BHĀVANĀ
TU TẬP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
TKN Pháp Hỷ – Ayya Dhammananda
Bhāvanā là thiện pháp thứ ba trên con đường Phật đạo, sau Dānā – bố thí, làm phước; và Sīla – giới hạnh hay đời sống có đạo đức. Trong những bài trước chúng ta đã nói về hai thiện pháp đầu, nên trong bài này chúng ta chỉ tập trung vào những gì mà đức Phật đã dạy về con đường phát triển tâm linh. Có thể dịch Bhāvanā là tu tập tâm, vì bước thứ hai – giữ giới là tu thân và tu khẩu để đừng phạm vào các điều ác hay nghiệp bất thiện qua các cửa đó. Nay tu tâm là đi sâu hơn vào cốt lõi của đạo Phật. Sư cũng đã có bài nói về tâm là gì: Chữ Tâm Trong Đạo Phật (citta, cetasika, mano và viňňāṇa) rồi. Bài này sẽ đi sâu vào các phương thức phát triển tâm mà đức Phật đã dạy theo kinh điển Pāli.
Tu tập tâm (citta- Bhāvanā) và Phát triển tâm từ Metta – Bhāvanā là hai thuật ngữ hay được dùng nhất khi nói đến pháp hành (patipatti). Để có thể tu tập tâm, trước hết phải biết nhận dạng tâm. Thấy và biết là điều rất cần thiết để có thể tiến bộ trong tu tập. Trong một pháp thoại có tên là tất cả lậu Hoặc (sabbāsava sutta – MN.2) đức Thế Tôn đã nhấn mạnh:
“—Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý (Yoniso ca manasikāraṃ ayoniso ca manasikāraṃ). Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập (Bhāvanā)* được đoạn trừ.” (Sabbāsava Sutta MN 2)
Lậu hoặc (āsava) là các phẩm chất bất thiện rò rỉ từ cái tâm thô lậu, chưa được tu tập, chưa được phát triển đúng cách. Khi tâm còn thô thiển, nó không phải là một công cụ tốt, thậm chí nó có thể là kẻ thù tàn độc nhất làm hại mình, hại người, và hại cả hai (Ref. Pháp Cú 42- 43). Những thứ thô tạp chiếm giữ tâm, tạo ra các màu sắc khác nhau và ngăn ngại, làm cho khổ sở thì được gọi là Phiền Não (Kilesa). Khi các phẩm chất bất thiện như vậy tràn đầy tâm thức, làm cho tâm sôi sục, rò rỉ ra những phẩm chất bất thiện thì gọi là Lậu hoặc; bao gồm: dục lậu (kāmāsava, hữu lậu (bhav’āsava) và vô minh lậu (avijj’āsava).
Tâm (citta) được phát triển nhờ hai phương pháp – thiền định và thiền tuệ (Samatha & Vipassanā)[1]. Trong triết học Phật giáo, tâm là một trong sáu căn môn (mano dvara), là ý căn (man’indriya), nơi các thông tin đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi & thân thức được tâm xử lý và lưu giữ. Tâm thức (viññāṇa) không chỉ ghi nhận và xử lý thông tin, nó còn có khả năng chế tác, tạo ra những sản phẩm rất riêng biệt từ những thông tin qua các căn môn khác. Trong tiến trình tâm, bắt đầu từ Xúc (phasso), Thọ (vedanā), Tưởng (saňňā), Tư (cetanā), thì giai đoạn chế tác này bắt đầu từ Tư tâm sở, và được hướng dẫn, lèo lái bởi Tác ý (manasikāra). Tạo ra trạng thái đúng đắn/ hoàn thiện thì được gọi là Yoniso manasikāra – tác ý đúng đắn, và tạo ra cái phiền não / thiếu thiện xảo thì gọi là Ayonisomanasikāra – tác ý không đúng đắn.
Mặc dù tâm là một thực thể trừu tượng, khó nắm bắt, khó nhận dạng và khó đo lường được, nhưng lại là phần cực kỳ quan trọng tạo nên hạnh phúc hay khổ đau trong đời sống. Tu tập tâm là hiểu biết về tâm và hướng dẫn tâm phát triển đúng hướng. Đôi khi nó được miêu tả như quá trình thanh lọc (như lọc vàng), đôi khi nó lại được miêu tả như người nông dân làm vườn: chuẩn bị đất, gieo hạt giống, làm cỏ, vô nước, bón phân, vv để có được vụ gặt hái bội thu. Để làm được các công đoạn này cần phải có các phương tiện hay công cụ. Phương tiện này được gọi là Thiền, thường có hai phương pháp căn bản nhất được nhắc đến trong kinh điển Nguyên thủy.
“Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.” (A.iii, I.10)
* Bhāvanā = bhāvitā bahulikatā – phát triển tâm là làm đi làm lại hành động phát triển. Có năm điều cần nhớ khi tu tập phát triển nhân cách là:
- Cira kāla Bhāvanā – long time cultivation – Phát triển trong thời gian dài;
- Nirantara – with no gap in practice – thực hành liên tục, không gián đoạn;
- Nirovasesa – phát triển đầy đủ các pārami. Không để sót phẩm chất tốt nào;
- Sakkacca – respectfully development – tu tập một cách nghiêm trang;
- Abhirati Bhāvanā – delightful cultivation – phát triển với tâm hoan hỷ, vui thích. Tu tập cũng nên vui vẻ thoải mái, không quá gò bó khiên cưỡng.
Tu tập lâu dài, tu tập không gián đoạn, tu tập đầy đủ không thiếu sót, tu tập nghiêm trang và tu tập với tâm hoan hỷ – đó là 5 yếu tố để thành công/ thành đạo.
Adhicitte ca āyogo – Refinement of the mind – Tu Tâm, làm đẹp từ trong ra ngoài
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) những tâm sở thiện được gọi là Sobhana citta – tâm đẹp! và tâm sở bất thiện thì gọi là akusala citta, tâm không thiện xảo. Các tâm sở (cetasika) là những yếu tố góp phần ‘nhuộm màu’ trạng thái tâm theo các sắc thái của chúng. Nếu dòng chảy của tâm thức được ví như một dòng sông (viññāṇasota), thì các tâm sở chính là chất / thành phần có trong dòng nước đó; tạo nên màu của bùn đất rác rưởi, phù sa, hay là dòng nước trong xanh, tinh sạch không có nhiều tạp chất pha vào. Trong chuỗi sinh tử luân hồi bất tận, thức giới (viññāṇadhatu), đã bị tạp nhiễm rất nhiều sắc thái khác nhau từ những kinh nghiệm đã đi qua. Để trở về trạng thái uên nguyên (prakrti), dòng tâm thức cần được thanh lọc, loại bỏ các tạp chất làm nó uế nhiễm.
Tu tâm cũng được ví như quá trình lọc vàng, cần phải được từng bước đãi, rửa, loại bỏ các tạp chất từ thô đến tế. Người lọc vàng lấy quặng vàng từ chỗ có lẫn với đất, đá, sỏi, cát phải từng bước loại bỏ các tạp chất đó bằng nước. Khi có được bột vàng rồi, chúng vẫn còn lẫn với các loại quặng sắt và tạp chất nhỏ nhiệm khác, lúc này phải dùng lửa đốt, luyện để những tạp chất đó tan chảy và bỏ đi. Tiếp tục luyện, kéo, đập, tinh luyện cho đến khi chỉ còn vàng ròng chói sáng, mềm dẻo, nhu nhuyến có thể dễ dàng làm các loại trang sức khác nhau.
Cũng như vậy, một hành giả tu tập thì thấy các uế nhiễm, những hành vi (nghiệp thân – khẩu –ý) thô thiển, thiếu thiện xảo cần được thay đổi, cần phải từ bỏ. Quá trình này thường được miêu tả theo bốn bước: thứ nhất phải nhận thức ra vấn đề cần phải từ bỏ (sammadiṭṭhi – chánh kiến), hai là cam kết giữ giới (Sīla) để loại bỏ các hành vi thô thiển xấu ác quan thân và khẩu; ba là tu tập định tâm (samādhi) để loại trừ các cấu uế nơi tâm thức – trong tư tưởng; và bốn là dùng tuệ giác (paňňā) để nhổ tận gốc rễ các phiền nào ngủ ngầm không cho chúng sinh khởi nữa.
“Tỷ-kheo tu tập tâm cao thượng, còn tồn tại các phiền não thô tạp, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Tỷ-kheo có tư lường, có sáng suốt, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỷ-kheo tu tập tâm cao thượng, còn tồn tại các phiền não thuộc bậc trung, dục tầm, sân tầm, hại tầm. Tỷ-kheo có tư lường, có sáng suốt, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ kheo tu tập tâm cao thượng, còn tồn tại các phiền não tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tuởng không bị khinh rẻ. Tỳ kheo có tư lường, có sáng suốt, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt không cho chúng sanh khởi.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại các pháp tầm (tư tưởng về pháp). Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhứt tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép.
Nhưng đến một thời, này các Tỷ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đọng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhất tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy thuộc vào pháp gì tâm người ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.”
(AN. Tăng Chi Bộ kinh iii, phẩm hạt Muối, kinh số 100)
Trong trung bộ kinh, bài kinh tất cả lâu hoặc, đức Phật dạy:
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ (Bhāvanā-pahātabba-āsava)? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập niệm giác chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu tập trạch pháp giác chi … (như trên) … tu tập tinh tấn giác chi … tu tập hỷ giác chi … tu tập khinh an giác chi … tu tập định giác chi … tu tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.[i]
Tu tập ở đây có nghĩa là phát triển, vun bồi bảy yếu tố (Bodhipakkhiya-dhammā – thất giác chi) dẫn đến giác ngộ. (còn tiếp)
Viết tại Sitagu Buddha Vihara, Austin, TX
TKN Pháp Hỷ – Ayya Dhammananda
Discussion about this post