DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 58
PHẬT
ĐẢN SINH BỐN
CHÂN LÝ NHIỆM MẦU
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Vào
ngày rằm tháng Tư cách nay 2550 năm, thái tử Tất Đạt Đa
ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca-ty-la-vệ, gần biên
thùy giữa Ấn Độ và Népal, cha là quốc vương Tịnh Phạn
và mẹ là hoàng hậu Ma Da. Thái tử ra đời được bảy ngày
thì hoàng hậu Ma Da tạ thế, em bà là di mẫu Kiều Đàm nuôi
nấng thái tử trong tình thương yêu rất mực.
Khởi
đi từ ngày đó, mà sau này được gọi là ngày Phật đản,
một cuộc cách mạng tư tưởng trên thế giới, cuộc cách
mạng khai phóng tâm linh cũng sắp sửa ra đời.
Tuy
xuất thân là con vua, nhưng thái tử không bị những xa hoa
vật chất nơi hoàng cung lôi cuốn, mà trong tâm luôn băn khoăn
thắc mắc về những bất trắc của sinh lão bệnh tử, về
những nỗi thống khổ triền miên của kiếp người.
Vào
năm hai mươi chín tuổi, một đêm kia, thái tử cùng với người
đánh xe tên là Xa Nặc lìa bỏ kinh thành, quyết lên đường
tìm Chân Lý. Sáng hôm sau, thấy đã đi được một quãng
đường khá xa, Ngài xuống xe, cởi bỏ vương bào gấm vóc,
trao cho Xa Nặc, bảo hắn đem về hoàng cung. Rồi chỉ khoác
lên mình một tấm vải vàng, ôm một bình bát, Ngài quyết
quay lưng lại đời sống dư thừa vật chất, với những người
hầu hạ vây quanh, từ biệt Xa Nặc, một mình dấn bước
lên con đường gian nan phía trước.
Trải
qua sáu năm trời sống trong cảnh thiếu thốn, kham khổ, hành
trì nhiều phương pháp với nhiều bậc thầy, nhưng Ngài đều
không thỏa mãn, cứ đi hoài, tìm hoài. Cuối cùng, Ngài nhận
ra rằng tất cả các bậc thầy này đều chưa thoát ra khỏi
được vòng vô minh. Vì vậy, Ngài quyết định không trông
cậy vào một bậc thày từ bên ngoài, mà ngưng tìm kiếm,
một mình một bóng, tự quay vào soi rọi nội tâm.
Cuộc
chiến đấu với bản thân của Ngài vô cùng cam go. Với
niềm tin tưởng rằng nếu không sống cuộc đời khắc khổ,
thì sẽ không thể giải thoát, Ngài khép mình vào kỷ luật,
sống trong cảnh cực kỳ gian nan, thiếu thốn, chỉ khoác trên
mình một mảnh y, chỉ ăn một chút hạt khô và rau cỏ, đến
nỗi cơ thể Ngài vốn là một thái tử đẹp đẽ oai phong,
nay chỉ còn lại lớp da bọc bộ xương.
Thế
nhưng sự hành hạ xác thân đó cũng không khiến cho Ngài thấy
được Chân Lý. Cuối cùng, sau khi đã suýt gục ngã vì quá
thiếu chất dinh dưỡng cho cơ thể, Ngài mới thấy rằng lối
sống xa hoa phủ phê thì kéo con người xuống thấp vì đắm
say vật chất, lối sống quá thiếu thốn, quá cơ cực, thì
lại khiến cho tâm thần mỏi mệt, không đủ ý chí để theo
đuổi việc lớn.
Từ
nhận định này, Ngài chọn con đường Trung Đạo, giữ sự
quân bình đối với những nhu cầu trong đời sống để có
đủ sức khỏe, nhưng không nuông chiều những đòi hỏi quá
với sự cần thiết. Do đó, Ngài ngưng hành xác, thọ nhận
một vài món thực phẩm thô sơ do thí chủ cúng dường. Sức
khỏe nhờ vậy mà dần dần hồi phục, tinh thần minh mẫn,
Ngài tự thanh tịnh hóa nội tâm, không cần đến một năng
lực siêu nhiên nào hỗ trợ. Con đường Trung Đạo này còn
được các hành giả của đạo Phật ứng dụng rất thành
công cho tới tận ngày nay.
Sau
sáu năm khổ hạnh và bốn mươi chín ngày tịnh tọa dưới
gốc cây bồ đề, một buổi sớm khi sao Mai lóe sáng trên
bầu trời, Ngài bừng tỉnh, nhận ra Chân Lý Tối Thượng,
trở thành người giác ngộ. Người giác ngộ tiếng Ấn Độ
là Buddha, người Trung Hoa phiên âm chữ Buddha thành Phật Đà,
phiên dịch là Giác Giả, Người Giác Ngộ.
Đây
là những lời đầu tiên của Đức Phật, sau khi giác ngộ:
“Xuyên
qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang
đi, đi mãi.
Như
Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất
cái nhà này.
Lặp
đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này
hỡi người thợ làm nhà,
Như
Lai đã tìm được ngươi.
Từ
đây ngươi không còn cất được nhà cho Như Lai nữa.
Tất
cả sườn nhà đều gẫy,
Cây
đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như
Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã
tận diệt mọi Ái Dục”.
Và
tuyên ngôn cao thượng, bình đẳng:
“Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”
Chúng
sinh ở đây không chỉ riêng cho loài người, mà là bao gồm
tất cả mọi loài sinh vật hữu tình, có giác tánh. Những
loài hữu tình có giác tánh này đều biết đau khổ, yêu thương,
sợ hãi và đều muốn được sống.
Đạo
Phật được ví như một con đại bàng mà Trí Tuệ và Từ
Bi là hai cánh. Nhờ có Trí Tuệ, chúng ta mới tỉnh cơn mê.
Nhưng đồng thời, trên bước đường tu tập, chúng ta phải
trải rộng Tâm Từ để tránh đau khổ cho chúng sinh, hơn thế
nữa, để giúp chúng sinh, cùng chúng sinh tiến bước theo dấu
chân Đức Phật, đó là chúng ta đang hành Bồ Tát Đạo.
Từ
sự giác ngộ này, Ngài thấu suốt nguyên nhân mọi nỗi thống
khổ của kiếp người và phương pháp để chấm dứt mọi
khổ não, đó là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý mầu nhiệm,
bốn chân lý đưa con người lên bờ an lạc, giải thoát.
Ngày
nay, cứ mỗi Rằm tháng Tư âm lịch, Phật tử Việt Nam cũng
như Phật tử khắp năm châu đều hướng tâm về đức Phật. Đời Ngài đã thuộc về quá khứ nhưng giáo pháp giải thoát
của Ngài vẫn tồn tại và hữu ích cho chúng ta.
Chúng
ta chào mừng ngày đản sanh của đức Phật cũng có nghĩa
là chúng ta chào mừng ngày đản sanh ra giáo pháp giải thoát
của Ngài.
Thưa
quý thính giả,
Chúng
tôi xin kính gửi tới quý thính giả bài pháp đầu tiên mà
Ngài đã thuyết giảng sau khi thành đạo, bài giảng về Tứ
Diệu Đế, bốn chân lý mầu nhiệm, đó là:
1.
Chân lý về Khổ:
Đây
là chân lý về các vấn đề của đời sống, qua sinh, già,
bệnh, chết, cầu mong mà không toại nguyện, thương yêu nhau
mà phải chia lìa, ghét nhau mà cứ phải gặp và thân tâm thay
đổi bất thường.
2.
Chân lý về Nguồn gốc của Khổ:
Từ
ánh sáng của tuệ giác, Đức Phật giải thích nguyên nhân
của Khổ qua quy luật Nhân Quả và Nghiệp Báo. Khởi từ vô
minh, tham ái sinh ra sân hận và si mê, con người tạo Nghiệp,
trả Quả, nỗi thống khổ ngày càng sâu dầy.
3.
Chân lý về sự Diệt Khổ:
Chân
lý này là lời dạy của Đức Phật về sự cần thiết phải
chấm dứt nguyên nhân tạo ra nỗi khổ để thoát Khổ.
4.
Chân lý về Con đường đưa đến diệt Khổ:
Đây
là lời Đức Phật dạy về cách thức tu tập, về phương
pháp để Phật tử nương theo mà hành trì, ngõ hầu kết thúc
được mọi nỗi thống khổ, đạt được trạng thái tâm
an lạc. Phương pháp đó là Bát Chánh Đạo, còn gọi là Tam
Học, tức là ba môn học chung cho mọi người tu Phật, học
Phật như sau:
Giới
học gồm có:
–
Chánh ngữ,
–
Chánh nghiệp,
–
Chánh mạng
Định
học, gồm có:
–
Chánh tinh tấn,
–
Chánh niệm,
–
Chánh định
Tuệ
học, gồm có:
–
Chánh kiến,
–
Chánh tư duy
Nói
cho gọn thì con đường tu tập để chấm dứt mọi đau khổ
gồm:
–
Không làm điều xấu, ác,
–
Siêng làm điều lành, thiện
–
Tự thanh lọc tâm ý.
Trong
cuốn Đức Phật và Phật Pháp, hòa thượng Narada Maha
Thera soạn, cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch, đã nói về
Đức Phật như sau:
…
“ …Để minh định rõ ràng mối tương quan của Ngài đối
với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan trọng của
sự kiện tự mình nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm và tự
mình nỗ lực kiên trì, Đức Phật minh bạch dạy rằng:
“Các
con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo
sư.”
Đức
Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có
thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ
đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi
trên con đường và theo đúng phương pháp cùng không, là phần
của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất
hạnh của đời sống.
“Ỷ
lại nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng
đảm đang lãnh lấy trách nhiệm, chỉ tùy thuộc nơi mình
để tự giải thoát, quả thật là tích cực.”
Tùy
thuộc nơi người khác là đem tất cả cố gắng của chúng
ta ra quy hàng.
“Hãy
tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là nương
tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác!
Các
lời lẽ có rất nhiều ý nghĩa kia mà Đức Phật đã dạy
trong những ngày sau cùng của Ngài quả thật mạnh mẽ, nổi
bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá
nhân là yếu tố tối cần để thành tựu mục tiêu. Tìm sự
cứu rỗi nơi những nhân vật hảo tâm có quyền năng cứu
thế và khát khao ham muốn hạnh phúc ảo huyền xuyên qua những
lời van vái nguyện cầu vô hiệu quả và nghi thức cúng tế
vô nghĩa lý, quả thật là thiển bạc và vô ích.
Đức
Phật là một người như chúng ta. Ngài sanh ra là một người,
sống như một người, và từ giã cõi đời như một người.
Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi thường,
một bậc siêu nhân, do những cá tính đặc biệt duy nhất
của Ngài. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như
vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời
dạy của Ngài để chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân
vật vô sanh bất diệt. Có lời phê bình rằng lịch sử nhân
loại, không hề có vị giáo chủ nào “phi thần linh hơn Đức
Phật, tuy nhiên, cũng không có vị nào có đặc tánh thần
linh hơn Đức Phật”
Trong
thời Ngài còn tại thế, Đức Phật chắc chắn được hàng
tín đồ hết lòng tôn kính, nhưng không bao giờ Ngài tự xưng
là Thần Linh.
Sanh
ra là một người, sống như một người, Đức Phật thành
đạt trạng thái tối thượng của sự toàn thiện, Đạo Quả
Phật, do sức kiên trì nỗ lực cá nhân. Nhưng Ngài không dành
giữ sự liễu ngộ siêu phàm cho riêng mình mà công bố trước
thế gian rằng tâm có khả năng và oai lực bất khuất. Không
khi nào tự hào rằng chỉ có Ngài là người duy nhất đắc
Quả Phật, vì Đạo Quả Phật không phải là ân huệ đặc
biệt dành riêng cho một cá nhân tốt phước nào đã được
chọn trước.
Thay
vì đặt trên con người một thần linh vạn năng vô hình và
cho con người một địa vị khép nép rụt rè, Đức Phật
chứng minh rằng con người có thể thành đạt trí tuệ cao
siêu và Đạo Quả tối thượng do sự cố gắng của chính
mình. Và như vậy, Đức Phật nâng cao phẩm giá con người.
Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi vòng trầm luân phiền não,
chính ta phải tự mình gia công cố gắng chớ không phải phục
tùng, tùy thuộc nơi một thần linh, hay một nhân vật nào
làm trung gian giữa ta và vị thần linh ấy.
Trong
thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụ và
chạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao
quý của sự phục vụ bất cầu lợi. Ngài chống đối tệ
đoan phân chia giai cấp trong xã hội — chỉ làm trở ngại
mức độ tiến hoá của loài người — và luôn luôn bênh vực
công lý, khuyên dạy bình đẳng giữa người và người. Ngài
tuyên bố rằng cánh cửa đưa vào sự thành công và thịnh
vượng phải rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như
ai, dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức hay tội lỗi, nếu người
ấy cố công cải thiện nếp sống, hướng về con đường
trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn cảnh của người phụ nữ,
lúc bấy giờ bị xã hội khinh thường, không những bằng
cách nâng phẩm giá của người đàn bà lên đúng tầm quan
trọng, mà còn sáng lập giáo hội đầu tiên trong lịch sử
cho hàng phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, Ngài đứng lên cố gắng đánh đổ chế độ mua bán
người làm nô lệ. Ngài bãi bỏ phong tục đem những con vật
xấu số ra giết để cúng tế thần linh và nới rộng tâm
Từ, bao trùm luôn cả loài thú.
Không
bao giờ Đức Phật cưỡng bách tín đồ phải làm nô lệ
cho giáo lý của mình hay cho chính mình. Những ai bước theo
dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng. Ngài khuyên dạy
hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của
Ngài chỉ vì kính nể, tôn trọng, nhưng phải xem xét, nghiên
cứu, suy niệm cẩn thận, cũng như người trí tuệ muốn thử
vàng, phải “đốt, cắt và chà vào đá”. … “ …
Trên
đây là bài giảng của hòa thượng Narada, trích
từ cuốn Đức Phật và Phật Pháp.
Kính
thưa quý vị,
Bản
thân Đức Phật đã tự tu, tự chấm dứt được Nghiệp lực
lôi cuốn vào dòng đời, thoát được cảnh chìm nổi trong
biển sinh tử. Sau khi giác ngộ, Ngài đã ngược xuôi trên
bốn chục năm trường ở thế gian, để truyền lại cho chúng
sinh những kinh nghiệm Ngài đã trải qua, giương cao Ánh Đạo
Vàng của Trí Tuệ, dẫn dắt chúng sinh bước trên con đường
giải thoát..
Vào
những ngày cuối cùng của cuộc đời, sau những năm dài tận
tụy giáo hóa chúng sinh, Ngài trở về Kusinàra và tịch diệt
tại đây. Thân Ngài nằm giữa hai cây Long Thọ, hôm ấy cũng
nhằm ngày Rằm tháng Tư.
2550
năm đã trôi qua, dù cho mọi sự vật đều thay đổi, biển
xanh biến thành ruộng dâu, nhưng giáo pháp giải thoát của
Ngài vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Thông điệp về
Bốn Chân Lý cao quý của Ngài vẫn còn thích hợp với xã
hội hiện đại cũng như nhiều thế kỷ trước đây.
Thưa
quý thính giả,
Nhân
mùa lễ Mừng Phật Đản Sinh, để cùng chung vui trong dịp
kỷ niệm đức Phật ra đời, chúng tôi xin kính gửi tới
quý vị một số lời ca ngợi đạo Phật của các nhà trí
thức, từ cuốn Buddhism in the Eyes of Intellectuals, tác giả là
hòa thượng K. Sri Dhammananada, do tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch,
như sau:
…”…
Trong cuốn Phật Giáo Là Gì, hòa thượng Narada Maha Thera
đã viết:
–
Người Phật tử không nô lệ cho sách vở hay bất cứ ai.
Người đó cũng không hy sinh tự do tư tưởng của mình để
trở thành một đệ tử của đức Phật. Người đó có thể
luyện tập ý chí tự do của mình và mở mang kiến thức cho
đến khi tự mình đạt được Phật quả, vì tất cả mọi
người đều có khả năng thành Phật.
Giáo
Sĩ Joseph Wain nói rằng:
– Phật
giáo dạy đời sống không bằng luật lệ mà bằng nguyên
lý một đời sống cao đẹp; và chính vì thế Phật giáo là
một tôn giáo khoan dung, một hệ thống nhân từ nhất dưới
ánh mặt trời.
Christmas
Humphrey viết trong cuốn Buddhism:
– Phật
giáo vẫn tồn tại như hồi nào, cả đến khi nếu phải chứng
minh là đức Phật chưa bao giờ đã từng sống cả.
Tiến
Sĩ Graham Howe xác nhận:
– Đọc
một chút về Phật giáo, là biết ngay rằng hai ngàn năm trăm
trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã
được thừa nhận về những vấn đề tâm lý hiện đại
của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ
lâu và đã tìm thấy câu trả lời.
Trong
cuốn Tinh Hoa của Phật giáo, Giáo Sư Lakshmi Nasaru
viết:
– Nói
về Phật giáo, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát
khỏi tất cả mọi cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi
cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến
thắng mình. Đức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát
duy nhất, để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo
tôn giáo này.
Bertrand
Russell, nhà văn đã từng sáng tác trên 75 tác phẩm,
đoạt giải Nobel về văn chương năm 1950, nhận định:
– Trong
những tôn giáo vĩ đại của lịch sử, tôi thích Phật giáo,
nhất là những dạng thức thuở ban đầu, vì tôn giáo này
có ít yếu tố ngược đãi nhất.
Hòa
thượng Tiến sĩ W. Rahula viết trong cuốn Đức
Phật Dạy Gì như sau:
– Tự
mình bắt ép mình tin hay chấp nhận một việc mà không hiểu
thấu, thì đó là hình thái chính trị, chứ không phải hình
thái của tâm linh hay trí tuệ.
Trên
đây là một số nhận định về đạo Phật của các nhà
trí thức, được trích trong cuốn Buddhism in the Eyes of Intellectuals.
Ban
Biên Tập/TVHS
Bài
này sẽ được phát thanh trên làn sóng AM
1480 (KVNR) tại Nam California
ngày 13-5-2006 và ngày 14-5-2006 trên làn sóng AM1520
(KYND) &
AM 880 (KJOJ) tại
Texas. Live Webcasting at http://www.littlesaigonradio.com
8:00 PM Saturday (Pacific Time).
Discussion about this post