Lúc ấy, vị Duy-na kia lộ vẻ giận dữ, liền mắng vị khách Tăng:
– Sao ông không ăn đồ phẩn giải mà cứ theo tôi đòi món dầu tô đó hoài vậy?
Chuyện cá trăm đầu trong kinh Hiền ngu.
Một thời Đức Phật cùng Đại chúng du hóa ở vùng ven biển. Bấy giờ dân chài đánh bắt được một con cá rất kỳ lạ, mọi người tụ tập lại xem rất đông, Đức Phật và Đại chúng cũng đến xem. Con cá này có hình thù kỳ dị, mình cá nhưng lại có một trăm cái đầu thú như đầu ngựa, heo, chó, rắn, rết v.v…
Đức Phật động lòng thương cảm hỏi cá rằng:
– Cá, có phải là Ca-tỳ-lê không?
– Thưa phải.
Ngài hỏi tiếp:
– Kiếp này làm cá, kiếp sau biết về đâu không?
– Thưa Ngài, kiếp sau về địa ngục A-tỳ.
Vào thời Đức Phật Ca Diếp, có một thanh niên thông minh lanh lợi, mỗi khi tranh luận với ai anh ta đều thắng, nhưng khi tranh luận với các vị Sa-môn anh lại thua. Sau anh ta giả dạng xuất gia làm Sa-môn, vào chùa học những bí quyết biện luận hầu mong tranh luận thắng các vị Sa-môn. Vì anh ta là người giả tâm xuất gia vào chùa học đạo, nên học hành thì thông minh nhưng không phát sinh trí tuệ, mỗi khi tranh luận với các vị Sa-môn anh ta đều thua. Quá tức giận, anh ta chửi mắng các vị Tỳ-kheo là đồ thú, là đầu bò, đầu chó v.v… Do quả báo chửi mắng các vị xuất gia nên từ đó đến nay anh ta luôn bị đọa làm cá trăm đầu hình thù kỳ dị như vậy.
Ngài A Nan và Đại chúng bạch Đức Thế Tôn:
– Kính lạy Đức thế Tôn, Ca-tỳ-lê chừng nào thoát khỏi thân cá?
Đức Phật trả lời.
– A Nan, hãy còn lâu lắm. Trong đời hiền kiếp, một ngàn Đức Phật ra đời và diệt độ, cũng chưa được thoát.
Qua những mẩu chuyện trên, chúng ta thấy rõ quả báo của khẩu nghiệp rất nặng. Một lời nói ác, ta sẽ thọ lấy quả báo đau khổ trong vô lượng kiếp. Vì vậy hãy cẩn thận lời nói, nhất là đối với Tam bảo, cha mẹ, thầy cô, vì những bậc này là những vị đại ân nhân của chúng ta, những vị sinh đẻ, nuôi nấng dạy dỗ chúng ta. Nếu chúng ta cố ý hay vô tình dùng lời nói ác xúc phạm đến các bậc ấy thì tội lỗi sẽ không lường hết được. Trong kinh Đức Phật thường dạy, người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ có đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác khẩu sẽ đốt cháy trong vô lượng kiếp.
Nếu chúng ta dùng lời ác chê bai, mắng chửi, nguyền rủa mọi người thì thọ lãnh quả báo đau khổ vô cùng. Còn ngược lại, chúng ta dùng lời nói thiện, dùng những lời hay ý đẹp để ca ngợi, tán dương, an ủi, giúp đỡ mọi người thì sẽ được quả báo an lạc, hạnh phúc lâu dài. Nhất là chúng ta dùng lời hay, ý đẹp mà xưng tán, ca ngợi Tam bảo, cha mẹ, thầy cô thì sẽ được phước báu vô lượng.
Trong kinh thường nói, Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Trong đó có các tướng tốt như: răng bốn mươi hai cái trắng đều và đẹp, lưỡi dài đến tai, miệng tỏa ra hương thơm và thường lưu xuất vị cam lồ ngọt ngào tươi mát. Sở dĩ Đức Phật có được những tướng tốt này là do nhiều đời, nhiều kiếp tu khẩu nghiệp mà được.
Nói tóm lại, con người chúng ta đau khổ hay an lạc đều do ba nghiệp là thân, miệng và ý gây tạo. Nếu thân, miệng, ý làm việc ác thì lãnh chịu quả báo khổ đau. Nếu thân, miệng, ý làm việc thiện sẽ hưởng quả báo an vui, hạnh phúc. Trong ba nghiệp này, ý nghiệp là quan trọng nhất, nhưng hai nghiệp kia cũng không kém phần quan trọng, nhất là khẩu nghiệp. Vì vậy mà Đức Phật mới dạy: “Luận người ở đời, búa để trong miệng, thường tự chém mình”. Dân gian cũng có những câu khuyên mọi người hãy cẩn thận trong việc phát ngôn, như: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất” (Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra); hay câu: “Nhất ngôn bán ngữ, bất khả khinh xuất” (Một lời nửa tiếng, không thể khinh thường).
Nhận thấy quả báo của khẩu nghiệp quan trọng như vậy nên qua bài viết này, khuyên mọi người chúng ta hãy cẩn trọng lời nói của mình. Mỗi khi chúng ta nói thì hãy nói những lời đem lại an vui, nói đúng Chánh pháp, còn không thì im lặng. Chúng ta đừng nói những lời ác, những lời phi pháp khiến phải thọ lấy quả báo khổ đau trong nhiều đời, nhiều kiếp.
Thích Chiếu Nguyện
Discussion about this post