ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA LÀ MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN
Nguyên tác Anh ngữ: Ed Halliwell – Ngọc Hằng dịch
Đức Dalai Latma có xu hướng
biến đổi để làm bối rối giới biếm họa phương tây. Là một nhà sư, Ngài giúp an
ủi người hâm mộ đến hình ảnh của Shangri-La đối lập với thế giới vật chất của
chúng ta. Ngài thường xuyên đưa ra những phát biểu về các vấn đề chính trị, đạo
đức, khoa học và tôn giáo nhanh chóng làm thu hút mọi người về phía mình.
Ngài lại hành động như vậy vào một ngày khác khi nói cho
các sinh viên người Trung Quốc biết rằng Ngài chính là một người Cộng Sản. Đây
không phải là trò chơi với đám đông mặc
dù điều này làm ngạc nhiên (ít ra với
người Mỹ) về hệ liên kết tư tưởng lâu đời này. Vào năm 1993, Ngài nói:”Hệ thống
kinh tế của chủ nghĩa Mác xít được hình thành trên những nguyên lý về đạo đức
trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ liên hệ đến việc tăng thêm và lợi nhuận. Chủ
nghĩa Mác xít có liên hệ đến sự phân phối của cải đồng đều và số phận của những
người kém may mắn khi cần thiết. Chủ nghĩa Mác xít quan tâm đến đối tượng là
những người bị áp bức bóc lột. Vì những lý do đó mà chủ nghĩa Mác xít là công
bằng.”
Có một số điều kiện cần (Ngài không phải là một nhà
Lênin. Ngài tin rằng từ bi chứ không phải sự đấu tranh giai cấp là mấu chốt.
Ngài cũng không công nhận những nước theo chủ nghĩa Mác như Liên Xô, Trung Hoa
và Việt Nam đã đi theo đúng đường). Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hình ảnh và
thực tế vẫn còn. Đức Dalai Latma không phải là người để an ủi rằng xã hội tiêu
dùng là thích yếu.
Truyền thống của Ngài cũng không phù hợp với tư tưởng tư
bản gắn liền với nó. Có lẽ vì Phật giáo truyền đến phương Tây theo làn sóng hậu chiến tìm kiếm tâm hồn và
được cho là tôn giáo thân thiện của được lựa chọn với các phong trào tự giúp đỡ
lẫn nhau. Những thông điệp về kinh tế và xã hội toàn diện đã bị đánh mất dưới
các pho tượng, các tinh thể và các bản sao về bí mật (The Secret).
Ý tưởng về việc tự giúp đỡ trong Phật giáo, sự cứu khổ
chỉ đến từ việc nhận ra rằng làm cho mình vui không mang lại hạnh phúc. Thay
vào đó, chúng ta phải làm việc một cách khéo léo và từ bi đối với mọi người như
một phần của hệ thống kết nối mang chúng ta đến với nhau. Phật giáo phương Tây
ưu tiên tập trung vào từng các nhân là một quan niệm sai lầm và không tương
xứng với tên gọi của nó. Hoặc ít ra, một phần của Phật giáo mà người ta trả
tiền nhiều hơn là chú tâm vào sự hiểu biết. Phật giáo cũng là một phương tiện
truyền thông rộng lớn-rất nhiều Phật tử người Phương Tây tu tập rất thuần hành.
Sự cam kết này đồng nghĩa với việc theo đuổi con đường đi ngược lại với chủ
nghĩa vật chất và ích kỷ cá nhân. Hiển nhiên, chúng ta không phải lúc nào cũng
có thể quản lý được nhưng đó chính là lý do mà Phật giáo được gọi là con đường
tu tập.
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật
của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế
giới rộng lớn hơn. Đây không phải là lòng nhiệt thành truyền đạo-hầu như không
cải đạo là con đường của Phật giáo, nhưng các hành động thể hiện nguyên tắc kết
nối đạo pháp và tăng đoàn phương Tây đang ngày càng được ưu tiên với sự tham
gia của cộng đồng. Khi họ làm như vậy, Phật giáo có thể bắt đầu trông không
được yên bình và thoải mái hơn là sự phá chấp phê phán cấp tiến kiên quyết.
Sự phê phán này đã bắt đầu
có ảnh hưởng đến vương quốc Anh. Đã 45 năm kể từ ngày EF Schumacher xuất bản
tham luận kính tế Phât giáo được tờ báo Times xếp hàng là một trong 100 quyển
sách có ảnh hưởng lớn nhất kể từ sau thế chiến thứ hai. Mặc dù lấy nam giới làm
trọng tâm, cơ học về thế giới mà quyển sách mô tả vẫn còn phù hợp với hiện nay.
Schumacher đã chỉ ra rằng thế giới được lèo lái một cách nổi loạn vì sự tiêu
dùng dẫn đến thay đỏi khí hậu cũng như các chương trình nghị sự về hạnh phúc.
Các chỉ số về hạnh phúc do
David Cameron nhiệt tình đưa lên đã phát triển và là một phần trong sự liên
kết với chính sách của đất nước Bhutan
khi chú trọng đến tổng hạnh phúc quốc gia vượt qua tổng sản phẩm quốc nội. Liệu
thủ tướng có nhận ra rằng nền tảng của Phật giáo trong các kế hoạch của ông cho
tình cảnh của quốc gia không nhỉ?
Dĩ nhiên, chúng ta đã đi
một chặng đường khá dài từ một chính phủ trông rất xa lạ với giáo pháp. Từ quan
điểm của một phật tử, chỉ có cuộc cahcs mạng trong tâm của chugns ta mới có thể
giúp chúng ta nắm giữ hạnh phúc đến cho tất cả các nơi lầm lạc. Và điều đó ảnh
hưởng đến nhiều thứ hơn là chỉ tính toán
xem liệu một người có công ăn việc làm
và một gia đình trong ánh nắng Cornwall cảm thấy lạc quan hơn so với một người
Anh đơn độc, không việc làm vào một ngày mưa. Do đó, cần có một sự chuyển đổi
toàn diện trên diện rộng để mang con đường tu tập cá nhân đến với nhau nhằm
chuyển đổi xã hội rộng lớn hơn. Có phải điều này là điều mà Đức Dalai Latma
đang nghĩ khi Ngài tự nhận mình là “Một
nữa là chủ nghĩa Mác xít và một nữa là Phật giáo”?
Of course the Dalai Lama’s a Marxist
The leader’s statement shocked some
in the west, but reminds us of Buddhism’s commitment to social as well as
individual good
The Dalai Lama has a refreshing tendency to confound western caricatures. As
a cuddly old monk, he could comfort fans by fuzzily connecting us to an
imagined Shangri-La that contrasts favourably with our own material world. Only
he won’t play the game, regularly making ethical, political, scientific and
(ir)religious statements that rudely pop the projections laid on to him.
He was at it again the other day, telling Chinese students that he considers himself a Marxist. This wasn’t just playing to the crowd
– although it was reported with surprise (at least in the US), the ideological
alignment is longstanding. In 1993, he said:
“The economic system of Marxism is founded on moral principles, while
capitalism is concerned only with gain and profitability. Marxism is concerned
with the distribution of wealth on an equal basis … as well as the fate of
those who are underprivileged and in need, and [it] cares about the victims of
minority-imposed exploitation. For those reasons, the system appeals to me, and
it seems fair.”
There are a number of caveats (he’s not a Leninist, believes compassion
rather than class struggle is key, and doesn’t consider communist regimes such
as the USSR, China or Vietnam to have been true exponents), but the dissonance
between image and reality remains – the Dalai Lama is not the comforting
Oriental pet that consumer society might like.
Neither does his tradition match the capitalist fantasies attached to it.
Perhaps because Buddhism came to the west on a wave of post-war hippy
soul-searching, and was then co-opted as friendly religion of choice by new
ageism and the self-help movement, its radical economic and social messages
have been lost under an avalanche of laughing fat-man statues, healing crystals
and copies of The Secret.
The very idea of self-help in Buddhism is an oxymoron – relief of suffering
can only come from the realisation that pleasing ourselves doesn’t bring
happiness – instead we must try to work skilfully and compassionately with
others, as part of interwoven systems of connectivity that bind us together. A
“western Buddhism” that prioritises solipsistic focus on the
individual is so great a misconception as to be unworthy of the name – or at
the least the Buddhism part – as anyone who pays it more than passing attention
knows. It’s also largely a media invention – many western Buddhists are
serious, deeply committed practitioners. That commitment means choosing to
follow a path that leads against the stream of materialism and selfishness. Of
course, we don’t always manage it, but that’s why it’s called a path of
practice.
Buddhism goes way beyond the confines of the personal – realising the truth
of interdependence implies taking up the challenge of engaging with others in
the wider world. This isn’t missionary zeal – proselytising is hardly the
Buddhist way – but it does mean social action that embodies dharmic principles,
and western sanghas
are increasingly prioritising community involvement. As they do so, Buddhism
may start to look less like some nice bit of calm and relaxation and more like
a radical, uncompromising critique of the status quo.
This critique has already begun to influence the UK mainstream. It’s 45
years since EF Schumacher published his Buddhist Economics essay in Small is Beautiful, which the Times
Literary Supplement listed as one of the 100 most influential books since the
second world war. Though the male-centric, mechanistic world it describes now
seems dated, Schumacher’s outline of a world driven mad by consumption (and his
Buddhist-inspired remedy of sufficiency and sustainability) has informed
everything from the climate change debate to the happiness agenda –
particularly through the influential New Economics Foundation (NEF) thinktank, which grew out of
Schumacher’s vision.
The well-being indices enthusiastically taken up by David Cameron have grown in part from NEF’s links with
the kingdom of Bhutan and its policy of favouring gross national happiness
above gross domestic product. Is the prime minister aware of the Buddhist
foundation to his plans for the nation’s mood?
Of course, we’re a long way from a government that looks even remotely
dharmic. From a Buddhist perspective, only a revolution in our collective mind
can counter the momentum that keeps us grasping for happiness in all the wrong
places. And that would involve more than measuring whether someone with a job and
a family in sunny Cornwall feels more upbeat than a lonely, unemployed Londoner
on a rainy day. It would require systemic transformation on both an intimate
and a huge scale, bringing the path of personal practice together with much
broader societal shifts. Could this be what the Dalai Lama is thinking of when
he describes himself as “half-Marxist, half-Buddhist”?
Halliwell guardian.co.uk,
Discussion about this post