Theravāda Phật Giáo Nguyên Thủy
ĐẠI PHẬT SỬ TẬP I
THE GREAT CHRONICLE OF BUDDHAS (MAHĀ BUDDHAVAṂSA)
Nguyên tác: Mingun Sayadaw (Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa)
Tỳ khưu Minh Huệ biên dịch (In lần hai)
Nhà Xuất Bản Hồng Đức PL. 2562 – DL. 2019
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo PL. 2563 – DL. 2000
LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách này trình bày tác phẩm đầu tiên của công trình phiên dịch bộ sách ĐẠI PHẬT SỬ gồm 6 cuốn bằng tiếng Miến ra 8 cuốn bằng tiếng Anh, dựa vào bộ kinh Pãli “Mahā Buddhavamsa”, do Thượng tọa Mingun biên soạn.
Cuốn 1 này là dịch phẩm hoàn chỉnh bằng tiếng Anh kèm theo những chú thích và bình giải xoay quanh câu chuyện Đạo sĩ Sumedha.
Cuốn này chia làm hai phần”
– Phần đầu trình bày soạn phẩm của soạn giả.
– Phần hai có nhan đề “The anudipani” hay Phụ chú giải”, gồm những bài giải thich chi tiết và sự liệt kê những điểm giáo lý trong phần đầu.
Tỳ Khưu Minh Huệ biên dịch
Mùa an cư năm 2000
MỤC LỤC TẬP 1A
Tiểu sử tác giả
Lời giới thiệu của tác giả
Chương 1: Kính lễ và phục nguyện
Chương 2: Sự xuất hiện hy hữu của một vị Phật
Chương 3 : Bà-la-môn Sumedha
Chương 4 : Sự xuất gia của Sumedha
Chương 5 : Sự thọ ký
Chương 6 : Quán xét về các pháp Ba-la-mật
Phụ chú giải
Phụ chú giải CHƯƠNG 1, 2, 3 Định nghĩa Ba-la-mật
Phụ chú giải CHƯƠNG 4 Sự xuất gia của Sumedha
Phụ chú giải CHƯƠNG 5 Thọ ký
Phụ chú giải CHƯƠNG 6 Các pháp Ba-la-mật – Pāramī
A. Bố Thí Ba-la-mật – Dāna Pāramī.
B. Giới Ba-la-mật – Sīla Pāramī
C. Xuất Gia Ba-la-mật – Nekkhamma Pāramī
D. Trí Tuệ Ba-la-mật – Paññā Pāramī
E. Tinh Tấn Ba-la-mật – Viriya Pāramī
F. Nhẫn Nại Ba-la-mật – Khantī Pāramī
G. Chân Thật Ba-la-mật – Sacca Pāramī
H. Quyết Định Ba-la-mật – Adiṭṭhanā Pāramī
I. Từ Ba-la-mật – Mettā Pāramī
J. Xả Ba-la-mật – Upekkhā Pāramī
MỤC LỤC TẬP 1B
CHƯƠNG 7: Linh tinh
1. Thế nào là các pháp Pāramī (Ba-la-mật)?
2. Tại sao ược gọi là Pāramī?
3. Có bao nhiêu pháp Pāramī?
4. Các pháp Pāramī ược sắp xếp như thế nào?
5. Thế nào là tướng trạng, phận sự, thành quả và nhân cần thiết của các pháp Pāramī?
6. Những iều kiện cơ bản của các pháp Pāramī
7. Các yếu tố nào làm ô nhiễm các pháp Pāramī?
8. Các yếu tố nào làm thanh tịnh các pháp Pāramī?
9. Những yếu tố nào ối nghịch với các pháp Pāramī?
10. Các pháp Pāramī ược thực hành như thế nào?
11. Phân loại các pháp Pāramī như thế nào?
12. Các pháp Pāramī ược rút gọn như thế nào?
13. Các yếu tố nào làm thành tựu các pháp Pāramī
14. Thời gian cần thiết ể thành tựu các pháp Pāramī là bao lâu?
15. Những lợi ích nào phát sanh từ các pháp Pāramī?
16. Quả của các pháp Pāramī là gì?
CHƯƠNG 8: Mười tám bất khả sử xứ
CHƯƠNG 9: Lịch sử 24 vị Phật Tổ
1. Đức Phật Dīpaṅkarā
2. Đức Phật Koṇdañña
3. Đức Phật Buddhavaṃsa
4. Đức Phật Sumana
5. Đức Phật Revata
6. Đức Phật Sobhita
7. Đức Phật Anomadassī
8. Đức Phật Pudama
9. Đức Phật Nārada
10. Đức Phật Padumuttara
11. Đức Phật Sumeda
12. Đức Phật Sujāta
13. Đức Phật Piyadassī
14. Đức Phật Atthadassī
15. Đức Phật Dhammadassī
16. Đức Phật Siddhattha
17. Đức Phật Tissa
18. Đức Phật Phussa
19. Đức Phật Vipassī
20. Đức Phật Sikhī
21. Đức Phật Vessabhū
22. Đức Phật Kakusandha
23. Đức Phật Koṇāgamana
24. Đức Phật Kassapa
Phụ lục: Tóm tắt về các kiếp sống quá khứ của Đức Phật Gotama
TÁC GIẢ
Thượng tọa Mingun Sayadaw sanh ngày 11 tháng 11 năm 1911, tại làng Thaibyuwa. Năm lên tám tuổi, Ngài ược gởi đến chùa Mingyaung thuộc vùng Miyingyan để học Phật Pháp cơ bản dưới sự hướng dẫn của Thượng tọa Sayadaw Sobhita. Mười năm sau, Ngài đến chùa Dhammadāna, là một tịnh viện của những bậc cao Tăng thạc ức ẩn cư, ở làng Mingun thuộc quận Sagaing, để học giáo pháp bậc cao.
Năm 1930, Ngài thọ cụ túc giới. Những người bảo vệ của Ngài là Tu nữ Daw Dhammacāri, rất giỏi về Phật pháp và rất nổi tiếng của xứ Mingun, tác giả của bộ Saccavādī-tīkā, và thiện nam U Thwin, một người giàu có và hào hiệp của xứ Yangon. Hai vị mạnh thường quân này được xem như cha mẹ đỡ đầu trên bước đường tu tập của Ngài.
Vào năm 1937, vị thầy Hòa Thượng của Ngài, Dhammanāda Sayadaw, đã viên tịch nên Ngài phải đảm ương công việc điều hành tự viện.
Từ năm lên 13 tuổi, Ngài luôn luôn vượt qua các cuộc khảo thí về Phật Pháp một cách thành công rực rỡ. Đơn cử một vài ví dụ: Năm Ngài được 4 hạ tỳ khưu, Ngài thi đỗ kỳ thi về Pháp hành (Dhammacariya) do hội Pariyatti sāsanahita của Mandalay tổ chức. Đó là kỳ thi rất gay go, chỉ có một ít thí sinh tham dự. Cuộc thi ấy nhằm vào 3 bộ Đại chú giải mà thí sinh phải hoàn thành trong 3 năm. Nhưng tác giả đã vượt qua cả 3 bộ Chú giải chỉ trong một năm và được phong danh hiệu Pariyatti Sāsanahita Dhammacariya Vataṃsikā.
Tuy nhiên, lần ầu tiên Ngài thực sự ược nổi danh Nhà Uyên bác là khi Ngài vượt qua kỳ thi Tipitakadhara, được tổ chức lần ầu tiên và cũng ược xem là kỳ thi khó nhất và lâu nhất. Đúng như cái tên Tipitakadhara ược ặt cho kỳ thi, thí sinh phải tụng nằm lòng hết 3 tạng kinh điển. Hơn nữa, thí sinh phải vượt qua kỳ thi viết hết thảy Tam tạng và Chú giải. Ngài đã trải qua suốt 4 năm đằng đẵng để tham dự khóa thi và cuối cùng, năm 1953 Ngài nhận ược danh hiệu ộc nhất Tipitakadhara Dhammabhandāgārika, nghĩa là “Người mang trong mình Tam tạng Pháp Bảo và Người giữ kho Chánh Pháp.”
Khả năng tụng ọc 16.000 trang kinh điển của Thượng tọa Mingun đã đưa vào cuốn sách Guiness của năm 1985 (Bởi vì cho đến nay, ngoài Thượng tọa ra chỉ có bốn người có được danh hiệu ấy).
Về sự đóng góp của Ngài cho Giáo hội, cần nói thêm rằng trước khi đạt được danh hiệu Tipitakadhara Dhammabhaṇdāgārika, vào lúc hội nghị kiết tập Tam tạng đang tiến hành tốt ẹp, Ngài được chỉ định làm công việc ghi chép Tam tạng để Hội đồng phê chuẩn. Ngoài ra, khi Hội đồng dược triệu tập, Ngài làm công việc của vị Visajaka, là người trả lời những câu hỏiđvề 3 phần của giáo pháp. Người hỏi (Pucchaka) lúc ấy là Ngài Mahasi Sayadaw. Để trả lời những câu hỏi, Thượng tọa Mingun giữ luôn vai trò của cả hai vị trưởng lão Upāli và Ānanda, là hai vị Thánh Tăng từng trả lời những câu hỏi về Luật và Pháp trong cuộc kiết tập Tam tạng lần thứ nhất do trưởng lão Mahā Kassapa chủ trì.
Sau cuộc kiết tập, tác giả chuyên tâm vào công việc biên soạn kinh sách. Theo lời yêu cầu của ông U Nu, Thủ tướng Miến Điện lúc bấy giờ, Ngài bắt tay vào công việc biên soạn bộ Mahā Buddhavaṃsa (Đại Phật Sử), là bộ sách bằng tiếng Miến Điện, nói về những kiếp sống của Chư Phật quá khứ, như đã ược kể lại trong bộ kinh Pāḷi Buddhavaṃsa thuộc Tiểu bộ kinh. Tác phẩm biên soạn gồm 6 bộ, được viết ra thành tám cuốn, khởi biên vào năm 1956 và hoàn thành năm 1969. Tác phẩm này là thành quả vĩ ại nhất của tác giả và cũng là sự đóng góp to lớn cho văn học Phật giáo Miến Điện, được chư Tăng cũng như thiện tín nồng nhiệt tán dương.
Vào năm 1980, một diễn biến lịch sử của Tăng già xảy ra trong nước Miến Điện: Đó là sự xuất hiện Hội đồng Phật giáo thống nhất cả nước (The State Sangha Mahā Nāyaka Committee), gồm có đại biểu của tất cả các hệ phái Phật giáo trong nước Miến Điện. Tác giả ược toàn thể đại biểu nhất trí cử vào chức vụ Tổng thư ký, nắm quyền hành tối cao về các Phật sự trong nước, chăm lo cho sự phát triển, tiến bộ và hưng thịnh của Phật giáo.
Ngoài ra, với chức vụ Tổng thư ký của Hội Phật Giáo Thống Nhất, tác giả còn quan tâm đến sự lớn mạnh và trường tồn của Phật giáo về 3 lãnh vực: ủng hộ và tạo phương tiện để có nhiều người thuộc Tam tạng, ủng hộ và tạo điều kiện cho sự quảng bá Giáo pháp khắp trong nước lẫn ngoài nước, và cung cấp các phương tiện y tế và thuốc men cho chư Tăng khắp nước Miến Điện.
Ở lãnh vực thứ nhất, tác giả thành lập Hội Tipitaka Nikāya, mục đích chính của hội là nuôi dưỡng các Tỳ khưu trẻ để một ngày kia họ có thể trở thành những người thông thuộc và gìn giữ kho Chánh pháp – Tam Tạng Thủ Khố Nhơn – giống như chính Ngài. Có một số Tăng sinh đầy triển vọng được Ngài nuôi dưỡng và đào tạo tại ngọn ồi Monmeik gần Mingun.
Về lãnh vực thứ hai, ngay sau khi thành lập Giáo Hội Tăng Già Thống Nhất thì hai đại học Phật giáo cũng được thành lập, một tại Yangon và một tại Mandalay. Ở đó Giáo pháp của Đức Phật sẽ được giảng dạy với một hệ thống giáo dục tân tiến, nhằm đào tạo các vị trưởng lão đủ khả năng truyền bá Giáo pháp khắp nước Miến Điện và những nơi khác. Trong việc đeo đuổi mục đích thứ hai, sự tận tâm tận lực của tác giả đã đem lại kết quả là hai trường đại học Phật giáo uy nghi ồ sộ đã được xây dựng ở Yangon và Mandalay, nhằm đào tạo những bậc Dhammācariya và Mahācariya, mở ra từ năm 1986.
Về kế họach thứ ba, để em lại lợi ích cho Tăng chúng, một bệnh viện đặc biệt tên là Jīvitadānasāsana, được thành lập ở Mandalay. Đó là bệnh viện ặc biệt có 100 giường, đầy ủ tiện nghi hiện ại và ược chính thức họat động vào ngày 18 tháng 8 năm 1990, dưới sự hậu thuẫn của chính tác giả.
Để công nhận trí tuệ to lớn và những sự phục vụ của tác giả đến chư Tăng như đã được nêu ra ở trên, chính quyền đã phong tặng cho Ngài danh hiệu Aggamahā-pandita (Bậc trí tuệ bậc nhất) vào năm 1979 và danh hiệu Abhidhaja Mahāraṭṭhaguru (Thánh kỳ Đại quốc sư) vào năm 1984. Dầu ở tuổi 79, Ngài Sayadaw này vẫn khỏe mạnh và năng ộng, luôn luôn tích cực ẩy mạnh ba công việc chính của mình, làm gương mẫu cho tất cả mọi người noi theo trong việc đem lại lợi ích cho chúng sanh bằng con đường Phật pháp.
Discussion about this post