CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG ?
Hòa thượng K. S. Dhammananda – Thích Tâm Quang dịch Việt
Nguyên tác: “Is death really frightening?”
LỤC
PHẦN I Chết Có Thật Đáng Sợ Không? Sợ Chết Bệnh Và Chết Danh Thơm Còn Mãi Triết Lý Đạo Phật Nguyên Nhân Của Khổ Đau Ai Cũng Phải Chết Năm Uẩn. Tái Sanh. Nguyên Nhân Cái Chết Đương Đầu với Biến Cố Chết Không Tránh Được Bổn Phận và Trách Nhiệm Ái Dục và Vô Minh Suy Gẫm về Cái Chết Chết Là Một Phần Của Đời Sống. Sống Có Ý Thức Chết Xứng Đáng. Chết Nhẹ Nhàng Ngày Hôm Nay Tôi Chết |
PHẦN II Người Phật Tử Nên Làm Gì? Bổn Phận Cha Mẹ Khóa Lễ Cầu Phước Cho Các Em Tại Sao Nương Tựa Nơi Phật Giáo Dục Và Văn Hóa Người Phật Tử Hôn Nhân. Nghi Thức Tôn Giáo. Những Điều Cấm Kỵ Bùa Chú Và Ma Thuật Hình Ảnh, Nước Thánh, Xâu Chuỗi. Ốm Đau. Chết Trước Tang Lễ Tang Lễ Chôn Và Hỏa Táng Lưu Giữ Tro Cốt Thời Gian Để Tang. Nghi Thức Sau Tang Lễ. Bố Thí Cúng Dường. Kết Luận |
LỜI
GIỚI THIỆU
Nếu
quý vị vượt qua sự sợ hãi thì có thể vượt qua tất cả.
Nếu quý vị không sợ chết thì sẽ đối diện với cái chết
một cách bình tĩnh. Cuốn sách: “Chết Có Thật Đáng Sợ
Không?” của Hòa-Thượng Tiến-Sĩ K. Sri Dhammananda do Thầy
Thích Tâm Quang chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng,
giản dị, dễ hiểu và thu hút người đọc từ trang đầu
đến trang cuối, sẽ đem lại cho quý độc giả những điều
cần biết khi từ giã cõi đời này.
Quyển
sách nhỏ này sẽ dẫn dắt người đọc đi một hành trình
thật xa từ sự sống để chuẩn bị cho sự chết nhẹ nhàng,
bình tĩnh không than van không khóc lóc. Chúng ta đến cuộc
đời này một cách hồn nhiên thì chúng ta ra đi một cách
bình thản. Người ỏ lại cũng phải đối diện với sự
thật của cuộc đời rồi cũng sẽ lần lượt tới phiên
mình. Biết về sự chết không phải để bi quan, nhưng để
chúng ta làm điều thiện, tránh điều ác bởi vì sau khi chết
chúng ta chỉ mang theo hành vi thiện ác mà chúng ta đã làm.
Chết
không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi; vậy thì tại
sao chúng ta lại sợ chết? Chắc chắn quyển sách này sẽ
đem lại cho quý độc giả một chút suy tư. Thần chết không
từ chối một ai, không phân biệt tuổi tác, nam hay nữ, vậy
thì tại sao chúng ta không chuẩn bị cuộc hành trình ra đi
vĩnh viễn ngay từ bây giờ?
Đọc
“Chết Có Thật Đáng Sợ Không?” và chuyển quyển sách này
đến những người thân của chúng ta để cùng đọc, để
cùng có thái độ bình thản lúc ra đi không sợ hãi, không
lo âu, và người ỏ lại không đau đớn vì chết là sự hiển
nhiên không ai tránh khỏi.
Chúng
tôi chân thành cầu nguyện Chư Phật Mười Phương gia hộ
cho Thầy Thích Tâm Quang mọi điều tốt đẹp, sức khỏe đầy
đủ để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh và hy vọng
cuốn sách nhỏ này sẽ được hưởng ứng nồng nhiệt của
các Phật Tử khắp nơi trên thế giới.
Mùa
Xuân Năm Đinh Sửu 1997
KIỀU
MỸ DUYÊN
LỜI
NGƯỜI DỊCH
Cái
chết có thật đáng sợ không? Thông thường con người chúng
ta, ai cũng sợ chết. Nhưng thực ra cái chết không đáng sợ
như chúng ta tưởng. Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến
Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng
được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi
đã hết khổ chưa, muốn tránh khỏi sợ hãi cái chết chúng
ta phải làm gì vân vân ..
Ngoài
phần nói về cái chết, phần hai của cuốn sách này Hòa Thượng
Tiến Sĩ K Sri Dhammanda hướng dẫn người Phật Tử chúng ta
phải làm gì trong những trường hợp vui như sanh con, cưới
hỏi và những trường hợp buồn như đau yếu và tang lễ.
Vì người Phật Tử chúng ta còn cố chấp, còn giữ nhiều
những tập tục truyền thống trái với giáo lý của Đức
Phật và làm các tôn giáo khác hiểu lầm nên những nhận
xét cùng những phương pháp rất thực tiễn và cần thiết
nêu lên tại đây giúp chúng ta củng cố nền móng của Phật
Giáo và tránh được sự ngộ nhận.
Nhận
thấy cuốn sách mang nhiều lợi ích thiết thực, tuy tự biết
khả năng yếu kém, nhưng với tấm lòng nhiệt thành, chúng
tôi cố gắng dịch ra Việt Ngữ, hy vọng đóng góp một phần
nhỏ nhoi trong kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam.
Chúng
tôi xin chân thành cảm tạ Chư Tôn Đức đã khích lệ, góp
nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biệt các Đạo Hữu đã góp
phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng
tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam
Bảo và cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý
Vị cùng Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau
cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức
giả cao minh, các bậc thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân
hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để cuốn sách
được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Ngày
9 Tháng 03 Năm 1997
Tỳ
Kheo THÍCH TÂM QUANG
TIỂU
SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TIẾN SĨ K. SRI DHAMMANANDA MAHA NAYAKA
THERA
Đại
Lão Hòa-Thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda, Trưởng Lão Tăng
Già Mã Lai Á, phục vụ Phật Giáo Mã Lai trên 42 năm trong các
chức vụ như một vị lãnh đạo tinh thần, một học giả,
một cố vấn và một thiện hữu. Ngài sanh ngày 18 Tháng Ba
Năm 1919 tại làng Kirinde, Tỉnh Matara phía nam Sri Lanka (Tích
Lan).
Ngài
khởi đầu việc học hành theo nền giáo dục thế tục khi
Ngài được 7 tuổi và tuy còn nhỏ Ngài đã phát triển mối
quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Được sự giúp đỡ
của một người cậu là Sư Trưởng tại ngôi chùa địa phương
và người mẹ tận tâm của Ngài, Ngài thọ Sa Di giới vào
năm 12 tuổi. Ngài được đặt pháp danh là “Dhammananda”
có nghĩa là “Người chứng nghiệm hạnh phúc qua Phật Pháp”
.
Sau
mười năm tu học chuyên về giáo lý Đức Phật, năm 26 tuổi
Ngài tốt nghiệp văn bằng Ngôn Ngữ Học, Triết Lý, và Quy
Tắc Pali Viện Đại Học Vidyalankara Pirivena.Ngài tốt nghiệp
Cao Học Triết Lý Ấn Độ năm 1949 tại Viện Đại Học Beneres
(Ba-Lã-Nại).Sau khi phục vụ 3 năm tại Sri Lanka, Ngài được
tuyển chọn đi hoằng Pháp tại Mã Lai.
Vào
các thập niên 50 và 60, Phật Giáo bị giới trí thức Trung
Hoa tại Mã Lai coi rẻ và nghĩ rằng Đạo Phật chỉ là mê
tín dị đoan. Qua Hội Truyền Bá Giáo Lý Phật Đà, Ngài đã
phát hành các tài liệu, các loại sách về mọi phương diện
của Phật Giáo và kết quả một số đông đã nhận thức
được giáo lý chân chính của Đức Phật. Ngài đã phát hành
các cuốn sách rất phổ thông như ” Người Phật Tử Tin Gì”,
“Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ Hãi và Lo Lắng”, “Hạnh
Phúc Lứa Đôi”, “Nhân Loại Tiến Về Đâu” và “Thiền Định-Con
Đường Duy nhất”.
Tuy
không phải là một nhà truyền giáo hùng biện, nhưng Ngài
đã thành công cảm hóa tư tưởng của cả giới thanh niên
lẫn trí thức với một lối trình bầy Giáo Pháp của Đức
Phật một cách rõ ràng, đơn giản và khoa học. Ngài nhận
được các Văn Bằng Tiến Sĩ Danh Dự của nhiều Đại Học
trên thế giới và cũng được ân thưởng Tước Vị Johan
Setia Mahkota bởi Hoàng Đế Mã Lai. Ngài cũng có, như Đức
Phật mô tả, Bẩy Đức hạnh cao quý của một Đại nhân
trong Kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31): Ngài là người đáng yêu, đáng
kính trọng, học thức, là một cố vấn, một người nhẫn
nại chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận, và không bao giờ
cổ xúy một cách vô căn cứ.
BENNY
LIOW WOON KHIN
PHẦN
I
CÁI
CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG?
MẠNG
SỐNG MONG MANH – CÁI CHẾT LÀ ĐIỀU CHẮC CHẮN
Đó
là câu châm ngôn nổi tiếng trong Đạo Phật. Biết rõ cái
chết là điều chắc chắn và là một hiện tượng tự nhiên
mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ chết.
Theo bản năng, tất cả chúng ta đều sợ chết vì chúng ta
không biết làm sao để tránh khỏi nó. Chúng ta thích bám víu
vào đời sống, vào thân xác của chúng ta, vì vậy trở nên
đầy tham dục và luyến ái.
Một
đứa nhỏ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người
thân yêu. Dù người mẹ đau đớn cùng cực lúc sanh nhưng
vẫn vui mừng và thích thú ngắm nhìn đứa con mới sanh. Người
mẹ cảm thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn
đau đớn phải chịu đựng. Tuy nhiên đứa trẻ lọt lòng
ra đã khóc hình như nó muốn nói ra nó cũng phải chịu đau
khổ của kiếp người. Đứa trẻ trở thành một thiếu niên
rồi trưởng thành, tạo các loại hành vi tốt và xấu. Rồi
nó trở nên già nua, và cuối cùng từ giã cõi đời này, bỏ
lại bạn bè và thân quyến đau buồn: Đó là bản chất cuộc
sống của một con người. Con người cố gắng tránh khỏi
nanh vuốt của tử thần nhưng không một ai có thể thoát khỏi.
Đến lúc gần chết, đầu óc liên tưởng đến của cải
tích lũy, và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu
của mình. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con
người lo lắng quá sức về thân xác quý báu của mình; mặc
dù với sự chăm sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy
nhược, kiệt quệ và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa
thân xác. Không thể chịu đựng được thế nhưng không tránh
nổi. Đó là tâm trạng của mọi người khi từ giã cõi đời
này với than van rền rĩ. Sự đau đớn về cái chết thật
là khủng khiếp, đó là thái độ của kẻ do ngu muội mà
ra.
SỢ
CHẾT
Con
người lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì hy vọng và
tưởng tượng về đời sống tương lai của mình. Cái chết,
chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp và khiếp sợ hay kinh
hãi chỉ do tâm trí của chúng ta tưởng tượng mà ra. Chúng
ta thường không đủ can đảm để đối đầu với ý tưởng
về cái chết. Với những kẻ không dám đối đầu với thực
tế, khổ đau thật sự khủng khiếp và không thể chấp nhận
được. Nhưng nếu chúng ta biết đương đầu với sự thật,
nó sẽ làm dịu bớt hay loại trừ cái khủng khiếp của sự
sợ hãi. Đời sống ví như một viên đạn lao tới mục tiêu,
tức là cái chết. Hiểu như vậy, chúng ta phải can đảm trực
diện với hiện tượng tự nhiên này. Muốn được tự do
trong đời sống, chúng ta phải không sợ chết. Sợ hãi chỉ
đến với những kẻ không hiểu quy luật thiên nhiên. “Dù
ở đâu đi nữa, nếu có phát xuất, thì sợ hãi chỉ phát
xuất nơi người mất trí điên khùng và không bao giờ phát
xuất nơi người khôn ngoan”. Đó là lời Đức Phật dạy
trong Kinh Anguttara Nikaya. Sợ hãi chỉ là trạng thái của tâm
thần. Khoa học cho ta thấy quá trình của một cái chết ra
sao? Cái chết chỉ là sự hao mòn sinh lý của cơ thể con người.
Chúng ta đừng sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về
những sự khủng khiếp không bao giờ đến để tìm cách chống
lại. Một thầy thuốc nổi tiếng, Sir William Osler nói như
sau: “Theo kinh nghiệm hành nghề của tôi, tôi thấy hầu
hết những người chết không đau đớn và sợ hãi”.
Một
nữ y tá lão thành nói: “Hình như thảm kịch lớn nhất đối
với tôi là mọi người suốt đời bị nỗi sợ chết ám
ảnh. Khi chết đến, ta thấy rằng nó cũng tự nhiên như bản
chất cuộc sống. Rất ít người sợ chết khi đã sống trọn
cuộc đời. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy có một
người có vẻ sợ hãi – một phụ nữ đã làm một điều
dữ cho người chị nay đã quá trễ để hối cải”.
“Một
điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến với dù là đàn ông
hay đàn bà khi họ đã sống trọn đời. Tất cả sợ hãi,
khiếp đảm đều biến mất. Tôi thường ngắm thấy tia sáng
bình minh hạnh phúc trong ánh mắt của họ khi họ nhận thức
điều đó đúng. Đó là tất cả ơn huệ của Tạo Hóa”.
Vì
tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu
tự nhiên. Nó tạo sự lo âu trong đời sống. Vì vậy, con
người sẽ không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì cho dù
đó là lẽ phải. Họ sống trong sợ hãi, lo lắng về bệnh
tật và các tai nạn có thể sẩy ra cướp mất mạng sống
quý giá của mình. Nhận thức chết là điều không tránh nổi,
kẻ yêu đời sống trần thế sẽ đắm trong nhiệt thành cầu
nguyện với niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên thiên đàng.
Không một ai có hạnh phúc giữa cơn lốc của sợ hãi và
hy vọng như vậy. Đúng thật khó có thể coi thường hay không
lưu ý đến những bộc phát tự nhiên của bản năng để
tự bảo vệ. Tuy nhiên có một phương pháp để vượt qua
sự sợ hãi. Hãy quên đi quan niệm về cái ‘tôi’; hãy đem
tình thương vị kỷ hướng ra ngoài có nghĩa là làm lợi ích
cho nhân loại và tỏ tình thương với người khác. Bất cứ
ai không quên sự thật rằng một ngày nào đó mình sẽ chết
và cái chết không thể tránh khỏi, sẽ hăng hái chu toàn nhiệm
vụ với đồng loại trước khi chết, làm được như vậy
thì bây giờ cũng như mai hậu mọi người chắc chắn sẽ
chiêm ngưỡng kính phục. Say mê phục vụ người khác, chẳng
bao lâu chính bạn sẽ thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng
nề, mơ ước, kiêu căng, tự phụ, và tự tôn.
BỆNH
VÀ CHẾT
Bệnh
và chết là việc sẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng
ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó với sự hiểu biết.
Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên nhân căng thẳng tinh
thần là do việc không dám đương đầu và chấp nhận sự
thực ở đời. Nếu không vượt qua hay khắc phục được
sự căng thẳng đó sẽ gây nên bệnh tật. Trong khi bệnh hoạn
mà quá lo lắng hay thất vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên.
Đối với những người có tâm hồn và hành động trong sạch,
chết chẳng có gì đáng sợ. Mạng sống của chúng ta gồm
có tâm trí và thể xác hợp thành và vì vậy tâm trí và thể
xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động xấu
của chúng ta đã gây nên trong đời trước theo chúng ta vào
lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu những khổ đau trong
đời này. Những khổ đau đó có thể tránh khỏi nếu chúng
ta cố gắng tạo công đức, sống một cuộc đời đạo hạnh,
và có những hành động tốt bất cứ ở đâu hay bất cứ
lúc nào. Làm như vậy, chúng ta có thể đương đầu với cái
chết một cách can đảm và thực tế. Theo lời Phật dạy,
chúng ta không nên tin tưởng vào một vị “cứu tinh” nào có
thể lãnh gánh nặng, và cứu vớt chúng ta khỏi hậu quả
do những hành động sai lầm của chúng ta . Chúng ta luôn luôn
nhớ tới lời khuyên của Đức Phật: “Hãy tin vào mình
để tự cứu, hãy gắng sức và chuyên cần’. Người Phật
Tử không sầu thảm và bi thương trước cái chết của thân
nhân và bạn bè. Không có cái gì có thể ngăn cản được
bánh xe nhân quả. Khi một người chết, nghiệp do họ tạo
nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Kẻ quen, người thân,
bạn bè và thân quyến chỉ có thể tiễn đưa người chết
đến huyệt mà thôi trong khi người chết mang theo những hành
động tốt hay xấu của mình. Những người còn sống nên
chịu đựng sự mất mát trong bình tĩnh và hiểu biết. Chết
là một tiến trình không thể tránh khỏi ở thế gian này.
Đó là một điều chắc chắn trong vũ trụ này. Cánh rừng
có thể trở thành đô thị và đô thị có thể trở thành
bãi cát. Núi có thể biến thành hồ. Sự biến dạng có thể
xẩy ra ở khắp nơi duy chỉ có cái chết là điều không đổi.
Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có cha ông, và
cha ông của chúng ta cũng có cha ông, nhưng bây giờ họ ở
đâu? Tất cả đều đã quá vãng.
Đừng
nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một
quan niệm yếm thế bi quan. Đó là quan điểm thực tế nhất
của chủ nghĩa hiện thực. Tại sao chúng ta lại không thực
tế mà mù quáng trước những sự kiện thực tế đó? Có
phải cái chết thiêu đốt mọi thứ? Đúng vậy! Nhưng đừng
quên điều này: Cái chết khiến mọi người hiểu rõ số
phận của mình là dù cao sang đến đâu, hay kỹ thuật và
y khoa tiến bộ đến đâu đi chăng nữa cái chết vẫn như
nhau: Hoặc ở trong quan tài hay trở thành một nắm tro tàn.
Sống và chết là một quá trình liên tục cho đến khi chúng
ta trở nên toàn hảo.
DANH
THƠM CÒN MÃI
Đức
Phật dạy: “Thân xác của con người tuy thành tro bụi nhưng
danh tiếng của họ vẫn còn”. Ảnh hưởng của kiếp trước
đôi khi rất sâu và mạnh hơn ảnh hưởng của thân xác đang
sống với một số khả năng hạn hẹp. Đôi khi chúng ta cảm
nghĩ và hành động theo tư tưởng của những người mà xác
thân đã thành tro bụi. Tư tưởng đó rất quan trọng trong
mỗi hành động của chúng ta. Mỗi người sống là một phần
thân xác của tổ tiên đã khuất. Trong ý nghĩ này, chúng ta
có thể cho rằng những bậc anh hùng thời đại, những triết
gia vĩ đại, các hiền triết, những thi nhân và nhạc sĩ của
mỗi dân tộc đang sống với chúng ta. Vì chúng ta liên hệ
đến những liệt sĩ và những nhà tư tuởng trong quá khứ,
chúng ta có thể chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan, những
lý tưởng cao quý, và cả đến âm nhạc bất diệt qua nhiều
thời đại. Dù rằng thân xác đã chết, nhưng ảnh hưởng
của họ vẫn còn. Xác thân chẳng là gì cả, nó chỉ là sự
tổng hợp trừu tượng, một hỗn hợp luôn luôn thay đổi
của các thành phần hóa học Con người phải hiểu rằng đời
sống của mình như một giọt nước trong một con sông đang
chảy và nên vui vẻ đóng góp một phần của mình cho dòng
sông cuộc sống.
Không
hiểu rõ bản chất của đời sống, con người sẽ bị chìm
đắm trong vũng bùn ngu muội của thế gian và rên rỉ khóc
than. Nhưng khi hiểu được thực chất của mình, con người
sẽ từ bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm trạng thái
Vĩnh Cửu. Trước khi đến trạng thái Vĩnh Cửu, con ngưòi
phải đương đầu với cái chết này đến cái chết khác.
Vì cái chết không nghĩa lý gì, con người không nên ngăn chặn
sự tiếp diễn không ngừng cái vòng sanh tử.
Theo
Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp sống cuối
cùng của chúng ta trên thế gian này. Nếu bạn làm điều thiện
với lòng tin tưởng, bạn sẽ có một kiếp sau tốt đẹp
hơn. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy bạn không muốn tái sanh
mãi mãi, và muốn đi đến cứu cánh đó, bạn phải cố gắng
phát triển tâm trí, loại bỏ mọi tham dục và tinh thần ô
trược .
TRIẾT
LÝ ĐẠO PHẬT
Một
vị Thánh cao thượng đã đạt đến mức toàn hảo không khóc
than khi những người thân và những người gần gũi qua đời
vì Ngài đã hoàn toàn quét sạch hết mọi cảm xúc. Ngài A
Na Luật, một vị A La Hán, không khóc than khi Đức Phật qua
đời. Tuy nhiên Ngài A Nan lúc đó chỉ là một Tu Đà Hoàn
mới đạt được quả vị thứ nhất trong các bậc Thánh,
đã không kìm giữ được khóc than. Các tỳ kheo than khóc phải
nhớ quan điểm của Đức Phật về những hoàn cảnh có bản
chất như vậy:
“Ông
A Nan! Có phải Đức Phật đã dạy chúng ta rằng những gì
sanh ra, những gì tồn tại và những gì duyên hợp đều đi
đến tan rã (Thành, Trụ, Hoại, Diệt)? Đó là tính chất của
duyên hợp. Khi duyên hợp xuất hiện rồi lại mất đi – có
thành thì phải có hoại – Và khi những duyên hợp đó hết,
Tịch Tịnh hiện tiền”.
Những
lời dạy trên đây mô tả nền móng cấu trúc của Triết
Lý Phật Giáo.
NGUYÊN
NHÂN CỦA KHỔ ĐAU
Nguyên
nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái dưới
mọi dạng thức. Nếu chúng ta muốn tránh khổ đau, chúng ta
phải bỏ luyến ái – không phải chỉ luyến ái người mà
luyến ái của cải nữa. Đó là sự thực căn bản, là bài
học mà cái chết dạy ta. Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều
thứ để thỏa mãn cảm xúc của chúng ta, và dẫn ta vào con
đường trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái trở thành nguyên
nhân của đau khổ. Nếu không học điều này, cái chết có
thể tấn công và khủng bố chúng ta. Sự kiện này đã được
Đức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy: “Cái chết sẽ mang
con người đi khỏi dù người đó cố bám lấy con cái và
của cải, giống như một trận lụt lớn cuốn sạch cả ngôi
làng đang ngủ”.
Lời
dạy này ngụ ý là nếu ngôi
làng đó tỉnh thức và cảnh
giác thì có thể tránh khỏi sự tàn phá của lũ lụt.
AI
CŨNG PHẢI CHẾT
Chúng
ta hãy nghiên cứu Đức Phật giải quyết vấn đề cho hai
người, vì luyến ái mà cái chết làm cho đau khổ. Một người
là Bà Kisagatomi. Đứa con trai duy nhất của bà ta bị rắn
cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức
Phật. Đức Phật bảo Bà hãy đem đến cho Đức Phật một
vài hạt giống cải (mù tạc) của một gia đình không có
ai chết, Đức Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm
thấy một gia đình nào mà không có người chết. Tất cả
các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà nào là không khóc
than hay đã khóc than về cái chết của người thân vào một
lúc nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: cái chết rất
phổ biến. Cái chết giáng xuống tất cả mọi người và
không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi người.
Một
người khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp
của Bà này buồn thảm hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn,
Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất cả của
cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên
như dại trên đường phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức
Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách giảng
giải cho Bà nghe là cái chết là một hiện tượng tự nhiên
của tất cả mọi người.
“Con
đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần
này thôi, Patacara; con đã đau khổ nhiều lần trong những tiền
kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái chết của cha,
mẹ, con cái và những người thân của con. Khi con đau khổ
như vậy, nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển
cả”.
Cuối
cùng, Patacara nhận thức được cái vô thường của cuộc
đời. Patacara và Kisagotami hiểu rõ cái khổ và cả hai đều
cảm nhận được sự đau khổ của cái chết . Bằng cách
hiểu sâu xa Đế Thứ Nhất của Tứ Diệu Đế về “khổ”
thì ba Đế còn lại cũng hiểu được. Ngài nói: “Này các
tỳ kheo, đây là khổ, nguyên nhân của khổ, đây là diệt
khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt kh?”.
NĂM
UẨN
Chết
là sự tan rã của Uẩn. Những Uẩn này là thọ, tưởng, hành,
thức, và sắc hay vật chất. Bốn nhóm đầu thuộc về tinh
thần hay nama, họp thành đơn vị của thức. Nhóm thứ năm,
rupa là vật chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm
vật lý đó theo quy ước được đặt cho một cá nhân, một
con người hay cái Tôi. Cho nên những cá thể hiện hữu như
thế không phải là những cá nhân nào mà là hai thành phần
cấu tạo cơ bản của tinh thần và vật chất, thành phần
này là những hiện tượng hiếm. Chúng ta không coi năm uẩn
là những hiện tượng mà là một thực thể vì lẽ do cái
tâm tự lừa dối của chúng ta, do ham muốn bẩm sinh của chúng
ta cho những thứ nói trên là của ta để thoả mãn cái Ngã
quan trọng của chúng ta.
Chúng
ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng
ta chịu nhẫn nại và có ý chí . Nếu chúng ta quay vào nội
tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và nhận
xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã
trong một thời gian như Đức Phật dạy trong kinh Sati Patthana,
chúng ta sẽ thấy năm uẩn, không phải là một thực thể
mà mà một loạt các tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi
chúng ta không còn lầm lẫn cho cái bề ngoài là thật. Chúng
ta sẽ nhìn thấy năm uẩn này phát sanh và biến đi liên tục
nhanh chóng. Chúng luôn luôn biến đổi từng phút từng giây,
không bao giờ Tĩnh mà Động, không bao giờ là Thực Thể mà
luôn luôn Biến Hiện.
TÁI
SANH
Bốn
uẩn hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần (Thọ, Tưởng,
và Hành), tạo thành Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển
không ngừng, nổi lên rồi biến đi không cùng một khuôn mẫu
vì những khuôn mẫu đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập
lại ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc) – một lớp vật
chất tươi tốt như trước – để hoạt động điều hòa.
Nghiệp quả hành động như một định luật, và định luật
này điều khiển việc sắp xếp năm uẩn sau khi chết. Kết
quả là”tái sanh” .
YẾU
TỐ VÀ NĂNG LƯỢNG
Tóm
lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh và sự hiện
hữu của những uẩn đó được gọi là đời sống. Sự tan
rã của chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối hợp của
những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người bình
thường không dễ dàng gì hiểu được tại sao những cái
gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Chúng ta cần
hiểu rõ bản chất của các yếu tố (năm uẩn), năng lượng
tinh thần (hay sức mạnh tinh thần), định luật về nghiệp
quả, và sự song hành của năng lượng vũ trụ (Khí) rất
quan trọng. Một số người cho rằng cái chết là sự tan rã
của năm uẩn và sau đó, chẳng còn gì tồn tại nữa. Có
người lại cho rằng chết có nghĩa là sự chuyển tiếp linh
hồn từ một thân xác này đến một thân xác khác; và với
một số người khác nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn
một linh hồn chờ đợi ngày Xét Xử.. Tuy nhiên với người
Phật Tử, chết chẳng là gì cả mà chỉ là tạm chấm dứt
một hiện tượng tạm thời. Chết chưa phải là một sự
hủy diệt hoàn toàn của cái được gọi là chúng sanh.
NGUYÊN
NHÂN CÁI CHẾT
Theo
Đạo Phật, Chết xẩy ra do một trong bốn nguyên nhân sau đây:
I.
Mạng căn (hay thọ mạng) của chúng sanh mỗi loài đã hết.
Cái chết này là mạng triệt (Ayukkhaya)II.
Sức hành của Nghiệp tạo nên đời sống đã kiệt. Cái chết
này gọi là Khamma-kkhaya (Nghiệp dĩ)III.
Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên – Ubbayakkhaya
.IV.
Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn,
biến cố bất ngờ, hiện tượng thiên nhiên, hay Nghiệp quả
từ kiếp trước không đề cập tại điều II. Cái chết này
gọi là Upacchedake.
Có một
sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường hợp
chết trên đây: Một ngọn đèn dầu có thể tắt do một trong
bốn nguyên nhân:
I.
Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Điều này giống như cái
chết vì thời gian cho một kiếp đã hết.II.
Dầu đã cạn giống như Nghiệp lực đã hết.III.
Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết
do cả hai nguyên nhân phối hợp đề cập tại I và II.IV.
Hiệu quả của các yếu tố bên ngoài như gió thổi làm đèn
tắt – giống như chết do các nguyên nhân ngoại cảnh.
Cho nên,
Nghiệp quả không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết.
Có những nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo lý của
Đức Phật minh định rõ ràng Nghiệp quả không thể giải
thích tất cả những việc xẩy ra trong đời sống của chúng
ta.
ĐƯƠNG
ĐẦU VỚI BIẾN CỐ
Làm
sao chúng ta có thể đương đầu với các điều không tránh
được này một cách tốt nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ
là cái chết trước sau cũng phải đến.. Điều này không
có nghĩa là người Phật Tử quan niệm cuộc đời là ảm
đạm. Chết là một sự thực, và ta phải đương đầu – và
Phật Giáo là tôn giáo của lý trí huấn luyện các đệ tử
trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta
không hài lòng. Trưởng Giáo Nanak, vị khai sáng ra Đạo Sikh
nói: “Thế gian sợ chết, với tôi, chết đem niềm vui”. Thật
rõ ràng những vĩ nhân và những người cao thượng không sợ
chết và sæn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh
mạng sống của mình để người khác được hạnh phúc. Tên
tuổi của các vị này đã được lưu truyền trên bảng vàng
lịch sử thế giới cho hậu thế.
CÁI
CHẾT KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC
Thật
là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi
biết bao sinh mạng của nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ
đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũngthế, trước sau cũng
trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá lưu luyến với
cuộc đời, chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu
đuối, nhưng thực tế cái chết là một sự thật hiển nhiên.
Chúng ta muốn chấm dứt ý nghĩ ghê gớm đó và tự lừa dối
mình rằng chết là một điều xa vời, một điều không cần
phải lo lắng. Chúng ta phải có đủ can đảm để đương
đầu với biến cố ấy. Chúng ta phải sæn sàng trực diện
với sự thực trần trụi này. Chết là điều có thật. Nếu
chúng ta nhận thức được như vậy, và biết rằng cái chết
không tránh khỏi; chúng ta hãy coi nó như một sự bình thuờng
chứ không phải là một biến cố đáng sợ để khi nó đến,
chúng ta sẽ đương đầu với nó một cách bình tĩnh, can đảm
và tự tin.
BỔN
PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM
Biết
rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của
ta, chúng ta phải bình tĩnh, can đảm và tự tin để làm tròn
bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Chúng ta không nên
chần chừ chu toàn trách nhiệm và bổn phận của chúng ta.
Những việc gì có thể làm được hôm nay, đừng để đến
ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm thì giờ và sống một
cách hữu ích. Những bổn phận đối với vợ, chồng và con
cái đứng hàng ưu tiên phải được thi hành đúng lúc. Để
tránh gây căng thẳng và khó khăn cho gia đình, chúng ta đừng
chờ đợi đến phút cuối cùng mới viết di chúc. Cái chết
có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào – nó không chừa
ai cả và không chờ đợi. Chúng ta nên can đảm trực diện
với biến cố tối hậu này với hy vọng và tin tưởng rằng
chúng ta đang chuẩn bị cho đời sống kế tiếp.
ÁI
DỤC VÀ VÔ MINH
Có
thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là Có!
Có chết vì có sanh. Sự tiếp diễn không ngừng của cái sanh
được gọi là luân hồi. Nếu chu trình của sự sống ngưng
lại, cái chết có thể chấm dứt ngay tại giai đoạn Vô Minh
(Avijja) và Ái Dục (Tanha ) – Đó là gốc rễ của cái vòng
sanh tử cần phải tiêu diệt. Cho nên, nếu cắt được Ái
Dục và Vô Minh, sanh đuợc chế ngự, chết bị chinh phục,
luân hồi siêu thoát, và Niết Bàn hiện tiền.
Chúng
ta phải hiểu là mọi vật trong vũ trụ này đều không có
thật, và cuộc sống chỉ là ảo mộng. Nếu chúng ta dùng
khoa học hay triết lý để phân tách, cuối cùng chúng ta khám
phá thấy không có gì cả mà chỉ là hư không. Gandhi đã từng
nói:
“Sợ
chết chẳng khác gì sợ bỏ một cái áo cũ đã rách”. Vì
luyến ái, chúng ta rất đau khổ khi mất người mình thương
yêu. Việc này xẩy ra cho Bà Visakha, một đệ tử hết lòng
trong thời Đức Phật. Khi đứa cháu gái yêu dấu của Bà
chết, Bà tìm đến Đức Phật để yêu cầu Đức Phật giải
cứu cho Bà khỏi phiền não.
“Này
Visakha, ngươi có muốn có nhiều con nhiều cháu như số trẻ
trong thành phố này không? ” Đức Phật hỏi Bà.
-“Thưa
vâng, bạch Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là con thích”.
-“Này
Visakha, nếu vậy, ngươi sẽ khóc khi chúng chết phải không?
Những ai có một trăm thứ yêu dấu, những người đó có
một trăm điều phiền não. Kẻ không có thứ gì yêu dấu,
kẻ đó không có phiền não. Người như vậy mới thoát khỏi
phiền não”.
Khi
chúng ta mang lòng luyến ái, chúng ta phải chuẩn bị chịu
đựng phiền não trong lúc chia ly.
Tham
sống đôi khi làm cho người ta sợ chết. Chúng ta không dám
chấp nhận rủi ro thậm chí vì một lý tưởng chính đáng.
Chúng ta sợ hãi là bệnh tật hay tai nạn sẽ chấm dứt cuộc
đời hình như quý giá của chúng ta. Biết rằng chết là điều
tất nhiên, chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho linh hồn được
lên Trời để xác thân chúng ta được yên ổn và gìn giữ.
Tin tưởng như vậy bắt nguồn từ những tham vọng mãnh liệt,
muốn có một đời sống trường cửu.
Mỗi
người, mỗi cá nhân phải biết rõ vai trò của cái chết
nó định đoạt số phận của mình. Dù là hoàng tộc hay bình
dân, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, nơi an nghỉ cuối cùng của
thân xác con người là ở trong quan tài chôn sâu sáu tấc,
hoặc trong bình đựng tro cốt, hoặc ở dưới nước.
Tất
cả nhân loại phải đương đầu và chịu chung một số phận.
Vì ngu si không hiểu thực chất của đời sống, chúng ta thường
rên rỉ khóc than. Khi ta hiểu được thực chất của đời
sống, chúng ta có thể nhìn thẳng cái vô thường của tất
cả mọi duyên hợp và tìm cách giải thoát. Nếu chúng ta không
thoát khỏi những trói buộc của cuộc đời, chúng ta sẽ
phải đối mặt với cái chết mãi mãi. Về phương diện này,
vai trò của cái chết thật rõ ràng. Nếu người ta không chịu
nổi cái chết, thì họ phải hết sức cố gắng để vượt
qua cái vòng sanh tử, tử sanh.
SUY
GẪM VỀ CÁI CHẾT
Tại
sao chúng ta phải nghĩ về cái chết? Tại sao ta phải suy gẫm
nó? Đức Phật không những chỉ khuyến khích chúng ta nói
về cái chết, Ngài cũng khuyên chúng ta suy gẫm nó và nghĩ
đến nó thường xuyên. Đó là có sanh thì có chết. Tinh thần
và thể xác được tạo nên trong lúc thai nghén, phát triển,
lớn lên và trưởng thành. Nói một cách khác chúng theo tiến
trình già nua. Đầu tiên, chúng ta gọi tiến trình đó là lớn
lên, rồi già đi. Thật ra đó chỉ là một tiến trình của
sự lớn lên, phát triển, trưởng thành và cuối cùng là cái
chết không sao tránh được.
Ngày
nay, theo thống kê trên thế giới, mỗi ngày có hai trăm ngàn
(200,000) người chết hay độ 70 triệu mỗi năm.
Chúng
ta không quen suy gẫm về cái chết hoặc đả động đến nó.
Điều chúng ta thường làm là tránh nghĩ về cái chết và
sống như thể chẳng bao giờ phải chết cả. Chừng nào mà
chúng ta còn sợ chết, chúng ta không bao giờ sống một cuộc
đời đầy đủ và tốt đẹp nhất. Cho nên một trong những
lý do chính yếu để suy gẫm cái chết là để chúng ta hoàn
toàn tỉnh thức để khỏi sợ hãi. Suy gẫm về cái chết
không làm cho chúng ta chán nản hay không lành mạnh, mà chỉ
có mục đích giúp cho chúng ta thoát khỏi sợ hãi.
Lý
do thứ hai suy gẫm về cái chết sẽ thay đổi lối sống và
thái độ của chúng ta với cuộc đời. Giá trị trong cuộc
sống hoàn toàn thay đổi một khi chúng ta không nghĩ rằng
chúng ta sống mãi ở đời, chúng ta sẽ bắt đầu một lối
sống khác hẳn.
Lý
do thứ ba là để có khả năng làm quen đương đầu với cái
chết một cách xác đáng và yên lành.
Suy
gẫm về cái chết có ba điều lợi ích:
–
bớt sợ hãi– đem
lại phẩm chất mới cho đời sống để chúng ta sống cuộc
đời có giá trị thích đáng và– giúp
chúng ta chết trong vinh dự.
Những
lợi ích trên giúp chúng ta sống lương thiện và chết có
phẩm giá.
Suy
gẫm về cái chết chúng ta còn cần gì nữa?
Đạo
Phật khuyến khích suy gẫm về những nhân tố sau đây:
–
Tôi sống với tuổi của tôi, tôi không lo già;– Bệnh
tật là lẽ thường, tôi không quá nghĩ về nó;– Tôi
gánh chịu Nghiệp quả của tôi và tôi không thoát khỏi Nghiệp
lực;– Chết
là lẽ thường tôi không quá lo nghĩ về cái chết và– Tất
cả những gì dễ thương và thích thú của tôi sẽ thay đổi
và bỏ tôi.
Khi chúng
ta bình tâm suy gẫm về những thực trạng ấy, và giữ trong
tiềm thức, nó sẽ có tác dụng mạnh mẽ để khuất phục
sợ hãi, tuổi già, bệnh tật, cái chết, và chia ly. Điều
này không phải là làm chúng ta kém lành mạnh mà chính là
giúp chúng ta thoát khỏi sợ hãi. Cho nên tại sao chúng ta suy
gẫm về cái chết? Không phải là chúng ta mong mỏi cái chết
đến mà chúng ta không muốn sống hay chết trong sự sợ hãi.
CHẾT
LÀ MỘT PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG
Chết
đến với tất cả mọi người và là một phần của cái
vòng sinh tử. Người chết trẻ, kẻ chết già, chẳng ai không
chết. Chẳng ai mời chúng ta đến thế giới này, và cũng
chẳng ai bảo chúng ta từ giã. Tôi không tránh được cái
chết, và mọi người, mọi cỏ cây, mọi hình thức, mọi
chúng sanh đều theo con đường đó. Thu về, lá rụng. Chúng
ta không khóc vì cuối mùa lá rụng là điều tất nhiên. Cái
chết của loài người cũng thế.
Những
người có đạo hạnh, ít sợ chết hơn những người thế
tục vì lẽ họ chỉ muốn sống để thoả mãn năm giác quan
của họ.
Theo
quan niệm của Nhà Phật, chết chưa phải là chấm dứt, và
sanh cũng không phải là bắt đầu. Thực ra, chết chính là
sự bắt đầu (một kiếp sống mới), và sanh là sự chấm
dứt (kiếp sống cũ). Cái chết chỉ là một phần trong tiến
trình sanh tử, tử sanh. Nếu chúng ta hiểu được tiến trình
đó, cái chết không làm ta khiếp sợ bởi vì chết chưa phải
là hết. Nó chỉ là đoạn cuối của cái vòng sanh tử, đi
hết vòng này lại đến vòng khác, và tiếp diễn không ngừng
tỉ như lá lìa cành chưa phải là hết. Chúng vào lòng đất
và nuôi rể cây, sang năm cây lại có lá mới. Đời sống
của con người cũng như vậy. Cái chết làm nhân duyên cho
sự tái sanh. Hiểu biết được nguyên tắc căn bản đó, chúng
ta sẽ nhẹ bớt sợ hãi.
SỐNG
CÓ Ý THỨC
Chúng
ta sống một cách điên rồ, không nghĩ rằng mình đã tốn
biết bao nhiêu thì giờ cho những việc vô bổ. Hôm nay, chúng
ta phí thì giờ lo cho những chuyện năm tới, cho 20 năm tới,
và lo lắng cho tương lai đến độ chúng ta chẳng sống trọn
vẹn mỗi ngày?
Và
giá trị trong đời sống của chúng ta sẽ thay đổi. Đời
sống có gì quan trọng? Những gì thúc đẩy chúng ta? Những
gì lôi cuốn chúng ta? Nếu chúng ta thực sự suy gẫm cái chết,
chúng ta sẽ xét lại giá trị của chúng ta. Có nhiều tiền,
chúng ta không thể đem theo được. Thân xác chúng ta phải
bỏ lại để mai táng bằng cách này hay cách khác. Chỉ còn
lại nắm xương tàn vô giá trị. Chúng ta không thể mang theo
ngay cả cái xác thân quý giá với chúng ta khi chúng ta lìa
bỏ cõi đời này.
Phẩm
chất của của cuộc đời quan trọng hơn sự thủ đắc vật
chất. Phẩm chất của cuộc đời trước tiên là phẩm chất
của tâm trí chúng ta. Chúng ta sống thế nào ngày hôm nay quan
trọng hơn nhiều ngoại vật khác. Chết là điều kiện để
tái sanh. Điều kiện cho sự tái sanh là cái chết và phẩm
chất tâm trí, cái độc nhất mà chúng ta mang theo. Đó là
cái gia tài để chúng ta thừa hưởng mà không để lại cho
người khác:
–
Tôi tạo Nghiệp, tôi phải thọ Nghiệp.– Nghiệp
sanh ra tôi, tôi phải tôn trọng và gánh chịu.– Nghiệp
lành hay Nghiệp dữ tôi tạo ra, tôi đều phải gánh chịu
hết, do đó tôi là người thừa kế .
Những
gì theo ta là những phẩm hạnh có ở trong ta: phẩm hạnh của
tâm trí, của tinh thần, cùng những phẩm hạnh tốt hay xấu.
Đó là tất cả những thứ chúng ta được thừa hưởng. Đó
là điều kiện quyết định việc tái sanh và tương lai của
chúng ta. Đến lượt những phẩm hạnh đó đem lại một giá
trị cho đời sống của chúng ta. Chúng ta có thể vui về bạc
triệu mà chúng ta đã kiếm được nhưng điều quan trọng
hơn là chúng ta cần sống yên ổn và trau dồi đạo đức.
Điều này có tác dụng tốt vào lối sống của chúng ta, và
vào những giá trị mà chúng ta phát triển. Không phải là
vấn đề thành công, mà là vấn đề làm sao để thành công.
CHẾT
XỨNG ĐÁNG
Sau
khi đã suy xét các điều trên, nếu chết không còn là một
sự đe dọa mà là một kinh nghiệm thực tế, chúng ta có thể
trực diện nó với lòng tin tưởng. Chúng ta không chỉ theo
những điều nói trên mà còn cần có nhiều hành động khác
để chết một cách xứng đáng. Nếu chúng ta sống lương
thiện, chúng ta chết dễ dàng hơn. Dù đã sống sung sướng
hay đau khổ, chúng ta phải cố gắng chết một cách xứng
đáng. Để đương đầu với cái chết phải đến, chúng ta
hãy nỗ lực trong việc phát triển phẩm hạnh không sợ hãi.
Có
một số người sợ chết hơn sợ đau đớn và sợ chia lìa
người thân hơn là những thứ đáng sợ khác. Khi một người
sắp chết, nên gợi lòng can đảm và trấn an họ. Nhưng trước
tiên, mình phải trấn an mình đã. Dĩ nhiên, đau đớn sẽ
hành hạ và không thể chịu đựng nổi. Nhưng ngày nay, nhờ
những tiến bộ y khoa, những đau đớn của chúng ta được
giảm thiểu trước khi chết. Đau đớn không còn là một điều
sợ hãi không tránh được nữa.
Tôi
thường trấn an người sắp chết, như trường hợp một người
không còn sống nổi vì ung thư: người ta không để bạn phải
đau đớn vì việc điều trị nhanh chóng sẽ giảm bớt đau
đớn. Kết quả quan trọng là người bệnh được thoải mái
và chết nhẹ nhàng.
Một
số người khác lo âu vì sợ mất của cải. Nhưng nếu họ
biết suy gẫm về cái chết thì không có gì phải lo. Chúng
ta hiểu có hợp thì có tan. Nếu một người sắp từ trần
không suy gẫm được điều này, chúng ta cần ân cần khuyến
khích và trấn an họ là con cái và những người thân quyến
còn lại sẽ được chăm sóc. Cần giúp họ an lòng là mọi
việc sẽ đều tốt đẹp, có bạn hữu lo lắng cho họ, họ
cần có sự động viên can đảm để được thoải mái, an
tâm, và tất cả mọi việc sẽ được lo lắng chu đáo.
Trọng
tâm của việc này là gợi lòng can đảm của người sắp
chết để họ được an lòng. Làm thế nào để chết xứng
đáng? Theo Phật Giáo là tạo một bầu không khí bình an trong
phòng người sắp ra đi. Không ích lợi gì nếu có người
gào thét, kêu la và khóc lóc. Có gì quan trọng hơn đối với
một người sắp chết là việc phải chết? Làm như vậy,
người sắp chết không an tâm ra đi. Điều tốt hơn là bạn
bè và thân quyến có mặt cần chứng tỏ bằng sự hiện diện
của họ rằng họ quan tâm, yêu mến, và sæn sàng giúp đỡ
người sắp ra đi.
“Biểu
tượng tôn giáo rất hữu ích và tiện dụng trong lúc này.
Nếu người sắp chết là một Phật Tử, một tượng Phật
nhỏ cùng sự có mặt của các nhà Sư với những lời cầu
nguyện êm dịu sẽ rất ích lợi và giúp người chết có
niềm an lạc và phẩm hạnh cao quí nhất. Đó là điều tuyệt
diệu giúp người ra đi, đi tìm cuộc sống mới trong đường
lối tốt đẹp nhất” — (Đại đức Ajahn Jagaro)
CHẾT
NHẸ NHÀNG
Mọi
người đều mong muốn chết êm ả sau khi đã làm tròn nhiệm
vụ và bổn phận trong lúc sanh thời. Sự thật ra có bao nhiêu
người đã sửa soạn cho cái chết này? Chẳng hạn, có bao
nhiêu người đã chịu khó nhọc chu toàn nhiệm vụ với gia
đình, thân nhân, bạn bè, xứ sở, đạo giáo và thân phận
của chính mình? Họ sẽ không yên tâm ra đi khi họ không chu
toàn được một trong những nhiệm vụ đó.
Chúng
ta phải học cách vượt qua nỗi sợ chết, hiểu rằng các
thần linh cũng phải chịu số phận như vậy. Những ai phung
phí thời giờ vô ích, sẽ than van khi mình đến ngày tận
số.
Khi
con người nhìn thấy đời sống của mình chỉ là một một
giọt nước trong con sông dài, họ sẽ cố gắng để góp sức,
dù là ít ỏi vào dòng đời vĩ đại đó. Người khôn ngoan
đều hiểu rằng, muốn sống phải tìm cách giải thoát bằng
cách tránh tội lỗi, làm điều thiện, và thanh tịnh tâm trí.
Người hiểu đời sống theo Giáo Lý của Đức Phật không
bao giờ lo lắng về cái chết. Cái chết không gây ra phiền
não, nhưng thật sẽ đáng buồn nếu ta chết mà chưa kịp
làm gì cho chính mình và cho người khác.
NGÀY
HÔM NAY TÔI CHẾT
David
Morris là một học giả Phật Giáo Tây Phương chết lúc 85
tuổi. èt lâu sau khi ông chết, kẻ viết tập sách nhỏ này
nhận được lá thư của ông (hiển nhiên ông đã viết thư
này trước đây và dặn thư này gửi đi khi ông chết). Thư
như sau: ‘ông sẽ vui khi biết tôi chết ngày hôm nay. Có hai
lý do: Điều thứ nhất, ông sẽ yên lòng khi biết được
sự đau đớn của tôi do bệnh tật cuối cùng đã hết. Điều
thứ hai, từ khi tôi trở thành Phật Tử, tôi đã giữ năm
giới một cách trung thực. Kết quả, ông biết kiếp tới
của tôi sẽ không đau khổ.’ Đời sống như một giấc mộng.
Cái chết là một điều xẩy ra thực tế và tái sanh là điều
xuất hiện tự nhiên. Để trực diện với biến cố này,
ta phải tiếp tục hay chấm dứt cái vòng sanh tử luân hồi
để thoát khỏi khổ đau, đó mới chính là con người tri
thức cần quan tâm.
II
NGƯỜI
PHẬT TỬ PHẢI LÀM GÌ
ĐỂ
CỦNG CỐ PHẬT PHÁP?
DẪN
NHẬP
Những
truờng hợp vui như sanh con, hôn nhân và những trường hợp
buồn như đau yếu, qua đời của kiếp nguời rất cần thiết
đến việc áp dụng một số nghi thức được triển khai ở
mọi xã hội từ thời thuợng cổ. Những nghi thức này, đã
có từ trước khi những tôn giáo lớn được thành lập trên
thế giới, được truyền thừa từ cha ông chúng ta, và qua
dòng thời gian, lần hồi trở thành hình thức thực hành truyền
thống và tập quán cho đến ngày nay. Chúng ta vẫn tiếp tục
áp dụng nhiều nghi thức này vì ngu si và sợ hãi không dám
thay đổi hay loại bỏ dù chúng ta đã đưọc tiếp nhận một
nền giáo dục hiện đại, tiên tiến về đời sống.
Đặc
biệt nghi thức trong truờng hợp buồn như có người chết
hay tang lễ vẫn thực hành trong huyền bí và dị đoan. Việc
phải chi tiêu một số tiền lớn cho việc này quả là một
gánh nặng cho tang quyến. Đó là lý do chính khiến một số
đông Phật tử đã đổi đạo vì lẽ nguyên nhân này là lợi
khí cho những nguời tôn giáo khác nhắm mũi dùi đả kích
vào người đạo Phật. Tối ư khẩn thiết cho tất cả các
cộng đồng Phật Giáo tại tất cả các quốc gia trên thế
giới phải tỉnh thức về tình trạng này và can đảm cố
gắng cải cách nghi thức và nghi lễ thực hành cho phù hợp
đúng nguyên tắc tôn giáo của Đạo Phật.
Cuốn
sách này trình bày một cách đơn giản và dễ hiểu một số
nghi thức để thực hành trong những dịp buồn vui trong đời
người Phật tử. Hy vọng người Đạo Phật sẽ cố gắng
hiểu biết các nghi thúc này và áp dụng khi truờng hợp cần
đến. Làm được như vậy, nguời Phật Tử không những đạt
được mãn nguyện và niềm an lạc trong kiến thức, thực
hành đúng nghi thức Phật Giáo mà còn đề cao được tôn
giáo của mình trước mắt những người thuộc tôn giáo khác.
Tan
Teik Beng, Hội Trưởng
Hội
truyền Bá Phật Giáo Mã Lai Á
BỔN
PHẬN CHA MẸ TRONG VIỆC NUÔI NẤNG CON CÁI
Sanh
con là một dịp vui mừng. Có con và nuôi dưỡng con cái là
một cuộc hành trinh thể hiện trên niềm vui và tin tưởng.
Đồng thời nó cũng có nghĩa là cuộc khởi đầu của một
thời gian dài hy sinh và trách nhiệm của cha mẹ. Dù rằng
con người đã tiến rất xa trên bực thang tiến hóa, những
trẻ nhỏ vẫn cần một thời gian dài mới trưởng thành và
tự lập được. Cha mẹ với bổn phận nặng nề chịu trách
nhiệm săn sóc và nuôi duỡng chúng cho đến khi chúng thành
người hữu dụng. Tuy nhiên qua nhiều thế kỷ, xã hội đã
triển khai một phương pháp được thử nghiệm kết quả rất
tốt để hướng dẫn các bậc cha mẹ trong việc nuôi nấng
con cái. Trong mối quan hệ này, tôn giáo là vai trò chính cung
cấp cho cha mẹ một phương thức tổ chức để huấn luyện
đứa trẻ về đạo đức, cách cư xử và luân lý. Trong Phật
Giáo, Đức Phật đã cho cho các bậc cha mẹ lời khuyên dạy
rất hữu ích về nhiệm vụ đối với đứa trẻ và ngược
lại. Kinh Thi-Ca-La-Việt có lẽ là lời khuyên tốt nhất trong
những lời dạy của Đức Phật. Đ?c Phật nêu một trường
hợp khi Ngài thấy một thanh niên trẻ đang thực thi một nghi
thức đơn giản là cúi lạy sáu huớng (bắc, nam, đông, tây
trên, dưới). Hỏi thanh niên này về ý nghĩa và mục đích
của hành động lễ lạy này, nguời thanh niên trả lời không
biết và anh chỉ làm theo lời khuyên bảo của người cha đã
qua đời. Đức Phật đặc biệt không trách cứ thanh niên
thi triển nghi thức trên nhưng Ngài đã giảng dạy ý nghĩa
hữu ích của việc thực hành lễ lạy này. Ngài nói hành
động biểu lộ lòng tôn kính sáu hướng có nghĩa là tôn
kính việc chu toàn nhiệm vụ và bổn phận với cha mẹ, thầy
dạy, hàng giáo phẩm, vợ, con cái và nguời làm. Trên đây,
chúng ta thấy Đức Phật nhấn mạnh sự tương quan giữa mọi
người nhưng đặc biệt giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ phải
săn sóc con cái và cho con quyền độc lập khi thời điểm
đến và cho con thừa hưởng gia tài đúng lúc. Mặt khác, về
phần con cái cũng phải có bổn phận phải săn sóc và thể
hiện hết lòng hiếu kính cha mẹ. Điều này phải được
thực thi từ sự tương kính và biết ơn cha mẹ chứ không
phải vì mong muốn được lợi lạc mà làm vậy. Nơi đây
cho thấy có một mối liên quan mật thiết giữa tôn giáo và
sự liên hệ cha mẹ, con cái. Bậc cha mẹ đừng quên ý nghĩa
của tôn giáo khi đứa trẻ ra đời. Gia đình phải phát triển
mối tương quan tế nhị về tôn giáo đã được thiết lập
hầu tránh lầm lẫn.
Cha
mẹ có bổn phận phát triển mối tương quan căn cứ trên
gia tài văn hóa và tôn giáo. Trong khi các người của tôn giáo
bắt buộc thi hành các lễ rửa tội, đặt tên thánh chính
thức cho đứa trẻ, cha mẹ người Phật Tử chỉ cần mang
đứa trẻ đến chùa để xác nhận lại niềm tin vào Ba Ngôi
Tam Bảo, nương tựa vào Đức Phật, Pháp và Tăng Già. Có
nơi nương tựa vào Ba Ngôi Tam Bảo, chính các bậc cha mẹ
cảm thấy tin tưởng trong việc nuôi dưỡng đứa trẻ và
an lòng vì đứa trẻ được che chở không còn sợ hãi ma quỷ.
Chúng ta không thể chối bỏ sự hiện hữu các lực lượng
ma quỷ chung quanh chúng ta hiểm ác với con người và có thể
gây tai hại. Mang đứa trẻ đến chùa và một khóa cầu nguyện
thiêng liêng theo truyền thống cầu phước cho em nhất định
tạo phúc lợi cho em. Việc trên đây cũng được coi như là
bước đầu trong việc liên hệ với chùa từ khi em còn trứng
nước, sư kiện này trở thành một phần hay một mảnh trong
đời sống của đứa trẻ. Thói quen trên nếu được tiếp
tục gìn giữ cho đến lúc trưởng thành sẽ đem lại lợi
ích lúc gặp khó khăn.
KHÓA
LỄ CẦU PHƯỚC CHO CÁC EM NHỎ
Tụng
kinh đem hiệu quả tốt cho em nhỏ. Được biết trong lúc Đức
Phật còn tại thế, khi một em nhỏ trong trường hợp nguy
kịch vì ảnh hưởng của ma quỷ bên ngoài, đem đến trưóc
mặt Phật, Đức Ph?t ra lệnh cho tất cả các thầy tụng kinh
cầu nguyện cho em. Kết quả là đứa bé đã thoát chết và
sống tới già. Do vậy em đưọc gọi là AYUWADDHANA có nghĩa
là “sống lâu” vì không còn sợ bị chết non.
TẠI
SAO CHÚNG TA TÌM NƯƠNG TỰA NƠI ĐỨC PHẬT?
Khi
những người tin tưởng vào thượng đế, lúc sợ hãi, buồn
thảm hay gập khó khăn, họ thường cầu nguyện để được
giúp đỡ và che chở. Nhiều Phật Tử hỏi là có thể quay
về với ai khi gặp phải trường hợp bất an. Trong truờng
hợp này người Phật tử nhớ tới Phật trong tâm trí đề
tìm sự bằng an. Chắc chắn là quan niệm về thượng đế
của người Phật Tử khác hẳn với các tôn giáo khác nhưng
khi suy gẫm về các đức hạnh cao cả của Đức Phật, những
chiến thắng vĩ đại của Ngài, những đặc tính bình tĩnh
và cao thượng của Ngài, đầu óc người Phật Tử sẽ bình
tĩnh lại và sẽ đạt được lòng tự tin. Cả đến những
người thuộc tôn giáo khác nói rằng thượng đế không phải
là một người, nhưng là một sức mạnh đưọc nhân cách
hóa trong đầu óc. Khi đầu óc bình tĩnh, sung mãn, tập trung
vào sức mạnh ấy, họ ở trong tư thế có thể đối đầu
với các xáo trộn, lượng định được những khó khăn và
tìm cách vượt qua được. Người Phật tử giải quyết các
khó khăn bằng đường lối tương tự là gợi trong tâm trí
hình ảnh của Đức Phật. Đương nhiên những khó khăn của
chúng ta là do nguyên nhân nơi tâm trí của chúng ta nên tâm
trí của ta duy nhất có thể giải quyết vấn đề qua hiểu
biết và tự tin. Vậy nên sự hiểu biết về Pháp rất là
quan trọng. Khi tâm trí sung mãn qua cảm hứng và thành tâm
đối với Đức Phật, cảm nghĩ bị bơ vơ,sợ hãi ma quỷ,
cô đơn sẽ không còn và ta sẽ lấy lại lòng tự tin. Điều
này có nghĩa là tìm nương tựa nơi Đức Phật.
Trong
khi tìm nơi nương tựa cho con em tại chùa, có thể dâng cúng
hoa, hương, nến hay trái cây tại chánh điện và cung thỉnh
thầy trụ trì tụng kinh cầu phước cho đứa trẻ. Nếu muốn
hơn nữa, có thể xin thầy trụ trì đặt cho em một pháp danh.
Lúc
đứa trẻ đang lớn, trách nhiệm của cha mẹ là thường xuyên
đem em đến chùa để có thể gần gũi các thiện-trí-thức,
nghe những bài giảng đơn giản và những bài thuyết pháp;
lợi lạc bắt ngưồn từ đó. Trong thời gian này đứa trẻ
sẽ quen thuộc với việc hành trì và sẽ cảm thấy thoải
mái giữa bầu không khí thanh tịnh của ngôi chùa. Lẽ dĩ
nhiên đứa trẻ phải được mang đến chùa vào những khóa
cầu phước đặc biệt trong những dịp như ngày tựu truờng,
ngày thi, sanh nhật và những dịp vui khác. Khi đứa trẻ nghe
những lời tụng kinh thường xuyên, chúng sẽ tự cảm thấy
lòng tin tưởng vô biên vì chúng hiểu tụng kinh đem lợi lạc
và cảm thấy được che chở. Cho nên chúng sẽ có khuynh hướng
ngày một làm tốt hơn bất cứ công việc gì phải làm, và
kết quả, chúng không còn bồn chồn lo lắng mà cảm thấy
vũng tâm không còn khiếp sợ bị bỏ rơi không được giúp
đỡ.
GIÁO
DỤC VÀ VĂN HÓA NGƯỜI PHẬT TỬ – HÀNH TRÌ.
Phương
thức hữu hiệu để trình bày các bài giáo lý cho các em về
luân lý và đạo đức là dùng các hình ảnh, các bức minh
họa, các ký hiệu tôn giáo và các bài nói về huyền thoại
và các mẩu chuyện về Phật Giáo. Phương pháp này giúp cho
nhiều người nhớ lại, đặc bIệt các em nhỏ, khiến việc
nhận thức giá trị Phật Giáo càng tốt đẹp hơn. Những
màn trình diễn trên sân khấu hay các bức hoạt họa mô tả
lịch sử, các huyền thoại về Đức Phật cũng tạo một
ắn tượng tốt và trường cửu trong đầu óc các em.
Dìu
dắt các em trên con đuờng chính đáng, các bậc cha mẹ phải
tự mình làm gương và phải sống một cuộc đời lý tuởng.
Không thể nào có được các con em xứng đáng từ nơi những
bậc cha mẹ không xứng đáng. Ngoài phần khuynh hướng
do Nghiệp quả, các em cũng bị ảnh hưỏng bởi những tật
xấu và phẩm hạnh của cha mẹ. Các bậc cha mẹ hữu trách
nên cẩn thận không nên truyền thừa cho con cái những nét
tiêu cực của mình.
Lời
khuyên của Đức Phật về truyền thống và tập tục là không
nên chấp nhận hay bác bỏ ngay bất cứ điều gì mà không
thực hiện xem điều đó có ý nghĩa và hữu dụng không. Điều
này không cần nhấn mạnh về những phương pháp này khi một
người đã hiểu rõ Pháp và có một cuộc sống có ý nghĩa.
Đức Phật dạy, dù phương pháp nào mà chúng ta áp dụng để
rèn luyện tâm trí, thái độ của chúng ta phải được coi
như một người đã dùng cái bè để qua sông. Sau khi vượt
qua sông, người đó không cần phải bám vào cái bè nữa mà
bỏ lại bên bờ rồi tiếp tục cuộc hành trình. Tương tự
như vậy, việc thực hành văn hóa chỉ được coi như là phụ
giúp cho việc đạt cảm hứng chứ không phải là cứu cánh.
Việc
thực hành văn hóa của người Phật tử thay đổi từ nước
này qua nước khác. Khi thực hiện những truyền thống văn
hóa này, chúng ta phải cẩn thận không nên phân loại Phật
Giáo như thuộc riêng rẽ của bất cứ một ai cả. Thí dụ
như chúng ta không nên phân biệt Phật Giáo Trung Hoa, Phật
Giáo Tích Lan, Phật Giáo Nhật Bản, Phật Giáo Thái Lan, Phật
Giáo Miến Điện, hay Phật Giáo Tây Tạng. Phân biệt tạo
bất hòa, kỳ thị và hiểu nhầm. Chúng ta cũng nên nhận thức
một số gọi là các nhà lãnh đạo Phật giáo đang hết sức
phát huy uy lực của mình với nhãn hiệu Phật Giáo bằng cách
áp dụng mọi dạng thức thực hành và quan niệm như bùa ngải,
thần thông, thần bí và siêu nhiên để bịp bợm quần chúng.
Những hành động vô lương tâm này được thực thi hoàn toàn
không có những điều mà Đức Phật đã nói về việc hành
đạo.
Một
việc thực hành thông thường nữa giữa những người Phật
Tử là tổ chức khóa lễ cầu phước khi dọn về nhà mới.
Bất cứ lúc nào khi dọn vào một khu gia cư mới, hay rời
chỗ ở, theo tập tục thông thường người Phật tử cung
thỉnh các thầy đến làm lễ cầu phước để bảo đảm
nơi mới đến được che chở khỏi ma quỷ, mọi người đều
được an vui ;hạnh phúc, an lạc và hài hòa tỏa khắp nơi.
Tương tự như vậy, các buổi lễ cầu phước cững được
thi hành khi bắt đầu khai truơng việc buôn bán hay bất cứ
lúc nào việc buôn bán đuợc khởi sự.
HÔN
NHÂN
Theo
Đức Phật, khi đứa trẻ đến tuổi trưởng thành, bổn phận
của cha mẹ là phải tìm kiếm một người vợ xứng đáng
cho con cái. Lẽ dĩ nhiên việc này không còn là một tập quán
trong xã hội hiện đại, tuy nhiên cha mẹ vẫn là người giúp
đỡ, hỗ trợ khi đứa con bắt đầu tìm kiếm một ý-trung-nhân
xứng đôi vừa lứa. Đây là dịp tốt nhất cho cha mẹ không
những giúp về vật chất mà còn cho con cái những lòi khuyên
kín đáo, hướng dẫn chúng trong việc chọn lựa người bạn
đường thích hợp hầu tránh được các các chông gai cạm
bẫy trên đời. Nếu đứa trẻ thường xuyên đến chùa, chúng
có nhiều cơ hội để kết giao với các bạn Phật tử đồng
lứa tuổi, cùng nhau chia sẻ giá trị và lợi ích của tôn
giáo và trở thành những người bạn đường tốt.
Nhận
thấy nhiều Phật tử có khuynh hướng quên bổn phận thiêng
liêng vào những dịp quan trọng và thuận lợi nhất trong đời
sống – hôn nhân. Theo phong tục tại các nước Phật Giáo,
các thầy thường được mời đến nhà trong dịp lễ hỏi
để làm lễ cầu phước. Lễ này có thể tổ chức trước
hay sau ngày cưới. Lễ cưới thường đưọc tổ chức tại
nơi thị thực hôn thú hay tại các nhà đương sự. Mong mỏi
tất cả các cặp vợ chồng đều chu toàn bổn phận trên
khi làm lễ cưới. Lễ vật dâng cúng đơn giản như hoa, hương
và nến đưọc dùng trong lễ cầu phước ngắn với sự có
mặt của cả cha mẹ đôi bên trai, gái, thân quyến và bạn
hữu. Lễ cầu phước trên tổ chức vào một ngày thuận tiện,
chắc chắn là một đóng góp tinh thần đáng kể cho việc
thành công, an lạc, hài hòa, và hạnh phúc cho tân lang và tân
giai nhân.
Mê
đắm không thôi không phải là một căn bản đầy đủ cho
một hôn nhân thành công; cho nên giới trẻ phải đuợc khuyên
bảo thực thi phần tâm linh trước khi phát nguyện. Khi một
cặp tiến hành việc hôn nhân bằng cách theo đúng giáo lý,
cặp đó được kính trọng hơn về thể chế tổ chức, và
đương nhiên cặp này quay về với tôn giáo lúc tinh thần
căng thẳng giao động để tìm thấy nguồn an lạc.
Sau
lễ cưới vui vẻ, cặp vợ chồng mới này phải tự chính
mình cố gắng trở nên bậc cha mẹ thuần thành có trách nhiệm
về những đứa con tương lai của mình.
NGHI
THỨC TÔN GIÁO
Mặc
dù các nghi thức, lễ nghi và các cuộc lễ không được càc
bậc trí thức tán đồng. nhưng việc hành đạo này lại quan
trọng trong việc phát triển và duy trì phương diện thành
tâm trong tôn giáo và tạo một ý niệm cảm hứng giữa quần
chúng. Đối với đa số, phát triển lòng thành tâm là bước
quan trọng nhất đối với việc kinh nghiệm học hỏi của
một tôn giáo. Không có phương diện thành tâm và văn hóa
gắn liền với Phật Giáo, ta có thể bị sa ngã vào một niềm
tin và hành đạo khác, dù chúng ta nhận thức là việc hành
đạo như vậy có thể tiến đến dị đoan và niềm tin mù
quáng.
Rất
quan trọng cho tôn giáo có một số nghi lễ không phương hại
và một số thực hành hữu lý cho con người để nói lên
lòng thành và những cảm nghĩ tâm linh. Nhiều cuộc lễ Phật
Giáo giúp việc trau dồi các thói quen tốt và cảm nghĩ tích
cực giữa những tín đồ khiến họ trở nên những người
khoan dung, thận trọng và học thức hơn. Khi thi triển với
sự hiểu biết và nghiêm chỉnh, việc thực hành nghi lễ truyền
thống như vậy làm vững mạnh thêm niềm tin không phải chỉ
như ý kiến của người trí thức. Phật Giáo không có thành
tâm sẽ lạnh lẽo, rời rạc và trừu tượng.
NHỮNG
ĐIỀU CẤM KỴ
Đa
số mỗi sắc dân đều có những điều cấm kỵ riêng của
họ. Mỗi sắc dân đều có niềm tin duy linh riêng của mình
và bị ảnh hưởng lẫn nhau. Vì ngu si, sợ hãi và dị đoan
mỗi sắc dân có khuynh hướng chấp nhận niềm tin của người
khác thay vì nghiên cứu một cách hợp lý và loại bỏ nếu
không thích đáng với xã hội hiện đại. Chẳng hạn, nhiều
cộng đồng Á Châu tin là không nên cắt móng tay lúc trời
tối hay gội đầu vào một số ngày nào đó trong tuần. Một
số người nghĩ rằng sui sẻo khi gập một nhà tu trọc đầu
sáng sớm trong khi một số lại không quét nhà khi trời đã
tối. Họ còn tin là không nên mang thịt đi lúc ban đêm vì
sợ hãi là có thể thu hút ma quỷ. Một vài bậc cha mẹ khuyên
con cái nên mang theo một thanh sắt để tránh ma. Lại có những
người tin là chó tru lên hay cú kêu ban đêm là những điềm
sui sẻo và nháy mặt bên trái là điềm gở. Một số người
coi những việc trên là những vấn đề nghiêm trọng. Nhưng
những ai không lưu ý gì đến những việc đó thì chẳng sợ
hãi và chảng lo âu.
Thái
độ của người Phật tử về những niềm tin trên như thế
nào? Suy nghĩ chính đáng chấm dứt nơi đâu và dị đoan phát
khởi ở đâu? Tất cả đều bắt nguồn từ sự sợ hãi cái
không biết của chúng ta. Đôi khi phải có lý do thực hành
để quan sát một số các niềm tin này. Chẳng hạn lý đương
nhiên là không nên khuyên cắt móng tay vào ban đêm chỉ vì,
đơn giản ta có thể cắt vào tay lúc tối. Về việc lo sợ
ma quỷ, Đức Phật nói: Chừng nào mà chúng ta còn đem tình
thuơng yêu đến tất cả chúng sanh có mặt hay khuất mặt,
chừng nào mà chúng ta không làm hại ai cả bằng cách sống
hòa hợp và tin tưởng vào sức mạnh của Pháp hay Chân Lý
dẫn giải bởi Đức Phật, và chừng nào mà chúng ta còn phát
triển sự hiểu biết chánh đáng bằng cách nghiên cứu Giáo
Lý, thì không có gì có thể hại ta đuợc.
Trên
đây cũng có nghĩa là chúng ta phải phát triển lòng thành
và tin tưởng đạo lý bằng cách thuờng xuyên thăm viếng
chùa, và bằng cách có những cuộc bàn thảo hữu ích với
các thầy để tăng phần hiểu biết về Pháp. Chùa là nơi
mà ta đạt được nhiều kiến thức và hiểu biết để loại
bỏ dị đoan và nhổ tận gốc rễ niềm sợ hãi quá đáng
trong đầu óc các người vô tội.
BÙA
CHÚ VÀ MA THUẬT
Giữa
những cộng đồng Á Châu, rất là thông thường người dân
cho rằng họ là nạn nhân của ma thuật và bùa chú khi họ
gặp bất hạnh trong đời sống. Khi thấy có điều gì không
vui xẩy ra, họ thường đi tìm các nhà bói toán, chiêm tinh
gia, đồng cốt và ‘bùa ngải’. Đương nhiên đời sống của
những người buôn bán về ma thuật, bùa chú trông vào việc
nói với khách hàng là có điều gì sai hay một vài ma lực
xử dụng bởi người nào đó đã mang rủi ro cho gia đình.
Rồi họ bảo là họ có thể chống lại các ma lực đó và
đòi một số tiền lớn để chữa trị. Kết quả duy nhất
là túi tiền của các nạn nhân nhẹ dạ này càng ngày càng
vơi đi và cuối cùng không có một kết quả nào đạt được
nơi người bói tướng kinh nghiệm này. Phật Giáo đại chúng
cũng không tránh khỏi những quỷ kế của bọn lang băm và
bịp bợm, bọn này đã dám đội lột các nhà sư để kiếm
tiền của các nạn nhân nhẹ dạ. Cho nên Đức Phật đã
khẳng định là nhiều những bất hạnh của chúng ta được
tạo ra chính bởi tâm trí không thanh tịnh, không được huấn
luyện và đường lối duy nhất để vượt qua là do sự cố
gắng mở mang trí tuệ và tầm hiểu biết của chúng ta.
Người
Phật tử sửa chữa các bất hạnh bất cứ loại nào một
cách khoa học như các phương pháp của khoa thần kinh trị
liệu hiện đại. Cách này đã được tóm tắt trong Phần
Hai Tứ Diệu Đế – Nguyên nhân của Khổ đau (Tập). Trước
khi chúng ta nhìn vào việc chữa trị các bất hạnh (Không
may, đau yếu, mất người mất của và khó khăn gia đình)
chúng ta phải biết gốc rễ sanh ra các điều này. Chúng ta
phải quan sát chính xác cái gì hiện tại đang xẩy ra và hiểu
biết chỉ có chúng ta mới vượt qua khỏi. Tập trung thiện
chí, tâm trí sung mãn để hiểu nguyên nhân của vấn đề
hầu tìm đuợc giải pháp. Trường hợp đau yếu, một đầu
óc bình tĩnh giúp việc trị liệu đuợc mau chóng. Chỉ trông
vào siêu nhiên để vượt khỏi các bất hạnh không phải
là một giải pháp thích ứng để chấm dứt khổ đau. Chúng
ta phải bình tĩnh phản ảnh biết rằng cái bất hạnh này
đến với tất cả mọi người trên thế gian này, chúng ta
phải nhìn cái xẩy ra cho chúng ta một cách chính xác để
tìm ra cách giải quyết thích ứng. Không phải là do định
mệnh – nhưng mỗi cá nhân, hãy sử dụng Nổ Lực Đúng Cách
(Chánh Tinh Tấn) có thể tự mình tránh khỏi bất hạnh.
HÌNH
ẢNH, NƯỚC THÁNH, XÂU CHUỖI, BÙA PHÉP VÀ THƯ PHÙ
Xã
hội ngày nay được giáo dục tốt hơn xã hội trước đây
trong quá khứ, tuy nhiên mặc dù những tiến triển rộng lớn
trên bình diện kiến thức khoa học, nhiều người vẫn đau
khổ vì sợ hãi, nghi ngờ và bất an. Nguyên nhân gốc rễ
là do trạng thái của tâm thần xuất phát từ ngu si, giao động
và tham dục. Vì ngu si về vô thường và cái ta thường còn,
chúng ta tin vào cái ngã của chúng ta và niềm tin này đưa
đến tham dục. Chúng ta ham muốn vô độ, sợ mất đi cái
mà chúng ta đang có. Chúng ta sợ hãi chúng ta sẽ bị hại
hoặc chúng ta sẽ phải đối đầu với những “rủi ro”. Nghĩ
như vậy chúng ta phải làm gì? Theo bản năng tự nhiên chúng
ta quay về với niềm duy linh quá khứ và trông mong vào bùa
phép, thư phù để che chở chúng ta. Đức Phật đã tuyên bố
minh bạch là các vật bên ngoài không đủ sức để che chở
những ai tâm trí yếu đuối và bối rối. Nguồn an ninh duy
nhất của chúng ta là tìm nương tựa vào kiến thức về chân
lý của chúng ta và vào việc thực hiện bản chất thực tiễn
của cái ta và các hiện tượng khác. Một khi chúng ta hiểu
được không có gì là của ta thì không có gì có thể hại
ta, chúng ta trở nên vững vàng và tự tin. Không có gì có
thể hại người, nếu người đó không sợ hãi, không vị
kỷ hoặc không lừa dối.
Tuy
nhiên điều trên đây không có nghĩa là Phật Giáo kết tội
việc sử dụng một số vật liệu có tính cách tôn giáo như
dây chuyền có hình ảnh Đức Phật cho chúng ta cảm nghĩ an
toàn. Nhiều bậc vĩ nhân tìm thấy niềm an ủi và khuây khỏa
khi ngắm vẻ thanh thoát và bình thản hình ảnh Đức Phật.
Thủ Tướng Ấn Độ, ông Nehru cho biết khi ông bị cầm tù
bởi người Anh, nguồn an ủi duy nhất của ông là bức ảnh
nhỏ bé của Đức Phật mà ông mang theo. Đương nhiên, hình
ảnh này tự nó không có phép thần thông nhưng nó tượng
trưng phẩm hạnh vĩ đại của Đức Phật, chính Ngài luôn
luôn bình tĩnh và không sao suyến bởi những cuộc tấn công
của kẻ địch. Biểu tượng này đã nhắc nhở ông Nehru dùng
lòng dũng cảm của chính ông bình tĩnh đối đầu trước
nghịch cảnh. Cũng vậy, chúng ta có theo mang ảnh của Đức
Phật hay những lời ghi trong kinh khiến cho chúng ta lòng tin
tưởng. Nhiều kinh ghi phần kết thúc với lời cầu nguyện:
“Bởi sức mạnh của chân lý này, phần thắng sẽ về tôi”
hay “Hạnh Phúc đến với tôi“. Điều này cho thấy là
Phật tử chúng ta không tin tưởng vào sức mạnh của hình
ảnh duy linh hay bùa chú, nhưng (dây chuyền có tượng Phật
và những đọan kinh) chỉ là để giúp cho chúng ta đạt tin
tưởng chính nơi chúng ta.
Cũng
giống như vậy, một số Phật tử tới chùa để xin nước
thải và vài đọan dây được để trên kinh được tập trung
chí thành tụng niệm. Việc trên về tâm lý đem cho người
sử dụng sức mạnh và lòng tin tuởng vì nhắc nhở cho họ
chân lý trình bày trong kinh, những lời Phật dạy.
ỐM
ĐAU
Mới
đây có nhiều chỉ trích nhắm vào càc vị lãnh đạo Phật
Giáo cho rằng những người đau yếu không được quan tâm
đến. Những lời chỉ trích nhấn mạnh là những tín đồ
tôn giáo khác đi từ bệnh viện này đến bệnh viện khác
để ủy lạo các bệnh nhân. Việc lo lắng về những người
đau ốm là một điều thực ra rất đáng được ca ngợi.
Trong những nước Phật Giáo, những người thành tâm mời
các nhà sư đến viếng thăm các người đau yếu, các nhà
sư thực ra có thiện chí hơn thế nữa, sæn sàng giúp đỡ
về phương diện này. Thật ra các nhà sư thường thông suốt
về việc dùng các thuốc truyền thống, thường được tham
khảo cố vấn và các nhà sư bao giờ cũng tình nguyện giúp
đỡ trong các việc này.
Vì
một số Phật tử không am tường đạo của mình để phản
công lại chiến thuật của những người đ?o khác, sự hờ
hững của một số Phật tử này khiến một số tín đồ
của đạo khác lợi dụng tình trạng và quy nạp những người
đạo Phật. Những người khác đạo còn đi xa hơn nữa là
hứa khả cứu rỗi và đem địa ngục ra dọa nạt các nạn
nhân theo đường lối như vậy để quy nạp họ! Các nhà sư
Phật Giáo không dính líu gì đến việc này cả. Tuy nhiên
các nhà sư lúc nào cũng đầy thiện chí, khi được các thân
quyến bạn bè người đau yếu cung thỉnh, đến bệnh viện
hay tư gia để thăm viếng ủy lạo các bệnh nhân.
Ốm
đau là một phần và một mảnh đời sống thường nhật của
chúng ta trên thế gian này, và chúng ta phải chấp nhận trên
con đường tiến bộ. Dù sao, trong trường hợp một người
bị đau, ngoài việc tìm cách chữa trị theo đường lối tiên
tiến hiện đại, việc nên làm là mời các nhà sư đến để
làm lễ cầu an cho mau hết bệnh. Việc cầu an này khi được
tiếp nhận với một đầu óc thích nghi sẽ mang ảnh hưởng
tinh thần và tâm lý đáng kể cho bệnh nhân và việc hồi
phục được mau chóng. Đặc biệt, khi bệnh não có liên quan
đến thái độ tâm trí người bệnh, lễ cầu an do một vị
sư giúp ích rất nhiều. Chẳng hạn khi tin tưởng nguyên nhân
của bệnh là do ảnh hưởng xấu bên ngoài hay do ma quỷ, lễ
cầu an tạo một thái độ tâm lý rất tốt đem đến các
làn sóng (tâm linh) cho cơ thể giúp cho mau khỏi bệnh. Tuy nhiên,
là người Phật tử, chúng ta không nên tự chúng ta đầu hàng
niềm tin sai lầm ma quỷ là nguyên nhân chính của bệnh hoạn.
Lời
khuyên của Đức Phật: – ”
Bất cứ bao giờ thân bạn bệnh
nhưng đừng dể tâm trí bạn bệnh“. Lời khuyên này quả
thật rất đúng. Theo lời khuyên này, chúng ta phải được
hướng dẫn bằng trí thông minh và cảm nghĩ thông thường
để tìm phương thuốc thích hợp cho bệnh tật của chúng
ta hơn là tự đầu hàng những dị đoan vô căn cứ.
CHẾT
Con
người là phải chết và cái chết là điều phải đến. Tuy
nhiên, rất ít người có thể chấp nhận sự chia lìa hay sợ
hãi xẩy ra sau cái chết.
Quá
nhiều ngu si giữa hàng Phật tử đối với cái chết và một
số đã đổi đạo để được một cuộc mai táng “thích đáng”
để chắc chắn được mau về thiên đường. Gia đình chia
rẽ vì những đứa con theo đạo khác đã đổi đạo của
cha mẹ khi cha mẹ sắp chết trên giường bệnh. Một số con
cái của Phật tử không uy quyền vì không được học hỏi
để biết người Phật tử chân chính phải làm gì. Cho
nên rất quan trọng cho các bậc cha mẹ phải di chúc rõ ràng
ước nguyện của mình để dạy con cái phải làm gì lúc lâm
chung. Nhiều người ngu si đã kiêng cữ không dự tang lễ
trong một thời gian nào đó nghĩ rằng nếu không làm như vậy
thì sẽ bị rủi ro.
Trẻ
em phải được biết ngay từ khi còn nhỏ chết là điều tự
nhiên trong đời sống. Các em phải được dạy không được
sợ hãi khi nhìn thấy quan tài hay các tử thi. Các em phải
biết có ý thức trong tang lễ. Những điều trên đây nếu
như không được dạy bảo cho em khi các em lớn lên các em
sẽ bị lạc lõng và sẽ bị các người tôn giáo khác vô
lương tâm lung lạc điều khiển em để em đổi đạo hay tiêu
một số tiền lớn vào các việc mê tín dị đoan vô nghĩa.
Trước
tiên chúng ta phải hiểu quan điểm của người Phật tử đối
với cái chết. Nói theo khoa học “Đời Sống” là một loạt
lên xuống không ngừng. Tế bào trong cơ thể ta chết liên
miên và thay thế bởi các tế bào mới. Cũng như vậy, sanh
và chết phát hiện bất cứ lúc nào. Hiện tượng chết chỉ
là một cuộc kết thúc gây xúc động của cuộc tiến hành
liên tiếp ấy. Nhưng kết thúc không thường còn. Thật ra
cái “Trội” lên liền sau khi chết tái sanh phát xuất. Cho nên
trong Phật Giáo cái chết không được gọi là an giấc ngàn
thu trong tâm tư của một đấng thần linh sáng tạo nào đó
mà là cuộc tiếp diễn không ngừng trong một dạng thức khác.
Do vậy không cần thiết phải sợ hãi cái chết. Trong quan
diểm này, Đức Phật không mô tả nghi thức đặc biệt nào
về việc sắp đặt tử thi. Tử thi của người chết phải
được đem đi trang nghiêm vá phải được đối xử thích
đáng với niềm kính trọng để tưởng nhớ người chết
đã có công trong lúc còn sống. Hành động quá khứ của người
chết (Nghiệp) sẽ quyết định đời sống tương lai sẽ ra
sao.
Chúng
ta đội ơn những gì người chết đã phục vụ cho chúng trong
lúc tại thế. Phiền muộn nổi lên trong tâm trí chúng ta vì
lẽ người thân mà chúng ta thương yêu ra đi giữa chúng ta.
Khi chúng ta tập họp chung quanh xác thân người thương yêu
của chúng ta, là bạn bè hay thân quyến chúng ta tìm nguồn
an ủi nơi những người cũng đến chia sẻ nỗi buồn đau
và ủng hộ tinh thần chúng ta trong giờ phút đau buồn. Những
việc thực hành văn hóa khác nhau (trong tang lễ) rất hữu
ích để giảm thiểu niềm đau thương của chúng ta.
TRƯỚC
TANG LỄ
Ngày
nay chết trong truờng hợp đặc biệt phải cần đến sự
điều tra thì việc thực hành thông thường tại các bệnh
viện giảo nghiệm tử thi để kiểm soát nguyên nhân. Đôi
khi thân quyến phản đối việc này và cho rằng cắt mổ tử
thi là phạm thánh. Với người Phật tử không có lý do tôn
giáo nào mà phải phản đối việc này. Đúng ra, việc làm
trước tang lễ này giúp cho người sống, cho các nhân viên
chuyên môn y khoa có được nhiều hiểu biết hơn để chữa
trị các bệnh tật. Việc làm này phải được coi như một
công đức về phần người Phật tử. Như đã nói trước
đây, xác thân vật lý chẳng là gì cả mà chỉ là hỗn hợp
của các chất (đất, nước, gió, lửa) sẽ phân hủy khi chết.
Cho nên không có lý do nào mà phải tin rằng linh hồn của
người chết sẽ tức giận khi xác thân được sử dụng vào
mục tiêu khoa học. Chúng ta có thể an tâm chắc chắn là các
bác sĩ và các người chuyên môn đều có tinh thần trách nhiệm,
đạo đức nghề nghiệp, rất thận trọng trong việc giảo
nghiệm tử thi nên các thân nhân không cần lo lắng về vấn
đề này. Có nhiều người tình nguyện khi chết cho bệnh viện
và các sinh viên y khoa tử thi để nghiên cứu việc giải phẫu.
Trong
việc liên quan trên đây, phải được coi là một công đức
cao cả của người Phật Tử khi cho những bộ phận cơ thể
mình sau khi chết để có thể giúp ích cho người khác. Chính
Đức Phật nhiều lần trong tiền kiếp Ngài đã cho xác thân
của Ngài để người khác được lợi lạc. Ngài đã cho mắt,
máu, thịt và một lần Ngài đã cho cả xác thân để cứu
nguời khác. Phật Giáo rất minh bạch về vấn đề này – việc
tặng các bộ phận của cơ thể đem lợi ích cho người khác
là một công đức vĩ đại, được nhiệt liệt khuyến khích.
TANG
LỄ
Trong
hầu hết các xã hội văn minh có văn hóa, tang lễ được
coi là dịp buồn phiền, trang nghiêm. Tang lễ của người Phật
tử phải được cử hành trang nghiêm theo tinh thần ấy.
Dị
đoan lan tràn giữa một số người cho là “rủi ro” khi mang
về nhà tử thi chết ở một nơi nào đó. Chúng ta chắc chắn
phải tỏ lòng kính trọng tưởng nhớ đến người chết và
phải quý trọng tử thi, và tang lễ phải được cử hành
tươm tất. Tử thi mang về nhà hay không mang về nhà tùy theo
gia đình tang quyến. Trong việc này, chúng ta cũng phải nêu
lên là không sợ hãi hay kiêng cữ gì về việc điều động
tử thi. Một số người sợ hãi chạm vào tử thi e ngại bị
“rủi ro”. Nếu quả là như thế thì các bác sĩ và các y tá
điều dưỡng phải là những người đau khổ nhất trên trái
đất! Nếu thực tình chúng ta muốn tôn kính tưởng nhớ người
ra đi chúng ta phải tắm rửa và mặc quần áo cho người chết
và không để một người lạ hay nhà hòm làm việc này cho
chúng ta. Phải nhớ rằng, dị đoan, ngu si, và sợ hãi vô
lý mang nhiều “rủi ro” đến hơn là biết ơn, thương yêu và
khiếu thẩm mỹ.
Trái
với niềm tin thông thường đại chúng, tang lễ ồn ào, trau
chuốt, và đôi khi phô trương, hay những tang lễ tưng bừng
tốn kém cả ngàn đồng về những thứ không cần thiết mà
xưa này đưọc coi như việc làm bình thường của người
Phật tử mà thực ra việc thi triễn này không phải
là Phật giáo chút nào cả. Đó là một quan niệm hoàn toàn
sai lầm đem thực thi các việc trên đây vào Phật Giáo. Việc
thực hành này chỉ là sự tiếp diễn không ngừng của tập
quán cổ xưa truyền thừa từ thế hệ trong quá khứ được
sát nhập một cách mù quáng. Khi nhìn một đám tang với các
nghi lễ trên các người đạo khác thường tưởng rằng cái
mà họ đang đưọc mục kích là một cuộc vui diễu hành nào
đó hơn là một tang lễ trang nghiêm.
Thường
thường một loại nhạc rộn ràng đưọc áp dụng thay loại
trang nghiêm trong lúc tiễn đưa linh cữu. Cho nên người ta
có cảm tuởng đây là một cuộc lễ có tính cách trình diễn
phô trương giàu có hơn là để bầy tỏ sự buồn đau chân
thật kính trọng người quá cố. Phật Giáo không phản đối
việc việc duy trì các việc thực thi văn hóa nếu những việc
thực hành này không mâu thuẫn với giáo lý của Đức Phật
nhưng khi thấy các điều đó thực hành phí phạm, hoang phí
và không cần thiết không đem lợi ích gì cho cả người sống
lẫn người chết thì không tán đồng và nên loại bỏ. Chẳng
hạn tập tục về việc đốt vàng mã, giấy tiền, nhà táng,
với mục đích để cho người chết sử dụng bên kia thế
giới hoàn toàn không Phật giáo chút nào. Tuy nhiên trên phuơng
diện tâm lý có thể giảm thiểu nỗi buồn đau, đương nhân
có thể làm điều gì có thể đem lợi lạc cho người ra đi
nếu điều đó vô hại và không nên có hành động cực đoan
tin tưởng rằng điều đó dù sao cũng giúp ích người ra đi.
Phật
Giáo không phản đối các cộng đồng thi triển tang lễ khác
nhau thích hợp cho từng địa phương và thời điểm. Nhưng
điều quan trọng nhất là các tang lễ phải được khả thi
và chấp nhận là có văn hóa.
Nghi
lễ áp dụng trong một tang lễ Phật Giáo phải đơn giản,
trang nghiêm, có phẩm cách và ý nghĩa. Tại nhiều quốc gia
các nhà sư Phật Giáo được mời đến nhà tang quyến để
thực thi một số nghi thức trước khi tang lễ. Cúng hoa và
đốt một vài ngọn nến hay vài nén nhang được chấp thuận
trong trường này.
Thep
tục lệ, để tỏ lòng tôn kính người ra đi, bạn bè và
thân quyến gửi những vòng hoa chia buồn tang quyến. Những
vòng hoa này không nên gửi đến vào trước ngày tang lễ được
cử hành vì hoa gửi sớm sẽ bị héo. Khi tang quyến thông
báo “không nhận hoa” thì điều này phải đuợc triệt dể
tuân theo.
Vì
lẽ thân quyến thưòng có những ý kiến khác nhau cho nên có
nhiều tranh luận trong việc thực hành tang lễ. Những câu
hỏi sau đây thường được nêu lên:
1.
Nên chôn hay hỏa táng?2.
Nếu hỏa táng, phần tro cốt còn lại phải làm gì?3.
Nên dùng loại quan tài nào?4.
Phải mặc đồ đen hay đồ trắng?5.
Nến phải dùng màu gì, đỏ hay trắng?6.
Xác có thể để ở nhà bao nhiêu ngày trước khi chôn hay hỏa
táng?7.
Chi phí tối đa cho một tang lễ là bao nhiêu?
Những
câu hỏi trên đây được trả lời một cách đơn giản nhu
sau:
Tang
lễ phải cử hành đơn giản, ồn ào giảm thiểu đến mức
tối đa, nhưng phải có phẩm cách. Có lẽ điều hợp lý nhất
là thân quyến gần nhất với người qúa cố và một số
bè bạn thân cận nên cùng nhau thảo luận trong một cuộc
họp bất thường để tìm ra phương cách tốt nhất trong việc
sắp xếp cử hành tang lễ cho thích hợp, thịnh hành, trịnh
trọng và không gây các món chi tiêu không cần thiết. Nếu
như không thể cùng nhau hội họp như trên thì điều tốt
hơn là nên để cho một nhà thầu nhận việc chung sự được
tín nhiệm đảm nhiệm cho vì những người này họ biết phải
làm những gì và như vậy thân quyến đỡ gặp khó khăn trở
ngại. Điều khuyên tốt là có thể tìm đến một nhà sư
khả kính và nhờ vị này hướng dẫn gia đình cách thúc tốt
nhất để sắp xếp việc tang lễ đứng theo đuờng lối của
Phật Giáo. Nên nhớ là cho đến nay, nghi lễ trong Phật giáo
không có luật lệ gì khó khăn và cấp tốc mà phải triệt
để thi hành. Trong tất cả mọi vấn đề chúng ta luôn luôn
theo lời dạy của Đức Phật để duy trì điều độ và tôn
kính trong bất cứ điều gì chúng ta làm không gây thiệt hại
cho nguời khác. Nếu chúng ta suy gẫm biết ơn đến điều
thiện do nguời quá cố đã làm trong lúc còn tại thế, và
không quên chính chúng ta một ngày nào đó phải ra đi nên
chúng ta phải cố gắng làm điều tốt trong lúc còn sống
thì việc đóng góp của chúng ta sẽ có nghĩa lý và được
quý trọng
Cách
ăn mặc đúng cách trong tang lễ như thế nào? Trong Phật
Giáo, chúng ta bao giờ cũng được khuyến bảo phải ăn mặc
tề chỉnh và vừa phải. Không có luật lệ cứng rắn hay
chặt chẽ nào bắt chúng ta phải ăn mặc như thế nào trong
tang lễ, tuy nhiên phương diện thẩm mỹ dạy chúng ta nên
ăn mặc mầu tối và tránh các trang sức trong ý niệm tôn
kính cảm nghĩ của tang gia và tưởng nhớ đến người quá
cố. Phụ nữ trong tang chế vẫn có thể đeo nhẫn cưới hay
nhẫn hứa hôn. Tốt nhất là mặc đồ đen, trắng, sám hay
các mầu tương tự, vấn đề hoàn toàn do cá nhân quyết định
trong ý niệm sở hữu dù đồ đen thường được công
nhận tượng trưng trong lúc tang chế.
Xác
chết nên giữ bao lâu trước khi chôn hay hỏa thiêu? Với
người sống trong khí hậu nóng và ẩm thấp, chúng ta hiểu
rằng phân hủy mục rữa rất nhanh nên việc giữ xác lâu
mất vệ sinh. Ngoài ra, việc giữ lâu khiến cho tinh thần thân
nhân bị căng thẳng vì phải kề cận xác chết trong một
thời gian dài quá lâu thực ra không cần thiết. Cũng có một
số thân nhân vì quá đỗi đau thương đã hôn hay sờ mó xác
chết quá đáng. Đành rằng cảm nghĩ tình cảm cao độ với
người quá cố mà thân nhân phải chịu đựng, nhưng tình
cảm này không nên quá mức và không nên khuyến khích. Khi
không được chỉ bảo ta phải giữ xác bao lâu cho đúng, ta
cũng nên khôn ngoan không nên kéo dài các lễ nghi. Theo luật
lệ thông thường, thời gian việc giữ xác chết chỉ vào
khoảng một hay hai ngày đủ để sửa soạn việc tang lễ
cũng như để thông báo cho bạn bè thân quyến.
Vào
ngày chôn cất, các nhà sư Phật Giáo được mời đến để
triển khai các nghi thức tôn giáo cần thiết tại nhà và tại
nghĩa địa. Có một số người đem heo hay gà quay tượng trưng
những phẩm vật cúng cho người quá cố. Việc làm này không
nên tán thành trong Phật Giáo vì đưa đến sự giết hại
các loài vật vô tội. Đem hy sinh các con vật để dâng cúng
cho người ra đi phản lại giáo lý từ bi của Đức Phật
nên phải được loại bỏ. Đơn giản với một vài tràng
hoa cùng với vài nén nhang và đèn nến đủ để tượng trung
cho các phẩm vật dâng cúng.
CHÔN
VÀ HỎA TÁNG
Nhiều
Phật Tử hỏi là nên đem chôn hay hỏa táng người chết.
Phật Giáo là một tôn giáo tự do nên linh động trong vấn
đề này. Không có luật lệ cứng rắn hay bắt buộc trong
vấn đề này. Tuy nhiên tại một vài xứ Phật Giáo, việc
hỏa thiêu thuờng được thi hành. Việc lựa chọn cách này
hay cách khác tùy thuộc nguyện vọng cuối cùng của người
quá cố hoặc ý muốn của người thân nhân.
Theo
quan niệm hiện đại, hỏa táng là một hình thức rất vệ
sinh, nên cần được khuyến khích. Vì y tế được cải tiến,
vì nạn nhân mãn, đất đai ngày càng hiếm có, cho nên việc
hỏa táng thích hợp hơn. Nên để đất cho người sống hơn
là xây đầy những mộ chí.
Dù
chôn cất hay hỏa táng, một số người nặng tình cảm, ưa
bỏ những vật dụng quí giá vào quan tài ngưòi chết với
hy vọng rằng người chết sẽ dùng đến. Việc chôn hay hỏa
thiêu những vật quý giá như vậy không có nghĩa lý gì hết.
Thay vì bỏ những vật dụng đó vào quan tài hay lò thiêu,
tốt hơn là đem quần áo, giầy dép, và những thứ khác cho
những người nghèo khổ, khốn cùng, hoạc tặng các hội tù
thiện. Bất cứ sự giúp đỡ nào cho người nghèo và người
túng quẫn là một hành động đáng khen vì có lợi cho cho
cả người sống lẫn người chết. Việc sợ hãi không dám
cho kẻ khác dùng đồ vật của người chất thật vô nghĩa
và sai lầm.
LƯU
GIỮ TRO CỐT
Câu
hỏi thường được đặt ra là có nên chôn tro cốt, gìn giữ
để thờ cúng hay hay đem rắc xuống biển. Đức Phật không
để lại một chỉ thị rõ ràng về vấn đề này. vì Ngài
muốn chúng ta hiểu xác thân chỉ là sự hỗn hợp của vật
chất và sau khi chết, những thứ này lại trỏ thành những
nguyên tố. Đức Phật dạy xác thân là do các nguyên tố Đất,
Nước, Gió Lửa lập thành. Sau khi chết, hai chất còn lại
là Đất và Nước trở thành tro sau khi thiêu, không còn một
ý nghĩa về tâm linh gì cả. Vì di thể của nguời chết là
những người ta thuơng yêu, nên chúng ta phải kính trọng.
Nhưng chúng ta phải hiểu là không nên quá xoắn-xít quanh những
di thể này, hoặc nghĩ rằng dầu sao chúng ta chẳng còn liên
hệ gì với người đã chết. Kinh Phật dạy rằng sau khi ta
chết, linh hồn hay (thần thức) thoát khỏi thân xác, và gá
vào một thân xác khác ở một nơi nào đó.
Việc
lưu giữ xác chết có từ hồi xa xưa của chúng ta. Vào thời
đó, người ta tin rằng linh hồn bất tử. Trường hợp những
nguời Ai Cập ướp xác vì họ hy vọng người chết vẫn còn
có thể liên lạc được với người sống. Những lăng mộ
vĩ đại và những lâu đài đuợc xây dựng để gìn giữ
xác chết. Nhưng những việc thực hành này chỉ dành cho các
nhân vật quan trọng như vua chúa và các vị lãnh đạo tôn
giáo. Phần còn lại, xác chết của dân chúng chỉ được
chôn cất sao cho thuận tiện,
Trái
lại một tập tục khác gọi là thờ cúng Tổ-Tiên. Theo đó,
người sống liên lạc với người chết qua nhũng tập tục
lễ nghi chung quanh bàn thờ người chết. Điều này đưa đến
việc lưu giữ tro cốt trong bình hoặc đồ thờ. Việc làm
này vẫn còn được thi hành cho đến ngày nay.
Một
số người thích thờ cúng tro cốt trong nhà, một số người
khác lại đem chôn, hoặc đem tro cốt rắc xuống bIển hay
xuống sông. Đây là tập tục căn bản của Ấn Độ Giáo
vì họ tin rằng tro cốt cuối cùng sẽ hợp nhất với lực
đã khai sáng ra nó.
Áp
dụng một trong nhũng phương pháp trên không có gì hại cả.
Nhưng chúng ta đừng quên là Phật tử, chúng ta phải áp dụng
phương pháp nào. Chúng ta cũng đừng hiểu lầm rằng để
tro cốt ở những nơi thiêng liêng như chùa chiền, người
quá vãng sẽ được “an toàn” vì không bị nghiệp lực lôi
kéo. Việc để tro cốt trong chùa chẳng có gì hơn ngoài việc
biểu lộ sự kính trọng với người đã khuất. Trong Phật
đạo. việc giữ tro cốt người quá cố hoàn toàn do tang quyến
định đoạt tùy theo sỡ thích và lễ nghi.
THỜI
GIAN ĐỂ TANG
Khi
một người chết, thân nhân thường dành một thời gian để
tang. Thời gian này tùy theo sự liên hệ của người quá cố
với những thân quyến trong gia đình có tang . Trong thời gian
này, thân nhân phục sức theo một lối nào đó, tránh các
hội hè, đình đám và du hý. Một số người mặc đồ trắng,
một số khác mặc đồ đen, một số không tham dự các lễ
cưới hay những tiệc tùng thời gian một năm vân vân.. Việc
trên không phải là đặc lệ của người Phật Tử phải áp
dụng vì kinh Phật không hề nói đến. Tuy nhiên các cộng
đồng đã đặt ra một số nghi thức riêng biệt căn cứ theo
tập tục văn hóa của mình, và được chấp nhận là của
“Phật Tử”. Hậu ý của họ là để tưởng niệm người quá
vãng, nhắc nhở việc tử vong của chính mình, và phát triển
nguồn tỉnh giác tâm linh. Nếu áp dụng một cách sáng suốt,
và nếu các việc thực thi không làm trở ngại gì đến cuộc
sống, là Phật Tử, chúng ta không có lý do gì để phản đối.
Con Đường của Người Phật Tử Là Con Đường Trung Đạo,
Con Đường Điều Độ Trong Tất Cả Mọi Việc.
NGHI
THỨC SAU TANG LỄ VÀ CÁC BUỔI LỄ TƯỞNG NIỆM.
Rồi
có những câu hỏi về nghi thức sau tang lễ. Một số người
cầu nguyện cho người chết vào ngày thứ bẩy, ngày thứ
49, vào ngày thứ 100, trong khi một số người khác, ngoài việc
làm lễ cầu nguyện vào ngày thứ bẩy, còn làm lễ sau ba
tháng và một năm. Một số người tin tưởng là thần thức
người chết có thể trở về vào những thời gian đặc biệt
đó. Tin hay không tin, việc đó không quan trọng với chúng
ta. Một buổi lễ để tuởng niệm người quá cố, đưọc
bạn bè và tang quyến tham dự cùng nhau chia sẻ về tâm linh,
hỗ trợ tinh thần và làm vơi nỗi đau buồn của thân nhân
rất là cao quí. Các buổi lễ như vậy không cần thiết phải
được tổ chức vào một ngày đặc biệt nào đó. Bất cứ
ngày nào thuận tiện cho tất cả mọi người là đủ để
chấp nhận được cho việc tổ chức buổi lễ này.
NGÀY
CÔ-HỒN không phải là danh từ hay việc tập tục của Phật
Giáo. Tuy nhiên đó là một việc làm tốt khi cả cộng đồng
dành một ngày riêng biệt để tuởng niệm những người quá
cố, cùng nhau làm sạch sẽ các nghĩa địa và dâng hoa để
tể tỏ lòng tôn kính. Việc này cho thấy con cháu người quá
cố tỏ lòng hiếu thảo và làm tròn nhiệm vụ đối với
Tổ tiên. Phật Giáo không hề phản đối việc bày tỏ lòng
biết ơn và tưởng nhớ cao đẹp này khi những hành động
đó giúp các giới trẻ tỏ bày lòng tôn kính những người
già cả, và tích cực thực thi truyền thống vinh danh hương
hồn Tổ tiên. Tuy nhiên, việc một số người gây ấn tượng
sợ hãi là nếu không thi hành những tập tục nói trên, người
chết sẽ hiện về hành hạ và nhiễu loạn thân quyến là
hoàn toàn vô căn cứ.
BỐ
THÍ CÚNG DƯỜNG
Trong
hầu hết các cộng đồng, các buổi lễ tôn giáo thường
đuọc thi hành trong một thời gian theo sau tang lễ. Việc làm
này của người Phật Tử là góp phần trong phần cúng dường
và hồi huớng công đức cho người quá cố. Thân nhân tang
quyến và một số bạn bè thường mời các nhà sư và dâng
cúng vật dụng cần thiết như thực phẩm và thuốc men. Việc
dâng cúng này góp phần vào đời sống vật chất của các
vị thánh thiện được coi như là một hành động công đức.
Những người Phật Tử hiểu biết còn tặng phẩm vật cho
các tổ chức từ thiện, các người túng bấn, và các kế
hoạch xây dựng cơ sở tôn giáo cũng như tặng không kinh sách
tôn giáo cho dân chúng để tưởng nhớ mãi mãi đến người
đã khuất. Những người thành tâm dâng cúng với một tấm
lòng khẩn thiết, tâm địa họ trở nên phóng khoáng. Họ
có những hành động tốt như vậy là để tưởng nhớ và
tạo sợi dây liên lạc tâm linh với người quá cố. Nếu
người quá vãng ở trong một vị thế thuận lợi để tiếp
nhận các nguồn sóng tâm linh (hồi hướng công đức),
họ sẽ nhiều điều lợi lạc. Mặt khác nếu họ không ở
trong một môi trường thuận lọi, những việc thiện đó cũng
không phí phạm vì nó giúp cho người sống, một khi đã có
tư tưởng tốt, sẽ có một tâm hồn cao đẹp. Các nhà sư
Phật Giáo tại bất cứ chùa nào lúc nào cũng sæn sàng khuyến
cáo tang quyến phải làm những điều cần thiết trong việc
cúng duờng .
KẾT
LUẬN
Chúng
tôi tha thiết hy vọng các bậc lãnh đạo Phật Tử địa phương
nhận thức được một số tập tục nói trên đang thịnh
hành có tính cách tiêu cực và thành kiến, ngõ hầu cải tạo
để cho bất cứ những tập tục nào mà chúng ta thi hành phải
có đầy dủ ý nghĩa. Các bậc lãnh đạo của chúng ta nên
đánh giá lại những tập tục hiện hành và nhận thức những
điều khẩn thiết để cải tổ việc giáo dục quần chúng
và việc phổ biến rộng rãi mục tiêu này.
– HẾT –
Discussion about this post