CUỘC LUẬN BÀN LY KỲ
Toàn Không
Tại
Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả
nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh; bấy giờ đức Phật du hóa đến
Na-lan-Đà, và trú ngụ trong vườn xoài Ba-bà-Ly.
Một hôm, có
một đại đệ-tử của Ni-kiền Thân-Tử là Ni-kiền Trường, sau giờ ăn trưa, ung dung
đi đến chỗ đức Phật, chào hỏi xong, đức Phật hỏi:
– Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân-Tử, thầy của ông chủ trương
có nhiều hành vi để không hành ác nghiệp không?
– Tôn-sư của tôi không giảng dạy về những hành vi để
không gây ác nghiệp, nhưng Người giảng dạy về sự trừng phạt để không làm việc
ác.
Đức Phật
hỏi:
– Thầy của ông chủ trương có bao nhiêu sự trừng phạt để
ngăn chặn làm việc ác?
– Tôn-sư của tôi giảng dạy về ba sự trừng phạt do thân,
do miệng, và do ý để không làm việc ác.
– Thân phạt, khẩu phạt, và ý phạt có khác nhau không?
– Đối với chúng tôi: thân làm bị phạt, khẩu nói bị phạt,
và ý nghĩ bị phạt đều khác nhau.
– Thầy ông chủ trương trừng phạt nào nặng hơn hết, trừng
phạt nào nhẹ hơn hết?
– Tôn-Sư tôi chủ trương thân phạt nặng hơn hết để không
làm việc ác, khẩu phạt nhẹ hơn, ý phạt nhẹ nhất, không bằng thân phạt rất là
nặng nề lớn lao, vì sao? Vì nếu một người lấy trộm của cải tiền bạc của người
khác, mà bị bắt gặp sẽ có tội nặng, nếu người ấy chỉ nói lấy trộm nhưng chưa
lấy trộm tội nhẹ hơn; còn nếu người ấy không lấy trộm, không nói lấy trộm, chỉ
nghĩ đến việc lấy trộm mà thôi, tội qúa nhẹ, hầu như không có tội vậy.
– Ông nói thân phạt nặng nhất phải không?
– Vâng, thân phạt nặng nhất.
Đức Phật:
hỏi đi hỏi lại ba lần như thế, Ni-kiền Trường đáp đi đáp lại ba lần xác nhận
cũng như thế, Ngài bèn ngồi yên lặng.
Bấy giờ
Ni-kiền Trường cũng theo những câu hỏi trên mà hỏi lại chủ trương của đức Phật,
thì được Ngài trả lời:
– Ta không giảng về những trừng phạt để không hành (thân
làm, miệng nói, ý nghĩ) ác nghiệp, mà chỉ giảng thuyết về nghiệp để không hành
ác nghiệp. Ta giảng về ba nghiệp, đó là thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp,
và chủ trương rằng ý nghiệp là nặng nhất. Ta chủ trương và giảng thuyết khác
với Ni-kiền Thân-Tử, Tôn-sư cuả ông.
Ni-kiền
Trường: cũng hỏi ba lần về chủ trương của đức Phật là ý nghiệp nặng nhất, đều
được Ngài trả lời ý nghiệp là nặng nhất; thẩm định xong, Ni-kiền Trường đứng
dậy vái chào rồi ra về.
Khi về tới
nơi, Ni-kiền Thân-Tử trông thấy Ni-kiền Trường, bèn hỏi:
– Ông từ đâu về vậy?
– Con từ vườn xoài Ba-bà-Ly, chỗ trú ngụ của Sa-môn
Cù-Đàm về đây.
– Ông có cùng Sa-môn Cù-Đàm bàn luận gì không?
– Thưa có bàn luận với nhau.
– Này, nếu ông đã cùng Sa-môn bàn luận, hãy nói hết cho
ta nghe, để ta biết được luận thuyết của vị ấy.
Khi ấy
Ni-kiền Trường đem hết sự việc kể lại cho Tôn-sư của ông nghe, nghe xong ông
khen rằng:
– Hay thay! Ông đối với Tôn-sư đã làm đúng pháp của một
đệ-tử, và là người thành biện bằng trí tuệ với quyết định thông minh, trầm tĩnh,
không sợ hãi, tự tin; Ông đã đạt đến tài hùng biện, đã bắt được ngọn gió cam
lộ, và ở trong cảnh giới cam lộ, tự thân
chứng ngộ, thành tựu an trụ, vì sao vậy? Vì vừa rồi ông đối trước Sa-môn Cù-Đàm
nói thuyết thân phạt nặng nhất để không làm ác, khẩu phạt không nặng như vậy, ý
phạt càng kém hơn, không bằng thân phạt lớn lao, trầm trọng nhất.
Lúc ấy Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly cùng năm trăm Cư-sĩ ngồi nghe sự việc như thế, bèn đứng dậy chắp tay
hướng về Ni-kiền Thân-tử, rồi hướng qua nói với Ni-kiền Trường rằng:
– Ngài đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-Đàm, việc thực sự
như vậy sao?
Ni-Kiền
Trường đáp:
– Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, tôi đã đích thân ba lần thẩm định
Sa-môn Cù-Đàm, việc đúng như thế.
Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly nói:
– Tôi cũng có thể đến đó thẩm định Sa-môn Cù-Đàm, rồi
lôi kéo đi đâu tùy ý. Tôi như người lực-sĩ nắm cái bờm dài của con dê, rồi lôi
kéo đi đâu tùy ý. Tôi cũng như người cầm áo lông giũ bụi, có thể đến thẩm định
Sa-môn Cù-Đàm ba lần, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như một con voi chúa kiêu
ngạo, đủ ngà, đủ vóc, gân cốt mạnh mẽ, một lực-sĩ dẫn đi, lấy nước rửa khắp, và
giỡn chơi trong nước, xong muốn dẫn đi đâu thì đi; tôi đến chỗ Sa-môn Cù-Đàm và
cùng ông ta bàn luận, hàng phục xong rồi, tôi sẽ trở về ngay không lâu đâu.
Ni-kiền
Thân-Tử nói:
– Ta có thể hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, Ni-kiền Trường có
thể hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly cũng có thể hàng phục Sa-môn
Cù-Đàm.
Khi ấy
Ni-kiền Trường vội nói:
– Con không muốn để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đi vì Sa-môn Cù-Đàm
có thể dùng huyển thuật biến hóa Cư-Sĩ thành đệ-tử của ông ta.
Ni-kiền
Thân-Tử nói:
– Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến hóa thành đệ-tử của Sa-môn
Cù-Đàm, điều đó hoàn toàn không thể xẩy ra; Sa-môn Cù-Đàm bị biến hóa làm đệ-tử
của Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, điều này chắc chắn có.
Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly ba lần nói muốn đến chỗ Phật để hàng phục xong sẽ trở về, Ni-kiền
Trường ba lần ngăn cản không muốn để Cư-Sĩ đi, Ni-kiền Thân-Tử trái lại ba lần
đồng ý để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đi. Ni-kiền Thân-Tử xác quyết rằng: “Không có trường
hợp Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến hóa thành đệ-tử Cù-Đàm, mà chỉ có trường hợp Cù-Đàm
bị biến hóa thành đệ-tử của Cư-sĩ mà thôi”, và Ni-kiền Thân-Tử bảo Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly:
– Ông nên đi ngay kẻo trễ mất cơ hội tốt.
Lúc ấy
Cư-sĩ Ưu-ba-Ly chắp tay cúi đầu trước Ni-kiền Thân-Tử vái ba lần, rồi đi đến
chỗ Phật, chào hỏi xong ngồi sang một bên và nói:
– Thưa Cù-Đàm, ngày hôm nay có Ni-kiền Trường đến đây
không?
– Cư-Sĩ, Ni-kiền Trường là đệ-tử của Ni-kiền Thân-Tử có
đến đây.
– Cù-Đàm có cùng ông ta đàm luận không?
– Có cùng đàm luận.
– Nếu có cùng đàm luận, thì xin Cù-Đàm thuật lại cho tôi
nghe, để tôi biết được việc đó mà học hỏi.
Đức Phật kể
hết những lời đã bàn luận, giống như lời của Ni-kiền Trường đã thuật, cho Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly nghe, Cư-sĩ nghe rồi bèn khen và nói y như những lời Ni-kiền Thân-Tử
đã khen Ni-kiền-Trường rằng:
“Ni-kiền Trường đã làm đúng pháp của một
đệ-tử đối với Tôn-sư chúng tôi, Ni-kiền Trường là người thành biện bằng trí tuệ
với quyết định thông minh, trầm tĩnh, không sợ hãi, tự tin; Ông ta đã đạt đến
tài hùng biện, đã bắt được ngọn gió cam lộ, ông ta ở trong cảnh giới cam lộ, tự
thân chứng ngộ, và thành tựu an trụ, vì sao vậy? Vì Ni-kiền Trường đối trước
Sa-môn Cù-Đàm đã nói thuyết thân phạt nặng nhất để không làm ác, khẩu phạt
không nặng như vậy, ý phạt càng kém hơn, không bằng thân phạt rất lớn lao, rất
trầm trọng; thật hay thay, thật hay thay”.
Khi đó đức
Phật bảo:
– Cư-sĩ, Ta muốn cùng ông bàn luận về việc này, nếu như
an trú (căn cứ) trong sự thật, thì bằng sự thật mà đáp.
– Được, tôi an trú trong sự thật, Cù-Đàm cũng an trú
trong sự thật, bằng sự thật mà đáp; Cù-Đàm hãy cùng tôi mà bàn luận việc này.
– Cư-sĩ, ông nghĩ sao? Nếu có vị Ni-Kiền ưa bố thí, không
ưa hý luận (không ưa bàn bạc cho vui), rất thanh tịnh, chuyên hành chú (rèn
luyện tu hành); nếu người ấy đến đây đạp chết nhiều côn trùng lớn nhỏ, thì
Ni-kiền Thân-Tử, Sư-phụ của Cư-Sĩ, đối với việc sát sanh này chủ trương có qủa
báo ra sao?
– Nếu người ấy cố ý thì có tội lớn, nếu không cố ý thì
có tội nhẹ.
– Cư-sĩ, ông nói cố ý là thế nào?
– Đó là ý nghiệp vậy.
– Cư-Sĩ, ông nên suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời, những điều
nói trước trái với điều nói sau, sau trái với trước, không phù hợp nhau. Cư-Sĩ,
ông nghĩ thế nào, nếu có Ni-Kiền thệ nguyện chỉ uống nước nóng dứt hẳn nước
lạnh. Khi không có nước nóng người ấy bèn uống nước lạnh, khi uống nước lạnh
người ấy liền chết; ni-kiền Thân-Tử, Sư-phụ của ông có thể nói thế nào về chỗ
thác sinh của Ni-Kiền ấy?
– Có loại Trời gọi là Ý-Trước, vị Ni-Kiền ấy mạng hết là
do ý có chấp trước mà sinh đến cõi Trời Ý-Trước.
– Cư-sĩ, ông nên suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời, những điều
ông vừa nói trái với những điều ông nói trước đây, trước trái với sau không phù
hợp nhau. Cư-Sĩ nghĩ sao, giả sử có người dũng-sĩ cầm kiếm sắc bén, người ấy
nói rằng: “Chỉ trong một ngày, tôi chém
đầu, lột da, chặt chân tay tất cả mọi người trong xứ Na-nan-Đà này chất thành
một đống cao như núi”, Ông nghĩ người ấy trong một ngày có thể làm xong
việc ấy không ?
– Không thể được, vì xứ này quá đông người, cho nên
người ấy không thể trong một ngày mà có thể chém đầu, lột da, chặt chân tay mọi
người trong xứ Na-lan-Đà này, rồi chất thành một đống cao như núi.
– Cư-Sĩ, ông nghĩ sao, nếu có Sa-Môn hoặc Phạm-Chí có
đại như-ý-túc, có đại oai-đức, có đại phúc-hậu, có đại oai-thần, tâm được tự
tại, người ấy nói: “Ta chỉ khởi một niệm
sân (ý giận) làm cho cả xứ Na-lan-Đà này cháy rụi thành tro”, Ông nghĩ
Sa-Môn hoặc Phạm-Chí ấy có thể làm được việc ấy không?
– Đâu phải chỉ một xứ Na -Lan-Đà này, đâu phải hai hay
ba hay bốn xứ Na-lan-Đà này; người có những tuyệt đỉnh thù thắng như thế, nếu
người ấy khởi một niệm giận có thể làm cho nhân dân trong cả nước thiêu rụi
thành tro, huống gi` một Na-lan-Đà này.
– Cư-Sĩ, ông hãy suy nghĩ cho kỹ rồi hãy trả lời, những
gì ông nói trước đều trái với điều ông nói sau, sau trái với trước, không phù
hợp với nhau, không đi đôi với nhau. Cư-Sĩ, ông có từng nghe rừng Đại-Trạch,
rừng Kỳ-Lân, rừng Mê-Lộc, rừng Tịch-Tịnh, rừng Không-Dã, tại sao những khu rừng
ấy là những khu rừng?
– Thưa, tôi có nghe người ta nói.
– Cư-Sĩ, tại sao những khu ấy trở thành những khu rừng,
vì ai mà có những khu rừng ấy?
Khi ấy
Cư-sĩ Ưu-ba-Ly im lặng không đáp, một lúc, đức Phật bảo:
– Cư-Sĩ hãy trả lời đi, bây giờ không phải là lúc im
lặng, vì chính ông đã tự nói: “Tôi an trú
trong sự thật, Cù-Đàm cũng an trú trong sự thật, bằng sự thật mà đáp, Cù-Đàm
hãy cùng tôi mà bàn luận việc này”.
Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly im lặng trong chốc lát rồi mới nói:
– Thưa Cù-Đàm, tôi không im lặng mà chỉ suy nghĩ trong
chốc lát về ý nghĩa này vậy. Thưa Cù-Đàm, những Ni-Kiền ngu si không hiểu rõ
ràng, không thể giải, không thể biết; họ không biết khoảnh ruộng tốt mà không
tự xem xét, họ cứ mãi lừa dối tôi, tôi mê lầm vì họ. Nay do lời dạy của Cù-Đàm
mà tôi hiểu nghĩa, bởi vì tiền nhân khởi một niệm sân mà có thể làm cho những
khu ấy trở thành những khu rừng.
Rồi Cư-Sĩ
nói tiếp:
– Thưa Thế-Tôn, nhờ sự chỉ dạy của Ngài mà con đã biết
đã hiểu. Hôm nay con xin được quy-y Phật, Pháp và chúng Tỳ-Kheo. Cúi xin
Thế-Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà Tắc (Cư-sĩ) từ nay cho đến khi chết .
Đức Phật
bảo:
– Cư-Sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên tuyên bố, sự
im lặng của người thù thắng như vậy là tốt đẹp.
– Thưa Thế-Tôn, với sự kiện này, con lại bội phần vui
mừng, vì Thế-Tôn đã chấp thuận và nói: “Cư-sĩ,
ông hãy im lặng mà làm, không nên tuyên bố, sự im lặng của người thù thắng như
vậy là tốt đẹp”. Thưa Thế-Tôn, nếu con là đệ-tử của Sa-Môn hoặc Phạm-Chí
khác, thì họ đã tổ chức rầm rộ, cầm cờ phướn, dù lọng đi tuyên bố khắp xứ
Na-lan-Đà, họ nói như thế này: “Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly là đệ-tử của ta ! Cư-sĩ Ưu-ba-Ly là đệ-tử của ta!”, nhưng Thế-Tôn
lại khác họ, khác xa họ như trời với đất. Từ nay trở đi, con sẽ không cho các
Ni-Kiền vào nhà con nữa, con sẽ không cho Ni-kiền Thân-Tử và đệ-tử của ông ta
vào nhà con nữa; chỉ có Thế-Tôn và bốn chúng đệ-tử (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu-bà
Tắc, Ưu-bà Di) của Thế-Tôn vào nhà con mà thôi.
– Này Cư-Sĩ, các Ni-Kiền kia và gia-đình ông đã tương
kính lẫn nhau trong thời gian lâu dài, nếu họ có đến ông nên tùy theo khả năng
của mình mà cúng dường họ.
– Thưa Thế-Tôn, với lời nói này, với sự kiện này, đối
với Thế-Tôn, con lại bội phần tôn kính, bội phần vui mừng. Thưa Thế-Tôn, ngày
trước con nghe người ta nói Thế-Tôn giảng rằng: “Nên cho ta, đừng cho người khác, nên cho đệ-tử của ta, đừng cho đệ-tử
của người khác; nếu cho ta và cho đệ-tử của ta sẽ được phúc lớn, cho người khác
và cho đệ-tử người khác sẽ không được phúc lớn”. Thưa Thế-Tôn, có phải đúng
như vậy không?
– Cư-Sĩ, Ta không nói như thế, mà nói như thế này: “Cho tất cả tùy tâm hoan-hỷ, nhưng cho người
không tinh tấn, không phạm-hạnh thì không được phúc lớn, cho người tinh tấn,
phạm-hạnh (chân tu hành) sẽ được phúc lớn”.
– Thưa Thế-Tôn, con xin nguyện sẽ không làm gì cả đối
với họ, con tự biết nên cho hay không nên cho đối với Ni-Kiền. Thưa Thế-Tôn,
một lần nữa, con xin được quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo, cúi xin Thế-Tôn
nhận con làm Ưu-bà Tắc (Cư-sĩ) cho đến trọn đời.
Nói xong,
Cư-sĩ Ưu-ba-Ly cúi đầu lễ Phật, đi quanh ba vòng, rồi trở về nhà, khi trông
thấy các người giữ cửa Cư-sĩ bảo:
– Các ông nên biết, bắt đầu từ hôm nay, ta là đệ-tử của
Phật, cũng gọi là Thế-Tôn, tức Sa-môn Cù-Đàm. Kể từ giờ phút này về sau, các
ông chớ cho các Ni-Kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ-tử của Thế-Tôn là
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu- bà Tắc và Ưu-bà Di vào mà thôi. Nếu có Ni-Kiền tới cửa
xin vào, các ông nói: “Tôn-giả, Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly đã nhận sự giáo hoá của Phật, đã làm đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm, nên
không cho các Ni-Kiền vào cửa nữa”; nếu Ni-Kiền cầu xin ăn, bảo họ đứng
chờ, rồi báo người đem cơm ra cho họ.
Hôm sau
Ni-kiền Trường nghe tin: “Cư-sĩ Ưu-ba-Ly
đã nhận sự giáo hoá của Sa-môn Cù-Đàm rồi. Cư-Sĩ đã ra lệnh không cho các
Ni-Kiền vào cửa, mà chỉ cho các đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm vào mà thôi”, ông
liền đến nói với Ni-kiền Thân-Tử:
– Thưa Tôn-sư, đây là điều mà con đã nói trước rằng
không nên để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đến chỗ Sa-môn Cù-Đàm, vì sợ Cư-sĩ bị biến hoá thành
đệ-tử của Sa-môn. Bây giờ đúng như vậỵ, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã bị biến hoá thành
đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm rồi; hiện tại Cư-sĩ cấm không cho các Ni-Kiền vào cửa,
mà chỉ cho các đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm vào mà thôi.
Nghe đệ tử
nói, Ni-kiền Thân-Tử không tin, ông vẫn nói quả quyết rằng: “Không có trường hợp cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến
hoá thành đệ-tử cuả Sa-môn Cù-Đàm, mà chỉ có ngược lại thôi”.
Ni-kiền-Trường thưa :
– Nếu Tôn-sư không tin, Ngài có thể đến xem xét, hoặc
sai người tới đó thì sẽ biết sự thực.
Ni-Kiền
Thân-Tử bảo:
– Ông tới đó coi xét, xong về báo cáo cho ta biết hư
thực thế nào?
Vâng lời
Tôn-sư, Ni-kiền Trường liền đi ngay; khi đến nhà Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, người giữ cửa
vừa trông thấy Ni-kiên Trường, liền nói y như những lời mà người chủ đã bảo phải nói khi có các
Ni-Kiền tới cửa. Nghe đúng những lời như thế rồi, Ni-kiền Trường không nói lời
nào, bỏ về, thưa lại với Ni-kiền Thân-tử:
– Thưa Tôn-sư, chính tai con nghe người giữ cửa nói
những điều mà con đã thưa với Tôn-sư, sự việc xẩy ra đúng như thế, Ưu-ba-Ly đã
bị biến hoá thành đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm rồi; nếu Tôn-sư không tin nữa, nên
đích thân đến đó hỏi cho rõ sự việc.
Hôm sau,
Ni-kiền Thân-Tử tập họp đại chúng gồm Cư-Sĩ, Ni-Kiền đông đảo cùng đến nhà Ưu
ba-Ly, người giữ cửa nói:
– Thưa Tôn-giả, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã nhận sự giáo hóa của
Phật, tức Sa-môn Cù-Đàm và trở thành đệ-tử của ngài Cù-Đàm rồi, nên không cho
các Ni-Kiền vào cửa nữa; chỉ cho bốn chúng đệ-tử Phật vào cửa mà thôi. Nếu
Tôn-giả và các Ni-Kiền muốn xin ăn nên đứng ở đây, tôi sẽ thông báo và sẽ có
người đem cơm ra cho.
Ni-kiền
Thân-Tử nói:
– Ta không dùng cơm, ta chỉ muốn gặp Cư-sĩ Ưu-ba-Ly mà
thôi.
Người giữ
cửa thưa:
– Xin Ngài đợi một chút, tôi sẽ vào thưa với Cư-Sĩ.
Sau khi
được báo cáo rằng Ni-kiền Thân-Tử có đông đảo đệ-tử cùng đến muốn vào gặp,
Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bảo người hầu đến phòng lớn sửa soạn chỗ ngồi, xong Cư-Sĩ lên
toà ngồi (chỗ mà trước kia đã có lần Cư-Sĩ dìu Ni-kiền Thân-tử ngồi lên đó),
Cư-Sĩ bảo người giữ cửa:
– Ngươi ra cửa nói với Ni-kiền Thân-Tử như thế này: Tôn
nhân, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly nói: “Tôn nhân muốn
vào thì xin tùy ý”.
Người giữ
cửa trở ra nói y như lời chủ dặn bảo, Ni-kiền Thân-Tử nghe xong cùng đại chúng
đông đảo vào chật cả đại sảnh đường, Cư-Sĩ vừa trông thấy bèn nói:
– Tôn nhân, ở đây có chỗ ngồi, ông muốn ngồi xin tùy ý.
Ni-kiền
Thân-Tử nói:
– Cư-Sĩ, ông nên làm như thế sao? Tự mình: lên toà cao
ngồi kiết già, cùng nói chuyện với người khác y như người xuất gia học đạo
không khác.
– Tôn nhân, tôi có đồ vật, chỗ ngồi này tôi có, cho nên
tôi nói: “Có chỗ ngồi, muốn ngồi xin tùy
ý”.
Ni-kiền
Thân-Tử tự trải chỗ ngồi mà ngồi rồi nói:
– Cư-Sĩ, vì sao như vậy? Muốn hàng phục Sa-môn Cù-Đàm,
lúc trở về lại bị hàng phục, như người vào rừng tìm con mắt, nhưng khi trở về lại
bị mất thêm con mắt thứ hai. Cũng như: người khát nước đi vào hồ nước, khi trở
ra vẫn khát nước, Cư-Sĩ cũng vậy, muốn hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, nhưng khi trở
về lại bị hàng phục ngược lại; này Cư-Sĩ, tại sao thế?
Cư-sĩ
Ưu-ba-Ly nói:
– Ví như một người cầm đồ chơi con khỉ nhỏ đến thợ nhuộm
và nói: “Hãy nhuộm đồ chơi con khỉ nhỏ
này thành màu vàng và nhồi cho nó phát ra ánh sáng cho tôi”. Người thợ
nhuộm trả lời: “Đồ chơi này nhuộm thành
màu vàng làm cho dễ thương, việc này làm được, nhưng không thể nhồi đập cho nó
phát ra ánh sáng”. Thưa Tôn nhân, những điều Ni-Kiền nói cũng giống như
thế, không thể chịu đựng nổi những câu hỏi khó của người khác, cũng không thể
suy nghĩ quán sát, mà chỉ nhiễm ngu si; giống như đồ chơi con khỉ không thể
phát ra ánh sáng.
Lại nữa,
một người cầm chiếc áo Ba-la-nại đến thợ nhuộm nói: “Nhuộm giùm chiếc áo này thành cực đẹp, và nhồi đập cho nó phát ra ánh
sáng”. Thợ nhuộm nói: “Áo này có thể
nhuộm thành màu rất đẹp, cũng có thể đập nhồi cho phát ra ánh sáng”. Thưa
Tôn nhân, những điều mà Sa-môn Cù-Đàm, tức đấng Như-Lai Vô-Sở-Trước Chánh-Đẳng
Chánh-Giác dạy cũng như vậy, rất đủ khả năng chịu được những câu hỏi khó của
người khác; cũng có thể suy nghĩ, quán sát một cách thoả đáng, không ngu si.
Ni-kiền
Thân-Tử nói:
– Cư-Sĩ, ông đã bị Cù-Đàm biến hoá bằng ảo thuật rồi.
– Thưa Tôn nhân, đó là loại chú huyển thuật tốt đẹp,
loại chú huyển thuật làm cho cha-mẹ tôi sung sướng, ích lợi an ổn, khoái lạc
lâu dài. Là chú huyển thuật làm cho vợ-con, nô-tỳ, Quốc-Vương, tất cả thế-gian,
chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm-chí, tất cả được lợi ích an ổn, khoái lạc lâu
dài.
– Này Cư-Sĩ, cả xứ Na-lan-Đà này đều biết Cư-Sĩ là đệ-tử
của Ni-Kiền, nay đây cuối cùng, Cư-Sĩ là đệ-tử của ai?
Khi ấy
Cư-Sĩ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, rồi qùy gối phải xuống đất, nhắm hướng Phật
đang ở, chắp hai tay và nói:
– Tôn nhân hãy nghe những điều tôi nói.
Rồi Cư-Sĩ
nói kệ rằng: “Đức Phật là đại-hùng, là
bậc Thánh, là vô địch, là bất động, là đại-sĩ, là không nhiễm trần”. Cư-sĩ tán
thán: “Đức Phật là bao dung, là đấng tịch mặc, là dũng mãnh, là trụ pháp, là
điều-ngự, là đại-long vượt tục”. Sau chót Cư-sĩ ca tụng: “Đức Phật là siêu thế,
là thanh-tịnh, là bậc vô-đẳng, là tịch-tịnh tịch-huệ, là vô thượng đáng thờ, là
Thiện-thệ v. v…”, trong đó, mười lần tự xác nhận mình (Cư-sĩ) là đệ-tử
Phật.
Nghe một
hồi lâu, rồi Ni-kiền Thân-Tử nói:
– Cư-Sĩ, ông ca ngợi Sa-môn Cù-Đàm với ý nghĩa gì?
– Thưa Tôn-nhân, Sa-môn Cù-Đàm, Như-Lai, Thế-Tôn, bậc
Vô-Sở-Trước Chính-Đẳng, Chính-Giác được vô lượng Người và Trời ca tụng, Ngài là
bậc mà tôi tôn kính bậc nhất, nên tôi ca tụng sự thật.
Khi nói
Pháp này: Cư-sĩ Ưu-Ba-Ly xa lià trần cấu (những ô nhiễm xấu xa của cuộc đời),
phát sinh Pháp nhãn đối với các pháp.
Ngay khi
ấy, Ni-kiền Thân-Tử vì sự tức giận mà ói máu ra, các đệ-tử vội vã cùng nhau dìu
về; hôm sau, Ni-kiền Thân-Tử nghĩ đến sự mất thể diện nhục nhã ấy liền bỏ đi
đến nước Bà-Hòa, và vì tai họa này mà chết ở nước đó..,.
Toàn Không
Discussion about this post