PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Borobudur Ngôi Đền Phật Giáo Lớn Nhất Thế Giới Hoang Phong

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

BOROBUDUR
NGÔI ĐỀN PHẬT GIÁO LỚN NHẤT THẾ GIỚI
Hoang Phong

Borobodur22Borobudur
là một kỳ quan Phật giáo tinh xảo và lớn nhất thế giới,
xây dựng vào thế kỷ thứ VIII, tọa lạc cách 42 km về phía
Bắc thành phố Yogyakarta, trung tâm của đảo Java, quốc gia
Inđônêxia, và đã được UNESCO xếp vào di sản thế giới
vào năm 1991. Borobudur được xây dựng trên một mặt bằng
hình vuông rộng 2 500 m², theo mô hình của một Mạn-đà-la,
tức sơ đồ về khái niệm vũ trụ của Phật giáo Tây tạng.
Công trình gồm có năm tầng thềm hình vuông, tiếp theo là
ba tầng thềm hình tròn và trên cùng là một bảo tháp lớn
(stupa), tất cả cao 43 m. Nhìn từ xa, ngôi đền giống như
một ngọn đồi hay một kim tự tháp với nhiều tượng Phật
và bảo tháp, công trình hoàn toàn được xây dựng và tạc
bằng một loại đá núi lửa màu xám khai thác trên đảo Java.

Chữ
« Borobopdur » có nghĩa là « Ngôi đền trên đỉnh đồi »,
ghép từ hai chữ tiếng Phạn là baram và buduhur, baram có nghĩa
là đền chùa, buduhur có nghĩa là trên cao. Nhưng thật ra tên
gốc là « Bhumisan barabadura », hai chữ này có nghĩa là « Ngọn
núi của vô lượng đạo hạnh », ý nghĩa của tên nguyên
thủy
phù hợp hơn với hình dáng như một quả núi của ngôi
đền.

Vài nét lịch
sử
 

Vào
đầu thế kỷ thứ VIII, hoàng triều Sanjaya theo Ấn giáo và
thờ thần Shiva, đóng đô ở vùng Bắc trung tâm Đảo Java.
Một hoàng thân người Kampuchia được hoàng triều này che
chở
, nhưng sau đó ông trở về Kampuchia vào năm 802 và lên
ngôi
vua, lấy vương hiệu là Jayavarman II. Có thể chính ông
đã đem theo về nước dự án đầu tiên của Borobudur, vì
người ta tìm thấy trên đất Kampuchia một ngôi đền nhỏ
xây bằng gạch hình tháp tương tợ với mô hình của Borobudur.
Vì thế các nhà khảo cổ nghĩ rằng phần nền của Borobudur
do hoàng triều Sanjaya khởi công để xây dựng một ngôi đền
Ấn giáo, nhưng bỏ dở. Ngoài ra, các công trình khảo cổ
khác cũng phát hiện gần Borobudur một số di tích thuộc hoàng
triều Sanjaya vào thời đó. Vì vậy người ta càng tin hơn
là ngôi đền lúc khởi công rất có thể là một kiến trúc
Ấn giáo.

Sau
đó vào giữa thế kỷ thứ VIII, một hoàng triều thứ hai
là Saïlandra thiết lập kinh đô trên phần đất phía Nam của
trung tâm Java, hoàng triều này theo Phật giáo và đã từng
xây cất nhiều ngôi đền nổi tiếng khác, trong số đó có
ngôi đền Candi Sewu. Dưới triều đại Saïlandra Phật giáo
bành trướng nhanh chóng trên đảo Java, vì thế việc xây dựng
một ngôi đền Phật giáo lên trên một công trình Ấn giáo
bỏ dở cũng có thể là cách chứng tỏ uy thế của hoàng
triều Saïlandra. Công trình được khởi công khoảng năm 795,
nhưng trong khi xây cất, những người thực hiện công trình
lại quyết định sửa đổi và bỏ bớt trang trí các tầng
trên trong mục đích tạo cho phần đỉnh của công trình những
nét đơn giản, thanh thoát và nhẹ nhàng hơn so với phần dưới,
phần nền thì mở rộng thêm cho có vẽ vững chắc và đồ
sộ bằng một bức tường đá chạm trổ bao quanh.

Trong
khi hoàng triều Saïlandra dồn nổ lực xây cất và hoàn thành
Borobudur thì hoàng triều Sanjaya đóng đô ở phía Bắc phục
hồi
được quyền lực và uy thế, thống nhất lãnh thổ vào
năm 832. Nhờ sự khích lệ mạnh mẽ về văn hoá của Ấn
độ
, hoàng triều Sanjaya chiếm lại Borobudur, nhưng không tàn
phá công trình này, chỉ xây lại cửa cổng và cho khắc thêm
một số tượng nổi. Sự kiện này cho thấy tinh thần rộng
rãi
của Ấn giáo thời bấy giờ.

Năm
850 có thể xem là năm hoàn thành Borobudur, tuy thế thỉnh thoảng
vẫn thấy có những công trình bảo trì và sửa đổi cho hoàn
thiện
hơn. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ XIII, từ khi những
người buôn bán Á rập theo đường hàng hải đưa Hồi
giáo
vào Inđônêxia, Borobodur trở nên hoang tàn. Chỉ trong vòng
hai trăm năm, cả quần đảo Inđônêxia gần như hoàn toàn
bị Hồi giáo hoá. Hồi giáo bành trướng nhanh chóng là do
các nhà truyền giáo Á rập rất tích cực, các vị vua địa
phương theo Hồi giáo dùng áp lực chính trị để huấn dụ
và cải đạo dân chúng. Vào thế kỷ XV, các nhà truyền giáo
Ki-tô người Bồ đào nha xâm nhập vào Inđônêxia, người
dân lại càng trở nên nhiệt tình hơn với Hồi giáo, có thể
đó cũng là những phản ứng tự nhiên trước bóng dáng của
một tín ngưỡng mới. 

Sau
người Bồ đào nha là người Anh và người Hoà lan xâm nhập
vào Inđônêxia. Vị toàn quyền người Anh trên đảo Java là
Sir Stamford Raffles khi đi kinh lý trong vùng, dân chúng nơi đây
chỉ cho ông di tích hoang tàn của Borobudur. Ông biết ngay đó
là một kỳ quan khác thường và nhờ một chuyên gia người
Hoà lan là Cornelius đo đạc và vẽ địa hình hình. Vào cuối
thế kỹ XIX sang đầu thế kỷ XX, người Hoà lan ra công khai
phá cây rừng, trùng tu Borobudur dưới sự điều khiển của
ông Theodore van Erp. Sau chiến tranh thứ hai, Inđônêxia ý thức
được tầm quan trọng của Borobudur liền mời nhiều nhà khảo
cổ trên thế giới đến xem, đồng thời yêu cầu UNESCO giúp
sức để trùng tu. Một chương trình cấp thời vào năm 1948
do Liên Hiệp Quốc đưa ra đã giúp cho Borobudur thoát khỏi
cảnh hoang tàn và quên lãng. Tiếp theo là một chương trình
trùng tu rộng lớn hơn kéo dài từ 1973 đến 1982 do UNESCO đảm
trách với sự hợp tác của 27 quốc gia trên thế giới đã
hồi phục cho Borobudur. Chương trình trùng tu tốn 17 triệu
đô-la thời bấy giờ, hai phần ba số tiền này do quốc gia
Inđônêxia đóng góp. 

Ý nghĩa của
kiến trúc Borobudur

Borobudur tổng cộng có 1460 tấm tranh điêu khắc và tạc nổi trên
mặt đá, trình bày các cảnh tượng của Tam giới, kể lại
các gương sáng của những vị Bồ-tát, cuộc đời và những
tiền thân của Đức Phật và sau hết là các câu chuyện về
Đạo Pháp mô tả trong kinh sách. Ngoài những cảnh tượng
điểu khắc, còn có 1212 trang trí khác tạc trên đá. Nếu
xếp các cảnh điêu khắc thành hàng thẳng sẽ có một chiều
dài 5 km. Kiến trúc tổng quát của ngôi đền có thể chia
làm ba phần từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh giới
của Ta-bà : các tầng thấp nhất là Dục giới, tiếp theo
là Sắc giới và những tầng trên hết là Vô sắc giới.

Viếng
Borobudur bắt đầu từ cổng phía Đông, đi theo chiều kim đồng
hồ, mỗi tầng đều có bậc thang để trèo lên tầng cao hơn,
hết tầng này đến tầng khác. Trên vách đá hiện ra các
cảnh tượng điêu khắc của Dục giới, phô bày những cảnh
tượng
của thế giới tham dục (kamadhatu), gồm đủ loại
chúng sinh như quỷ đói, súc sinh, loài người, các cảnh tượng
tham lam, những xung năng thấp kém, tham dục và hận thù, tiếp
theo
là cảnh tượng của Sắc giới gồm những bậc thánh
nhân
, và sau hết là các thiên nhân thuộc Vô sắc giới. Những
tầng cao hơn hết kể lại sư tích tiền thân của Đức Phật
trong nhiều kiếp trước, sau đó là ngày đản sanh ở Ca-tỳ-la-vệ,
ngày Đức Phật từ bỏ cung điện đi tìm đạo, ngày đạt
được
Giác ngộ ở Chính giác sơn, ngày chuyển Pháp luân
lần đầu ở vườn Lộc uyển…

Bên
trên năm tầng hình vuông là ba tầng hình tròn với các bảo
tháp
đục rỗng, trong mỗi bảo tháp là một tượng Phật
trong tư thế thiền định. Tầng thứ nhất có 32 bảo tháp,
tầng thứ hai có 24 và tầng thứ ba có 16 bảo tháp. Trung tâm
của tầng thứ ba là một bảo tháp lớn nhất với đường
kính 15m, và cũng là đỉnh cao nhất của kỳ quan Borobodur.
Bảo tháp này hoàn toàn trống không, không tượng Phật cũng
không có một trang trí nào khác, sự trống không tượng trưng
cho tánh Không và sự Giác ngộ, vì thể phần đỉnh của công
trình
củng có thể xem như một sự biểu hiện của cõi Niết
bàn
. Điều đáng chú ý là trang trí của các tầng hình vuông
hết sức phong phú và tinh xảo với hàng ngàn cảnh tượng
tạc nổi trong đá, nhưng bổng nhiên không còn thấy một điêu
khắc
nào nữa khi trèo lên các tầng hình tròn, sự đơn giản
hiện ra một cách lạ lùng. Nơi đây bàng bạc sự trong sáng
và tinh khiết của thể dạng « vô hình tướng », tượng
trưng
cho sự tĩnh lặng của tâm thức. 

Lúc
hoàn thành Borobodur có 602 pho tượng Phật, nhưng một số đã
bị mất cắp, ngày nay còn 504, một số bị lấy mất phần
đầu. Ngoài các tượng Phật đặt ở các góc, hầu hết các
tượng Phật thuộc những tầng bên dưới được đặt trong
các hóc thụt sâu trong tường, nhưng trên ba tầng cuối cùng
các tượng Phật được đặt bên trong các bảo tháp đục
rỗng như vừa kể trên đây. Vào thời kỳ xây dựng Borobudur,
học phái Ngũ Phật thuộc Kim cương thừa Tây tạng phát triển
rất mạnh mẽ, học phái này thờ năm vị Phật là : Tì-lô
Giá-na (Mahavairocana), A-súc (Akyobhya), Bảo sinh (Ratnasambhava),
A-di-đà (Amitabha), Bất không Thành tựu (Amoghasiddi). Theo như
Mạn-đồ-la của Mật giáo thuộc Kim cương thừa, vị Phật
Tì-lô Giá-na, còn gọi là Đại nhật Như lai Phật ngự ở
trung tâm, bốn vị Phật còn lại ngự ở bốn góc. Tại Borobudur, người ta thấy Phật A-di-đà được đặt vào hướng
Tây
, phía Đông là Phật A-súc, phía Nam là Phật Bảo sinh,
phía Bắc là Phật Bất không Thành tựu. Trên tầng cao nhất
của Borobodur là Phật Tì-lô Giá-na.

Một vài
cảm nghĩ thay cho lời kết


 
Borobodur
chẳng những là một kỳ quan đồ sộ mà còn là những trang
kinh sách vĩ đại tạc trên đá diễn tả khái niệm về vũ
trụ
, thế giới của chúng sinh, cuộc đời của Đức Phật,
giáo lý của Ngài và cuối cùng là sự Giác ngộ và Giải
thoát
. Giác ngộ, Giải thoát và Niết bàn là những gì hết
sức
cao siêu và trừu tượng nhưng đã được diễn tả bằng
kiến trúc một cách tuyệt vời.

Cách
nay khá lâu sau khi được UNESCO trùng tu, Borobodur vẫn còn nằm
trong quên lãng và thờ ơ của người dân Inđônêxia và cả
thế giới. Trong nhiều năm đầu tiên khi Borobudur mới được
trùng tu xong, người ta có thể thuê xe ôm, xe ba bánh tuk tuk
từ Yoyakarta để đến viếng Borobodur, và có thể ở lại
với Borobudur cả ngày trong vắng vẻ không một bóng người,
để ngắm một cách thanh thản những cảnh tượng của thế
giới
tham dục và sau cùng trèo lên cảnh giới của Niết bàn,
nhìn ra phong cảnh xanh tươi và bát ngát chung quanh. Ngày nay,
du khách tấp nập phải mua vé để vào, những tấm bảng chỉ
« lối ra » thật sự là để đánh lừa người hành hương
lọt vào khu buôn bán tượng Phật, tràng hạt, và những đồ
lưu niệm khác. 

Phật
giáo
Nam tông được truyền vào Inđônêxia vào năm 600 đúng
vào thời đại của hoàng triều Srivijaya trên đảo Sumatra,
và không lâu sau đó Phật giáo Bắc tông cũng du nhập vào
đây. Hoàng triều Srivijaya theo Phât giáo và rất hùng cường,
quản lý cả Mã lai, đảo Java và Borneo. Vì thế Phật giáo
từ Sumatra đã lan tràn sang các nơi vừa kể. Con đường biển
giúp các nhà sư truyền giáo từ Ấn độ đến Trung quốc
và những người hành hương từ Trung quốc đến Ấn độ
đi ngang bờ biển đảo Sumatra, vì thế Sumatra đã trở thành
trạm dừng chân trên con đường vạn dặm này. Hoàng triều
Srivijaya bang giao thân thiện với Trung quốc cũng là một điểm
thuận lợi khác khuyến khích Phật tử Trung quốc đến hành
hương
và tu học ở Sumatra. 

Một
vị cao tăng Trung quốc là Pháp Hiền (320? – 420?) đã từng
ghé vào Inđônêxia trên đường từ Ấn độ trở về Trung
quốc
. Ông đi đường bộ từ Trường an vòng sang vùng Cận đông để đến Ấn độ tu học trong nhiều năm, lúc ấy ông
đã sáu mươi tuổi. Vào năm 410 ông dùng đường biển để
đi Tích lan, Sumatra và Java, nơi nào ông cũng lưu lại ít lâu
trước khi trờ về Trung quốc vào năm 412. Một cao tăng Trung
quốc
khác là Nghĩa Tịnh (635-713), dùng đường biển đi Ấn
độ
để tu học, ông ghé vào đảo Sumatra vào năm 673 và hết
sức
ngạc nhiên khi gặp trên đảo hàng ngàn nhà sư đồng
hương
với ông đang học tiếng Phạn, tu tập và nghiên cứu
kinh điển Phật giáo ở đây. Riêng ông thì rời Sumatra để
đến Tu viện Đại học Nalanda ở Ấn độ và tu học trong
20 năm liền. Khi trở về Trung quốc ông trở thành một trong
những nhà dịch thuật kinh sách nổi tiếng.

Một
đại sư người Ấn là A-ti-sa (980-1054), đã từng đến Sumatra
cùng với hơn 100 đệ tử, riêng ông đã tu học trong suốt
mười hai năm với một vị thầy tên là Dharmarakshita, tên
tiếng Tây tạng là Serlingpa Tchokyi Drakpa. Năm 1025, ông
quay trở về Ấn độ, nhưng vào lúc đó Phật giáo ở Ấn
đã suy vi, Nhà vua Tây tạng là Gougué Tchangchoup Ö và cả nhà
dịch thuật nổi danh của Tây tạng thời bấy giờ là Rhinchen
Zangpo cùng tỏ ý mới ông lên Tây tạng để giảng Pháp. Ông
nhận lời và đến Tây tạng vào năm 1042 cùng với hai mươi
bốn đệ tử. Ông là người đã giữ vai trò chính trong việc
du nhập và phát triển Phật giáo lần thứ hai trên đất nước
Tây tạng.

Từng
là một trung tâm Phật giáo lớn của Á châu, nhưng Inđônêxia
đã trở thành một nước Hồi giáo từ đầu thế kỷ XIII.
Hai trăm năm sau khi được xây cất, Borobodur rơi vào cảnh
hoang tàn ; cây rừng, gió mùa và mưa nhiệt đới gặm mòn
và tàn phá Borobudur suốt một ngàn năm cho đến khi được
trùng tu trong thời đại chúng ta. Đồng thời với việc trùng
tu
Borobudur, hình như Phật giáo Inđônêxia cũng đang hồi sinh,
giống như trường hợp của Phật giáo tại một vài quốc
gia
khác trên địa cầu này. Ngoài Á châu, Phật giáo cũng
bắt đầu thu hút người Tây phương, các nước thuộc Trung
và Nam Mỹ ngày nay cũng có hội thiền và chùa Tây tạng. 

Tất
cả những đổi thay đó, những thăng trầm đó, chẳng qua
cũng chỉ là những biểu hiện do sự vận hành của nguyên
lý vô thường trong vũ trụ mà thôi, ta cũng không nên bám
víu
vào đó để xem đấy là một việc đáng buồn hay một
niềm hy vọng. Buồn vui, hy vọng hay ước mong cũng chỉ là
những bám víu. Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan thuộc A-phú-hãn
bị đặt mìn và phá hũy trước sự chứng kiến và bất lực
của cả thế giới, và trong trường hợp khác, Borobudur lại
được trùng tu một cách tuyệt vời. Tất cả đều là những
biến cố không nhất thiết liên quan mật thiết đến một
tôn giáo nào cả mà đấy chỉ là những biểu hiện của vô
thường
, của quy luật tương liên, tương tác trong vũ trụ.
Tôn giáo phải giữ những vai trò thiết thực hơn như thế.

Nếu
hiểu rằng Phật giáo là một tôn giáo giúp con người loại
bỏ
khổ đau để mưu cầu hạnh phúc, thì khi nào khổ đau
vẫn còn trong thế giới này, Phật giáo sẽ chưa bị hũy diệt.
Nếu hiểu rằng Phật giáo là một tôn giáo giúp con người
xoá bỏ vô minh để tìm lấy con đường giải thoát và sự
tự do đích thực cho chính mình, thì khi nào thế giới này
vẫn còn u mê, hận thù và bao lực, Phật giáo sẽ vẫn còn
trường tồn để giúp đỡ con người. 

Từ
ngàn năm, những pho tượng Phật của Borobodur ngồi im với
cây cỏ và muôn thú của rừng sâu, ngày nay vẫn ngồi im cho
những người hành hương đến chiêm bái và du khách ngắm
nhìn
một cách tò mò. Dù sao, nơi ngôi đền Borobudur, gương
mặt của những pho tượng vẫn hiền hoà, vẫn sâu thẳm và
phẳng lặng với thời gian. 

Bures-Sur-Yvette,
29.01.08


Hoang
Phong

 

Borobodur1

Borobodur2

Borobodur3

Borobodur4

Borobodur5

Borobodur6

Borobodur7

Borobodur8

Borobodur9

Borobodur10

Borobodur11

Borobodur22

Borobodur25

Borobodur26

Borobodur35

Borobodur36

Borobodur30

Borobodur31

Borobodur32

Borobodur33

Borobodur34

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 
 

11-04-2009
08:23:4

Tin bài có liên quan

Xứ Phật Tình Quê – Thích Hạnh Nguyện; Thích Hạnh Tuấn

Vườn Lộc Uyển (Sarnath)

Vườn Lộc Uyển (Sarnath)

Về Thăm Đất Phật 4

Về Thăm Đất Phật 3

Về Thăm Đất Phật 2

Về Thăm Đất Phật 1 – Phim Ký Sự Phật Giáo Tại Ấn Độ

Về Thăm Đất Phật 1 – Phim Ký Sự Phật Giáo Tại Ấn Độ

Vài Ghi Chú Về Pho Tượng Phật Giáo Tạc Từ Một Khối Thiên Thạch – Hoang Phong

Vài Ghi Chú Về Pho Tượng Phật Giáo Tạc Từ Một Khối Thiên Thạch – Hoang Phong

Trụ Đá Asoka (ấn Độ), Xuất Xứ Và Ý Nghĩa

Thiên Trúc Tiểu Du Ký – Thiện Phúc

Theo Dấu Chân Phật – Kỳ 1

Theo Dấu Chân Phật – Kỳ 1

Load More

Discussion about this post

Pháp Luân Công Xuyên Tạc Kinh Phật, Phật Di Lặc Nhằm Mục Đích Gì?

Pháp luân công xuyên tạc Kinh Phật, Phật Di Lặc nhằm mục đích gì?

Một số học viên Pháp luân công có nhiều bài bài đăng thiếu tính trung thực. Ví dụ khi Lý...

Phật Ở Đâu?

Phật ở đâu?

Phật dạy ta chẳng tìm kiếm Phật đâu xa, chỉ việc khám phá ông Phật (Bậc giác ngộ) ngay nơi...

Tự Tại Đường Mây – Vĩnh Hảo

TỰ TẠI ĐƯỜNG MÂY Vĩnh Hảo Từ thuở hoang sơ đã nguyện làm mây trắng Che mát cho đời qua những...

Mồ mả và canh bạc cuộc đời

MỒ MẢ VÀ CANH BẠC CUỘC ĐỜI Nguyễn Xuân Chiến   I. – CHUYỆN THỜI XƯA Hai người bạn từ thưở...

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 04)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 4) Pháp Sư Tịnh Không “Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục chánh sĩ,...

Nghiệp Và Nguyện

NGHIỆP VÀ NGUYỆN Thích Tâm Hạnh I. Muốn thoát khổ là muốn tu. Hôm nay quý vị phát tâm về...

Ba Mươi Bảy Pháp Thực Hành Của Bồ Tát

Ba Mươi Bảy Pháp Thực Hành Của Bồ Tát

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Bài Kệ Bốn Câu

Trước không nay có.Ba đời có pháp.Không có lẽ đó”    Từ khi kinh điển Đại thừa xuất hiện cho...

Xin Cho Biết ý Nghĩa Chữ Kinh Trong Đạo Phật

TRẢ LỜI: Kinh: Nghĩa đen là sợi tơ thẳng, xuyên suốt. Sách Phật gọi là kinh, vì chúng có tác...

Thiền-Tịnh-Tự Tri

                                       ...

Vai Trò Phật Giáo Trong Thời Đại Mới

Vai Trò Phật Giáo Trong Thời Đại Mới

Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: khế...

Phật Giáo Không Chỉ Tương Hợp Mà Còn Hoan Nghênh Vũ Trụ Học Hiện Đại

Phật Giáo Không Chỉ Tương Hợp Mà Còn Hoan Nghênh Vũ Trụ Học Hiện Đại

PHẬT GIÁO KHÔNG CHỈ TƯƠNG HỢP MÀ CÒN HOAN NGHÊNH VŨ TRỤ HỌC HIỆN ĐẠI(Buddhism Is Not Just Compatible with...

Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở Phương Tây

TẠI SAO PHẬT GIÁO ẢNH HƯỞNG Ở PHƯƠNG TÂY Cao Huy Thuần Trong khuôn khổ Tuần Văn hóa Phật giáo...

‘Nguyệt San Hải Triều Âm (Năm 1973 – 1975)

‘Nguyệt San Hải Triều Âm (Năm 1973 – 1975)

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Mộng Thoát Luân Hồi

Mộng thoát luân hồi

MỘNG THOÁT LUÂN HỒI Hồ Dụy Ta bà vốn cõi mộng, do thức biến. Người đang tu chưa thể hiểu...

Pháp luân công xuyên tạc Kinh Phật, Phật Di Lặc nhằm mục đích gì?

Phật ở đâu?

Tự Tại Đường Mây – Vĩnh Hảo

Mồ mả và canh bạc cuộc đời

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 04)

Nghiệp Và Nguyện

Ba Mươi Bảy Pháp Thực Hành Của Bồ Tát

Bài Kệ Bốn Câu

Xin Cho Biết ý Nghĩa Chữ Kinh Trong Đạo Phật

Thiền-Tịnh-Tự Tri

Vai Trò Phật Giáo Trong Thời Đại Mới

Phật Giáo Không Chỉ Tương Hợp Mà Còn Hoan Nghênh Vũ Trụ Học Hiện Đại

Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở Phương Tây

‘Nguyệt San Hải Triều Âm (Năm 1973 – 1975)

Mộng thoát luân hồi

Tin mới nhận

Hùn Phước Ấn Tống: Giới Thân Túc Luận

Trái Tim Không Nói Hận Thù, Thích Nguyên Hùng

Phật dạy: “Thế gian có năm việc tuyệt chẳng thể được”

3 thành tựu siêu việt Đức Phật chứng đạt được trong đêm Ngài thành đạo

Chùa Từ Đức P. Thủy Xuân, Tp. Huế Thừa Thiên

Trong 49 năm Đức Phật có thuyết pháp hay không?

Vị Phật quá khứ hay Nhiên Đăng Cổ Phật là ai?

Đức Phật ra đời: Thông điệp của sự hạnh phúc

Lời Phật dạy về “Thiểu dục tri túc”

Lời Phật dạy về 3 điều người mẹ nên làm để tích phúc cho con cái

Đừng nhầm lẫn giữa hộ trì và cứu độ

Đức Phật dạy có 5 điều người tu hành cần nên tránh

Bàn về luân hồi và số mệnh

Lời Phật dạy về công ơn người mẹ khi mang thai

Cảm kích ân đức của Chư Phật và Chư Bồ Tát

Bồ Tát Quảng Đức Ngọn Lửa Và Trái Tim – Lê Mạnh Thát Chủ Biên

Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu

Chùa Thiên Phước Thái Bình

Kinh Kiến Chánh

Điều thiết yếu nhất người Phật tử nên làm

Tin mới nhận

Pháp ngữ trong Kinh Kim Cang (1)

Đạo Phật An Lạc Và Tỉnh Thức

Những giá trị phổ quát của Bồ Tát hành

Đất nước không thể bại vong!

Càng cực khổ gánh vác nhiều trách niệm thì cuộc đời ta càng tràn đầy hạnh phúc

Chỉ một phút thôi

Tương quan giữa Trung đạo và Duyên khởi

Mọi giới đều niệm Phật

Người cày ruộng

Khéo điều phục các căn

Phản hồi bài viết phóng sinh không bằng ăn chay của Thích Trung Hữu

Chùm Thơ Về Bát Chánh Đạo

Nhân Duyên Không Tánh

Thiền là chìa khóa để nhận diện chính mình

Cọp Nghe Kinh

Mối quan hệ giữa cha mẹ & con cái theo Phật giáo

Pháp giới và pháp giới thể tánh

Cao sơn tuyết (snow on a high mountain)

Tổng Quan Về Du Già Hành Tông

Những Giọt Cam Lồ Khai Thị

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 92)

Thí Dụ Về Em Bé, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Niệm Phật không phải là kêu Phật

Kinh Tiểu Bộ Tập Ii (Khuddhaka Nikàya)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 148)

Đọc và học Kinh Phật

Thế Nào Là Sống Một Mình ?

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 15)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 24)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 127)

Kinh Veranjaka-sutta Và Kinh Nakulapita-sutta

Giới Thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 189)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 277)

Kinh Pháp Hoa Tinh Yếu

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 14)

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 147)

Sn 4.4: Suddhatthaka Sutta Kinh Về Thanh Tịnh

Milinda Vấn Đạo Người Dịch: Tỳ Khưu Indacanda

Tin mới nhận

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 10)

NHẪN NHỤC BA LA MẬT

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 21)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 110)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 360)

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 6)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 86)

Tây Phương Xác Chỉ

KHÔNG LÀM GIẶC, KHÔNG NÓI XẤU LÃNH ĐẠO TỔ QUỐC, KHÔNG TRỐN THUẾ, KHÔNG VI PHẠM PHÁP LUẬT (Phần 1)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 296)

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 17)

MƯỜI HẠNH NGUYỆN CỦA BỒ TÁT PHỔ HIỀN (Phần cuối)

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 30)

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 24)

Chuyển hóa cuộc đời

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 16)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 364)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 60)

Thành Thật Niệm Phật

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 96)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.