TRÓI BUỘC TỪ ĐÂU?
Thích Nữ Huệ Trân
Khi công tử A-Nậu-Lầu-Đà thưa với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc nhiên nhưng rất lo lắng và buồn khổ.
Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay hai người con trai của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết pháp khi Ngài cùng tăng đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính bản thân bà, khi đến nghe Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì những lời dạy từ bi, và dáng vẻ uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức Phật.
Phật cùng tăng đoàn đã rời vương quốc này, đi về hướng Câu-Tát-La mấy ngày nay rồi mà bà còn tưởng nhớ tới những lời Phật dạy.
Nhưng bà chỉ có hai người con trai mà bà yêu quý nhất trên đời, nếu con bà xuất gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu?
Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu sẽ trở thành một người giác ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não thế gian. Đó có phải là điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình đạt được hay không?
Tận đáy thâm tâm, người mẹ cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà vớt vát bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ được Tổng trấn Bạt-Đề cùng đi.
Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng giữ được con, vì Tổng trấn Bạt-Đề – bạn thân thiết của con bà – là người giầu sang, quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà xuất gia theo Phật?
Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu-Lầu-Đà về nhà, hớn hở nói với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công việc rồi sẽ cùng cậu xuất gia!
Trên đường tìm đến nơi Phật đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng thuộc giòng dõi quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân. Chiếc xe tứ mã đưa nhóm người trẻ đi cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc coóc như nhạc đệm của bản trường ca ngân vang bất tận…..
Khi qua khỏi khu rừng thưa, đến đầu một thôn xóm, công tử Bạt-Đề dừng cương, nhìn một lượt khắp các bạn rồi bỗng phá lên cười sặc sụa. A-Nậu-Lầu-Đà hỏi bạn:
– Có điều chi mà huynh dừng xe, cười dữ vậy?
– Không buồn cười sao được, này, chúng ta hãy đều tự nhìn lại mình xem, có ai đi xuất gia tu học mà ăn mặc sang trọng như vậy không? Mũ áo xênh sang chưa đủ, còn vòng vàng châu ngọc đeo đầy người thế kia! Chúng ta không định làm trò cười đấy chứ?
Bấy giờ, ai nấy đều xuống xe, xăm soi, ngắm nghía mình và rồi tất cả cùng rũ ra cười.
Quả đúng như công tử Bạt-Đề nói, họ còn trẻ trung, năng động nên quá hồn nhiên, đi xuất gia mà vẫn trang phục như đi du xuân ngắm cảnh.
Thế là họ cùng đồng ý buộc giây cương chiếc xe tứ mã vào cây sồi ven đường, cởi bỏ áo quần sang trọng, chỉ mặc bộ đơn giản nhất. Bao nhiêu bạc vàng châu báu cũng trút hết, cho vào một túi vải, và cùng tiến về thôn làng trước mặt với ý định sẽ trao tặng cho những người nghèo khổ trong làng.
Nhưng ngay trên con đường đất đỏ dẫn vào làng, họ thấy một quán lá xiêu vẹo. Đó là quán hớt tóc của một thanh niên trạc tuổi họ, gương mặt sáng sủa khôi ngô nhưng áo quần thì rách rưới, nghèo nàn.
Họ ghé vào quán, hỏi đường tới biên giới vương quốc Câu-Tát-La.
Người đó biết ngay là họ muốn tìm tới nơi Đức Phật đang thuyết giảng vì mấy ngày nay cũng có nhiều người đi tới đây, rồi không biết phải rẽ hướng nào mới tới biên giới Câu-Tát-La.
Sau khi được chỉ đường rất ân cần, cặn kẽ, công tử A-Nậu-Lầu-Đà đại diện các bạn, tặng người hớt tóc nghèo khổ gói châu báu và tất cả áo quần sang trọng cùng chiếc xe tứ mã, vì từ nay họ không còn cần tới nữa.
Người hớt tóc đứng lặng, ôm gói châu báu, nhìn theo những vị công tử khuất dần sau cánh rừng thưa.
Mở túi vải ra, người ấy rụng rời, sửng sốt.
Chưa từng bao giờ trong đời, người ấy được nhìn thấy những vòng xuyến lộng lẫy thế này, chứ đừng nói là được chạm vào, được sờ vào! Nay, không những được thấy, được cầm, mà tất cả những trang sức đắt giá này đều thuộc về mình.
Người đó cảm thấy sung sướng đến muốn ngất đi. Thôi, từ nay hết nghèo, hết đói, hết bị xua đuổi khinh khi.
Người ấy ngồi bệt ngay trên nền đất, ôm chặt gói châu báu mà mơ màng tận hưởng.
Nhưng rồi người ấy chợt tỉnh, đứng bật dậy, hốt hoảng nhìn quanh.
May mà xung quanh vắng lặng, không một bóng người chứ nếu có ai biết, ai thấy người ấy đang ôm gói châu báu trong tay thì chắc chắn mạng này chẳng còn!
Lại nữa, với bạc vàng của cải như vầy, làm sao người ấy có thể an giấc trong đêm nơi chòi lá trống trải này? Biết cất giấu ở đâu?
Nếu muốn hưởng cũng làm sao để hưởng, khi từ xưa, người ấy đã thuộc ngoại cấp, nghĩa là giai cấp nghèo hèn tận cùng trong xã hội? Quan quyền sẽ đến tra vấn và dù có nói thật cũng không ai tin lời một người cùng đinh, nghèo khổ?
Những dấu hỏi kinh khủng này khiến người ấy run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm vì sợ hãi.
Người ấy chợt nhận ra rằng, chỉ dăm phút trước đây thôi, tuy nghèo nhưng an vui thanh thản. Dăm phút sau, có cả một tài sản lớn lao trong tay mà bất an, hốt hoảng, lo sợ tứ bề!
Người ấy cũng lại nghĩ, những vị công tử giòng dõi quyền quý kia, tài sản của họ hẳn có gấp trăm lần thế này mà họ bỏ hết, đi tìm Phật, thì chắc là những gì Phật sẽ cho họ phải lớn lao vô cùng so với tài sản kia. Còn ta, ta nghèo quá, chẳng có gì phải bỏ, còn không theo bước họ, tính đợi đến bao giờ?
Nghĩ tới thế, tâm người ấy lập tức trở lại trạng thái bình an, vui vẻ.
Người ấy nhìn quanh rồi chọn một nhánh liễu cao, buộc gói châu báu trên đó với ý nghĩ, ai tìm thấy trước sẽ là sở hữu chủ.
Rồi chẳng buồn nhìn lại thôn xóm, người ấy rảo bước, chạy về hướng biên giới Câu-Tát-La, mong bắt kịp nhóm vương tử để được đi cùng.
Sau này, người thợ hớt tóc nghèo nàn ấy chính là Tôn Giả Ưu Ba Ly – Giới Luật Đệ Nhất – là một, trong mười đại đệ tử xuất sắc được hầu cận bên Phật.
Nghe lại câu chuyện này, chúng ta có dành ra đôi phút để tự hỏi: “Trói buộc từ đâu?” hay không?
TN Huệ Trân
(Độc-Cư-Am, đêm trăng 16)
Bài đọc thêm:
Trói buộc và giải thoát (Nguyễn Thế Đăng)
Trói buộc và giải thoát (Thích Tâm Hạnh)
Discussion about this post