TRẦN
NHÂN TÔNG
VÀ
TẦM VÓC CỦA MỘT THỜI ĐẠI
Nguyễn
Huệ Chi – Trần Thị Băng Thanh
Trong
mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một
trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã
xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong
sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông
bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
Nhân
Tông lên ngôi năm 1278, mới hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này
đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình,
nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều
đã vào nề nếp… Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song
khó khăn đối với ông vua trẻ lại là cái áp lực dồn tới
từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt
đầu tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối
cùng là hai cuộc xâm lăng năm 1285 và 1288. Chưa đầy năm năm
phải đương đầu với hai trận tấn công ồ ạt của “giặc
mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi lần
con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ,
trong khi phần lớn thế giới từ Âu sang Á lúc ấy đều đã
bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân Mông
Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tông
đã cố kết được lòng dân, phát huy được năng lực của
các tướng, động viên được tài trí của cả nước đánh
thắng giặc, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước nhà.
Quả là trong kháng chiến chống ngoại xâm, ông là một anh
hùng tiêu biểu. Công lao của những tướng lĩnh kiệt xuất
như Trần Quốc Tuấn… không thể phủ nhận, vai trò cố vấn
của vị Thượng hoàng dày dạn kinh nghiệm là Trần Thánh
Tông cũng khó lòng coi nhẹ, nhưng ở vị trí một người lãnh
đạo tối cao, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của
cuộc chiến. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn
và trong chỉ đạo chiến lược, ông đã đem lại cho quân
dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Những
năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước
đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh
giặc thưởng công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp
tục đối phó với cuộc tấn công phục thù của địch, vận
dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo và
cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách
ngang ngược của sứ bộ nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao
cho nước mạnh dân giàu. Có thể nói, hơn mười bốn năm
làm vua (1278-1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông
đã dành hầu hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông
chặt chẽ với nhau : cơ đồ xã tắc vững bền và nhân tâm
an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn lịch sử đã đóng
lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của
người xưa, dễ dàng chỉ ra những việc nên làm và không
nên làm… Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân Tông thuở đó chỉ
mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh vác trách nhiệm
quyết định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất
còn của cả dân tộc thì mới thấy hết bản lĩnh và tầm
vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu
chẳng phải một kẻ địch hạng xoàng ! Hốt Tất Liệt vốn
là một tướng cầm quân lão luyện, giặc Thát lại là một
đội quân ngang dọc vẫy vùng. Và sau khi đã làm chủ mảnh
đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn tập hợp được
cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều
người từng là nhà ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận
trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những hoàn cảnh cụ
thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần
Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và hành vi trong nhiều
thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự
quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người như ông.
Vào
khoảng cuối 1284 đầu 1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất
diễn ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp –
Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân Trần phải lùi về Vạn
Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông nhằm tránh mũi dùi
tấn công của giặc, giữa lúc quần thần không khỏi hoang
mang, Trần Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền hai câu :
會
稽舊 事 君須 記
驩
愛猶 存十 萬 兵
Cối
Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan,
Diễn do tồn thập vạn binh
(Cối
Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan
Diễn còn kia mười vạn quân).
Hai
câu thơ, có lẽ chỉ nhằm trấn an những bề tôi nào đó
cùng đi trên thuyền, nhưng đã lan truyền rất nhanh như một
thông điệp về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người đứng
đầu xã tắc. Một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của
Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân
Ngô dồn đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên,
đánh bại đội quân hùng mạnh của nước Ngô. Gợi một
điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình
vào triển vọng của đất nước lúc bấy giờ, trong tình
thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời Trần Nhân Tông cũng
nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương
Thanh – Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn
quan trọng hơn là cái dung lượng triết lý mà câu nói của
ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không phải chiếu
lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng
lúc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt
nhìn động của một triết nhân, để họ nhận rõ xu thế
chuyển hóa bên trong của cái hiện thực rối bời trước
mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc
chiến đấu tưởng như rất bất lợi nhưng lại đang diễn
ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người
chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” – ông
khách không mời mà đến, điều ấy cả ông và Trần Quốc
Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn
bày tỏ sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu
ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại
thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng
trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và
khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm
có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ
năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài.
Cũng
với niềm xác tín phi thường như thế ta lại thấy buột
thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào ngày khải
hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu
tích chiến tranh để lại còn ngổn ngang. Hai câu thơ như một
âm hưởng vĩ thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền
chạy giặc ngày nào mà sự đối lập động và tĩnh ở đây
tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống
nhất :
社
稷兩 回勞 石 馬
山
河千 古奠 金 甌
Xã
tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn
hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã
tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non
sông nghìn thuở vững âu vàng).
Rõ
ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây ra dù có ghê
gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử phủ định. Thực tế
đất nước đã vận động đúng như suy đoán tài tình của
nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để trở lại thế tĩnh
cân bằng.
Phải
nói, niềm xác tín lịch sử của Trần Nhân Tông có được
chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân bản đối
với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm
chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử thách
thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người
một cách đơn nhất hóa. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình
Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì nhằm đối phó với
nguy cơ quân Nguyên Mông gây hấn, vừa bắt gặp chiếc thuyền
bán than của Trần Khánh Dư – một tướng tài nhưng cũng
lắm tật – lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân
Tông đã có ngay lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư lại và
cho lại được dự vào hàng tướng soái cầm quân. Thái độ
bao dung của vị Hoàng đế thực không uổng phí: rồi đây
Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều
chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây một không khí cởi
mở trong tầng lớp quý tộc vương hầu, khiến họ càng xích
lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc.
Cũng
vậy, sau ngày kéo quân khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt
được một hòm thư biểu của không ít vương hầu quan lại
từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan, biết tình thế muôn
phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có
lúc xa giá triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng
thừa hiểu tâm lý con người thường tục ai mà chẳng có
chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công khen thưởng
(1), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông
liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ
yên lòng người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu
đó, dám chắc đây là một thời đại nhân hậu vượt lên
mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ
cũng là một thời đại có một không hai.
Không
chỉ có thế. Chính trong những tháng ngày bôn ba đánh giặc,
Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực : chỉ ở những
đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung
thành tận tụy mà không chút tính toán so đo. Hộ vệ ông
đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được
“bọn ấy” dâng cơm hẩm trên con đường rút chạy phải
nhịn đói từ sáng đến chiều. Nhận thức về cái cao quý
của người nghèo hèn đã in sâu vào trực giác của ông nên
sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp gia đồng của
các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi ; khi trị tội
những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho giặc, ông chủ trương
“chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết”
(Đại Việt sử ký toàn thư); ông cũng đem những điều chiêm
nghiệm đã đúc thành chân lý ra dụ bảo bề tôi : “Ngày
thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn
nạn chỉ có bọn chúng là có mặt” (Đại Việt sử ký toàn
thư). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức Trần
Nhân Tông, có vị trí cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết,
làm nên bệ đỡ cho cả một thời đại nói như Trần Quốc
Tuấn : “vua tôi chung sức đồng lòng”.
Đối
với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể từ sau năm
1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng
hoàng, rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành
vị tổ thứ nhất dòng Thiền Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu
đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch, đã có nhiều cách
lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô sĩ Liên thì cho là ông
đã “đi tìm siêu thoát”, trái với đạo Trung dung của Khổng
Mạnh (Đại Việt sử ký toàn thư). Tăng Hải Hoà tức Nguyễn
Đăng Sở ở thế kỷ XVIII lại liên tưởng xa hơn, rằng thực
chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác
tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc. Bởi tuy “trong nước vô
sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ,
chưa được an tâm… Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là
núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc
sang hai tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo
chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước
ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế
chí Bồ Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh).
Thoạt
nhìn, cả hai lời giải đáp trái ngược nhau xem ra đều có
những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng,
cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Đăng Sở lại cùng chung một nhầm
lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ quan,
không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của
vị Hoàng đế nhà Trần. Việc Trần Nhân Tông xuất gia vốn
là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ còn trẻ.
Ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước quỷ của
Thiên triều, chắc chắn là thế, nhưng thiết tưởng ông cần
gì làm cái chuyện khoác áo cà sa để giấu giếm những hoạt
động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính
trị hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp
nhận. Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu
thoát ? Không ! Nếu chỉ tìm đường siêu thoát cớ sao đã
đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường định
bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu
bỏ bê chính sự (1299) ? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng
miền trong nước, ông còn sang tận Chiêm Thành trong 9 tháng
trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện tác hợp
Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301) ? v.v. và
v.v…
Chỉ
có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi ta đặt Trần
Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang
nặng cảm thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân
Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915 – 990) đã
từng khuyên vua Lê Đại Hành : “Vô vi trên điện gác / Chốn
chốn tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật
ngữ, không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ
việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay nói như vua Lý Nhân
Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) “Không việc gì
không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng
có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền uyển tập anh). Kế
thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương
châm “cư trần lạc đạo” – ở giữa cõi trần mà vui
đạo, cũng là một khái niệm vô vi được vận dụng cụ
thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi
thịnh Trần. Và nhà vua đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ
trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo cái
lẽ sống “cư trần lạc đạo” ấy . Cũng như ông nội
và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý
thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch
sử của cá nhân mình. Ông đang thực hiện vô vi ngay trên
ngai vàng. Khi ông rời triều đình lên Yên Tử, con người
nhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay
được?!). Tuy vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn
ai hết quy luật sinh lão bệnh tử của tự nhiên, Trần Nhân
Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự
lại cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu
vô vi giờ đây là thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác
ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những câu hỏi lớn
: Con người là ai ? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu ?
Thế giới có hay không ? Thật hay ảo ?… Những câu hỏi ấy
loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất sớm con
người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích-ca-mâu-ni
tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả
tâm cả vật – sắc, thụ, tưởng, hành, thức, chúng ta không
loại trừ ở Trần Nhân Tông – giờ đây đã mang pháp danh
Trúc Lâm Đại Đầu đà – niềm khát khao được toả sáng
trí tuệ theo cách riêng của ông trước những câu hỏi loại
này để từ con người vô minh của nhân thế thật sự trở
thành một người tự do (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên
/ Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên / Báu sẵn trong nhà thôi khỏi
kiếm / Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền – Cư trần lạc
đạo phú) ; nhờ đó ít nhiều ông gầy dựng cho Thiền phái
Trúc Lâm một cơ sở triết thuyết nó là nền tảng vũ trụ
quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần. Về phương
diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm
vóc của một thời đại lớn trong lịch sử.
Hà
Nội 27 – 11 – 2008
Nguyễn
Huệ Chi – Trần Thị Băng Thanh
Mấy
bài thơ của Trần Nhân Tông
(Lời
bình của Nguyễn Huệ Chi):
春
景
楊
柳 花 深 鳥 語遲
畫
堂 簷 影 暮 雲飛
客
來 不 問 人 間事
共
倚 欄 杆 看 翠微
Phiên
âm:
XUÂN
CẢNH
Dương
liễu hoa thâm, điểu ngữ trì,
Họa
đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách
lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng
ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch
nghĩa :
CẢNH
XUÂN
Trong
khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi,
Dưới
bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.
Khách
đến chơi không hỏi việc thế tục,
Cùng
đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Dịch
thơ :
Chim
nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm
hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách
vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng
tựa lan can nhìn núi mây.
Huệ
Chi dịch
二
月 十 一 夜
歡
伯 澆 愁 風 味長
桃
笙 竹 簟 穩 龍床
一
天 如 水 月 如晝
花
影 滿 窗 春 夢長
Phiên
âm:
NHỊ
NGUYỆT THẬP NHẤT DẠ
Hoan
bá kiêu sầu phong vị trường,
Đào
sinh, trúc đạm, ổn long sàng.
Nhất
thiên như thuỷ, nguyệt như trú,
Hoa
ảnh mãn song, xuân mộng trường.
Dịch
nghĩa :
ĐÊM
MƯỜI MỘT THÁNG HAI
Chén
rượu rửa mối sầu có phong vị nồng đậm mãi,
Chiếc
chiếu “đào sinh” (ở Tứ Xuyên) bằng trúc yên ổn trên
giường rồng.
Trời
trong như nước, trăng sáng như ban ngày,
Bóng
hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.
Dịch
thơ :
Rượu
tưới sầu tan, vị đậm đà,
giường
rồng, chiếu trúc trải bày ra.
Trời
trong như nước, trăng vằng vặc,
Giấc
mộng xuân dài dưới bóng hoa.
Trần
Lê Văn dịch
天
長 晚 望
村
後 村 前 淡 似煙
半
無 半 有 夕 楊邊
牧
童 笛 裡 歸 牛盡
白
鷺 雙 雙 飛 下田
Phiên
âm :
THIÊN
TRƯỜNG VÃN VỌNG
Thôn
hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán
vô bán hữu, tịch dương biên.
Mục
đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch
lộ song song phi hạ điền.
Dịch
nghĩa :
NGẮM
CẢNH CHIỀU Ở THIÊN TRƯỜNG
Trước
thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Bên
bóng chiều, cảnh vật nửa như có nửa như không.
Trong
tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết.
Từng
đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dịch
thơ :
Trước
xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng
chiều dường có lại dường không.
Mục
đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò
trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Theo
bản dịch Ngô Tất Tố
Bài
thơ tả cảnh một buổi chiều ở phủ Thiên Trường (Nam Định)
nhưng cũng là giải đáp một câu hỏi về hai phạm trù Thiền
học “có” và “không” cho chính nhà thơ. Hai câu đầu,
buổi chiều hiện ra trong trạng thái “tĩnh” và mờ mờ
ảo ảo khiến người ngắm cảnh giằng mắc trong cái cảm
giác “có” và “không” lẫn lộn của hiện hữu. Nhưng
chợt từ xa hình ảnh một chú bé chăn trâu đi gần lại với
tiếng sáo véo von, đánh thức ấn tượng rõ rệt về cái
“có” – sự hiện hữu muôn đời của làng quê Việt Nam
– trong tâm trí tác giả. Thêm vào đấy lại một đàn cò
trắng lấp loáng bay xuống giữa đồng. Cái “có” lần lượt
đánh bạt cái “không” thì cũng chính là trước mắt người
ngắm cảnh, cái “động” đang thay thế cho cái “tĩnh”.
武
林 秋 晚
畫
橋 倒 影 蘸 溪 橫
一
抹 斜 陽 水 外 明
寂
寂 千 山 紅 葉 落
濕
雲 如 夢 遠 鐘 聲
Phiên
âm :
VŨ
LÂM THU VÃN
Hoạ
kiều đảo ảnh, bán khê hoành,
Nhất
mạt tà dương thuỷ ngoại sinh.
Tịch
tịch thiên sơn hồng lạc diệp,
Thấp
vân như mộng, viễn chung thanh.
Dịch
nghĩa :
CHIỀU
THU Ở VŨ LÂM
Chiếc
cầu chạm vẽ in ngược bóng vắt ngang dòng suối,
Một
vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước.
Nghìn
núi lặng tờ, lá đỏ rơi,
Mây
ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.
Dịch
thơ :
Lòng
khe in ngược bóng cầu hoa,
Hắt
sáng bờ khe, vệt nắng tà.
Lặng
lẽ nghìn non rơi lá đỏ,
Mây
giăng như mộng, tiếng chuông xa.
Trần
Thị Băng Thanh dịch
Khung
cảnh một chiều thu được nhà thơ vẽ lên bằng hình ảnh
phản chiếu qua một con suối, ở đó cái gì cũng đảo ngược
: bóng cầu, vệt nắng… rất đẹp nhưng hình như không thật.
Điểm thêm vào đó là cái nền mây trùm lên cảnh vật mờ
ảo như trong giấc mộng trong đó có những lá đỏ đang rơi
nhè nhẹ và tiếng chuông vẳng tới từ rất xa. Tất cả,
như muốn nói lên cái cảm quan Thiền về “thật” và “ảo”
trong tâm hồn tác giả.
餽
張 顯 卿 春 餅
柘
枝 舞 罷 試 春 衫
況
值 今 朝 三 月 三
紅
玉 堆 盤 春 菜 餅
從
來 風 俗 舊 安 南
Phiên
âm :
QUỸ
TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH
Giá
chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống
trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng
ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng
lai phong tục cựu An Nam.
Dịch
nghĩa :
TẶNG
BÁNH NGÀY XUÂN CHO SỨ BẮC TRƯƠNG HIỂN KHANH
Múa
giá chi xong, thử tấm áo ngày xuân,
Huống
nữa hôm nay lại gặp tiết mồng ba tháng Ba.
Bánh
rau mùa xuân như ngọc hồng bày đầy mâm,
Đó
là phong tục của nước An Nam xưa nay.
Dịch
thơ :
Múa
giá chi rồi thử áo xuân,
Hôm
nay hàn thực, buổi thanh thần.
Bánh
rau đầy đặn như hồng ngọc,
Nước
Việt, tục này theo cổ nhân.
Trần
Lê Văn dịch
Một
bài thơ tiếp sứ trình bày vẻ đẹp của phong tục đất
nước để khách thưởng lãm, có bánh, có rau, có điệu múa
cổ “giá chi” và trang phục mùa xuân của nghệ sĩ đang
múa. Người làm thơ khiêm nhường với những lời nhã nhặn,
nhưng đã phác hoạ lên cả một bề dày văn hoá mà thấp
thoáng đằng sau là ánh mắt tự hào về bản sắc riêng của
dân tộc mình.
CHÚ
THÍCH
(1)
Trong cuốn Trần Nhân Tông toàn tập, nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng trong
lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt
được Ô Mã Nhi tại trận thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không
được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho Trần
Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”,
và “Hưng Trí vương Nghiễn không được thăng trật do hăng
say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về
nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được
cản trở chúng”, những sự việc ấy “muốn xác định
cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nước”
(tr. 160). Chúng tôi nghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ mới chứng
tỏ Trần Nhân Tông là người trực tiếp chỉ huy hai cuộc
chiến tranh tự vệ chống quân Nguyên, còn vai trò lãnh đạo
tối cao đối với đất nước, kể cả trong chiến trận,
thì theo truyền thống của nhà Trần, vẫn thuộc về Thượng
hoàng Trần Thánh Tông. Cần nhớ rằng người điều khiển
cuộc định công ban thưởng này cũng là Trần Thánh Tông chứ
không phải Trần Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu
của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần Thánh Tông,
những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận
Vân Đồn, và tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công
đánh tan thuyền lương Trương Văn Hổ đều là do Trần Thánh
Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng không
hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa
ra quyết định không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút
theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban thưởng cho các tướng
đến bậc nào và ai không được ban thưởng chắc chắn là
tuân thủ những nguyên tắc đã vạch sẵn chứ không tuỳ
tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được. Cách nói như trên
e không làm cho người đọc thấy vai trò lớn lao của ông
mà trái lại có thể làm nhỏ ông đi trong mắt người
đọc
NGUỒN
: bài đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần ngày 30.11.2008 ; bản
này là toàn văn do tác giả gửi cho Diễn Đàn. (http://www.diendan.org/)
Discussion about this post