DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 17
CÂU
CHUYỆN ẨN DỤ VỀ BỐN BÀ VỢ
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Chuyện
kể rằng, có một ông trưởng giả kia, sinh thời có bốn
bà vợ.
Bà
vợ Cả vốn được cha mẹ đôi bên hứa hẹn với nhau từ
khi cả hai đứa nhỏ đều chưa ra đời. Sau này cả hai lớn
lên, khi cha mẹ đôi bên tổ chức đám cưới cho đôi trẻ,
cả hai đều chưa biết mặt nhau, cho nên đôi vợ chồng trẻ
sống chung mà không có sự cảm thông, hiểu biết về nhau,
chỉ như hai cái bóng bên nhau qua ngày, người chồng không
thèm biết đến sự có mặt của người vợ lặng lẽ đi
bên cuộc đời mình, như một vật phụ thuộc trong sự âm
u tối tăm của căn nhà cổ.
Rồi
người chồng ra ngoài đời làm ăn buôn bán dần dần khấm
khá, ông ta bèn cưới thêm một bà vợ nữa. Từ khi có bà
Hai, trong nhà luôn luôn vui vẻ với tiếng cười rộn rã, “rủng
rẻng” của bà. Ông trò truyện, đùa giỡn, tối ngày cùng
với bà Hai đầu gối tay ấp, tưởng như mối tình gắn bó
keo sơn không có gì lay chuyển nổi.
Thế
nhưng, lòng ham muốn của con người cũng giống như câu chuyện
bó cỏ mà người xà ích dùng để dụ con ngựa vươn cổ
vói về phía trước, mà không bao giờ đạt được tới đích,
ông trưởng giả tối ngày đếm tiền nghe tiếng “rủng rẻng”
mãi cũng thấy chán, bèn quyết định cưới thêm bà vợ nữa
cho nhà cửa sầm uất vui vẻ. Thế là bà Hai đành phải chia
sẻ tình yêu để ông chồng mời bà Ba “uy nghi” về nhà.
Có
bà Ba rồi ông mới thấy nếu chỉ quanh quẩn trong nhà thì
cũng không có gì là thú vị, chẳng ai biết đến sự giầu
có sang trọng của ông, cho nên ông quyết định cưới thêm
một bà vợ thứ Tư, một bà “rất sang”, mọi người trông
thấy là tấm tắc ngợi khen sự cao sang của gia đình ông.
Ngủ
quên trên danh vọng, vinh hoa phú quý tràn ngập, với tài kinh
doanh và sự lạnh lùng tàn nhẫn trong thương trường, tiền
bạc cuồn cuộn vào nhà ông như thác đổ, ông say sưa trên
men chiến thắng với danh hiệu Anh Hai Chi Tiền trong những
cuộc vui trà đình tửu quán. Từ trên đỉnh cao của danh vọng
và quyền thế, ông quên hẳn mặt trái của xã hội, cái mặt
dàn trải đầy dẫy những hoàn cảnh khổ đau đói khát, cơm
không có mà ăn, co ro trong manh áo rách cho qua đêm Đông rét
mướt.
Rồi
một ngày kia, ông ngã bệnh. Cái tâm hồn cạn tầu ráo máng
ẩn trong cái cơ thể bệnh hoạn dầm dề, kết quả tàn khốc
của những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, đã
mau chóng đưa ông tới ngưỡng cửa của Tử Thần.
Trong
giờ phút thiêng liêng, gần đất xa trời, ông quyến luyến
nhìn bà vợ thứ tư, tha thiết hỏi:
– Ta
sắp chết rồi, em là người ta thương yêu nhất, em có đi
theo ta không?
Bà
Tư nức nở:
– Em
thương chàng lắm, nhưng em không thể đi theo chàng sang bên
kia thế giới, mà chỉ có thể theo chàng đến mộ mà thôi.
Quay
qua bà Ba, ông hỏi:
– Còn
em thì sao? Ta rước em về đã lâu, ngày ngày đều chiêm ngưỡng,
chăm sóc, o bế, tô điểm cho em đẹp đẽ với đời. Nay ta
ra đi, em có đi theo ta không?
Bà
Ba nghẹn ngào:
– Em
không thể chết theo chàng, nhưng em sẽ tiễn chàng tới tận
góc phố, cho đến khi quan tài của chàng khuất bóng.
Thất
vọng, ông thở dài hỏi bà Hai:
– Vợ
chồng đầu gối tay ấp hàng bao nhiêu năm rồi, ngày đêm
ta trân quý em, ta cất giữ em kỹ lưỡng, nay em có đi theo
ta không?
Bà
Hai mếu máo:
– Em
sẽ tiễn chàng tới cửa, khi không còn trông thấy quan tài
chàng nữa thì cũng là lúc mà chúng ta vĩnh biệt nhau.
Ông
trưởng giả nhắm mắt trong sự buồn rầu, đau khổ. Một
lúc sau, ông mở mắt nhìn về phía chân giường, nơi bà vợ
Cả vừa già vừa xấu của ông đang sụt sịt, hỏi cho có
lệ:
– Còn
bà, chắc bà oán tôi bỏ bê bà lắm, đâu thèm nghĩ tới chuyện
đi theo tôi bước vào cõi chết?
Nhưng
thật là bất ngờ, bà vợ Cả bị bỏ rơi của ông cất giọng
bình thản:
– Em
đã cùng với chàng bước vào cuộc đời này từ khi chúng
ta còn trong bụng mẹ, em sẽ đi theo chàng sang bên kia thế
giới, tới tận những cuộc đời tiếp theo của chàng, mãi
mãi, cho tới khi nào chàng tu hành thanh tịnh hóa được Bản
Tâm, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thì sự liên hệ
của đôi ta mới chấm dứt.
Trong
câu chuyện ẩn dụ này, bà vợ thứ Tư là Danh vọng. Đối với nhiều người, cái Danh quan trọng nhất. Cả một
cuộc đời bận bịu làm ăn, khi có tiền, dù là có nhiều
tới đâu, người ta vẫn thấy là không đủ, phải có Danh.
Người ta cũng có thể dùng cả cuộc đời để cầu Danh,
dùng cả vốn liếng tiền bạc để mua Danh. Ngay đến một
anh du đãng, cũng sẵn sàng phanh ngực ra lãnh viên đạn, để
giữ được cái danh là “kẻ anh hùng không sợ chết”. Nhưng
cái
Danh chỉ theo con người tới huyệt mộ, người quá vãng
được thân bằng quyến thuộc đọc cho một bài diễn văn
ca ngợi những danh vọng tiếng tăm mà họ đạt được trong
cuộc đời, đôi khi cũng tâng bốc quá lên để trả nợ hoặc
lấy cảm tình với tang gia. Rồi thì những nắm đất thi nhau
bay xuống huyệt mộ, xóa dần hình bóng chiếc quan tài lộng
lẫy bằng gỗ quý, thế là hết. Người chết chẳng còn được
hưởng điều thiết thực gì.
Bà
vợ thứ Ba là cái nhà. Cái nhà được ông chủ o bế
sơn quét, tu bổ trồng trọt dàn hoa, cây cảnh, tường cao,
cổng lớn, cho thật uy nghi hùng vĩ, ai đi qua cũng tấm tắc
khen ngợi. Thế nhưng khi quan tài ông quẹo vào góc phố
thì cũng là lúc ông và cái nhà vĩnh viễn xa nhau.
Bà
vợ thứ Hai là tiền bạc. Suốt một đời bươi chải,
tiếng rủng rẻng của những đồng tiền từ tay ông trôi
vào ngăn tủ, rộn rã tưng bừng, nay chỉ cùng ông nhìn thấy
nhau trước khi quan tài của ông ra tới cửa mà thôi. Khi đám
tang khuất sau cánh cửa là ông và tủ tiền đã ngàn đời
xa cách nhau rồi.
Tiền
tài, nhà cửa, danh vọng đều sớm bỏ rơi ông, chỉ còn lại
bà vợ Cả là lẽo đẽo theo ông đến cuối cuộc đời,
đến mãi tận bên kia thế giới, theo ông sang tới những kiếp
khác trong tương lai. Bà vợ đó tượng trưng cho dòng
Nghiệp.
Vậy
Nghiệp
là
gì?
Cổ
nhân thường nói rằng mỗi người đều có “Quỷ Thần hai
vai” để chứng giám, ghi vào sổ Thiện Ác mọi hành động
tốt hoặc xấu mà người ta đã làm trong cuộc đời, để
đến ngày người ấy chết thì sẽ bị Diêm Vương chiếu
theo sổ Thiện Ác này mà xét xử, nếu khi sống họ làm nhiều
việc tốt thì cho họ lên Thiên Đình hưởng phước báo hoặc
làm nhiều việc ác thì đày họ vào Địa Ngục để chịu
tội báo.
Nhà
Phật không quan niệm về một vị “Quỷ Thần hai vai”, nhưng
cho rằng mỗi con người đều không chỉ sống có một đời,
mà khởi đầu dòng đời bằng “một niệm vô minh bất giác”,
rồi từ đó trôi lăn trong một chuỗi dài những sự sinh tử
triền miên, gọi là dòng đời, theo Hành nghiệp, tạo Nhân
rồi thọ Quả báo. Trong chuỗi dài những cuộc tử sinh miên
viễn đó, mọi hành vi của đương sự đều từ Thân, Miệng
và Ý phát sinh ra, gọi là Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ý
Nghiệp, và đều được tàng trữ trong một cái kho vô hình
gọi là Tàng Thức, có thể tạm ví như lớp màng tạp chất
nổi trên mặt biển Chân Tâm thanh tịnh. Chính những tạo
tác được tích lũy trong Tàng Thức này là cơ sở của Nghiệp
Lực, gọi là chủng tử, lôi cuốn dòng sinh mạng của mỗi
đương sự tới nơi mà hắn sẽ tái sanh, rồi lại tiếp tục
gieo Nhân, lãnh Quả, các hành vi tốt hoặc xấu trong quá khứ
sẽ chi phối đời sống tương lai của đương sự, mãi mãi
cho tới khi nào đương sự thanh tịnh hóa được Bản
Tâm, hóa giải hết các chủng tử, thì Nghiệp Lực mới chấm
dứt hiện hành. Nhà Phật có câu:
– Muốn
biết thời quá khứ chúng ta đã làm gì thì cứ nhìn những
quả báo chúng ta đang lãnh thọ trong hiện tại.
–
Muốn biết thời tương lai của chúng ta sẽ ra sao thì cứ
nhìn những hành động của chúng ta trong hiện tại.
Tiến
trình của Nhân và Quả này là qui luật tự nhiên, không có
ai tạo ra hoặc hủy diệt, ngoại trừ chính bản thân đương
sự hóa giải được các chủng tử qua con đường thanh tịnh
hóa Tâm. Nếu Tàng Thức còn chứa chủng tử thì dòng sinh
tử vẫn tùy theo Nghiệp tốt hoặc xấu mà luân hồi, tái
sinh.
Đức
Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái Nghiệp
của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người
chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng
của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa
chúng sinh”.
Theo
định nghĩa, Nghiệp là hành động có dụng tâm hay còn
gọi là tác ý. Lời nói có tác ý thì gọi là khẩu
nghiệp. Chúng ta thường hay nghe: “Lời nói rồi bay mất”. Câu
ấy không đúng. Lời nói ác khi hội đủ nhân duyên sẽ đem
lại quả báo xấu cho người nói. Lời nói thiện cũng có
tác dụng như vậy, theo hướng thiện. Thí dụ, khi chúng ta
gặp người nghèo khổ, bất hạnh, chúng ta chạnh lòng thương
xót, đem lời an ủi, vỗ về thông cảm. Lời an ủi đó, bắt
nguồn từ tấm lòng từ ái của chúng ta là một khẩu nghiệp
thiện, tương lai sẽ đem lại cho chúng ta quả báo lành.
Có
dụng tâm thiện hay ác là Ý Nghiệp, mặc dù ý nghĩ đó chưa
thành lời nói, chưa thành văn viết hay hành động. Một người tuy cả ngày không nói, không làm gì, nhưng đầu
óc luôn bày mưu tính kế với những thủ đoạn gian lận,
xấu xa, v.v… thì những mưu gian, kế độc của hắn ta, tuy
chưa thực hiện, nhưng đã tác ý, cũng đều là những Ý Nghiệp
xấu, tương lai sẽ mang lại quả báo xấu. Nẩy ra ý kiến
rồi lại đem thân đi tạo tác, thì đó là Thân Nghiệp.
Tuy
nhiên, những việc làm do vô tình, không khởi tâm tác ý, thì
cũng không trong vòng nghiệp báo.
Từ
những điều được trình bày ở trên, chúng ta có thể rút
ra hai kết luận:
– Thứ
nhất là trong từng giây phút chúng ta có thể tạo nghiệp
mà không biết, bởi vì, chỉ trừ khi chúng ta ngủ, còn thì
chúng ta thường xuyên suy nghĩ, nói năng và hoạt động; và
mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm, mỗi cử chỉ, hành động
của chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc
sống của chúng ta trong hiện tại và mai sau.
– Thứ
hai là mọi nghiệp thiện hay ác, lành hay dữ, nặng hay
nhẹ, đều do ở chỗ tác ý tức là có chủ ý, có mưu định.
Tác ý thiện đưa tới quả báo an lành, tác ý ác đưa tới
quả báo đau khổ. Cũng như người trồng cam thì sẽ được
cây cam và quả cam. Không thể trồng cam mà lại mọc ra cây
ớt. Tất nhiên, trồng cam vẫn có thể không có cam ăn, nếu
không biết trồng, không bón phân tưới nước. Hơn nữa, dù
cho có biết trồng thì cũng phải có thời gian nhất định
mới có quả. Tạo nghiệp ác hay nghiệp thiện cũng vậy, nghĩa
là phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp thì mới
có quả báo thiện hay ác.
Có
người tuy hiện nay tạo nhiều nghiệp ác, nhưng vẫn sống
sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là vì người ấy trong
thời quá khứ đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến lúc này
vừa đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên
quả báo của những thiện nghiệp đó trổ ra, vì thế họ
vẫn còn được hưởng giàu sang phú quý. Còn những nghiệp
ác họ đã tạo ra trong đời sống hiện tại, thì chưa đến
thời gian chín muồi, lại chưa có nhân duyên thích hợp, cho
nên quả báo ác chưa đến chứ không phải sẽ không đến!.
Chúng
ta cũng cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức là nghiệp mà
thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp, là nghiệp mà tâm cảm
thọ. Người làm điều ác thì tâm của họ luôn luôn thắc
mắc, ray rứt không yên, đó là tâm thọ nghiệp. Hoặc có
những người hiện nay sống rất thiện lành, nhưng cuộc đời
lại nghèo khổ, cơ cực, hoặc thường gặp rủi ro, bất hạnh.
Đó là do những nghiệp ác của người ấy trong thời quá
khứ, đến nay đã chín muồi, lại gặp nhân duyên đầy đủ,
cho nên quả báo đau khổ hiện ra, không thể tránh được.
Nếu hiện nay người đó sống nghèo khổ, nhưng lại có thiện
tâm học và hiểu Phật pháp, vững tin vào mối tương quan
nhân quả, quyết tâm làm điều thiện để chuyển nghiệp,
thì dù sống trong sự nghèo nàn, tâm họ vẫn được an vui…
Nói
tóm lại, nếu đứng về tâm thọ nghiệp thì có thể nói
là quả báo xảy ra tức thời, như bóng theo hình, hay là như
bánh xe lăn theo chân con bò, đúng như trong kinh Pháp Cú, bài
kệ I và II viết:
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý
làm chủ tạo tác
Nếu
với ý ô nhiễm
Nói
lên hay hành động
Khổ
não bước theo sau
Như
xe chân vật kéo
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý
làm chủ, ý tạo
Nếu
với ý thanh tịnh
Nói
lên hay hành động
An
lạc bước theo sau
Như
bóng không rời hình”.
Hai
bài kệ trên còn cho thấy vai trò làm chủ của ý, tức là
sự tác ý đối với nghiệp nơi thân (thân nghiệp) và nghiệp
nơi lời nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy mà đạo Phật luôn
luôn nhấn mạnh trong thuyết nhân quả nghiệp báo “tác ý là
nghiệp”. Vì thế phải dụng tâm, chế ngự tâm, làm sao cho
tâm mình luôn luôn nghĩ thiện, nghĩ lành, thì Thân Nghiệp
và Khẩu Nghiệp cũng sẽ thiện và lành, đời này và đời
sau sẽ được an lạc, hạnh phúc.
Tiến
lên một bước là thanh tịnh hóa Tâm, (tâm không còn
nghĩ tới thiện hoặc ác nữa). Phật giáo không dừng
lại ở điểm “Không làm các việc ác, chỉ làm các việc
lành”, chuyển Nghiệp xấu thành Nghiệp tốt, mà còn đi xa
hơn, đến chỗ “Tâm ý thanh tịnh, giải thoát“, nghĩa là
thoát ly sự trói buộc của đời sống tương đối trong vòng
nhân quả. Thiện, ác chỉ là vấn đề luân lý của đạo
Phật, giác ngộ giải thoát mới là mục đích của Phật giáo.
Ban
Biên Tập
www.thuvienhoasen.org
(Bài
này đã được phát thanh ngày 5 tháng 6 tại Nam California và
6 tháng 6, 2005 tại Houston Texas)
Discussion about this post