TÔN GIÁO VÀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
Viết bởi Tỳ Kheo Mettanando(*), Tha Bangkok Post, July 13, 2005
Khánh Văn Việt dịch
Liệu
rằng Phật giáo Thái-lan sẽ chấp thuận những người đồng
tính luyến ái kết hôn hay không?
Bangkok,
Thailan—Chẳng bao lâu Canada sẽ là quốc gia thứ tư, sau Hà
Lan, Bỉ và Tây Ban Nha, chính thức chấp thuận cho những người
đồng tình luyến ái được kết hôn với nhau mặc dầu có
nhiều sự chống đối từ phía Thiên chúa giáo. Hiện nay vấn
đề kết hôn này rất dễ được thông qua ở Âu-châu và
có lẽ sẽ lan tràn đến Á-châu trong nay mai.
Người
dân Thái đang đắn đo, suy nghĩ về vấn đề này. Đối với
Thái-lan, Phật giáo Nguyên thủy là quốc giáo từ nhiều thế
hệ.
Chẳng
bao lâu sẽ có những cuộc vận động để ủng hộ cho chuyện
kết hôn này ở Thái-lan. Câu hỏi được đặt ra là, Đức
Phật có phản đối sự kết hôn của những người có cùng
giới tính không, và câu trả lời là “không”. Nói một
cách chính xác hơn Đức Phật không ủng hộ và cũng không
phản đối hôn nhân của những người đồng tình luyến ái.
Không
phải vì Phật giáo quá chất phác trong vấn đề này. Thực
ra, trong Tạng luật, có đề cập đến hàng trăm chuyên đề
về mối quan hệ tình dục mà hầu hết là những giao cấu
bất bình thường, đã từng xảy ra trong xã hội Ấn-độ
hơn 2.500 năm về trước.
Có
nhiều trường hợp đã làm các nhà tâm lý học cũng như các
bác sĩ tâm thần phải nhướng mày kinh ngạc như là chuyện
giao cấu giữa người và thú vật, cũng như với xác chết.
Những
chuyện này, cho chúng ta thấy Phật giáo đã đi sâu rộng trong
xã hội Ấn-độ, và những mẫu chuyện này không phải là
điều mới lạ trong cộng đồng Phật giáo.Cũng vậy, theo
Tam Tạng kinh, chúng ta thấy rõ Đức Phật thừa nhận sự
khác nhau giữa lưỡng tính và đồng tính. Người lưỡng tính
và hoạn quan (thái giám) không được chấp nhận trong hàng
ngũ tăng đoàn. Nhưng không có một sự phản đối nào về
vấn đề đồng tình luyến ái.
Dĩ
nhiên, đã có một trường hợp là, một vị tăng thích quan
hệ với người đồng tính, ông ta đã dụ dỗ bạn bè cùng
những tăng sĩ trẻ để có quan hệ tình dục với ông. Ông
bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn, sau khi bị khám phá. Sau
đó ông lại quan hệ tình dục với những người chăn voi,
chăn ngựa. Khi mà tin này lan tràn đến khắp nơi trong cộng
đồng Phật giáo, Đức Phật đã ra điều luật là không cho
những người đồng tình luyến ái gia nhập hàng ngũ xuất
gia, đồng thời trục xuất toàn bộ tăng sĩ đồng tính luyến
ái.
Đức
Phật đã khoan dung đối với tu nữ đồng tính hơn là cho
tăng sĩ đồng tính. Những tu nữ này không bị trục xuất
ra khỏi ni đoàn, nhưng họ phải tự thú với bạn đồng hành
và phải sám hối.
Tuy
nhiên điều luật của tỳ kheo cũng không bảo đảm chùa chiền
và tu viện hoàn toàn không có người đồng tính luyến ái.
Thật vậy, điều luật chỉ nói rằng tăng, ni phải sống
cuộc đời độc thân, không được lập gia đình. Trong lịch
sử của cộng đồng Phật giáo đã từng có nhiều tai họa
về những chuyện đồng tính luyến ái này.
Ở
Thái-lan, một câu chuyện xảy ra xem như là nhục nhã nhất
từ trước đến nay trong cộng đồng Phật giáo. Vào năm 1819,
thời vua Rama đệ nhị, có một vị cao tăng rất được sủng
ái, ông cũng là vị trụ trì của chùa Saket, lúc ấy ông vừa
được tôn phong lên địa vị Vua Sãi tối cao nhất trong Phật
giáo Thái-lan. Một ngày nọ, ông bị kết tội là hành dâm
với những tăng sinh của ông.
Tin
này đã gây một ảnh hưởng mãnh liệt trong cộng đồng Phật
giáo thời bấy giờ. Và được xem như là một tai tiếng lớn
nhất cho Phật giáo Thái-lan trong suốt thế kỷ đó.
Đối
với những cư sĩ tại gia mang chứng đồng tính, Đức Phật
không có điều luật hay lời khuyên nhủ về vấn đề kết
hôn này. Đức Phật đơn giản nói rằng ngài là người chỉ
đường, gợi ý rằng ngài không có một quyền hạn nào để
bắt buộc người khác phải làm gì. Nguyên tắc này cho ta
thấy, nguyên lý giáo pháp của Đức Phật không bao gồm những
qui tắc, phong tục xã hội cũng như hình thức nghi lễ đối
với tôn giáo của ngài.
Với
nguyên tắc thương yêu tất cả mọi loài, mọi chúng sinh,
không cho phép Phật giáo xét xử, hay chỉ trích người khác,
đơn thuần chỉ dựa trên tính chất của người đó vì điều
này được xem như là một sự phán xét thiên vị.
Không
như Thiên chúa giáo, khi mà giới tính được xem là sự sáng
tạo của đấng chúa trời thì Phật giáo xem đó là dấu hiệu
của sự suy tàn. Căn cứ vào quan niệm của Phật giáo về
sự khởi đầu, Agga-asutta, (thường được biết đến là
cách ngôn trên tri thức của sự khởi đầu), sự phân chia
nam giới và nữ giới là kết quả của sự tàn lụn. Khởi
thủy, tổ tiên của loài người bắt đầu từ những dòng
tâm thức không ô nhiễm, không giới tính nam nữ. Vì thế,
tâm thức là tối cao và không giới tính, và điều này rất
phù hợp để giải thích sự tồn tại của cõi trên. Điều
quan trọng nhất rút tỉa từ nguyên tắc này là không có một
giới tính nào cao hơn giới tính nào cả, cũng như những thành
kiến với hình dáng con người bên ngoài, sự phân biệt màu
da, chủng tộc. Đó chỉ là sản phẩm của con người mà thôi.
Căn
cứ trên điều này, người đồng giới tính không nên bị
kỳ thị, họ cũng là người, và phải được hưởng tất
cả quyền lợi cũng như được tôn trọng như tất cả mọi
người khác.
Điều
này cũng không có nghĩa là Phật giáo Thái-lan sẽ ủng hộ
quyền tự do cũng như sự kết hôn của người đồng giới
tính, cũng không bảo đảm là thành viên bênh vực cho nhân
quyền sẽ thành công trong những cuộc vận động. Nhân quyền
thường không được tôn trọng trong những quốc gia theo Phật
giáo Nguyên thủy. Tin tưởng vào nghiệp quả đã ăn sâu vào
phong tục tập quán Thái-lan.
Nhiều
chùa chiền, tu viện, cũng như chư tăng thường dạy Phật
tử nhìn thế giới xuyên qua lăng kính nghiệp quả. Tất cả
mỗi người được sinh ra để trả nghiệp trong tiền kiếp.
Theo lời giải thích của họ, tất cả người đồng tính
và những người có giới tính khác thường là kết quả của
sự tà dâm trong tiền kiếp, và vì thế họ phải trả quả
trong kiếp này. Cho nên, họ phải nhận chịu những gì mà
xã hội đối xử. Hệ thống tín ngưỡng này đã tạo nên
một sự bảo thủ vững chắn trong nền văn hóa của những
quốc gia Phật giáo Nguyên thủy. Với những lý do này, Phật
giáo Thái-lan rất khó chấp nhận cho phép thông qua điều luật
kết hôn cho người đồng giới tính. Vận động viên của
giới đồng tính sẽ khó mà thành công như là những quốc
gia ở Âu-châu, và Canada.
and SAME SEX MARRIAGE
Will
gay marriage be allowed by Buddhists in Thailand?
By
Mettanando Bhikkhu(*), Tha Bangkok Post, July 13, 2005
Bangkok,
Thailand — The endorsement by the Spanish parliament of same-sex marriage
has turned Spain into the third country in the European Union that recognises
the rights of homosexual couples, after the Netherlands and Belgium.
Canada
will soon be the fourth country in the world to adopt the same law. Despite
strong protests by the Catholic Church, most likely the legalisation of
same-sex marriage will domino in Europe and could easily spread to Asia.
In
a Buddhist culture like Thailand, many Thai people are pondering whether
the law could be applied in the country as Theravada Buddhism, the most
orthodox form of the religion, has put down deep roots here.
Soon
there will be lobbies and campaigns in support of the same law in Thailand.
Is there any objection of the Buddha against same-sex marriage?
The
answer to the question is ”No.”
There
is no objection of the Buddha found in the Tipitaka. To be precise, the
Buddha was neither supportive nor against marriage between members of the
same gender.
This
is not because Buddhism is naive about homosexuality. In fact, in the first
book of the monastic code, the Vinaya, in the Buddhist Pali canon, there
are hundreds of references to sexual relationship and most forms of deviant
sexual practices, as appeared in Indian society over 2,500 years ago.
Many
of the cases often raise the eyebrows of psychologists and psychiatrists,
such as bestiality (sex between a man and an animal), necrophilism (sex
between a man and a corpse), paedophilia, etc.
These
cases reveal that Buddhism had spread far and wide into Indian society,
and all these problems were unearthed to the growing Buddhist community.
Also,
from the Tipitaka, it is clear that the Buddha acknowledged the difference
between hermaphrodites and homosexual practitioners. Hermaphrodites and
eunuchs are not allowed to be ordained, but there is no sanction against
homosexuality.
Of
course, there was a case of a gay monk who was overcome by sexual desire
and could no longer restrain himself. He was seducing his friends and novices
to have sex with him. They rejected him so he left the monastery and had
sex with men who were elephant keepers and horse keepers. When news spread
around the entire Buddhist community that he was homosexual, the Buddha
was alerted to the problem and he issued a rule for the community not to
give any ordination to a homosexual, and those ordained gays are to be
expelled. (Vin.I, 86).
The
Buddha was more tolerant of lesbianism than male homosexuality. Nuns who
were caught in lesbian practices were not expelled from the order. They
must confess to the fellows about their practice, and then the offence
will be redeemed. (Vin. IV, 261)
The
monastic rules do not guarantee Buddhist monasticism is entirely free from
homosexuals. Indeed, they only say that monks and nuns are required to
live a celibate life. Often in history, the monastic community has been
plagued by homosexual scandals.
In
Thailand, the worst such scandal took place in 1819, during the reign of
King Rama II, when a high-ranking monk, a Somdet who was also the abbot
of Wat Saket who had just been promoted to take the position of the Supreme
Patriarch, one day was found guilty of enjoying homosexual activities with
some of his good-looking male disciples.
It
was a shock to all Buddhists of the time, and the case was considered the
scandal of the century of Buddhism in Siam.
Interestingly,
the graveness of the mistake was not severe enough to defrock him, although
the King had him removed him from his position of honour and ordered him
to leave the royal monasteries.
As
for the lay homosexual people, the Buddha gave no rule or advice as to
whether they should be allowed to marry or not. The Buddha posted himself
simply as the one who shows the way. He did not insist that he had any
right to enforce on others what they should do. With this principle, the
original teachings of the Buddha do not cover social ceremonies or rituals.
Weddings and marriages of all kinds are regarded as mundane and have no
place in Buddhism.
The
principle of universal compassion does not allow Buddhists to judge other
people based on the nature of what they are, which practice is considered
discrimination.
Unlike
Christianity, where gender is a part of God’s creation, Buddhists see genderisation
as a sign of decay. In the Buddhist version of the Genesis, Agga-asutta
(also known as the Aphorism on the Knowledge of the Beginning), male and
female genders were a part of the fall. Originally, the primordial ancestors
of humans were self-luminous, mind-born and sexless. So the mind is supreme
and sexless, which is consistent with the higher form of existence. The
most important principle to derive from that is there is no superiority
of one gender over the other. The first sin among them which perpetuated
the fall was the prejudice of appearance, when those of brighter skin looked
down on those with darker skin.
Based
on this principle, homosexual people should not be discriminated against;
they are humans who deserve all the rights and dignity endowed upon them
as members of human race.
This
does not mean that Thai Buddhists are supportive of gay rights and homosexual
marriage, or that liberal activists will be successful in their social
campaign. Human rights issues have always received poor attention in Theravada
countries, as the culture is rooted in the belief in the Law of Karma,
which is more popular among Thai Buddhists than philosophical and advanced
scriptural studies in Buddhism.
Many
monasteries and monks advocate their lay followers to see the world through
the lens of karma, i.e., every person is born to pay back their sins. According
to their explanations, all homosexuals and sexual deviants were once offenders
of the Third Precept (prohibiting sexual misconduct) _ at least in their
past lives, and they must pay off their past sins in their present life.
Therefore, they deserve all that society gives to them. This belief system
creates strong conservative values in Theravada Buddhist culture. For these
reasons, it is unlikely that Buddhists will easily approve a law to allow
gay marriage. Gay and lesbian activists in Thailand will not be as successful
as their fellows in European countries or Canada.
(*)
Mettanando Bhikko qualified as a physician before he ordained as a Buddhist
monk. He holds an MD from Chulalongkorn University, an MA from Oxford,
a ThM from Harvard and PhD from Hamburg.
http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=00000000008,00000001429,0,0,1,0
Discussion about this post