CÕI ĐỊA NGỤC
Toàn Không
(Trích dẫn tham khảo: Tăng nhất A Hàm, quyển 2, trang 200-213 do HT Thích
Thanh Từ dịch xuất bản tại VN năm 1995. Trung A Hàm, quyển 1, trang 659-682 do
HT Thích Thiện Siêu dịch XB tại VN năm 1992, Trường A Hàm, quyển 2, trang 313-
354 do HT Thích Trí Tịnh dịch xuất bản tại VN năm 1991. Kinh Địa Tạng do HT Thích
Trí Tịnh dịch XB tại VN năm 2001).
I) – SINH TỬ THÔNG:
Một thời đức Phật ngự trong vườn Cấp Cô
độc, nước Xá Vê, bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
–
Ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy chúng sanh sinh ra chết đi, chết đi
sanh ra, sắc đẹp sắc xấu, thiện hoặc ác, chỗ lành hoặc chỗ dữ tùy theo nghiệp
mà chúng sinh đã tạo ra. Ta thấy những sự kiện ấy đúng như thật, không hư dối.
Nếu có chúng sanh nào làm ác, nói ác, nghĩ ác, phỉ báng Thánh hiền, tà kiến,
thì do nhân duyên ấy, khi chết chắc chắn đi vào chỗ dữ, sinh nơi địa ngục. Nếu
chúng sinh nào làm lành từ thân miệng ý, ca ngợi bậc Thánh hiền, không có tà
kiến, do nhân duyên này, khi chết người ấy sẽ đi vào chỗ tốt, sanh nơi cõi
trời.
Như khi mưa lớn, lúc ban đầu trút xuống,
giọt nước rơi xuống, hoặc chỗ thấp hoặc chỗ cao, nếu có người đứng yên một chỗ,
để ý thấy rõ những hạt mưa rơi xuống khi chỗ thấp khi chỗ cao; như bọt nước
sinh ra rồi mất đi, nếu có người đứng một nơi quan sát thấy bọt nước mưa thoạt
sinh rồi thoạt diệt, thấy rõ ràng.
Như ngọc lưu ly tự nhiên sinh ra không có
tỳ vết, tám góc xâu qua sợi dây hoặc xanh, vàng, đỏ, đen, trắng, người có mắt
nhà nghề nhìn biết rõ ngọc lưu ly tốt xấu rõ ràng.
Như hai nhà có chung một cổng ngõ, nếu có
người đứng một chỗ thấy người ra vào qua cổng ngõ ấy rõ ràng.
Cũng như người đứng trên lầu cao nhìn
người qua lại hoặc ngồi nằm, chạy nhảy bên dưới, đều thấy tất cả một cách rõ
ràng.
Ta cũng thế, bằng Thiên nhãn thanh tịnh,
nhìn thấy chúng sanh khi sinh lúc chết, hoặc xấu hoặc đẹp, qua lại chỗ lành chỗ
dữ tùy theo nghiệp mà chúng sinh ấy đã tạo. Ta thấy sự kiện ấy đúng như thật,
không sai lệch, nếu chúng sanh nào làm ác, nói ác, nghĩ ác, nói xấu bậc Thánh,
có tà kiến, khi chết, chúng sinh ấy chắc chắn sinh vào chỗ dữ, địa ngục. Nếu
chúng sinh nào làm lành, nói lành, nghĩ lành, không nói xấu bậc Thánh, có chính
kiến, do nhân duyên ấy, khi qua đời, người ấy chắc chắn sinh vào chỗ lành, cõi
trời hoặc cõi người.
Nếu chúng sanh nào sống trong nhân gian
không hiếu thảo với cha mẹ, không tôn trọng bậc Thánh hiền, không tạo phúc,
không sợ tội đời sau, do nhân duyên ấy, khi chết chúng sinh ấy sẽ sinh trong
loài Ngã quỷ, Súc sinh, hay Địa ngục.
LỜI BÀN:
Đoạn Kinh trên cho thấy đức Phật có Sinh
tử thông, Ngài dùng Thiên Nhãn thấy rõ chúng sanh chết đi sinh ra đều theo
nghiệp của thân miệng ý đã tạo ra mà được đến chỗ tương xứng, tạo nhân ác phải
vào chốn đau khổ, tạo nhân thiện được vào nơi vui sướng. Thân làm ác là hành
hạ, đánh đập, giết hại chúng sinh các loài; miệng nói ác là nói dối, nói hai
chiều, nói thêu dệt, nói ác; ý nghĩ ác là tham lam, sân hận, si mê tà kiền như
không tin nhân quả nghiệp báo, không tin tái sinh luân hồi; phỉ báng bậc Thánh.
Đức Phật cho biết Ngài nhìn thấy luân hồi
sinh tử của chúng sinh rõ ràng cũng như người đứng nhìn giọt mưa rơi xuống chỗ
thấp chỗ cao, như bong bóng của nước mưa sinh ra rồi biến mất, như người đứng
nhìn người qua lại v.v…, tất cả đều rõ ràng, không sai sót, không hư dối.
Chúng ta nên tin lời đức Phật nói, vì sao? Vì ngày nay: chuyện tái sinh không
còn xa lạ nữa, chúng ta tiếp tục đọc đoạn Kinh kế tiếp xem đức Phật nói gì?
II) – DIÊM VƯƠNG HỎI CUNG:
Người làm ác không làm lành khi chết bị
quỷ sứ bắt dẫn đến Vua Diêm La, cũng gọi là Diêm Vương, quỷ sứ nói:
–
Đại Vương nên biết! Đây là người mà Thiên sứ bắt, người này trước kia thân
miệng ý đều ác, lại không tạo phúc nghiệp, cúi xin Đại Vương hỏi cung xét xử.
1)- Hỏi cung về sinh khổ:
Lúc ấy, Diêm Vương đòi Thiên sứ thứ nhất
có mặt để kiểm tra, hỏi kỹ, quở trách tội nhân, rồi Diêm Vương hỏi tội nhân:
–
Thế nào tội nhân kia! Đời trước Ngươi làm thân Người không thấy hài nhi sinh ra
rất đau đớn nguy khốn, nằm trong máu nước tanh hôi dơ bẩn, lại có hài nhi ra
ngang ra ngược đau đớn muôn phần cho cả mẹ lẫn con, Ngươi có biết không?
Tội nhân đáp:
–
Thực có biết, thưa Đại Vương.
Diêm Vương nói:
–
Ngươi biết hạnh thiết yếu của sự sinh, đó là làm lành tránh làm ác từ thân
miệng đến ý, sao Ngươi không làm?
Tội nhân thưa:
–
Đúng vậy Đại Vương, chỉ vì si mê chẳng phân biệt lành ác, tâu Đại Vương, tôi là
kẻ ngu muội nên đã phạm tội, xin Đại Vương tha cho.
Diêm Vương bảo:
–
Ta biết Ngươi quả là kẻ ngu si, nay ta hỏi tội trước, sau sẽ trị tội Ngươi đã
tạo ra ác nghiệp. Ác nghiệp của Ngươi không phải do ông bà cha mẹ làm, không
phải do người khác làm, mà do chính Ngươi làm nên phải thụ báo hình phạt tương
xứng.
2)- Hỏi cung về già khổ:
Lúc ấy, Diêm Vương cho đòi Thiên sứ thứ
hai có mặt để kiểm xét, hỏi kỹ, quở trách, rồi Diêm Vương hỏi tội nhân:
–
Trước kia Ngươi há không thấy người già cả đầu bạc, răng rụng, mắt mờ, tai
lãng, lưng còng, thân run, đi đứng khó khăn, phải chống gậy mà đi sao?
Tội nhân đáp:
–
Tâu đại Vương, có thấy.
Diêm Vương lại hỏi:
–
Ngươi đã thấy sao không nghĩ: “Ta sẽ cũng như vậy”?
Tội nhân đáp:
–
Vì lúc đó tôi mê mờ, buông lung, nên không tự biết, xin Đại Vương tha cho.
Diêm Vương nói:
–
Ngươi rõ ràng là ngu si không nhớ, buông lung không làm lành về thân miệng ý,
lại ngu si làm các điều ác độc. Nay ta sẽ cho Ngươi biết cái giá phải trả của
sự ngu si buông lung. Tội tạo ra không phải là do tổ tiên làm, chẳng phải do
quốc vương đại thần làm, cũng chẳng phải do ai làm, mà chính là do Ngươi làm
nên chính Ngươi phải chịu tội.
3)- Hỏi cung về bệnh khổ:
Lúc ấy, Diêm Vương cho đòi Thiên sứ thứ ba
để kiểm xét, hỏi kỹ, quở trách, rồi Diêm Vương hỏi tội nhân:
–
Tội nhân, Ngươi có thấy Thiên sứ thứ ba không?
Tội nhân đáp:
–
Thưa Đại Vương, tôi không thấy.
Diêm
Vương hỏi:
–
Trước kia, Ngươi há không thấy người bệnh từ lớn chí nhỏ, đau đớn lăn lộn, rên
rỉ khóc than đến nỗi không ăn uống nổi, thân thể tiều tụy gầy còm chỉ còn da
bọc xương sao?
Tội nhân đáp:
–
Có thấy, thưa Đại Vương.
Diêm Vương hỏi:
–
Ngươi chẳng tự nghĩ rồi ngươi cũng như vậy sao?
Tội nhân đáp:
–
Thực vậy, nhưng lúc đó tôi chẳng nghĩ vì si mê buông lung.
Diêm Vương nói:
–
Ta cũng biết Ngươi ngu si chẳng hiểu, nên Ngươi đã không tu tập về thân miệng
ý, không từ bỏ việc ác, nay ta xử tội để sau này Ngươi không phạm nữa. Tội này
chẳng phải do tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng quyến thuộc làm, mà do
chính Ngươi làm nên Ngươi phải tự chịu tội lấy, không ai thay thế Ngươi được.
4)- Hỏi cung về chết khổ:
Bấy giờ Diêm vương gọi Thiên sứ thứ tư để
kiểm xét, hỏi kỹ, quở trách, rồi Diêm Vương hỏi tội nhân:
–
Ngươi có thấy Thiên sứ thứ tư không?
Tội nhân đáp:
–
Không thấy, thưa Đại Vương.
Diêm Vương nói:
–
Trước kia, Ngươi có thấy người chết rồi qua một hai ngày thân thể cứng đơ, cho
đến sáu bảy ngày bị sình trương hôi thối; có khi vứt ngoài gò mả bị quạ mổ chó
ăn, hoặc có nơi dùng lửa thiêu đốt, hoặc chôn dưới đất thịt tan thối rữa không?
Tội nhân đáp:
–
Có thấy, thưa Đại Vương.
Diêm Vương lại hỏi:
–
Từ đó, Ngươi đã hiểu biết về cái chết, Ngươi không nghĩ chính Ngươi cũng sẽ
chết, không thể tránh khỏi họa này, để rồi làm các điều thiện từ thân miệng đến
ý; tại sao ngược lại, Ngươi lại làm ác cả thân miệng ý?
Tội nhân đáp:
–
Tôi có thấy người chết, nhưng tôi chẳng suy nghĩ nên chẳng thể biết được vì si
mê.
Diêm Vương nói:
–
Ta cũng biết Ngươi không biết pháp này, nay hỏi tội Ngươi, sau sẽ trị tội để
Ngươi không tái phạm nữa. Tội ác này do Ngươi làm, nên Ngươi phải tự chịu.
Chẳng phải Tổ tiên Ông bà Cha mẹ làm, chẳng phải Thượng đế Quỷ Thần Trời người
khác làm, chẳng phải Tri thức Sa môn Bà la môn làm, chẳng phải ta làm, mà chính
là do Ngươi tự làm nên phải tự chịu lấy.
5) – Hỏi cung về việc làm ác:
Vua Diêm La lại kêu Thiên sứ thứ năm đến
hỏi kỹ, tra xét, quở trách tội nhân, rồi Diêm Vương hỏi tội nhân:
–
Ngươi có thấy Thiên sứ thứ năm không?
Tội nhân đáp:
–
Không thấy, thưa Đại Vương.
Diêm Vương nói:
–
Nguơi xưa làm người có thấy kẻ trộm tiền của đồ đạc của người khác, hoặc cướp
bóc vàng bạc châu báu, giết người không? Ngươi có thấy những kẻ ấy bị bắt bị
trói, bị nhốt trong cũi, bị đánh đập, bị chặt tay chặt chân, hoặc bị xiềng xích
nhốt trong tù, hoặc bị treo cổ bêu đầu sao?
Tội nhân đáp:
–
Thưa Đại Vương, có thấy.
Diêm Vương hỏi:
–
Vậy sao Ngươi còn cướp của giết người?
Tội nhân đáp:
–
Tôi thật ngu si, nên đã làm bậy, xin Đại Vương tha tội cho.
Diêm Vương bảo:
–
Ta tin lời Ngươi ngu dốt, nay trị tội Ngươi để sau không phạm nữa. Tội ấy chẳng
phải do Tổ tiên ông bà cha mẹ Ngươi làm, chẳng phải do Quốc Vương đại thần làm,
chẳng phải do nhân dân làm, chẳng phải ai khác làm, mà chính là do Ngươi tự làm
tự chịu, không ai chịu thay Ngươi được, Ngươi phải chịu khổ nghiệp này.
Nói xong, Vua Diêm La ra lệnh cho quỷ ngục
dẫn tội nhân đem giam trong địa ngục.
LỜI BÀN:
Đoạn Kinh trên nói về Vua Diêm La và Thiên
sứ hỏi cung tội nhân, ta nên tìm hiểu về các vị này:
– Thiên sứ: Là vị chứng kiến cảnh tội nhân làm ác từ thân miệng
đến ý. Đây là những bằng chứng khiến tội nhân không thể chối cãi khi hỏi cung.
– Vua Diêm La: Diêm Vương có hình thù đầu mặt thật dữ dằn, khiến tội
nhân sợ khiếp đảm vô cùng nên tội nhân không dám nhìn thẳng. Trong Trường A
Hàm, quyển 2, trang 347, Đức Phật kể chuyện về Diêm Vương như sau:
“Về phía Nam châu Diêm Phù Đề trong núi
Kim Cang lớn, có cung thành Vua Diêm La vuông vức mỗi bề 6,000 do tuần (6,000 x
18 = 108,000 cây số), có 7 lớp tường thành, 7 lớp lan can, 7 lớp màng lưới, 7
lớp hàng cây, và vô số chim cùng ca hót líu lo.
Tại chỗ Vua Diêm La ngự, ngày đêm ba thời
tự nhiên có vạc đồng lớn xuất hiện; nếu vạc đồng xuất hiện ở nội cung thì Vua
cảm thấy sợ hãi liền ra ngoài cung; nếu vạc đồng ra ngoài cung thì Vua sợ hãi
liền đi vào nội cung. Nếu gặp, quỷ sứ bắt Vua Diêm La nằm trên bàn sắt nóng
dùng móc sắt cậy vành miệng ra rồi đổ nước đồng sôi vào, khiến môi lưỡi, yết
hầu, dạ dày tới ruột đều bị cháy; sau khi chịu hình phạt xong, nhà Vua lại cùng
các thể nữ vui chơi, các đại thần cũng cùng hưởng phúc báo giống như thế.”
Xem như thế, được làm Vua Diêm La cũng
chẳng có gì đáng ham, hưởng sung sướng với thể nữ rồi lại bị đổ nước đồng sôi
vào miệng! Sướng khổ lẫn lộn như thế thật là khủng khiếp!
Thảo nào, trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 2,
trang 213, đức Phật nói:
–
Các Ông nên biết! Vua Diêm La nghĩ: “Chúng sanh ở thế gian vì mê lầm, không ý
thức, nên thân làm ác, miệng nói ác, nghĩ điều ác. Do đó sau khi chết, ít có
người không chịu khổ ở địa ngục. Nếu như chúng sinh ở thế gian cải đổi điều ác,
làm điều lành, khi chết được đến cõi tốt, cõi trời, còn nếu tu hành tới nơi tới
chốn sẽ được giải thoát an vui mãi mãi”
Rồi Vua Diêm La nói:
“-
Ngày nào mà ta thoát khỏi khổ nạn này (khổ nạn làm Diêm Vương) và được sinh
trong loài Người, đã được thân người, ta sẽ xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Cà
Sa, xuất gia học đạo, tu hành trong khuôn phép của đức Như Lai, mong thoát khỏi
luân hồi sinh tử khổ ải trầm luân.”
Bởi vậy, chúng ta đang được làm thân
Người, đó là điều quý giá vô cùng, nhưng nhiều người không biết “được làm thân
người là quý giá”; Lại có nhiều người không biết đến Phật pháp, thật là tiếc
thay; có người biết Phật pháp, nhưng lại lơ là không nhiệt tâm làm lành lánh
ác, không chịu tu, thật là uổng thay. Đọc phần Kinh dưới đây mới thấy nỗi thống
khổ của tội địa ngục biết nhường nào, và lúc vào địa ngục rồi thì đã quá trễ
muộn để có thể làm những điều lành, chẳng thể làm gì được nữa; tất cả lúc ấy
chỉ là buông xuôi chịu khổ trăm bề do nghiệp đưa đẩy, chúng ta hãy cùng đọc
phần cảnh địa ngục dưới đây để biết địa ngục:
III) – CẢNH ĐỊA NGỤC:
Kể từ khi Vua Diêm La ra lệnh cho quỷ sứ
tống tội nhân vào địa ngục, thì tùy theo mỗi tội nặng nhẹ khác nhau mà phải vào
địa ngục tương xứng. Trong Trường A Hàm, quyển 2, Phẩm Địa Ngục từ trang 313,
nói:
Giữa hai núi Kim Cang lớn là cảnh giới mờ
mịt tối tăm âm u, trong đó có 8 đại địa ngục là:
1-
Đại địa ngục Tưởng, 2 – Đại địa ngục Dây Đen,
3
– Đại địa ngục Đá Ép, 4 – Đại địa ngục Kêu La,
5
– Đại địa ngục Kêu La Lớn, 6 – Đại địa ngục Thiêu Nướng, 7 – Đại địa ngục Thiêu
Nướng Lớn,
8
– Đại địa ngục Vô Gián.
Mỗi đại địa ngục nêu trên lại có 16 địa
ngục nhỏ.
1) – Đại địa ngục Tưởng:
Đại địa ngục Tưởng có 16 địa ngục nhỏ, mỗi
địa ngục nhỏ vuông vức mỗi chiều 500 do tuần (500 x 18 = 9,000 cây số). 16 địa
ngục nhỏ là:
1
– Đn Cát Đen, 2 – Đn Phân Dãi, 3 – Đn 500 Cái Đinh, 4 – Đn Đói, 5 – Đn Khát, 6
– Đn Vạc Đồng Sôi, 7 – Đn Nhiều Vạc Đồng Sôi, 8 – Đn Đá Ép, 9 – Đn Máu Mủ, 10 –
Đn Đong Lửa, 11 – Đn Sông Tro, 12 – Đn Rừng Đao Kiếm, 13 – Đn Búa Rìu, 14 – Đn
Sài Lang, 15 – Đn Cây Lá Kiếm, 16 – Đn Lạnh Giá.
Tại sao gọi là đại địa ngục Tưởng?
Gọi là đại địa ngục Tưởng, vì chúng sanh
trong ấy có móng tay mọc dài nhọn cứng sắc, có tâm sân hận, ý độc ác, nên cào
cấu nhau, làm cho rách da xé thịt, thịt rơi máu đổ đến ngã lăn ra bất động,
khiến họ tưởng đã chết. Nhưng rồi có cơn gió lạnh thổi đến làm cho thịt da sinh
lành lại, sống lại, họ đứng dậy tự nghĩ và nói:
–
Nay ta đã sống lại.
Chúng sanh tội nhân khác cũng nói:
–
Ta cũng nghĩ là Ngươi đã sống lại, không chết.
Những chúng sinh ở trong đại địa ngục
Tưởng lâu dài, sau được ra khỏi, chúng sanh hoảng hốt chạy càn, mong thoát nạn,
nhưng vì tội ác quá khứ lôi kéo, nên vào địa ngục Cát Đen
1 – Địa ngục Cát Đen:
Tại sao gọi là địa ngục Cát Đen?
Vừa vào trong, liền có gió nóng thổi tới,
cát đen nóng bỏng bay bám dinh chặt vào đầu mặt tay chân thân thể. Cát nóng
thiêu đốt da thịt, rồi lửa đen bộc phát thiêu đốt tới tận tim gan, xương tủy,
tội nhân đau đớn vô cùng, vì nhân làm ác phải chịu quả báo độc dữ, nhưng vẫn
không chết được. Cứ như thế thụ khổ lâu dài trong ấy, rồi sau được ra khỏi ngục
Cát Đen, mừng rỡ chạy trốn, mong tìm nơi an toàn. Nhưng vì tội còn nặng lại sa
vào địa ngực Phân Dãi.
2- Địa ngục Phân Dãi:
Tại sao gọi là địa ngục Phân Dãi?
Trong ngục lầy lội phân nước tiểu, đờm dãi
ghê tởm, mùi hôi tanh, thối tha nồng nặc phát khiếp, tại nơi đây có một loại
trùng mỏ sắt cắn da thịt tội nhân để ăn tới tận xương tủy. Mới đầu chúng ăn
chân, sau lên tới đùi, rồi lên tới bụng, tới ngực, cho tới đầu, thật đau đớn cùng
cực, nhưng vì nghiệp ác chưa hết, nên chưa chết được.
Sau một thời gian lâu dài chịu khổ như
thế, tội nhân được ra khỏi ngục Phân Dãi; vừa ra khỏi, tội nhân liền chạy càn
trốn nạn, nhưng bất ngờ lại sa vào địa ngục 500 Đinh Sắt.
3 – Địa ngục 500 Đinh Sắt:
Tại sao gọi là địa ngục 500 Đinh Sắt?
Tội nhân vừa tới nơi, ngục tốt liền đánh
văng lên bàn sắt, rồi bị căng chân tay ra và đóng 500 cái đinh lớn khắp chân
tay đầu mình không chừa chỗ nào; tội nhân đau đớn kêu khóc thảm thiết, nhưng vì
tội ác chưa hết, nên không thể chết được.
Chịu khổ ở đó lâu dài, sau được cho ra, đã
tưởng an thân, tìm nơi nương tựa yên ổn, ai ngờ lại vào địa ngục Đói.
4 – Địa ngục Đói
Tại sao gọi là địa ngục Đói?
Tội nhân bấy giờ cảm thấy đói quá, trong
bụng rỗng tuếch, chỉ muốn ăn, Ngục tốt hỏi:
–
Ngươi đến đây cầu gì?
Tội nhân đáp:
–
Đói quá, tôi muốn ăn.
Tức thì ngục tốt cầm tội nhân quăng lên
bàn sắt nóng, đè nằm ngửa xuống, dùng móc sắt cạy vành miệng tội nhân ra, rồi
bỏ hòn sắt nóng đỏ vào, khiến miệng, lưỡi, cổ họng, dạ dày cháy tiêu; tội nhân
đau đớn cùng cực, dẫy dụa kêu la khằng khặc, nhưng vì tội xưa chưa sạch, nên
không chết được.
Ở trong ngục ấy lâu dài, chịu khổ triền
miên, sau được tha ra khỏi, vội chạy trốn cho mau, mong cầu cứu giúp, chẳng ngờ
lại sa vào địa ngục Khát.
5 – Địa ngục Khát
Tại sao gọi là địa ngục Khát?
Tại nơi này, ngục tốt vừa thấy tội nhân,
liền hỏi:
–
Ngươi đến đây muốn cầu gì?
Vì trải qua thời gian lâu dài bị nuốt
những viên sắt nóng, nên lúc đó tội nhân cảm thấy khô cổ, khát nước vô cùng,
nên vội nói:
–
Khát quá, tôi muốn uống nước.
Lập tức, ngục tốt ấy liền nắm tội nhân đặt
đè nằm ngửa trên bàn sắt, cũng dùng móc sắt gàng miệng tội nhân há to ra, rồi
đổ nước đồng sôi vào, làm cháy cả môi lưỡi, yết hầu, bao tử, cho đến ruột; tội
nhân đau đớn muôn phần, rên la thảm thương, nhưng vì tội cũ chưa hết nên không
thể chết được; thọ khổ lâu dài ở đó, sau tội nhân được ra khỏi địa ngục Khát,
lại vào địa ngục Một Vạc Đồng Sôi.
6 – Địa ngục Một Vạc Đồng Sôi:
Tại sao gọi là Một Vạc Đồng Sôi?
Vì vừa thấy tội nhân, ngục tốt liền nổi
cơn thịnh nộ, nắm ngang hông tội nhân quẳng vào vạc đồng đang sôi sùng sục. Tội
nhân theo nước đồng sôi trồi lên lộn xuống, đau đớn kêu la thê thảm, vì tội ác
chưa hết nên không thể chết được.
Ở trong ngục ấy lâu dài, bị hành hạ như
thế đều đều, sau cũng được tha, ra khỏi đó đã tưởng thoát thân, ngờ đâu lại tự
dẫn vào địa ngục Nhiều Vạc Đồng Sôi.
7 – Địa ngục Nhiều Vạc Đồng Sôi:
Tại sao gọi là Nhiều Vạc Đồng Sôi?
Ngục tốt vừa thấy mặt tội nhân, liền nắm
ngang hông ném vào vạc đồng sôi thứ nhất, rồi dùng câu liêm, móc câu, móc tội
nhân từ vạc thứ nhất bỏ vào vạc thứ hai, rồi móc bỏ vào vạc thứ ba. Cứ như thế
làm mãi cho đến vô số vạc đồng sôi, tội nhân chết đi sống lại, kêu gào thảm
thiết vô cùng!
Sau một thời gian lâu dài, tôi nhân bị móc
từ vạc này bỏ vào vạc khác không ngưng nghỉ như thế, tội nhân được cho ra,
nhưng vì nghiệp ác chưa hết, nên bị nghiệp dẫn dắt vào địa ngục Cối Xay.
8 – Địa ngục Cối Xay:
Tại sao gọi là địa ngục Cối Xay?
Tội nhân vừa bước vào cửa, ngục tốt trông
thấy liền nổi thịnh nộ, bắt tội nhân quăng lên tảng đá lớn bằng phẳng, rồi lấy
tảng đá bằng phẳng to lớn khác đè lên, xong xoay tảng đá ở trên, xoay tới xoay
lui như cối xay, khiến tay chân đầu mình, máu me xương thịt tội nhân bị nghiền
nát. Thật là khủng khiếp vô cùng!, như thế mà vẫn chưa chết, vì tội xưa chưa
hết, chỉ ngưng xay là thân tội nhân trở lại bình thường.
Thọ khổ qua thời gian lâu dài như thế, tội
nhân được ra khỏi đó, hoảng hốt chạy càn mong thoát nạn, nhưng bị nghiệp lôi,
nên sa vào địa ngục Máu Mủ.
9 – Địa ngục Máu Mủ:
Tại sao gọi là địa ngục Máu Mủ?
Trong địa ngục này tự nhiên có máu mủ tanh
hôi nóng sôi sùng sục, tội nhân chạy tới chạy lui qua lại vì nóng quá, nên bị
máu tanh nóng đốt từ chân lên đến đầu, thịt rữa ra chỉ còn xương, đau đớn kêu
gào, không thể chịu nổi, vì tội cũ chưa hết nên chẳng thể chết được.
Sau một thời gian chịu khổ lâu dài, tội
nhân ra khỏi địa ngục Máu Mủ, trốn chạy mong tìm chỗ nương tựa an ổn, nhưng lại
bị nghiệp kéo, nên bất ngờ lại đến địa ngục Đong Lửa.
10 – Địa ngục Đong Lửa:
Tại sao gọi là địa ngục Đong Lửa?
Trong địa ngục này có một đống lửa lớn
cháy hừng hực, ngục tốt bắt tội nhân cầm cái đấu bằng sắt múc lửa để đong đống
lửa ấy; khi múc lửa, chân tay, mình mẩy tội nhân đều bị lửa cháy sém, đau đớn
vô cùng, khóc lóc kêu than mà vẫn phải làm vì tội chưa hết; thụ khổ một thời
gian lâu dài ở đó, rồi tội nhân được ra khỏi, nhưng vẫn bị nghiệp lực ác xưa
dẫn vào địa ngục Sông Tro.
11 – Địa ngục Sông Tro:
Tại sao gọi là địa ngục Sông Tro?
Tại nơi đây tối om, nước đen ngòm, sôî
sùng sục, chảy cuồn cuộn, độc khí phừng phực xông lên, âm vang thật đáng sợ, từ
dưới gươm giáo nhọn hoắt chĩa lên, hai bên bờ sông có rừng kiếm, có ngục tốt và
thú dữ nữa. Tội nhân ở trong sông trồi lên hụp xuống theo sóng nước, bị gươm
giáo đâm xỉa khiến da thịt nát tan, đau đớn cùng cực, kêu la rùng rợn, vì tội
báo chưa hết nên chưa thể chết được.
Chịu khổ trong Sông Tro một thời gian lâu
dài, tội nhân được ra, vội chạy càn, mong cầu cứu hộ, nhưng lại bị nghiệp kéo
nên lại sa địa ngục Rừng Đao Kiếm.
12 – Địa ngục Rừng Đao Kiếm:
Tại sao gọi là địa ngục Rừng Đao Kiếm?
Vừa bước vào là cả một rừng đao kiếm đụng
da xẻ thịt, lại có chó dữ đuổi cắn lôi, tội nhân vội trèo leo lên cột trốn, vừa
thoát khỏi chó dữ lại bị gươm đao từ trên chĩa xuống, còn có chim mỏ sắt mổ mắt
mổ đầu; tội nhân vội tụt xuống lại bị đao kiếm ở dưới chĩa lên đâm xỉa, thân
thể nát tan, chẳng còn chỗ nào nguyên vẹn, thật là đau đớn muôn phần, nhưng vì
tội chưa sạch nên chưa thể chết được; thọ khổ lâu dài như thế, sau được ra vội
chạy cho xa, nhưng lại lọt vào địa ngục Búa Rìu.
13 – Địa ngục Búa Rìu:
Tại sao gọi là địa ngục Búa Rìu?
Tội nhân vừa vào liền bị ngục tốt nắm đầu
đè trên bàn sắt nóng, dùng búa rìu chặt chân, chặt tay, cắt tai, xẻo mũi; tội
nhân đau đớn vô cùng, khóc kêu thê thảm, nhưng tội ác vẫn còn nên không thể
chết được.
Sau thời gian chịu khổ lâu dài, tội nhân
được ra khỏi nơi đó, hoảng hốt chạy liều mong cầu thoát khỏi nạn khổ đau, nhưng
bởi tội cũ kéo lôi, bất ngờ lại sa vào địa ngục Sài Lang
14 – Địa ngục Sài Lang:
Tại sao gọi là địa ngục Sài Lang?
Địa ngục Sài Lang có đủ thứ chó sói to lớn
hung dữ, tranh nhau cắn xé chân tay, thân người đầu mặt đều bị chúng xúm vào
cắn xé kéo lôi, làm cho thịt da nát tan, đau đớn cùng cực, thét kêu thảm thiết,
nhưng vẫn chưa chết được; chịu đau khổ lâu dài ở đó, tội nhân sau thoát khỏi
địa ngục Sài Lang, nhưng bất ngờ lại đến địa ngục Rừng Cây Lá Kiếm.
15 – Địa
ngục Rừng Cây Lá Kiếm:
Tại sao gọi là địa ngục Rừng Cây Lá
Kiếm?
Tại đây, có những cơn gió rít thổi giật
từng hồi, làm cho rừng cây lá bằng sắt sắc như gươm đao rơi rụng bay tứ tung
như tên bắn. Những lá sắt ấy bay chạm đâu đứt đó, khiến da thịt, tai mũi, tay
chân tội nhân rơi lả tả như sung rụng; chưa hết, lại có quạ mỏ sắt mổ đầu mổ
mắt, moi ruột moi gan, tội nhân kêu la thảm thương vẫn không chết được; tội
nhân chịu đau khổ như thế lâu dài, sau được ra khỏi, đã tưởng thoát nạn, lại bị
nghiệp lực dẫn nên chạy lọt vào địa ngục Băng Giá.
16 – Địa ngục Băng Giá:
Tại sao gọi là địa ngục Băng Giá?
Ở trong đó, gió buốt từng cơn thổi liên
tiếp không dứt, khiến tội nhân lạnh thấu xương tủy, da thịt tê cứng nứt nẻ, máu
mủ rướm ra rồi khô cứng lại như đá; tội nhân đau đớn vô ngần, kêu gào không
thành tiếng nữa, mệt mỏi đến chết đi, đến đây, tội nhân mới thoát nạn, và được
chết ở địa ngục.
2) – Đại địa ngục Dây Đen:
Tại sao gọi là đại địa ngục Dây Đen?
Ở ngục này, các ngục tốt bắt tội nhân quăng
lên bàn sắt nóng, kéo tay chân ra, rồi dùng sợi dây sắt nóng đỏ căng trên thân
thể tội nhân, khiến cháy xém kẻ thành đường kẻ trên thân thể, rồi ngục tốt dùng
búa sắt nóng xẻ theo đường sợi dây. Ví như thợ mộc dùng dây kẻ trên gỗ để xẻ
vậy, thân thể tội nhân bi chẻ ra khiến đau đớn trăm bề, không sao diễn tả hết
được, vì tội quá nặng, nên chưa thể hết, không thể chết được; rồi sau khi kẻ
dây trên thân tội nhân, ngục tốt dùng cưa cưa tội nhân như cưa cây gỗ, khiến
đau đớn vô cùng.
Ngục tốt lại bắt tội nhân đi giữa những
sợi dây sắt nóng đỏ, đồng thời có những cơn gió thổi mạnh làm những sợi dây ấy
quấn vào thân thể tay chân, đốt cháy da thịt tới xương, đau đớn muôn phần; lại
nữa, ngục tốt còn bắt buộc tôi nhân mặc áo bằng dây lưới sắt nóng đốt cháy da
thịt khắp thân thể, nên đau đớn cùng cực.
Vì tội cũ chưa sạch được nên tội nhân chưa
thể chết, sau thời gian thụ báo lâu dài, tội nhân ra khỏi đó, hoảng hốt chạy
càn, mong thoát nạn, nhưng vì nghiệp lực dẫn dắt lại đến địa ngục Cát Đen, rồi
địa ngục Phân Dãi, địa ngục 500 Đinh Sắt v.v…. và cuối cùng là địa ngục Băng
Giá, tức là tội nhân phải thụ hình trải qua 16 địa ngục nhỏ; tội nhân chỉ thoát
được khi tội ác đã hết và lúc đó tội nhân mới được chết.
3) – Đại địa ngục Đá Ép:
Tại sao gọi là đại địa ngục Đá Ép?
Trong địa ngục này có nhiều núi đá, khi
tội nhân đi vào thì tự nhiên hai núi khép lại ép thân thể xẹp lép, xong rồi núi
trở lại như cũ, khi ấy thân thể tội nhân trở lại bình thường, cứ như vậy tiếp
diễn mãi mãi, khiến tội nhân đau đớn sợ hãi vô cùng.
Trong ngục Đá Ép còn có voi sắt lớn toàn
thân bốc lửa, vừa chạy vừa kêu rống đến giày đạp tội nhân nát tan máu me dầm
dề, thật là khủng khiếp; còn nữa, ngục tốt bắt tội nhân nằm trên tảng đá lớn,
lấy tảng đá khác đè lên, rồi xoay tảng đá làm cho thân thể tội nhân bị nghiền
nát tan, đau đớn khóc la thê thảm.
Lại nữa, các ngục tốt bắt tội nhân bỏ vào
cối sắt lớn, rồi dùng chày sắt dộng xuống, làm thân thể nát nhừ như giã cua giã
giò, tội nhân thét lên rùng rợn, đau đớn cùng cực, không diễn tả được.
Sau thời gian lâu dài chịu khổ ải như thế,
tội nhân được ra khỏi địa ngục Đá Ép, đã tưởng thoát nạn, hốt hoảng chạy liều,
mong cầu cứu hô, nhưng vẫn bị nghiệp ác dẫn đường, nên lại vào địa ngục Cát
Đen, rồi vào địa ngục Phân Dãi, địa ngục 500 Dinh Sắt v.v… cho tới địa ngục
Băng Giá là địa ngục nhỏ thứ 16, tất cả những sự hành hình cũng như trên, sau
đó tội nhân mới chết được.
4) – Đại địa ngục Kêu La:
Tại sao gọi là đại địa ngục Kêu La?
Vì ở đấy, các ngục tốt bắt tội nhân bỏ vào
trong vạc nước nóng sôi sục, tội nhân ở trong vạc trồi lên lộn xuống, đau đớn
vô cùng, kêu la thảm thương; Rồi ngục tốt bắt tội nhân bỏ trên lò nướng bằng
sắt lửa đỏ hừng hực, thiêu đốt tội nhân, đau đớn muôn phần, kêu gào thảm thiết;
lại nữa, ngục tốt dùng gắp sắt, gắp lật tội nhân trở qua trở lại giống như
nướng thịt, toàn thân cháy hết, chỉ còn là cục than đen thui.
Trải qua thời gian lâu dài như thế, tội
nhân ra khỏi ngục Kêu La, mong được an ổn. Nhưng lại bị tội ác xưa đưa đẩy, nên
lại đi vào ngục Cát Đen, rồi ngục Phân Dãi, đến ngục 500 Đinh Sắt v.v… cho
tới địa ngục thứ 16 là ngục Băng Giá, với những hình phạt như trên, và sau đó
tội nhân mới được chết.
5) – Đại địa ngục Kêu La Lớn:
Tại sao gọi là đại Địa Ngục Kêu La Lớn?
Vì ở đây ngục tốt bắt tội nhân bỏ vào nồi
sắt lớn, nước sôi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, kêu la gào thét, đau khổ vô cùng;
ngục tốt lại bắt tội nhân bỏ vào chậu sắt lớn, rồi chậu sắt nhỏ, nấu rục thịt
xương, đau khổ trăm phần, vẫn không chết được; rồi ngục tốt bắt tội nhân bỏ vào
vạc dầu nhỏ sôi khói lên ngùn ngụt, chiên thân thể co quắp, đau đớn kêu gào
thảm thiết.
Lại nữa, ngục tốt nắm tội nhân quẳng vào
vạc lớn, lửa cháy hừng hực bên dưới, dùng gắp sắt lật sấp lật ngửa tội nhân như
chiên cá ram thịt, tội nhân đau đớn khóc kêu thê thảm, nhưng chẳng thể chết
được vì tội cũ chưa trả xong.
Sau một thời gian lâu dài chịu cực hình
như thế, tội nhân được ra khỏi nơi ấy, nhưng vẫn bị nghiệp báo đưa đường, nên
lại vào địa ngục Cát Đen, rồi vào địa ngục Phân Dãi, địa ngục 500 Đinh Sắt,
v.v… địa ngục Băng Giá, ở những địa ngục này, hình phạt cũng như thế, thọ khổ
xong tội nhân mới được chết.
6) – Đại địa ngục Thiêu Nướng Lớn:
Tại sao gọi là đại địa ngục Thiêu Nướng
Lớn?
Tại địa ngục này quỷ ngục bắt nhốt tội
nhân trong thành sắt lớn, rồi cho phát hỏa, cả trong lẫn ngoài thành đều cháy
đỏ rực, thiêu nướng tội nhân; tội nhân trong ấy không thể chạy đâu thoát, nên
kêu gào thảm thiết, thịt da cháy rụi hết; tội nhân lại bị bỏ qua nhà sắt, rồi
chuyển qua lầu sắt, lò gốm sắt, ở những nơi này đều bị lửa đốt lâu dài, đau đớn
cùng cực, không thể tả hết được.
Lại nữa, ngục tốt quăng tội nhân vào chảo
lớn đốt nóng đỏ để rang tội nhân, ngục tốt dùng cây sắt đảo tội nhân trong
chảo, khiến da thịt cháy tiêu, đau đớn cùng cực, khóc kêu kinh hoàng, nhưng tội
cũ chưa hết, nên chưa thể chết được.
Sau một thời gian chịu khổ lâu dài như
thế, tội nhân ra khỏi địa ngục Thiêu Nướng Lớn, vội vàng trốn chạy, mong đến
nơi yên ổn, nhưng lại bị nghiệp đưa đường, bất ngờ tội nhân lại vào địa ngục
Cát Đen, rồi vào địa ngục Phân Dãi, địa ngục 500 Đinh Sắt v.v… cho tới địa
ngục Băng Giá, với các hình phạt cũng như các địa ngục trên, và sau đó thì
chết.
7) – Đại địa ngục Thiêu Nướng Nhiều Lần:
Tại sai gọi là đại ngục Thiêu Nướng
Nhiều Lần?
Vì tại ngục này có nhiều hầm lửa, ngục tốt
bắt tội nhân ghim vào cây chĩa sắt, rồi cho vào hầm lửa đốt; sau lấy ra, rồi
lại cho vào hầm lửa khác, cứ như thế cho vào lò đốt cháy thành than, lấy ra
hình thù nguyên trở lại, rồi lại đút vào hầm khác, liên tiếp như thế vô số lần,
khiến da thịt cháy tiêu, đau đớn muôn vàn, kêu la khủng khiếp, nhưng vì tội
chưa hết, nên tội nhân chẳng thể chết đi được.
Thọ khổ như thế trong thời gian lâu dài,
sau cũng được ra khỏi ngục này, tội nhân hoảng hốt chạy bừa, mong thoát hiểm,
nhưng lại bị nghiệp chướng lôi vào địa ngục Cát Đen, rồi vào địa ngục Phân Dãi,
địa ngục 500 Đinh Sắt v.v… địa ngục Băng Giá, sự trừng phạt cũng như thế, và
sau đó tội nhân được chết.
8) – Đại địa ngục Vô Gián:
Tại sao gọi là đại địa ngục Vô Gián?
Vì ở ngục này, ngục tốt bắt tội nhân lột
da từ đầu đến chân, rồi dùng da ấy cột tội nhân vào xe đầy lửa, rồi cho xe chạy
kéo tội nhân lết trên đường sắt nóng, làm cho thân thể, tay chân nát tan, đau
đớn cùng cực, kêu gào thảm thương.
Rồi bốn bề của thành sắt này lửa cháy dữ
dội, từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam, từ Nam lên Bắc, từ
trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đâu đâu cũng có lửa cháy, chúng sanh tội
nhân không chạy đâu cho khỏi lửa đốt cháy, toàn thân cháy thành cây than hồng,
đau đớn vô cùng.
Tội nhân ở trong ngục này chịu khổ lâu
dài, sau đó cửa địa ngục tự nhiên mở, tội nhân liền chạy đến hướng cửa mong
thoát khổ, nhưng trong khi chạy, các bộ phận của thân thể tự nhiên phát ra lửa
cháy. Cũng như người cầm bó đuốc lớn chạy ngược chiều gió, lửa đốt đầu mặt tay
người cầm đuốc. Khi chạy đến gần thì tự nhiên cửa địa ngục khép đóng lại, bấy
giờ tội nhân ngã lăn ra nằm trên nền sắt nóng bỏng đốt da cháy thịt, đau đớn
cùng cực, khóc kêu như trong xa mạc.
Lại nữa, trong địa ngục Vô Gián, tội nhân
luôn luôn lúc nào cũng có đôi mắt hung ác, tai chỉ được nghe những âm thanh
khủng khiếp, mũi chỉ toàn ngửi mùi hôi tanh nồng khét, thân chỉ xúc chạm vào
toàn là đau đớn, ý chỉ nghĩ điều ác, và muốn thoát khổ, nhưng chẳng lúc nào
không khổ, nên gọi là đại địa ngục Vô Gián.
Thụ khổ trong thời gian lâu dài, tội nhân
được ra khỏi nơi khổ não ấy, hoảng chạy, mong được cứu hộ, nhưng vì tội quá khứ
lôi kéo, bất ngờ lại đến địa ngục Cát Đen, rồi đến địa ngục Phân Dãi, địa ngục
500 Đinh Sắt, v.v…, địa ngục Băng Giá; những hình phạt cũng như thế, sau đó
tội nhân qua đời, thoát khỏi địa ngục, sinh đến cõi khác.
Lúc ấy đức Phật nói kệ diễn tả các cảnh
giới Địa Ngục:
Thân miệng ý bất thiện,
Đều đọa địa ngục
Tưởng,
Chịu khổ không thể tránh,
Sợ hãi lông dựng ngược.
Ngỗ nghịch với cha mẹ,
Hủy báng Phật, Thanh văn,
Đọa địa ngục
Dây Đen,
Khổ đau không thể tả.
Vì tạo ba ác nghiệp,
Nên đọa núi Đá
Ép,
Sân hận rồi sát sanh,
Đọa địa ngục Kêu La.
Thường có những tà kiến,
Bị lưới ái vây kín,
Tạo hạnh đê hèn này,
Đọa địa ngục La
Lớn.
Thiêu nướng các chúng sinh,
Đều đọa ngục
Thiêu Nướng,
Làm các hạnh ác tệ,
Đọa ngục Thiêu
Nướng Lớn.
Làm các tội cực trọng,
Phải sinh đến cõi ác,
Đọa địa ngục Vô
Gián,
Thọ tội không thể tả.
Tám địa ngục lớn đó,
Toàn là màu lửa đỏ,
Đều do ác nghiệp xưa,
Thụ khổ không thể tả.
IV) MƯỜI ĐỊA NGỤC LỚN KHÁC:
Giữa hai núi Kim Cang còn có 10 địa ngục
lớn khác nữa, đó là:
1
– Đn Mây Dày, 2 – Đn Không Mây, 3 – Đn Ối Ối, 4 – Đn Than Ôi, 5 – Đn Dê Kêu, 6
– Đn Tu Càn Đề, 7 – Đn Ưu Bát La, 8 – Đn Câu Vật Đầu, 9 – Đn Phân Đà Lợi, 10 –
Đn Bát Đầu Ma.
1 – Địa ngục Mây Dày:
Thế nào gọi là địa ngục Mây Dày?
Nghĩa là: tội nhân ở trong ngục ấy, tự
nhiên thân thể sinh ra trông giống như mây dày trên không, nên gọi là địa ngục
Mây Dày.
2 – Địa ngục Không Mây:
Thế nào gọi là địa ngục Không Mây?
Nghĩa là: tội nhân ở trong địa ngục này tự
nhiên sinh ra thân thể trông như cục thịt, nên gọi là địa ngục Không Mây.
3 – Địa ngục Ối Ối:
Thế nào là địa ngục Ối Ối?
Nghĩa là: tội nhân ở trong địa ngục này
chịu cực hình đau đớn kêu lên ối ối, nên gọi là địa ngục Ối Ối.
4 – Địa ngục Than Ôi:
Thế nào là địa ngục Than Ôi?
Nghĩa là: tội nhân ở trong địa ngục này
chịu hành hình đau khổ vô cùng, không nơi nương tựa, thốt ra lời than vãn than
ôi, nên gọi là địa ngục Than Ôi.
5 – Địa ngục Dê Kêu:
Thế nào là địa ngục Dê Kêu?
Nghĩa là: tội nhân ở trong địa ngục này
chịu tra khảo, thân thể đau đớn, muốn thốt lên lời kêu, nhưng lưỡi không cử
động được, nên phát ra tiếng e e như dê kêu, nên gọi là địa ngục Dê Kêu.
6 – Địa ngục Tu Càn Đề:
Thế nào là địa ngục Tu Càn Đề?
Nghĩa là: trong địa ngục này toàn màu đen
như màu hoa Tu càn đề, cho nên gọi là địa ngục Tu Càn Đề.
7 – Địa ngục Ưu Bát La:
Thế nào gọi là địa ngục Ưu Bát La?
Nghĩa là: trong địa ngục này chỉ toàn là
màu xanh như màu hoa Ưu bát la, cho nên gọi là địa ngục Ưu Bát La.
8 – Địa ngục Câu Vật Đầu:
Thế nào là địa ngục Câu Vật Đầu?
Nghĩa là: trong địa ngục này chỉ toàn màu
hồng như hoa Câu Vật Đầu, nên gọi là địa ngục Câu Vật Đầu.
9 – Địa ngục Phân Đà Lợi:
Thế nào gọi là địa ngục Phân Đà Lợi?
Nghĩa là: trong địa ngục ấy chỉ toàn là
màu trắng như hoa Phân đà lợi, cho nên gọi là địa ngục Phân Đà Lợi.
10 –Địa ngục Bát Đầu Ma:
Thế nào là địa ngục Bát Đầu Ma?
Nghĩa là: trong địa ngục này toàn là màu
đỏ lửa như màu hoa Bát Đầu Ma, nên gọi là địa ngục Bát Đầu Ma.
V)- BỒ TÁT ĐỊA TẠNG NÓI VỀ ĐỊA NGỤC:
Trong Kinh Địa Tạng, quyển Trung, phẩm
Danh hiệu của Địa ngục, Bồ Tát Phổ Hiền thưa hỏi Bồ Tát Địa Tạng rằng:
–
Thưa Bồ Tát! Xin Ngài vì Trời, Rồng, Bát Bộ (Thiên Long Bát Bộ) và tất cả chúng
sanh hiện tại cùng vị lai (về sau), nói tên các địa ngục là chỗ thụ báo của chúng
sinh bị tội khổ ở trong cõi Ta Bà này, và nói những quả báo không lành để chúng
sanh được biết rõ.
Bồ Tát Địa Tạng đáp:
–
Thưa Bồ Tát! Nay tôi nương oai thần của Phật và oai lực của Ngài mà nói tên các
địa ngục, cùng tội báo và ác báo như sau:
Về
phương Đông của Diêm Phù Đề có núi Thiết Vi (Cũng có tên là núi Kim Cang), giữa
hai dãy núi là vùng tối tăm không có ánh sáng mặt trời mặt trăng, trong đó có
địa ngục lớn tên Cực Vô Gián (Cùng tột không gián đoạn), lại có địa ngục tên
Đại A Tỳ (Vô Gián Lớn), địa ngục Bốn góc (Tứ giác), đ.n. Đao bay (Phi đao),
đ.n. Tên lửa (Hỏa tiễn), đ.n. Núi ép (Giáp sơn), đ.n. Phóng đâm (Thông thương),
đ.n. Xe sắt (Thiết xa), đ.n. Giường sắt (Thiết sàng), đ.n. Trâu sắt (Thiết
ngưu), đ.n. Áo sắt (Thiết y), đ.n. Nghìn mũi nhọn (Thiên nhẫn), đ.n. Lừa sắt
(Thiết lư), đ.n. Nước đồng sôi (Dương đồng), đ.n. Ôm cột đồng nóng đỏ (Bảo
trụ), đ.n. Lửa văng (Lư hỏa), đ.n. Trâu cày lưỡi (Canh thiệt), đ.n. Chém đầu
(Tỏa thủ), đ.n. Đốt chân (Thiêu cước), đ.n. Móc mắt (Đạm nhãn), đ.n. Hòn sắt
nóng (Thiết hoàn), đ.n. Cãi cọ (Tranh luận), đ.n. Thù sắt (Thiết thù), đ.n.
Nhiều giận (Đa sân).
Lại có đ.n. Kêu la (Kiếu oán), đ.n. Kéo
lưỡi (Bạt thiệt), đ.n. Phân tiểu (Phẩn niếu), đ.n. Khóa đồng (Đồng tỏa), đ.n.
Voi lửa (Hỏa tượng), đ.n. Chó lửa (Hỏa cẩu), đ.n. Ngựa lửa (Hỏa mã), đ.n. Trâu
lửa (Hỏa ngưu), đ.n. Núi lửa (Hỏa sơn), đ.n. Đá lửa (Hỏa thạch), đ.n. Giường
lửa (Hỏa sàng), đ.n. Sà ngang lửa (Hỏa lương), đ.n. Chim ưng lửa (Hỏa ưng),
đ.n. Cưa răng (Cử nha), đ.n. Lột da (Bác
bì), đ.n. Uống máu (Ẩm huyết), đ.n. Đốt tay (Thiêu thủ), đ.n. Đâm ngược (Đảo
thích), đ.n. Nhà lửa (Hỏa ốc), đ.n. Sói lửa (Hỏa lang).
Mỗi địa ngục như thế lại có vô số địa ngục
nhỏ đều có tên khác nhau và dụng cụ khác nhau để hành tội nhân, đó là do chúng
sanh làm những điều ác mà cảm ứng ra nghiệp lực rất lớn như núi Tu Di, sâu như
biển cả, vì thế cho nên chúng sinh chớ có khinh thường điều làm quấy nhỏ mà
tưởng là không tội. Sau khi chết đều có quả báo dù nặng hay nhẹ đều phải chịu
lấy cả.
Bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền nói:
–
Thưa Bồ Tát, còn các tội báo, dù tôi đã biết tội báo nơi ba đường ác, nhưng tôi
mong muốn Ngài nói ra cho tất cả chúng sinh rõ để từ đó có thể quy hướng về
giáo pháp của Phật.
Bồ Tát Địa Tạng nói:
–
Những tội báo trong địa ngục như sau:
Hoặc có địa ngục kéo lưỡi tội nhân rồi cho
trâu cày trên đó, hoặc moi tim ruột để Quỷ ăn, hoặc bỏ tội nhân vào vạc dầu
sôi, hoặc bắt tội nhân ôm cột đồng nóng đỏ.
Lại có địa ngục có những cụm lửa bay táp
vào người tội làm cho cháy như cây đuốc, hoặc có địa ngục giá lạnh thấu xương
tủy, hoặc có địa ngục đầy phân nước tiểu hôi thối khai khú mà tội nhân phải dầm
mình trong ấy, hoặc có địa ngục toàn gai nhọn chông sắt tua tủa làm cho rách
thịt xé da đau đớn muôn phần, hoặc có địa ngục toàn đao kiếm đâm xuyên.
Lại nữa, có địa ngục bị đánh đập ở vai và
lưng, có địa ngục bị đốt tay và chân, bị rắn sắt cuốn rồi cắn, chó đuổi cắn,
hoặc có địa ngục tội nhân bị đóng ách lừa sắt v.v…
Tóm lại, trong mỗi địa ngục có vô số loại
hành hình, đều bằng đồng, sắt, đá, lửa, bốn thứ này đều do các nghiệp quấy ác
của chúng sanh mà cảm chiêu ra, nay tôi nói sơ lược như thế, chứ nhiều vô kể
không thể nói hết được.
VI)- TỘI BÁO CHIÊU CẢM ÁC BÁO:
Cũng trong Kinh Địa Tạng, quyển Thượng,
phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên, lúc ấy Phật Mẫu chắp tay cung kính hỏi Bồ
Tát Địa Tạng:
–
Thánh giả!, chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề tạo nghiệp sai khác, cảm thọ quả
báo thế nào, xin Ngài cho biết.
Bồ Tát Địa Tạng đáp:
–
Nghìn muôn thế giới trong cõi Phật này, hoặc nơi có địa ngục nơi không có, hoặc
nơi có người nữ nơi không có, hoặc nơi có Phật pháp nơi không có; kể cả các bậc
Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng thế, chứ chẳng phải riêng tội báo nơi địa ngục
sai khác thôi đâu.
Bà Ma Gia lại thưa:
–
Xin Ngài cho tôi nghe: tội báo trong cõi Diêm Phù Đề chiêu cảm lấy ác đạo ra
sao?
Bấy giờ Bồ Tát Địa Tạng thưa Thánh Mẫu:
–
Như có chúng sanh chẳng biết hiếu thảo với cha mẹ cho đến giết hại cha mẹ, phải
đọa vào địa ngục Vô Gián trong nghìn muôn ức Kiếp không mong ra khỏi được.
Những chúng sinh chê bai Tam Bảo, hoặc làm
thân Phật chảy máu, chúng sanh xâm Phạm của Tam Bảo, giết hại Tăng Ni, hoặc
phạm điều dâm loạn nơi đạo tràng chùa chiền; chúng sinh giả làm người tu, lạm
dụng của thường trụ Tam Bảo, gạt đồ chúng. Chúng sinh trộm cắp tài vật của
thường trụ Tam Bảo; nếu chúng sanh nào phạm những lỗi lầm trên khi chết phải
vào địa ngục Vô gián trong nghìn muôn ức Kiếp, cầu tạm ngưng trong giây lát sự
đau khổ khoảng năm ba giây (một niệm) cũng không được.
Bà Ma Gia lại bạch:
–
Thế nào là địa ngục Vô Gián?
Bồ Tát Địa Tạng đáp:
–
Bao nhiêu địa ngục trong núi Thiết Vi, lớn có 18. cỡ trung có 500, cỡ nhỏ có
trăm nghìn, tất cả đều có tên khác nhau.
Địa ngục Vô Gián rộng lớn thành bằng sắt,
lửa luôn luôn cháy không có lúc nào ngưng, bên trong thành có các nhà ngục liên
tiếp và đều có tên khác nhau, một sở ngục tên Vô Gián lửa cháy hừng hực suốt
trên dưới ngang dọc, có chó sắt phun lửa đuổi tội nhân chạy qua chạy lại, trên
tường thành có vô số rắn sắt đợi tội nhân chạy đến mổ cắn.
Lại có ngục có giường rộng lớn, tội nhân
bị bắt nằm trên giường tự thấy thân mình nằm chật cả giường, cho đến nghìn tội
nhân nằm trên giường đều cảm thấy như thế, đó là do tội báo cảm chiêu như thế,
tội nhân chịu vô lượng khổ sở.
Trong địa ngục có trăm nghìn Dạ Xoa cùng Ác Quỷ bạo tàn hung dữ có răng
nanh nhọn hoắt như dao găm, mắt sáng quắc như ánh chớp, móng tay cứng như thép,
cắn cào, móc tim móc ruột tội nhân vô cùng thê thảm.
Có quỷ cầm chĩa sắt đâm vào ngực bụng tội nhân
rồi hất lên hư không, ở trên hư không có diều hâu chim ưng mỏ sắt mổ đầu mổ mắt
tội nhân, khi tội nhân rơi xuống Quỷ cầm chĩa hứng rồi để trên giường. Bấy giờ
Quỷ lấy đinh sắt đóng trên đầu mặt thân thể tội nhân cả trăm đinh, có Quỷ kéo
lưỡi tội nhân ra rồi cho cả trăm trâu cày trên đó; lại nữa, có Quỷ gàng miệng
tội nhân ra rồi cho viên sắt nóng đỏ vào, hoặc đổ nước đồng sôi vào miệng. Có
Quỷ lấy dây sắt nóng đỏ cuốn quanh thân tội nhân v.v…
Tội nhân chết đi sống lại muôn lần liên
tiếp không ngưng nghỉ, muốn chết cũng không được, trải qua ức Kiếp không được
ra khỏi, thật là khổ sở muôn phần!
Lúc thế giới này hư hoại thời sinh qua thế
giới khác tiếp tục chịu khổ, khi thế giới khác hư hoại lại sinh qua thế giới
khác nữa tiếp tục chịu khổ y như thế, cứ thế xoay vần đến khi thế giới này
thành lập trở lại xong thời sinh trở về để tiếp tục thọ tội cho đủ thời hạn bị
đọa mới được chết đi và ra khỏi địa ngục, đó là tội báo trong địa ngục Vô Gián.
Tại sao gọi là địa ngục Vô Gián? Có 5
nghiệp cảm nên gọi là Vô Gián như sau:
1-
Tội nhân chịu khổ cả ngày lẫn đêm không lúc nào ngừng, nên gọi là Vô Gián.
2-
Một tội nhân thân đầy chật cả ngục rộng lớn, nhiều tội nhân mỗi thân đều đầy
chật cả địa ngục, nên gọi là Vô Gián.
3-
Những khí cụ để hành tội nhân như chĩa, gậy, diều hâu, rắn, sói, chó, cối giã,
cối xay, cưa, đục, dao, mác, kiếm, chảo, dầu sôi, lưới, dây, lừa, ngựa, voi,
dây niền đầu, v.v… tất cả đều bằng sắt. Đói phải ăn viên sắt nóng đỏ, khát
phải uống nước đồng sôi, chịu tội như thế trọn Kiếp cho đến vô số Kiếp nối nhau
không có giây phút ngưng nghỉ, nên gọi là Vô Gián.
4-
Không kể là nam hay nữ, già hay trẻ, sang hay hèn, không kể là Trời hay Rồng,
Thần hay Người, Ngạ quỷ hay Súc sinh, hễ tạo tội ác đều phải theo đó mà chịu
khổ tương ưng, nên gọi là Vô Gián.
5-
Chúng sanh nào bị đọa vào địa ngục Vô Gián, từ khi vào cho đến vô số kiếp ở
trong ngục, mỗi ngày, mỗi đêm có vô số lần chết đi sống lại, muốn cầu tạm ngưng
năm ba giây (một niệm) cũng không được, trừ khi tội nghiệp tiêu hết rồi mới
được chết và được thụ sinh đến chỗ tốt hơn, vì sự khổ sở liên miên như thế nên
gọi là Vô Gián, đây là nói sơ lược về địa ngục Vô Gián, không thể nói chi tiết
cho hết được.
Lúc ấy Bà Ma Gia nghe xong sầu lo khôn
xiết, Bà chắp tay vái lễ Bồ Tát Địa Tạng rồi lui.
LỜI BÀN:
Thật là kinh khủng khiếp đảm khi đọc qua
các cảnh địa ngục, tội nhân bị tra tấn đau khổ cùng cực, muốn sống cũng không
được, mà muốn chết cũng không xong; tội nhân cứ phải sống ngắc ngoải nửa sống
nửa chết để trả nợ nghiệp báo, và luôn luôn sống trong cảnh đau đớn, sợ hãi.
Chỗ đặc biệt là Kinh Địa Tạng phát nguồn
khi đức Phật lên cung Trời Đạo Lợi theo sự thỉnh cầu của Vua Trời Đế Thích để
thuyết pháp cho Phật Mẫu và chư Thiên, vì vậy chúng ta thấy có Phật Mẫu thỉnh
Bồ Tát Địa Tạng nói về địa ngục.
Sau khi đọc xong các Địa Ngục do đức Phật
nói trong Đại Tạng Kinh cộng với các địa ngục cùng tội báo chiêu cảm ác báo do
Bồ Tát Địa Tạng nói trong Kinh Địa Tạng cho chúng ta biết thế nào là Địa Ngục
một cách đầy đủ, nhưng Bồ Tát Địa Tạng giáo hóa cứu độ chúng sinh như thế nào?
Trong Kinh Địa Tạng, quyển Thượng, phẩm 4:
Nghiệp cảm của chúng sanh có đề cấp tới: Lúc ấy Bốn Thiên Vương từ chỗ ngồi
đồng loạt đứng lên chắp tay vái Phật rồi cùng bạch:
–
Thưa đức Thế Tôn!, Ngài Bồ Tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đã phát nguyện rộng lớn
cứu độ chúng sinh, tại sao đến nay vẫn chưa độ hết?
Đức Phật bảo Tứ Thiên Vương:
–
Lành thay! Lành thay! Nay vì muốn lợi ích cho chúng sanh, Ta vì các Ông và tất
cả chúng Trời Người trong hiện tại và mãi về sau, nói những phương tiện của Bồ
Tát Địa Tạng vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt tất cả chúng sinh mắc phải
tội khổ.
Từ kiếp lâu xa đến nay, Bồ Tát Địa Tạng
cứu vớt chúng sanh vẫn chưa mãn nguyện, vì chúng sinh mắc tội khổ cứ nối tiếp
nghiệp ác mãi không dứt, nên chưa dứt được đại nguyện. Bồ Tát Địa Tạng dùng vô
số phương tiện để giáo hóa chúng sanh như sau:
–
Khi gặp kẻ hay sát sanh, Bồ Tát dạy quả báo chết yểu để răn.
–
Khi thấy kẻ trộm cắp, Bồ Tát dạy quả báo sẽ bị nghèo khổ hơn ở đời sau.
–
Khi gặp kẻ tà dâm, dạy quả báo sẽ phải làm một số loài chim ở kiếp sau.
–
Khi thấy người nói ác, dạy quả báo sẽ có quyến thuộc kình chống nhau.
–
Khi gặp người hay khinh chê người khác, dạy quả báo sẽ bị đau lở miệng lưỡi.
–
Khi thấy người hay nóng giận, dạy quả báo sẽ có thân hình xấu xí tàn tật.
–
Khi gặp kẻ bỏn sẻn, dạy quả báo sẽ có đời sống thiếu thốn, cầu gì cũng không
được.
–
Khi thấy kẻ ưa săn bắn, dạy quả báo sẽ có là điên cuồng, chết bất chợt.
–
Khi gặp người trái nghịch cha mẹ, dạy quả báo sẽ chết vì thiên tai (trời tru).
–
Khi thấy người dùng lưới bẫy bắt chim, dạy quả báo sẽ bị cốt nhục chia lìa
trong đau khổ.
–
Khi gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, dạy quả báo sẽ bị hoặc mù, hoặc điếc, hoặc ngọng,
hoặc câm.
–
Khi thấy kẻ khinh chê giáo pháp, dạy quả báo sẽ bị mãi mãi ở trong tam đồ ác
đạo là Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.
–
Khi gặp người lạm phá của thường trụ Tam Bảo, dạy quả báo sẽ phải ở mãi trong
địa ngục.
–
Khi thấy kẻ hủy báng vu oan người tu, dạy quả báo sẽ ở mãi trong Súc sinh không
ra được.
–
Khi thấy kẻ giết hại nhiều sinh vật, dạy quả báo phải đọa Súc sanh để thường
mạng.
–
Khi gặp người phá giới phạm trai, dạy quả báo phải làm loài cầm thú đói khát.
–
Khi thấy người kiêu mạn cống cáo, dạy quả báo sẽ bị làm người hèn hạ bị người
sai khiến.
Đó là chỉ nói sơ Bồ Tát Địa Tạng dùng
phương tiện giáo hóa như thế, nhiều vô kể không thể nói hết được, những chúng
sinh làm những điều như trên chịu lấy quả báo như vậy rồi, sau lại bị đọa địa
ngục.
Bốn Thiên Vương nghe đức Phật nói xong,
than thở, chắp tay lễ Phật mà lui ra.
– : –
Đọc xong đoạn Kinh trên, một điểm cần để ý
đức Phật nói là: “những chúng sinh làm
những điều như trên chịu lấy quả báo như vậy rồi sau lại bị đọa địa ngục”,
đây là điều mà chúng ta cần phải biết và nhớ cho kỹ trong lòng cái họa của
nghiệp báo nó nặng nề như vậy đó: “chịu
lấy quả báo như vậy rồi sau lại bị đọa địa ngục”
Bởi vậy cho nên, khi đã biết nghiệp báo
nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm
ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm, mỗi khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi
nếm, thân tiếp xúc, ý nghĩ chuyện nọ việc kia, hoặc khi tiếp xúc ngoài đời,
chúng ta nên suy nghĩ cho kỹ, không nên để ý ác, nói ác, làm ác làm chủ dẫn dắt
chúng ta.
Muốn hành động được tốt đẹp, chúng ta nên
nhớ tự hỏi là ý nghĩ, lời nói, việc làm của chúng ta có làm hại người khác
không, có làm hại ai không? Điều khó nhất là chúng ta phải nhất quyết, kiên
trì, bền bỉ chịu đựng nhẫn nại để thực hành; nếu có hại cho người khác, chúng
ta nên tránh, không nghĩ đến, không nói đến và không bao giờ làm, sẽ không tạo
nghiệp ác nữa; nếu được như vậy, chúng ta sẽ không còn phải lo lắng và yên tâm
sống trong an lạc vậy.
Toàn Không
Discussion about this post