CON NGƯỜI GIẤU CÁI ĐUÔI Ở ĐÂU?
Nhụy Nguyên
Có thể lắm, khi
minh định được loài người thoát thai từ đâu, hẳn đó là giai đoạn đầu của sự hủy
diệt. Nhân loại bằng tiến bộ vượt bậc của khoa học thực nghiệm, những bí mật
lớn về tâm linh đã rọi ra tia hy vọng cứu rỗi giống loài trên hành tinh này. Và
nỗ lực vén bức màn vô minh hòng thấu triệt chân tướng vũ trụ sẽ vô vọng nếu
không dựa vào khoa học huyền bí. Phật pháp mênh mông vi diệu nếu biết nương vào
sẽ là sinh khí của bất kỳ quốc gia nào.
Chúng ta biết, trái
đất từng trải qua thảm họa Đại hồng thủy cuốn sạch người Át-lan; riêng đỉnh
Hi-ma-lai-a và Tây Tạng nước không vươn tới, nên hiển nhiên nó được đoán định
là nơi cất giấu hạt giống loài người. Ngành khảo cổ học cũng tìm thấy trong các
hang động cổ xưa hình vẽ mô tả các loại máy móc về Y học hiện đại hơn cả bây
giờ; xem là nền văn minh tiền
sử bị lấp vùi. Việc phát hiện ra các bích họa tuyệt mỹ ở dãy núi Alps; những dấu chân hóa thạch có niên đại cách nay mấy
trăm triệu năm đã cho thấy người tiền sử từng sinh sôi rực rỡ, vượt xa nền văn
minh chúng ta. Rồi giới khảo cổ còn tìm thấy các di vật cách hàng tỷ năm, khi
mà vỏ trái đất chưa thật hoàn thiện… Nên biến cố “trùng tang” giữa các hành
tinh, có nguy cơ nên bão từ đâu gì lạ. Mấy năm trước có một hội nghị
khoa học khám phá ở Sydney,
trọng tâm bàn về tương lai ảm đạm của trái đất. Bản tổng kết không báo động
cũng không đảm bảo sự an toàn cho loài người. Tuy nhiên điều đáng lưu ý, họ hy
vọng cư dân trên địa cầu từ nay có thể thức tỉnh, “bỏ ác dương thiện, cải
tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm” để cứu rỗi đại họa. Có nghĩa tư tưởng và ý
niệm bất thiện của loài người (chưa cần bàn tới hành động) có thể “kết tinh”
thành sóng thần và bão lụt, và ngược lại.
Nền văn minh vật
chất càng phát triển, người người chạy theo lối sống vật chất, nhân tâm suy đồi
khô cằn hoang mạc. Một số cường quốc tự hào về việc chế tạo các loại vũ khí tối
tân, tự hào về việc tìm ra các hành tinh mới mà không mấy để ý đến những khám
phá tâm linh mang tính quyết định cho tương lai hoàn cầu. Mun Đa Sép – Gs. Y
học, Giám đốc Trung tâm phẫu thuật mắt Liên bang Nga, ông đã hành trình qua Tây
Tạng chụp những “con mắt thứ ba” trên các đền đài cổ, dùng kỹ thuật hiện đại
dựng lại hình dáng của một loại người có tên Xô-ma-chi. Người Xô-ma-chi đã rời
thế gian hoặc vẫn ngụ trong lòng các ngọn núi, như là sự di truyền hạt giống
cho nền văn minh hậu trái đất; trong đó Himalaia, Tây Tạng được xác định là trung tâm quỹ gen của nhân loại. Qua
tiếp xúc với các Lạt ma, Gu ru, khám phá của Mun Đa Sép là kho tư liệu quý giá
vô ngần về huyền bí phương Đông chưa từng đạt tới trong giới khoa học nghiên
cứu tâm linh trước ông.
Bây giờ khái
niệm linh hồn không còn xa lạ tại
Việt Nam.
Viện Tiềm năng con người hiển nhiên là cầu nối thông tin giữa cõi sống và cõi
chết, dẫu cho sự biết đó vô cùng hạn
hẹp tại bề thấp nhất của cõi Trung giới và giai đoạn Thân trung ấm. Nếu người
đời vẫn cần một sự tường giải thực nghiệm, e muộn mất. Khoa học gia như Mun đa
sép, lúc qua Tây Tạng mới làm quen được khái niệm Từ Bi, thế mà trong thời gian
ngắn ông đã lưu cữu vào tâm thức các thức
[bất tử] sau kiếp người; có khiến chúng ta chột dạ? Âu là do bức màn vô minh
giăng phủ. Vô minh – danh từ này dùng để đeo trước ngực tất cả những ai chưa
trực ngộ, chưa thấm Đạo, chưa hề chiêm nghiệm về “tánh không”. Ai rồi cũng đến
được bờ giải thoát, có thể trong chúng ta “đang là” đây sẽ cán đích trong kiếp
này hoặc nhiều kiếp nữa, cũng có thể trôi lăn trong luân hồi cả đại A Tăng Kỳ
kiếp. Một người nông dân ngộ Đạo, nếu tính trên mặt bằng cõi nhân, họ tiến bộ
hơn nhiều một trí giả xem thường Phật pháp. Danh giá bây giờ, song họ phải nhận
thêm nhiều kiếp nữa để được như người nông dân kia. Đó là chưa dám nghĩ đến
chuyện, vì mê lầm chấp trước gây nghiệp không khéo rẽ qua lục đạo luân hồi.
Việc hành Đạo có quan trọng và việc cự tuyệt hành Đạo có nghiêm trọng, tưởng
đâu cần trả lời.
Quay lại với
nguồn gốc loài người. Ở đây không nhất thiết lật lại vụ nổ Big Bang; cũng không
cần soi lại thuyết Tiến hóa. Mun Đa Sép bước đầu cảm nhận chủ nhân của các Kim
tự tháp là người Át-lan có tuổi thọ 78.000 năm (trong lúc nếu là của người Ai
cập thì mới chỉ khoảng 4 – 5000 năm). Vậy các Pharaông từng được xem là xác
ướp, có thật? Giả thuyết: đó có thể là những Xô-ma-chi tạm thời gửi xác lại
trong các “tháp mộ”; thời điểm loài người hủy diệt, [hồn] họ sẽ quay [sống] lại
nhập vào xác duy trì giống người. Học
thuyết bí ẩn của học giả người Nga E.P. Bờ-la-vát-cai-a xuất bản năm 1937
viết: “Tại nơi bây giờ là hồ nước mặn và những sa mạc cằn cỗi hoang vu, đã từng
có một biển cả nội địa rộng lớn, trải dài từ dãy núi Himalaia hiên ngang và các
nhánh phía tây qua Trung Á đến phương Bắc. Trên đó có một hòn đảo đẹp vô song
là nơi cư trú của những người còn lại cuối cùng của Chủng tộc trước chúng ta…”.
Xô-ma-chi cũng
gần với trạng thái “nhập định viên mãn” trong Thiền Phật giáo Nguyên thủy.
Người trần tu đắc quả La hán hoặc cao hơn, tế bào của họ sẽ được thay bằng vật
chất cao năng lượng, có thể đưa xác lên cõi khác hoặc xác ấy để lại trần gian
mãi mãi không hư hoại (một dạng như 2 vị chân tu đắc đạo ở chùa Đậu). Trường
hợp Xô-ma-chi tạm thời gửi xác lại ở dạng đá, trong lòng đất hoặc cũng có thể
dưới đại dương; họ sẽ trở lại trái đất lấy xác hoặc không, bởi chính [hồn] họ,
bằng năng lực siêu nhiên hoàn toàn tạo được một thân hình vừa ý để “khoác” vào.
Ở Tây Tạng có người Xô-ma-chi mật tu trong các hang động, song người đời không
được phép vào trừ những ai thực sự đã tịnh hóa thân tâm đạt đến cấp độ Nhị
Thiền trở lên; hoặc người xin vào với sứ mệnh lớn lao thức tỉnh nhân loại… Điều
này hoàn toàn lô gích, nếu chúng ta nhớ lại số người từng thiệt mạng tại hầm mộ
Pharaông trong các Kim tự tháp. Hiểu cách khác, xác ướp ấy có thể được gửi lại
trần gian theo kiểu Xô-ma-chi. Đó có thể là một phần trong quy luật vĩnh hằng
của vũ trụ, và vĩnh viễn bất khả tri với “người thường” dẫu có sáng chế ra kính
thiên văn nhìn thấu thiên hà.
Dĩ nhiên, người
đạt được trạng thái Xô-ma-chi xuất hồn gửi xác hàng triệu năm, thì họ hoàn toàn
chủ động kiếm phần xác thích hợp khác hay tự tạo ra phần xác cho mình để sinh
ra một giống người mới trên trái đất sau thảm họa… Đã đến lúc cần ngẫm kỹ
khái niệm Nghiệp. Nghiệp là “bộ máy” tinh vi phân tích nhân tạo quả chi phối
xuyên không gian và thời gian. Trong giới động vật mỗi loài đều do quy định của
nghiệp quả. Trong vũ trụ có vô số cảnh giới khác nhau được tạo ra để phân loại
cho giới loài sinh sống. Danh sư Di Pama chui được xuống đất song khi lên thì
người ướt rượt, để thấy ở cảnh giới bà thâm nhập, mặt đất không còn là mặt đất
mà lại là nước. Trong kinh
Hoa Nghiêm mô tả: “Ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói
khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các
ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy
nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn. Tại sao vậy? Vì các ngạ quỷ
này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ”. Cũng như trong không gian ta đang sống,
trong ngôi nhà rỗng của chúng ta, nhìn thì trống không song thực tế có cảnh
giới cõi âm, “người” vẫn tồn tại [trong cảnh giới của họ]. Thấp hơn là cảnh
giới của ngạ quỷ, súc sanh, cảnh giới địa ngục… và nhiều cảnh giới nữa vẫn
“tận dụng” không gian của loài người mà xem ra chẳng ảnh hưởng gì đến nhau.
Loài tinh tinh thông minh nhất trái đất hiện thời, khoa học giải mã bộ gen của
nó gần trùng khớp với người. Cũng yêu ghét giận hờn, sẻ chia vui buồn, cũng
tham sân như ai, nhưng tí chút khác biệt chính là cái nghiệp khiến nó phải là
con tinh tinh trọn kiếp!
Đạo Phật có danh
từ rất dễ nhớ: Ngộ. Có điều để phá mê, con người phải trải qua nhiều kiếp, gọn
hơn là đánh đổi sự tu tập trọn đời. Kinh Phật vẫn từng nhắc đến rất nhiều vị La
Hán, Bồ Tát, Phật Đà thần thông quảng đại, dời chuyển không gian. Mục Kiền Liên
xuống Địa ngục để thăm mẹ, xem Đề Bà Đạt Đa bị đọa như thế nào; Di Pama có thể
quay về ngồi chung với các tỳ kheo nghe Phật giảng Tứ thánh đế; Thiên Thai Trí Giả trong định ngồi nghe
Phật Thích Ca giảng kinh Pháp Hoa ở núi Linh Thứu; ấy là “thế gian tướng
thường trụ”… Người chứng Đạo hầu như có thần thông. Vậy tại sao tất thảy họ
không tiêu trừ hết khổ đau cho nhân loại? Thực ra như đã nói, con người rớt
xuống cõi này đều do lãnh nghiệp báo từ các cõi trên và từ muôn kiếp, đòi hỏi
phải tự ngộ; Phật chỉ cho lối thoát và ai nấy tự thắp đuốc mà đi. Nếu khả năng
kỳ diệu [do đắc Pháp mà có] phơi lộ trước mặt, chúng ta sẽ nổi tham; tu tập
mong đạt khả năng đó, vậy đâu phải ngộ. Ngược lại nếu họ đem huyền năng khoe
khoang trục lợi, phô bày bản ngã, chắc chắn sẽ bị rút phép thông công. Bởi thế
ngoài một số hiện tượng linh hiển, tiến trình lên [hay xuống] trong Ta bà phụ
thuộc vào nhân tâm.
Thật nghiêm trọng
nếu nghĩ đạo Phật chỉ dành cho một bộ phận người, ai không theo thì không cần
giữ giới, học và hành. Thực tế Phật pháp dành chung cho nhân loại. Cõi người là tầng
rất thấp trong Tam giới. Chúng ta “rớt” xuống đây xem như cõng nghiệp, duy trì
thân mạng cốt tạo phước hầu trả nghiệp tiêu nghiệp, nhẹ gánh mà bay lên. Muốn
tìm lại đúng con đường trở về Tây phương Cực lạc thế giới, không ngọn đèn
nào soi tỏ ngoài ánh hào quang của Phật. Chúng ta không nên học Phật qua “tảng
băng nổi” mà phải học bằng Tâm ở phía sau văn bản, tức chặt đứt “ngón trăng”.
Cho dù “triết học Kinh Phật là nền triết học cao nhất của triết học thế giới”
(như nhận xét của Giáo thọ Phương Đông Mỹ) thì sau sở học là hành. Hành, trước hết đào luyện tâm, tẩy
rửa bợn nhơ uế trược. Cao nhân Phật pháp, họ cũng chỉ nhận mình là hành
giả chứ không gắn hàm học giả bao giờ. Nếu cảm Phật bằng Tâm, chúng ta
sẽ không mất quá nhiều thời gian chờ đợi ngành vật lý lượng tử chứng minh bí
mật của vũ trụ mà Đức Phật nói không sai trật gần ba ngàn năm trước.
Tu thời nay
không nhất thiết phải cạo đầu lên chùa. Từ Phật giáo Tiểu thừa [Nguyên thủy]
đến Phật giáo Đại thừa [Phát triển] là một quá trình biến đổi lớn về tư duy
hành đạo. Ta vẫn có thể “trà trộn” vào dòng đời, lấy đời làm trường tu luyện để
nhiếp phục tâm, nâng cao chân tánh. Khi miếng ăn bị xâm hại, nếu ta biết đặt sự
nhường nhịn lên trên hẹp hòi ích kỷ thì xem như đã vượt qua một [trong số
nhiều] cửa ải tử sinh. Khi biết chịu thiệt về mình để ban phát tình thương lên
vạn vật thì nỗi sợ hãi và nghiệp nạn sẽ không chạm được vào cánh cửa tử sinh kế
tiếp. Nếu trái đất bị đảo chiều suy biến, khi đó tâm từ mà ta luyện thành sẽ là nơi an trú an toàn nhất.
Hoặc giả, nếu
thế giới ấn định thời gian (kiểu như giờ trái đất chẳng hạn) và đúng khoảng
thời gian bao lâu đó toàn nhân loại đều thanh sạch nhất tâm niệm “A Di Đà Phật”
thiết nghĩ nạn nghiệp sẽ được đẩy lùi.
Nếu trái đất
không lâm nạn, hoặc cộng nghiệp sai
số hàng chục, hàng trăm nghìn năm thì tương lai gần của loài người cũng không
sáng sủa cho lắm. Đại thế chiến tiền ẩn. Bom nguyên tử chờ kích hoạt… Sự lệch
quỹ đạo trái đất sẽ tạo nên địa chấn, đại dương trồi lên và phần đồng bằng đồi
núi bị lún xuống. Điều này lý giải nguyên do chúng ta tìm thấy những thành phố
chìm dưới đáy đại dương. Hay hiểu thô mộc hơn, thời điểm nền văn minh vật chất
“lên đỉnh”, thời điểm các cường quốc “chơi cờ người” phục vụ cơn ngông cuồng
của nhóm người băng hoại đạo đức, hẳn sẽ có bàn tay thiên tượng xóa bàn cờ thế sự
tạo nên giống người mới cho một nền văn minh mới. Đừng bao giờ nghĩ điều đó bất
công. Sẽ chẳng có bất công khi tất cả cùng lâm nạn song người xấu xuống địa
ngục còn người tốt lên thiên đàng; người xấu bị đầu thai làm súc sanh còn người
tốt hưởng phước tại các cõi cao hơn. Đó là thuyết luân hồi nhân quả không thể
nghĩ bàn nếu chúng ta không muốn khai tâm.
Trong lịch sử
Việt Nam
đã có thời thịnh trị Lý – Trần dựa nền trên lưng Phật giáo; lại là thời có
phương sách giữ nước kinh điển. Chúng ta thừa nhận thơ Thiền Lý – Trần là đỉnh
tót vời trong kho tàng văn học nước nhà. Nếu chúng ta gạn khỏi “bể khổ” lớp
váng vô minh và không nhìn Phật pháp qua lớp kính màu của mê tín, của chính trị
và quyền lực thì miền huyền nhiệm trong mỗi người sẽ tự thắp sáng sau những bể
dâu.
N.N
Discussion about this post