APUTTAKA-SUTTA
Sự Giàu có của một người Keo kiệt
Hoang Phong
Có
một lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều,
đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. Vua
Pasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôn
cất lời hỏi vua Pasedani như sau:
–
Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúc
trưa này ngài ở đâu?
Vua
Pasenadi đáp lại như sau:
– Bạch
Thế Tôn, tại thành Xá-vệ này có một người
thật giàu có vừa qua đời. Hắn chết mà lại không có con [thừa kế]. Sau khi đem hết
của cải của hắn xung vào ngân khố hoàng gia thì tôi đến đây: [của cải của hắn]
gồm tám triệu đồng tiền vàng, và số tiền bằng bạc thì nào có đếm xiết được. Thế
nhưng, Bạch Thế Tôn, lúc còn sống thì hằng ngày bữa ăn của người giàu có ấy chỉ
gồm có một cái bánh làm bằng đậu khô để ăn kèm với cháo. Quần áo thì vỏn vẹn chỉ
có một tấm vải dệt bằng chỉ gai đủ quấn được hơn nửa thân người. Phương tiện di
chuyển của hắn là một chiếc xe bò cũ kỹ, nóc lợp bằng rơm.
Đức Phật bèn bảo rằng:
– Đúng đấy, này đại vương, cũng có thể xảy ra như thế được. Một người keo
kiệt vơ vét được một gia tài kếch xù, không dám tiêu xài để mang lại niềm hân
hoan và thích thú cho riêng mình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân
hoan và thích thú cho cha mẹ. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và
thích thú cho gia đình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và
thích thú cho tôi tớ trong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắn
không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn hữu và những
người cộng sự. Hắn không dành riêng một phần của cải để cúng dường người tu
hành và các vị tu sĩ để mang lại công đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiện
và hướng mình [tái sinh] vào cõi thiên nhân.
“Của
cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ
bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, bị cuốn
trôi vì lũ lụt, hoặc rơi vào tay những người thừa kế chẳng biết yêu quý mình.
Này đại vương, nếu không biết sử dụng của cải một cách thích đáng để mang lại hạnh
phúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.
“Này
đại vương, đấy cũng chẳng khác gì một cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành
và trong vắt, thế nhưng lại ở vào một chốn hoang vu, không có ai đến được để uống,
hoặc tắm mát, hoặc dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước không
được sử dụng để mang lại hạnh phúc thì cũng sẽ bị thất thoát đi một cách vô ích.
Cũng
thế, này đại vương, một người keo kiệt có một gia tài kếch xù không hề biết
tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho mình. Hắn không biết tiêu
xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ […]. Như thế, này đại
vương, nếu một gia tài kếch xù không được sử dụng thích đáng để mang lại hạnh
phúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.
“Thế
nhưng, này đại vương, nếu đấy là một người có lòng rộng lượng, tích lũy được một
gia tài kếch xù, biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú
cho mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha
mẹ. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho vợ con.
Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho tôi tớ
trong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắn biết đem ra tiêu xài để
mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn bè và những người cộng sự. Hắn biết
để riêng ra một ít của cải để cúng dường người tu hành và các tu sĩ để mang lại
công đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiện và hướng mình [tái sinh] vào cõi
thiên nhân.
Này
đại vương, đấy là cách biết sử dụng gia tài kếch xù của mình một cách thích đáng,
không bị vua chúa tịch thu, không bị trộm cắp vơ vét, không bị thiêu hủy vì hỏa
hoạn, không bị cuốn trôi vì lũ lụt, không rơi vào tay những kẻ thừa kế không biết
yêu thương mình.
“Này
đại vương, đấy là cách sử dụng của cải một cách thích đáng, không để bị mất đi mà
biết đem ra tiêu xài để mang lại hạnh phúc. Này đại vương, đấy cũng giống như một
cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành và trong vắt, ở vào một nơi thuận tiện,
cạnh một ngôi làng hay một thị trấn giúp cho mọi người có thể đến uống, tắm
mát, hoặc để dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước được sử dụng
thích đáng thì chẳng những sẽ không thất thoát đi mà lại còn mang lại hạnh
phúc.
“Cũng
thế, này đại vương, một người có tấm lòng rộng lượng, thu góp được một gia tài
kếch xù và biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho
mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ.
Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho gia
đình.[…]. Này đại vương, sử dụng gia tài kếch xù một cách thích đáng không phải
là một sự phí phạm, mà đấy là cách tiêu xài để mang lại hạnh phúc.
suối mát nơi chốn hoang vu, Nào
có ai đến được để uống? Nước
tràn đi, phí phạm và vô ích. Nào
có khác gì của cải của một người keo kiệt, Không
biết tiêu xài cho mình, cũng chẳng biết hiến dâng. Người
có tấm lòng rộng lượng, Thu
góp được của cải và ý thức được bổn phận mình, Sẽ
tiêu dùng để nuôi dưỡng mẹ cha và giúp đỡ bạn bè. Thanh
cao, tấm lòng luôn rộng mở, Khi
chết hắn sẽ tìm thấy phúc hạnh nơi cõi thiên nhân. (Samyutta Nikaya,
I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)
Vài lời ghi chú
Aputtaka, tên của bản kinh có nghĩa là “Người không có con” (để thừa kế), không phải là tên của
một nhân vật nào cả. Theo Pya Tan (Samyuttaya
Nikaya, translated and annotated by Pya Tan, 2006) thì chữ này có ý ám chỉ một
người không đáng để cho chúng ta ghi nhớ, tức mang ít nhiều tính cách miệt thị.
Thật ra thì có ít nhất hai bản kinh mang tên là Aputtaka-Sutta, cả hai đều có
phần bố cục khá giống nhau, chỉ có phần nội dung nhằm mô tả người keo kiệt thì mới
có sự khác biệt (Smyuttaya Nikaya SN,
III, 19 và SN, III, 20). Bài kinh chuyển ngữ dưới đây là bài kinh
Aputtaka-Sutta -1.
Giới luật Phật Giáo cấm
người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối
với người thế tục thì Phật giáo không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng “những phương tiện sinh sống đúng”
(Bát Chánh Đạo), và luôn nhắc nhở họ: “Phải tiêu xài và giúp đỡ người khác“.
Thật thế có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như khuyên phải
tiêu xài các nguồn lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại hạnh phúc, để nuôi
nấng mẹ cha, giúp đỡ bạn bè, cấp dưỡng cho người tu hành (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một cách lương thiện, tức
không gây ra thiệt hại cho các chúng sinh khác (lường gạt, hay chăn nuôi súc vật
để giết thịt) và môi trường thiên nhiên (chặt cây, phá rừng…), và nhất là phải
chia sẻ sự giàu có với những người chung quanh, và phải luôn tự cảnh giác không
được để vướng vào các thứ cảm tính kiêu căng (Anguttara Nikaya, I,
181), v.v…
Nói chung đối với người
thế tục Phật giáo không cấm cản việc tìm kiếm những thứ thích thú “giác cảm”,
dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật Giáo ý thức được
là không thể nào giúp tất cả mọi người trong chốc lát có thể quán thấy được nguồn
gốc sâu xa của khổ đau phát sinh từ những thứ hạnh phúc ấy. Dầu sao thì những
niềm hạnh phúc tạm bợ đó ít ra cũng tránh cho họ được phần nào những thứ khổ đau
thật thô thiển, chẳng hạn như hận thù, hung dữ , ích kỷ, tham lam, keo kiệt, bủn
xỉn… Vì thế trong bài kinh trên đây Đức Phật cũng đã khuyên những người có của
cải nên đem ra tiêu xài để mang lại “niềm
hân hoan và thích thú cho chính mình,
cho cha mẹ và những người chung quanh”.
Cách nay đã hơn hai ngàn
năm trăm năm thế mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo đói và xem đấy là một sự bất
công trầm trọng của xã hội:
“Khi sự giàu có không được chia sẻ cho người nghèo, thì tình trạng
nghèo đói lại càng gia tăng. Khi tình trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắp
cũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số khí giới (để tự vệ và trừ
khử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũng
gia tăng” (Anguttara Nikaya,
III, 68).
Ngày nay dân số trên địa
cầu đã tăng lên bảy tỉ người, tình trạng nghèo đói trở nên trầm trọng hơn bao
giờ hết. Ủy Ban Nhân Quyền của cơ quan Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi năm
giây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số khí giới trên hành tinh này cũng
theo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn cả sự cần thiết, để thích nghi với sự
nghèo đói đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong số
đó biết đâu cũng có cả chúng ta.
Phật giáo luôn luôn
khuyến khích các hành động từ thiện cùng việc bố thí (dâna) và xem đấy là những
điều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sống
tương lai. Không nên “ăn một mình” và “làm ngơ” trước cái đói
của kẻ khác. Những gì mình được hưởng hôm nay là nhờ vào những gì xứng đáng mà
mình đã tạo được trong các kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bần
tiện, keo kiệt thì tránh sao khỏi sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh đói nghèo. Đấy
là những gì sơ đẳng nhất trong giáo lý nhà Phật.
Thế nhưng oái oăm thay,
nào có mấy người trong chúng ta lại tự nhận là mình giàu có đâu. Gặp nhau thì
than thở là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, thật là dại vì tiền dư bao nhiều
là dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó thì tiền mua nhà trả góp cho ngân hàng
còn hơn chục năm nữa mới hết, tệ hơn nữa là hôm qua đã dốc túi mua mấy chục tấm
vé số mà chẳng trúng được đồng nào. Tết nhất đến nơi, còn phải quà cáp biếu xén
cho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ra
vẻ với người ta chứ…, toàn là nợ nần và các chuyện phải tiêu xài. Thương thay
cho sự túng quẫn của họ.
Thật vậy có mấy ai nhìn
thấy cái “giàu có” của mình đâu? Của
cải thật ra chỉ là những con số vô nghĩa, sự giàu có đích thật là ở trong đáy
tim mình. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta trông thấy một đứa bé lang thang, rách
rưới, đen đúa và bẩn thỉu đang đứng nhìn những chiếc quần áo mới treo lủng lẳng
trong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước mắt
ấy mới đúng thật là sự giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênh
mông.
Ngoài ra còn có một sự
giàu có khác nữa mà tất cả mọi người đều ngang hàng nhau, không thể vin vào đấy
để ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đều
có hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăng
để xem phim Hàn quốc bất tận, xem cô này “yêu” cậu kia, cậu kia
“thương” cô khác, ghen tuông, khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn?
Hay là chúng ta thích sang nhà hàng xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quán
nhậu, đi uống “cà-phê vườn”, “cà-phê đèn mờ” để nghe nhạc
“trữ tình” bất tận? Đấy là một sự phung phí lớn lao nhất của kiếp con
người, tương tự như chúng ta có một cái “hồ
nước mát và tinh khiết”, thế nhưng không biết lấy nước ấy để tắm và cũng
không có ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.
Nếu biết sử dụng những
giây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu giúp mình trở nên những
con người xứng đáng hơn và cao cả hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành một
gia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách “mang ra tiêu xài của cải của mình một
cách thích đáng”. Nếu quay nhìn lại quãng đời đã trải qua thì mỗi người
trong chúng ta cũng nên tự hỏi xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báu
ấy của kiếp người.
Tuy nhiên cũng có thể có
người phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu tập vượt quá khả năng của họ.
Thật vậy những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiếu
cố gắng và kiên trì, thế nhưng những gì phát xuất từ đáy tim mình thì cũng không
đến đỗi khó khăn gì cho lắm. Chẳng hạn, nếu trông thấy cha mình ngồi trong yên
lặng, bâng khuâng nhìn ra đường, thì rót một tách nước trà để mời cha rồi ngồi
xuống với cha vài phút, nếu trông thấy những nét u uẩn hiện lên trong đôi mắt của
mẹ thì cố tìm một vài lời ngọt ngào để gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng có
thể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có thì
giờ dọn dẹp nhà cửa hoặc bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế nào có
khó khăn gì đâu, dần dần rồi ta sẽ có thể thực hiện được những việc khó khăn hơn,
ít ra thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi xem “Cô gái Đồ
Long” tung chưởng hết hiệp này sang hiệp khác, đến khi đứng lên thì uể oải,
tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.
Tóm lại hãy hiến dâng
những gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếp
người này. Chúng ta luôn luôn giàu có hơn là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũng
nên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không. Thiển nghĩ bài kinh trên đây dạy
cho chúng ta hiểu rằng những gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không ích lợi
gì mà chúng sẽ mất đi vào một lúc nào đó.
Để thay cho phần kết luận
cũng xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang tên là Aditta-Sutta, tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta có nghĩa là bốc cháy, do đó có thể
tạm dịch bài kinh này là bài Kinh về Hỏa
Hoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất dấu trong đó sẽ hóa thành
tro bụi, chỉ có những gì đã mang cho người khác thì mới còn lại mà thôi.
Thế nhưng đâu phải chỉ
có một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy. Già nua đang bốc cháy,
cái chết đang bốc cháy. Theo định nghĩa của Phật Giáo thì quá trình của sự già
nua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đó
vận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết xảy ra. Vì thế tất cả chúng sinh
trong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vô
thường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã ý thức được ngọn lửa mênh mông đó
đang thiêu đốt thân xác mình và cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việc
so kè từng xu mà chỉ biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì để
hiến dâng cho kẻ khác.
Bối cảnh của bài kinh này
thật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên lặng giữa đêm khuya nơi
ngôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata) hiện ra, ánh hào quang soi
sáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồi
sang một bên. Đấng Thế Tôn cảm ứng cho vị nữ thiên nhân hát lên bài hát của một
trận hỏa hoạn để hàng ngàn đệ tử của Ngài và các người thế tục đang mơ màng
trong khu vườn có thể lắng nghe giữa đêm thâu thanh vắng. Sau đây là phần chuyển
ngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng
Anh của Thanissaro Bhikkhu (The Access to
Insight, June, 2010):
“Tôi từng được nghe như thế
này: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện của ngài Cấp Cô Độc
(Anathapindika) trong khu vườn Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửa
đêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị nữ
thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi
ngồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:
(Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta Nikaya, I,
41)
Dịch thơ rất khó để tôn trọng
từng chữ một, do đó xin chép lại dưới đây bản dịch bằng tiếng Anh của
Thanissaro Bhikkhu nhằm giúp các độc giả nào muốn tìm hiểu thêm:
When a house
is on fire
the vessel salvaged
is the one that will be of use,
not the one left there to burn.
So when the
world is on fire
with aging and death,
one should salvage [one’s wealth] by giving:
what’s given is well salvaged.
What’s given
bears fruit as pleasure.
What isn’t given does not:
thieves take it away, or kings;
it gets burnt by fire or lost.
Then in the
end
one leaves the body
together with one’s possessions.
Knowing this, the intelligent man
enjoys possessions and gives.
Having
enjoyed and given
in line with his means,
uncensured he goes
to the heavenly state.
Bures-Sur-Yvette, 21.11.11
Hoang Phong
Discussion about this post