GỐC LỄ “BÔNG HỒNG CÀI ÁO”
Tâm
Huy
Nghi
thức Bông Hồng Cài Áo trong dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 Âm
lịch) là một nghi thức đặc biệt của Phật Giáo Việt Nam.
Càng đặc biệt hơn, nghi thức này do giới Phật tử trẻ
tuổi tại miền Nam đưa vào Phật Giáo từ hơn 40 năm về
trước. Sau đó không lâu. nó đã trở thành một nghi thức
có tính cách truyền thống trong lễ Vu Lan. Gần đây, tuy có
một số người như TT Vân Đàm (Tu viện Pháp Vương, Fairfax,
Virginia) hay Cư sĩ Bình Anson (Chủ tịch Hội Phật Giáo Tây
Úc) đặt vấn đề về việc lễ Bông Hồng Cài Áo có phù
hợp với nghi thức Vu Lan của Phật Giáo hay không, cho tới
nay nó này vẫn là một trong những nghi thức không thể thiếu
của lễ Vu Lan tại hải ngoại.
Điều
đáng nói là một sự kiện quan trong như vậy của Phật Giáo
Việt Nam hầu như không được các sử sách Phật Giáo trong
nước cũng như hải ngoại đề cập tới.
Dường
như chỉ có một cuốn sách duy nhất nói tới sự kiện này
là cuốn ghi chép về thơ thầy Nhất Hạnh của sư cô Chơn
Không Cao Ngọc Phượng (Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát, nhà xuất
bản Lá Bối, Paris 1980). Sự lãng quên nào cũng có dụng ý
của nó, và những dụng ý đó không thiếu trong những cuốn
sử về Phật Giáo Việt Nam khi đề cập tới các Phật sự
do ni giới hay giới cư sĩ thực hiện. Mùa Vu Lan tượng trưng
cho sự tri ân và báo hiếu của Phật Giáo, nên cũng là dịp
để chúng ta phủi bớt đi lớp bụi của sự lãng quên này.
Năm
1962 sư ông Nhất Hạnh phổ biến đoản văn Bông
Hồng Cài Áo, trong đó ông giới thiệu tục lệ cài
một bông hoa trên áo trong ngày Mother’s Day của người Nhật.
Ông viết: Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương,
không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng
sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, kẻo một mai
người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi
thấy cái tục lệ cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có
thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan. Ông cho
biết bông hoa mà cô sinh viên người Nhật cài cho ông trong
ngày Mother’s Day ở Đông Kinh là hoa cẩm chướng, không phải
hoa hồng.
Lúc
đó Nhất Hạnh chưa phải là một tên tuổi có sức thu hút
mạnh trong giới Phật tử trẻ. Chỉ có một số nhỏ sinh
viên biết đến ông. Tuy thế, đề nghị nói trên của Nhất
Hạnh được một số thành viên trong Đoàn Sinh Viên Phật
Tử Sài Gòn đón nhận một cách tích cực. Họ chép tay đoản
văn Bông Hồng Cài Áo thành thành hàng trăm bản và cho phổ
biến ngay trong nội bộ đoàn. Lễ Vu Lan năm đó (1962), đoàn
Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn thực hiện nghi thức Bông Hồng
Cài Áo tại chùa Xá Lợi: họ mời tất cả những người
dự lễ nếu còn mẹ cài một bông hoa hồng màu đỏ lên áo,
những người mất mẹ cài một bông hoa hồng màu trắng trên
áo.
Có
thể đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn thực hiện được điều
này nhờ hai yếu tố thuận lợi:
1-
Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc họp
tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn (trụ sở của Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam) từ ngày 26 tới 28 tháng 12.1961 với khoảng
200 đại biểu tham dự. Đại Hội biểu quyết: a- bản nội
quy Gia Đình Phật Tử Việt Nam; b- quyết định hợp nhất
Gia Đình Phật Tử thuộc Ban Hướng Dẫn bốn đoàn thể Phật
Giáo (Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Trung Việt, Nam Việt,
Việt Nam Phật Giáo và Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền
Nam) dưới sự lãnh đạo của Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia
Đình Phật Tử Việt Nam; c- bầu Ban Thường Vụ của Ban Hướng
Dẫn Trung Ương với Thượng toạ Thiện Hoa làm Trưởng Ban,
các thành phần khác đều là các huynh trưởng kỳ cựu của
GĐPT.
Lúc
đó Sinh Viện Phật Tử Sài Gòn là đoàn đầu tiên về loại
này (đoàn Sinh Viện Phật Tử Huế mãi tới tháng 3.1963 mới
được thành lập), nên các hoạt động có tính Phật sự
của họ dễ được sự yểm trợ tinh thần dù ẩn hay hiện
của ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT.
2-
Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật Học
Nam Việt từ năm 1955, nắm quyền quản trị chùa Xá Lợi,
là một cư sĩ học giả Phật học có tinh thần khai phóng
không cố chấp bảo thủ, nên không ngăn cản việc đoàn Sinh
Viên Phật Tử Sài Gòn đưa một nghi thức mới lạ nhưng dễ
thương vào lễ Vu Lan.
Có
thể nói qua việc thực hiện nghi thức Bông Hồng Cài Áo trong
lễ Vu Lan 1962 tại chùa Xá Lợi, đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài
Gòn đã chứng tỏ được khả năng tổ chức. Họ sẽ trở
thành lực lượng xung kích lôi cuốn các sinh viên học sinh
khác, làm bùng nổ lớn cuộc đấu tranh của Phật Giáo chống
lại chính quyền Ngô Đình Diệm từ tháng 5.1963, dẫn tới
sự sụp đổ của chính quyền này vào đầu tháng 11.1963.
Đầu
năm 1965 nhà xuất bản Lá Bối ở Sài Gòn xuất bản cuốn
Bông Hồng Cài Áo nhưng không giữ bản quyền, nên cuốn sách
mỏng này được phổ biến rất rộng qua nhiều đợt in khác
nhau. Nó trở thành cuốn sách được biết đến nhiều nhất
của Nhất Hạnh.
Nhà
văn Cộng sản Anh Đức kết án tác giả Bông Hồng Cài Áo
“cố ý làm cho người ta chỉ nhớ đến bà mẹ cá nhân của
mình mà quên đi bà mẹ lớn lao là tổ quốc” (trong Bức
Thư Cà Mau, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội 1966).
Năm
1967, một nhạc sĩ quen thuộc với giới sinh viên Phật tử
Sài Gòn là Phạm Thế Mỹ phỏng theo ý văn của Nhất Hạnh
trong đoản văn trên, viết bản nhạc Bông Hồng Cài Áo. Bản
nhạc này lập tức được các đơn vị Gia Đình Phật Tử
miền Nam đón nhận và đưa vào nghi thức Bông Hồng Cài Áo
trong lễ Vu Lan. Kể từ đó bản nhạc này gắn bó với nghi
thức Bông Hồng Cài Áo.Bông
Hồng Cài Áo, Sáng Tác: Phạm Thế Mỹ | Ca Sĩ: Bằng Kiều
Tại
hải ngoại, nghi thức Bông Hồng Cài
Áo, được nhiều bài báo Mỹ ca ngợi. Họ cho rằng
lòng hiếu đễ được nâng lên thành một nghi thức tôn giáo
là một điểm sáng của Phật Giáo đáng được đặc biệt
lưu ý. Có điều họ chưa biết nghi thức này là một đặc
điểm riêng của Phật Giáo Việt Nam và trở thành một truyền
thống trong lễ Vu Lan là nhờ nỗ lực liên tục của các đơn
vị Gia Đình Phật Tử từ năm 1962 tới nay.
* Tâm
Huy Aug 20, 2004
Xem
thêm:
Discussion about this post