TRẢ
LỜI: Kinh: Nghĩa đen là sợi tơ thẳng, xuyên suốt. Sách
Phật gọi là kinh, vì chúng có tác dụng xuyên suốt lời dạy
của Phật, giữ vững không để mất đạo lý của Phật dạy,
trên thì phù hợp với đạo lý, dưới thì phù hợp với trình
độ người nghe.
Kinh
Phật sở dĩ gọi là khế kinh, vì chúng khế hợp với đạo
lý do Phật dạy, đồng thời cũng khế hợp với căn cơ người
nghe.
Kinh
Phật thường bắt đầu bằng các chữ “Như thị ngã văn”
(như vậy tôi nghe). Tôi ở đây, chỉ ông A Nan, người trực
tiếp nghe lời Phật và thuật lại. Câu ấy xác nhận lời
trong kinh chính là lời Phật nói.
Ba
tạng kinh điển gồm có: Kinh tạng, ghi lại những lời Phật
dạy; Luật tạng, ghi lại những giới luật làm khuôn phép
sinh hoạt và tu học cho tu sĩ; Luận tạng, gồm các bộ luận
do các luận sư, đệ tử Phật trình bày, giải thích một
cách có hệ thống và theo chiều sâu giáo lý đạo Phật.
Các
bài thuyết pháp của đức Phật được sưu tập lại là Kinh.
Toàn bộ Kinh Phật hợp lại thành Tạng Kinh (S. Sutrapitaka).
Đó
là sơ qua về nghĩa chữ KINH. Muốn biết thêm chi tiết
xin đọc thêm hai bài giảng về ý nghĩa chữ KINH của Tỳ
kheo Thích Nhật Từ và Thích Hằng Trường:
Ý
Nghĩa của Chữ “Kinh”
Thích
Nhật
Từ
Trong
suốt
cuộc đời hoằng pháp, đức Phật không hề viết sách.
Tất cả kim ngôn hay lời dạy của Ngài được truyền thừa
lại nhờ vào truyền thống tụng đọc thuộc lòng, của các
vị đệ tử Ngài, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
về sau mới được ghi chép lại thành dạng văn bản, gọi
là Kinh.
Các
nhà Phật học truyền thống Trung Quốc giải thích rằng Kinh
là “khế hợp.” Khế ở đây bao gồm hai phạm trù khế lý
và khế cơ. Khế lý là nội dung ý nghĩa của những lời giảng
dạy phải được đặt trên nền tảng Trung đạo, không thiên
lệch vào sự chấp mắc nào. Khế cơ là sự thể hợp với
từng căn cơ đối tượng. Khế lý và khế cơ có giá trị
xuyên suốt thời gian và không gian. Theo nghĩa này, Kinh là chân
lý siêu tuyệt của các chân lý mặc ước và công ước.
Tác
giả của Luận Phật Địa còn đi xa hơn, khi giải thích: “Khế
là phù hợp với tinh thần giáo lý mầu nhiệm của các đức
Phật trong ba thời, đồng thời còn đáp ứng một cách sát
sao với sự lãnh hội của đương cơ tiếp nhận giáo pháp
ấy.” Theo đó, sự khế lý mà thiếu khế cơ hay khế cơ mà
không khế lý thì chẳng được gọi là Kinh.
Các
nhà chú sớ Kinh điển của Trung Quốc không dừng lại tại
đó, còn đi sâu vào việc khai thác sự đa dạng về ý nghĩa
của Kinh. Theo các nhà sớ giải, Kinh gồm có năm nghĩa: (1)
pháp bổn, (2) vi phát hay xuất sanh, (3) tuyền dũng, (4) thằng
mặc, (5) kết man, (6) hiển thị. Các cách định nghĩa chữ
Kinh như vừa nêu tuy có phần phong phú, đa dạng, nhưng đã
đi quá ý nghĩa từ nguyên của chữ Kinh trong Phật giáo, thời
kỳ nguyên thủy.
Trong
đạo Phật, ý nghĩa chữ Kinh ban đầu rất đơn giản. Kinh,
tiếng Sanskrit viết là sūtra, và tiếng Pali viết là sutta,
chỉ có nghĩa chính là những lời giảng dạy của đức Phật
về đạo đức, chân lý và giải thoát. Nó liên hệ đến
sự nghe, nghe những lời dạy của đức Phật. Nói cách khác,
Kinh là những lời dạy của Phật hay của các vị Bồ-tát,
A-la-hán. Trong ý nghĩa rộng hơn, chữ Kinh còn ám chỉ cho (1)
các thể loại văn học Phật giáo, hay (2) Tạng Kinh (Sutta Piṭaka),
hay chỉ chung cho (3) Ba kho tàng văn học Phật giáo (Kinh, Luật,
Luận). Kinh là sách ghi chép những lời dạy về chánh pháp,
những phương thức hành trì hay các pháp môn được đức
Phật và các vị thánh đệ tử của ngài giảng dạy.
Các
vị thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật là nhóm năm
anh em Kiều-trần-như, mười vị đệ tử lớn và 1250 vị
tỳ-kheo đều có nhiều cuộc đối đáp về đạo lý và con
đường tu tập với các người theo Bà-la-môn giáo và các
tôn giáo bấy giờ. Các pháp thoại mang tính cách xiển dương
và truyền bá đạo pháp như vậy, có giá trị tương đương
với lời Phật dạy trong nhiều trường hợp cụ thể. Nên
các pháp thoại đó cũng được xem là kinh, tức một dạng
khác của lời Phật dạy. Các bài Kinh loại này có mặt khắp
trong các Kinh điển Phật giáo của Nguyên Thuỷ và Đại thừa.
Như
vậy, “Kinh” chỉ chung cho các lời dạy đạo lý hoặc là các
pháp thoại do đức Phật nói cho các hàng đệ tử hoặc người
khác, hoặc các pháp thoại của các vị thánh tăng đối đáp
với nhau hay đối với người ngoại đạo. Ý nghĩa ban đầu
của Kinh chỉ đơn giản có thế, dù dưới dạng truyền khẩu
hay được biên tập thành văn bản về sau.
Mặt
khác, “Kinh” là một khái niệm bao quát, chỉ chung các lời
dạy của Phật về đạo đức (dhamma) hay con đường tu tập
và những phép tắc (vinaya) liên hệ đến đời sống của
cộng đồng tu sĩ sống dưới sự bảo hộ và hướng dẫn
của Phật. Nó hoàn toàn không mang các ý nghĩa như “pháp bổn,”
“vi phát,” “dũng tuyền,” “kết man,” “xuất sanh,” ” hiển thị
” hay ý nghĩa “khế cơ” như các nhà sớ giải Trung Quốc đã
phát triển về sau. Nói như vậy không có nghĩa phủ định
tính chất khế cơ trong lời Phật dạy. Chỉ có con người
ứng dụng kinh, giảng dạy Kinh có khế cơ hay không mà thôi.
Nói cách khác tính khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào vị pháp
sư qua sự trình bày pháp thoại đến với quần chúng thính
giả hơn là bản thân của pháp thoại đó được biểu hiện
dưới hình thức lời nói hay văn tự. Văn tự hay ngôn ngữ
có giới hạn, không thể làm chức năng xứng hợp như chính
con người của đức Phật và các vị đệ tử thánh của
Ngài. Ý nghĩa thâm sâu của Kinh nếu không được vị pháp
sư trình bày một cách sáng sủa, chính xác và hợp đối tượng
thì người nghe có thể rơi vào các tình trạng ngộ nhận,
thoái thất đạo tâm và như vậy là mất hết khế cơ. Đặc
tính khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào người giảng đạo
và người nghe. Thuyết giảng pháp thoại mà không nắm bắt
được đối tượng nghe pháp sẽ có thể dẫn đến tình trạng
làm suy thoái đức tin chánh pháp của người nghe. Ngược lại
thuyết pháp phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng thấm
nhuần lợi ích và an lạc thì sự thuyết pháp đó đã thành
tựu ý nghĩa khế cơ rồi. Như vậy lợi ích hay tác hại của
một buổi pháp thoại đối với người nghe tùy thuộc rất
nhiều vào phương tiện giảng dạy và phong cách trình bày
của vị pháp sư, chứ không phải là bản thân của Kinh điển
văn tự.
Nói
tóm lại, chữ Kinh trong Phật giáo được dùng để chỉ cho
lời Phật dạy dưới hình thức văn tự hay truyền khẩu,
có giá trị hướng thượng, phát triển đạo đức, nuôi lớn
thiền định, phát sanh trí tuệ, giúp cho người đọc tụng
đạt được an lạc và hạnh phúc. Kinh điển là ngón tay để
chỉ cho chúng sanh thấy được mặt trăng, là chiếc bè để
đưa người sang sông giải thoát. Bản thân Kinh điển không
phải là mặt trăng và cũng không phải là bờ giải thoát.
Mặt trăng ở đây ám chỉ cho chân tâm, Phật tánh và Niết-bàn.
Người đọc tụng và thọ trì cần nương vào lời Kinh để
nhận ra được chân tâm, Phật tánh của mình, cũng như nương
vào ngón tay để thấy được mặt trăng và nương vào thuyền
để sang được bờ bên kia. Sau khi thấy được trăng cần
phải biết quên ngón tay. Sau khi qua được bờ rồi, nên thả
thuyền xuống sông để nó có thể giúp được nhiều người
khác muốn sang sông. Đừng có thái độ chấp thủ và tôn
thờ ngón tay đã giúp ta thấy được mặt trăng, cũng như
chiếc bè đã giúp ta qua được bờ bên kia!
Tỳ
Kheo Thích Nhật Từ
http://www.thuvienhoasen.org/kinhtunghangngay-ynghiatungkinh.htm
Ý
nghĩa của chữ Kinh
Thích
Hằng
Trường
Nếu
các
bạn nghĩ rằng kinh là những cuốn sách giấy trắng mực
đen thì bạn lầm rồi đấy. Kinh có muôn vàn hình thức sai
biệt. Trong thành kiến của ta kinh chỉ là sách là chữ. Nhưng
bạn có tin rằng kinh còn có hình thức là âm thanh, là hình
ảnh, vật chất, hiện tượng. Thí dd như trong đời này kinh
được viết trong băng cassette hoặc CD, tồn tại trong mạng
lưới internet, hoặc diễn đạt bằng radio, phim ảnh. Trong
đời sống của ta cũng đầy dẫy những hiện tượng đáng
gọi là kinh. Bởi vậy ta phải nắm lấy nội dung của kinh
để hiểu sự biểu hiện của nó trong thế giới quanh ta. Kinh (sutra) có rất nhiều nghĩa. Xin nêu ra mười nghĩa chính:
Dũng
tuyền: Nghĩa là suối phun nước có mạch ngầm dưới đất.
Chân lý chứa đựng trong kinh như nước suối tuôn trào, gội
sạch mọi phiền não cấu bẩn, khiến ta thân tâm thanh tịnh.
Suối nước chảy trên mặt đất thì có thể cạn, còn suối
nước có mạch ngầm dưới đất thì tương đối bất tận.
Hình ảnh suối chảy róc rách, gợi lên cho ta cảm giác tươi
mát, dễ chịu. Có người trong lòng bực bội chuyện gia đình,
mới vặn máy nghe nhạc, xem TV cho khuây khỏa. Nhưng càng nghe
càng thêm bực dọc, bởi vì xem TV chỉ tạm tránh né phải
đối diện với thực tại, chớ không giải quyết vấn đề
nội tại trong lòng. Chừng khi nghe băng giảng kinh, thì tự
nhiên lòng an định, phiền não biến mất. Lời kinh chính là
nước suối mát, dội sạch lửa nóng nảy.
Xuất
sinh:Cũng như mặt trời, lúc nào cũng tỏa ra ánh sáng,
lúc nào cũng phát ra năng lượng, kinh cũng vậy: Nó lúc nào
cũng tỏa ánh hào quang, lúc nào cũng làm phát sinh đủ mọi
công đức, đủ mọi pháp lành, bởi vì chân lý trong kinh có
thể làm ta thức tỉnh, phát tâm bồ đề, rồi theo đó thực
hành. Tam thế chư Phật đều từ chân lý trong kinh mà đắc
giác ngộ. Nhiều người chỉ nghe một câu kinh mà cả đời
thay đổi, bỏ ác làm lành. Ngài Huệ Năng nghe một câu kệ
trong kinh Kim Cang, rồi không biết bao nhiêu hạt giống
bồ đề của ngài đã gieo trồng trong vô số kiếp trước
đột nhiên sống lại, khiến ngài giác ngộ. Đó chính là
tác dụng làm xuất sinh pháp lành của kinh.
Hiển
thị: Hiển là làm lộ ra, thị là chỉ cho thấy. Giống
như mặt trăng, ngôi sao sáng hay ngọn đăng tháp có thể rọi
sáng bóng đêm hiển bày mọi cảnh tượng. Kinh cũng là mặt
trăng hay ngọn hải đăng, làm hiển thị những định luật,
chân lý của vũ trụ mà bình thường ta khó thấy rõ trong
màn đêm vô minh của tâm trí. Nhở kinh ta mới biết được
những cảnh giới vô hình như những buổi thuyết pháp của
Phật trên cung trời Đâu Suất. Hoặc kinh diễn bày những
triết lý trừu tượng giải thích về chân lý. Câu chuyện
sau đây nói về sức mạnh khi chân lý hiển thị: Có vị thầy
sau nhiều năm nghiên cứu tham thiền vất vả, vẫn không sao
chứng ngộ. Anh ta mới đắp y, trãi tọa cụ trịnh trọng
đảnh lễ thầy mình, hỏi rằng: Thưa thầy, con tu đã lâu
mà vẫn chưa biết làm sao giải thoát, xin thầy chỉ bảo!
Vị thầy hỏi ngược lại: Vậy chớ ai trói buộc con, mà
con đòi giải thoát hở? Giống như điện chớp lóe sáng giữa
đêm đen, chỉ chớp nhoáng, thầy kia lập tức thấy rõ, thấu
suốt đường tu và tâm mình. Anh ta không còn mù mờ nữa.
Sức mạnh của kinh và của chân lý thì như thế: Chỉ ra bến
giác, thoát vô minh, sửa vận mạng.
Thằng
mặc:Nghĩa là dây dọi hay thước đo. Thằng mặc ở đây
mang hai ý nghĩa: Một, Là phương tiện đo đạc: Không có dây
dọi thì chẳng sao xây nhà cho thẳng. Không có thước, côm
ba, thì chẳng sao vẽ hình cho đúng được. Hai, Là đơn vị
đo lường tiêu chuẩn: Như các hệ thống đo lường trong toán
học, vật lý hay hoá học; các đơn vị đo đạc trừu tượng
dùng trong khoa kinh tế học, tâm lý học, xã hội học, đều
là thằng mặc. Kinh là phương tiện đo đạc, và chân lý trong
kinh là tiêu chuẩn do đạc để ta theo đó tu hành. Những chân
lý trong kinh là những tiêu chuẩn của thiện nghiệp, đạo
đức, công hạnh tu tập, quá trình tu chứng, và quả vị.
Thí dụ như kinh dạy rằng: Con đường giải thoát là giới
định huệ. Nếu bạn không tu giới định huệ mà được
giải thoát, thì chuyện đó thật ly kỳ lắm đó!
Quán
xuyến: Nghĩa là xâu kết lại với nhau. Như vòng hoa xâu
kết mấy cánh hoa rời rạc lại với nhau.Chân lý trong kinh
xâu kết mọi sự lý, mọi hiện tượng lại với nhau trong
một quan hệ nhân quả. Thí dụ như kinh có thể giải thích
cho thấy mối quan hệ giữa việc ăn trộm và cuộc sống nghèo
hèn, mà ta vẫn cứ tưởng chúng là hai việc hoàn toàn không
có liên quan gì nhau. Giống như trẻ em chắp nối mấy miếng
puzzles lại với nhau, hay bác thợ nề đắp mấy viên gạch
rời rạc lại thành bức tường, kinh xâu kết những chuyện
mà ta cảm thấy rời rạc không liên quan gì với nhau thành
ra một bức hình toàn diện của vạn pháp (tổng tướng),
trong đó mọi thành phần (biệt tướng) thì quan hệ mật thiết,
không thể phân chia, tách rời. Tất cả những biến đổi
của mỗi thành phần, dù tốt hay xấu, hoặc trở nên tương
đồng (đồng tướng), hoặc trở nên khác biệt (dị tướng),
hoặc sinh ra (thành tướng), hoặc chết mất (hoại tướng);
tất cả mọi chu kỳ và biến thiên của mọi hiện tượng
trong vũ trụ và pháp giới đều bao hàm trong một đại thể.
Kinh là lăng kính mà qua đó ta có thể thấy đại thể ấy.
Cũng có nghĩa rằng kinh là lăng kính giúp ta đạt được cái
nhìn như thị: Thấy vạn pháp bằng chân lý, không bị ảnh
hưởng bởi thành kiến, ngã kiến hay phiền não.
Nhiếp
trì: Nghĩa là nắm giữ, giữ gìn, không để cho biến mất
hay hư hoại. Cũng giống như sức hút của trái đất, hay trọng
lực, nhiếp trì tất cả mọi vật trên mặt đất, kinh nhiếp
trì tất cả mọi chân lý. Kinh là một thứ hoàn toàn thanh
tịnh, không phát sinh từ tham sân si, với năng lực vô song
duy trì tâm thức của người tu trên con đường thanh tịnh
và trí huệ. Mỗi một ý trong kinh là một hạt giống bất
diệt trong tâm thức của người tu. Hạt giống ấy một khi
đã gieo xuống thì bất diệt, từ từ lớn mạnh, tạo ảnh
huởng khiến ta hướng vào đường lành, tránh ngõ ác.
Thường:
Nghĩa là thường hằng bất diệt. Ví như hư không: Chẳng
sao phá huỷ được nó. Cũng vậy, chân lý trong kinh chẳng
ai có thể huỷ hoại được. Ta có thể huỷ báng, chê bai,
thiêu đốt kinh sách, cấm cản phát hành, nhưng không sao thay
đổi được những đạo lý trong kinh. Vào thời Đường, có
vua Võ Tông (814-846) là một người tín đồ Đạo Giáo kiền
thành. Tin tưởng rằng trừ khử Phật giáo sẽ đem lại trường
sinh bất lão, đồng thời cũng muốn cân bằng lại thế lực
trên mặt chính trị và kinh tế mà Phật giáo đang có ảnh
hưởng sâu đậm, Võ Tông đã hạ lệnh diệt Phật: hơn 4,600
chùa bị hủy phá; 40,000 đền miếu đốt rụi; khoảng 260,500
chư tăng ni bị bắt hoàn tục, và hàng trăm ngàn kinh điển,
tài liệu về Phật pháp bị thiêu đốt. Tuy thành công trên
mặt chính trị và kinh tế, Võ Tông chẳng diệt được ảnh
hưởng văn hóa của Phật giáo. Nhất là chân lý nhân quả
thì thể hiện trong sinh hoạt, ghi chép trong đời sống và
tâm thức của mỗi người, thì làm sao xóa được? Chỉ mấy
tháng sau khi tiến hành diệt Phật, chính Võ Tông vì uống
thuốc trường sinh mà nhuốm bịnh chết. Phải chăng chân lý
‘ác giả ác báo’ thị hiện? Chân lý nhân quả này, không
cần sách vở biên ra mới tồn tại, bởi vì nó vĩnh viễn
khắc sâu trong cuộc sống của ta.
Pháp:Pháp
ở đây có nghĩa là lý tất nhiên, lẽ đương nhiên. Kinh bao
hàm những lý lẽ không sao phủ định được, mà ta gọi là
chân lý. Hai ngàn năm trước Phật dạy rằng: Không nên cất
giữ vũ khí trong nhà vì nó sẽ dễ đưa tới nghiệp sát.
Hai ngàn năm sau, bây giờ ở Mỹ người ta mới thống kê cho
thấy khả năng sát nhân đã tăng lên gấp 3 lần trong những
gia đình nào trong nhà có giữ súng ống.
Điển:
Có nghĩa là tập hợp những nghĩa lý tốt lành, không chút
tà vạy. Điển là thứ ta có thể tin cậy để dựa vào, để
nghiên cứu, để tìm hiểu, vì nó không có bóng dáng của
lòng ích kỷ, thiên vị hay quan niệm lệch lạc. Khi những
sách vở nói về một triết thuyết, học thuyết, hay quan điểm
của một cá nhân thì nó chưa phải là điển. Khi nào những
gì được trình bày trong sách vở ấy hoàn toàn vắng bặt
dấu vết của lòng truy cầu danh vọng, cảnh giới hẹp hòi
nhỏ bé của bản ngã thì nó sẽ thành kinh điển. Dân tộc
nào cũng có vô số tục ngữ; chúng là kết quả của sự
quan sát và kinh nghiệm những việc xảy ra ở đời. Phần
lớn những tục ngữ ấy là một thứ điển chứa đựng chân
lý sống, công chính và hiển nhiên, như:
Lưới
trời lồng lộng, thưa mà khó thoát.
Đánh
chết, cái nết chẳng chừa.
Không
có lửa, sao có khói.
Bởi
tin nên mắc, bởi chắc nên nhầm.
Đức
năng thắng số.
Thuốc
chữa bệnh, chẳng chữa được mệnh.
Cây
già, lá úa.
Kinh:
Nghĩa là con đường. Trong danh từ Hán Việt, chữ này đồng
âm với chữ kinh của kinh điển. Con đường thì có to nhỏ,
dài ngắn khác nhau. Những đạo lý trong kinh điển dạy cũng
giống như con đường, hay nói đúng hơn là bản đồ để
ta theo đó tu hành giải thoát sinh tử. Ngoại đạo là con đường
dẫn ta đi ra khỏi Đạo, hướng ngoại, rời bỏ chân lý và
chân tâm. Hồi đời nhà Minh có ngài Đức Thanh Hám Sơn. Có
một thời gian ngài ẩn cư, tu thiền. Khi không biết cảnh
giới và phương thức tu trì của mình đúng hay sai chẳng có
thiện tri thức ở gần kề chỉ dạy, ngài đã dùng kinh Lăng
Nghiêm để kiểm chứng cảnh giới của mình. Nhờ đó ngài
mới thấu triệt thiền cảnh, xác quyết đường tu.
Thích
Hằng Trường
http://www.hnpv.org
Discussion about this post