PHẬT PHÁP
Nhuận-Bảo
Đức
Phật vừa mới dạy đại chúng “Như lai thuyết, nhất
thiết pháp giai thị Phật pháp – Như-lai nói, tất thảy
pháp đều là Phật pháp – có nghĩa- không gì chẳng phải là
Phật pháp“, thì cũng chợt đó, Ngài phủ nhận tức khắc
những gì Ngài vừa xác nhận, rằng “Gọi là tất thảy
pháp đó, nhưng chẳng phải tất thảy pháp, chỉ tạm gọi
là tất thảy pháp – Sở ngôn nhứt thiết pháp giả, tức
phi nhứt thiết pháp, thị cố, danh nhứt thiết pháp
“.
Sự
phủ nhận tức khắc đó, như là một pháp chưa từng được
gọi pháp, có công năng làm hiển bày một lẽ thật, mà tự
thỉ chí chung, không gì có thể thật hơn. Pháp mà không có
gì là thật pháp đó, trong chỗ bất khả thuyết bất khả
tư nghì đối với trí năng của loài người, như là một
tiếng sét ngang tai, kèm theo ánh chớp loé vi diệu bất chợt
chiếu soi, khiến làm bừng tỉnh những mảnh thức tâm mê
mờ lưu lãng bất định trong nghiệp thức vô minh, hốt nhiên
quay đầu thấy lại bản thể uyên nguyên, chân thật, thuần
khiết, hư vô, tịch lặng, trước thuở mông mờ.
*
Có
lẽ không ai trong chúng ta, những Phật tử tại gia, đặc biệt
là những người căn cơ, có duyên lành với Đại thừa chánh
pháp, ưa chuộng con đường trí huệ giải thoát của đức
Phật, lại không từng nghe qua hay đọc qua ở đâu đó, chí
ít là năm ba lần trong đời, lời dạy của đức Phật : “Tất
thảy pháp đều là Phật pháp – Nhất thiết pháp giai thị
Phật pháp“ hoặc “Nhất thiết pháp vô phi Phật
pháp – Không gì chẳng phải là Phật pháp“.
Những
câu nói trên là của đức Phật chỉ dạy cho Tôn-giả Tu-bồ-đề
và các vị Tỳ-kheo Đại Bồ tát trong pháp hội Kim-Cang Bát
nhã, mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra, được kết tập
lại trong bộ kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, phần thứ
mười bảy, có tựa đề là “Cứu Cánh Vô Ngã” .
Nên
biết rằng, kinh Kim-cang là bài học của trí huệ, là con đường
trực nhập pháp tánh qua ánh sáng của Bát nhã trí, được
đức Phật thể hiện lên ngôn ngữ để dẫn dắt các chủng
tử Phật có thiện căn vào hàng trung thượng, từ bờ này
sang bờ kia một cách nhanh chóng. Chỉ có bảy chữ trong một
câu nói giản đơn và bình thường, không một chữ nào khó
hiểu, nhưng lại chứa đựng pháp giải thoát triệt để,
mà trong pháp hội này (Kim-Cang Bát-nhã Hội-thượng)
đức Phật không quên ân cần phó chúc cho các đệ tử ưu
tú nhất của mình, rằng pháp này riêng dành cho các Đại
Bồ-tát phát nguyện đi theo con đường Đại-thừa, Tối thượng
thừa, đã, đang và sẽ thừa mệnh gánh vác đạo Vô-thượng
Chánh-đẳng-chánh-giác của đức Phật.
Trong
chỗ thực hành các pháp Phật, riêng với chúng tôi, lời dạy
trên và những câu tương tự khác của đức Phật trong kinh
Kim-Cang, được coi như là những công án Thiền. Mà đã được
định tính như là một công-án thì người hành trì pháp môn
này thường hay trân trọng nó, coi nó như viên Ma-ni bảo ngọc,
thường bảo vệ sự toàn vẹn của nó, nâng niu nó, đặt
của báu lên cao để mọi người tuỳ duyên cùng được ngắm
nhìn, chiêm nghiệm nó từ mọi hướng để cuối cùng tự
thâm nhập làm “một” nó, hơn là động chạm tới, hoặc
mổ xẻ hay lý giải về nó. Nếu được coi như là một công
án để áp dụng tham hỏi theo Tối thượng thừa pháp, thì
nó cần nên được giữ gìn trọn vẹn sự trong sáng, trinh
nguyên ban đầu, để không có một chút tỳ vết nào. Điều
ấy có nghĩa là không ngoài mực đích để dành nó làm của
báu cho những ai hữu duyên với Tông môn của Tổ-sư, cũng
là Chánh pháp Nhãn tạng của đức Phật, mượn nó làm phương
tiện để tìm ra đâu lẽ thật của vạn pháp, cũng tức là
nương pháp tối thắng của Tổ sư cộng với lời dạy
thâm thiết của đức Phật để tự mày mò, tự mở toang
cái cữa không cữa của Phật tâm mà giác ngộ Phật tánh.
Thế
nên ở đây chúng tôi không làm cái việc giải thích hay biện
biệt câu nói trên là như thế này hay như thế kia, bỡi lẽ
sẽ quá thừa, khi mà xưa nay đã có không biết bao nhiêu thiện
tri thức làm công việc đó rồi. Trong bài viết ngắn này,
chúng tôi chỉ mong giới thiệu lên những lời dẫn dắt ấy
của đức Phật như là một báu vật diệu mầu, để ai hữu
duyên và tâm thành, biết sở hữu nó làm phương tiện tự
độ thì sẽ được lợi lạc ngay trước mắt.
Điều
mà chúng tôi muốn đề cập ở đây, nhân ngày đầu xuân
an lạc, cũng là kỷ niệm ngày thành đạo của đấng Vô thượng
tôn, là kêu gọi một sự thực hành chân lý giải thoát của
đức Phật để tự giải thoát, một việc làm thiết thực
của người cầu đạo, hơn là chỉ biết học lý lẽ giải
thoát suông.
Quả
vậy, hơn hai ngàn năm trăm năm trước, đức Phật đã mở
bày ra chân lý giải thoát vô minh sanh tử, sau đó Tổ, Tổ
trao truyền không dứt, đến ngày nay hàng con cháu chúng ta
thừa hưởng ở các bậc đại đức, đại thánh trí ấy một
gia tài pháp bửu đồ sộ. Có thể nói không ai trong chúng
ta không từng đọc qua, hay biết qua chí ít là một vài pháp
vi diệu mà đức Phật đã phát minh, được chư Tổ của các
tông phái nối tiếp xiển dương, như niệm Phật nhíp tâm,
hay toạ thiền hoặc tham công án, thoại đầu, hoặc trì chú
….chẳng hạn. Những người bỏ công nghiên cứu và biết
rành lý lẽ dẫn đến chỗ đạt ngộ của những pháp ấy
thì nhiều, nhưng có thể nói, trong chỗ riêng tư, biết để
rồi sau đó thực hành chơn chánh các pháp ấy hầu cứu cánh
tự độ thoát, thì có lẽ lại không nhiều.
Cho
nên, theo chúng tôi, nếu ai đó một khi đã lãnh hội được
ý chỉ của đức Phật, tức cái đích nhắm “bến bờ giải
thoát” ở phía trước đã được xác định, không còn nghi
ngờ gì về pháp cũng như chính sự hiểu biết của mình nữa,
thì tự mỗi người sau đó nên biết tuỳ căn cơ, phúc đức
của riêng mình mà bước tiếp một bước nữa, bằng cách
mượn một pháp thích hợp nào đó trong những pháp tối thắng
của Tổ, Phật mà thực hành. Điều cần nói ở đây là phải thực hành một cách chơn chánh nghiêm mật, không tự dối,
hầu thâm nhập diệu lý của Phật pháp để tự thăng hoa,
giải thoát, hơn là chỉ biết rành rẽ pháp Phật để cho
có biết, cũng là cách làm giàu tri thức, để cuối cùng cũng
phải tự mai một với chỗ biết ấy, là điều vô bổ.
Nghĩa
là, hành trình tự tu tự chứng ở đây được ví, như một
bộ hành đơn độc, mất phương hướng, đang loay hoay trong
đêm tối, lần bước đưa chân, mong tìm một chỗ trú thân
an ổn. Đang lúc cùng đường, sắp tuyệt vọng, thì may thay,
gặp người hiểu biết, nên được chỉ cho bờ bến nọ là
chỗ có thể an ổn dừng nghỉ trong tương lai, đồng thời
cũng được chỉ bảo cho nhiều phương cách để tiếp cận
cái chốn an lạc hạnh phúc kia, khiến kẻ bộ hành có thể
chọn một cách trong số đó, tương thích với khả năng của
riêng mình mà dấn bước, tự chèo chống đến đích cuối
cùng.
Điều
cần nói ở đây với chúng ta, những người đang trên bước
đường tu tập đạo giải thoát, thì, được chỉ vẽ đường
hướng cũng như phương cách để dẫn đến cái đích an lạc
kia là một việc, còn kẻ bộ hành nọ có tự dấn bước
tới đó bằng chính sức lực, đôi chân và trí tuệ của
mình hay không lại là một việc khác nữa. Hoặc giả có thể
nói, ai ai cũng đều biết rằng thuyền bè là phương tiện
để độ người sang bờ kia. Ở bờ này, đã sẵn đủ mọi
phương tiện cần thiết; thế nhưng từng mỗi người có sang
được bờ kia hay không là do tâm ý của người ấy có muốn
đi hay không, và khi đã quyết chí ra đi thì có biết nổ lực
hết mình để tự chèo chống mà vượt qua hay là nhụt chí
bỏ dở giữa chừng.
Với
một người quyết chí tu hành, cứu cánh tự độ và hạnh
nguyện độ tha, thì dù tại gia hay xuất gia, theo tôi, bước
sơ cơ tham học là để hiểu rõ về lẽ nhơn quả, để biết
phân biệt thiện ác chánh tà, để biết xác định được
đâu là chân lý giải thoát, cũng như nhận định được hạng
bậc căn cơ trí tuệ phúc đức của mình tới đâu để trạch
pháp thích hợp, thì đó là công đoạn đầu tiên của một
người học Phật. Còn sau đó có quyết tâm thực hành giáo
lý ấy một cách chân chính, trọn vẹn để tự vượt thoát
nhơn quả trói buộc hay không lại là một việc khác nữa,
mà công đoạn thứ hai này còn khó khăn hơn gấp bội lần
cái việc thông suốt lý lẽ ở phía trước.
Thí
như một người biết thuộc lòng về lý thuyết cách thức
làm đất, gieo giống, cấy mạ, gặt lúa, phơi, xay, giã, rồi
vo gạo, đun lửa để nấu gạo thành cơm là một việc; còn
chính bản thân người ấy có tuần tự làm được những
công đoạn kia một cách thành thục để tạo ra những hạt
gạo, rồi có biết tự nấu những hạt gạo ấy thành nồi
cơm ngon lành, sốt dẻo, không sống, không nhão, không khê
để được no nê, bổ khoẻ, hạnh phúc hay không, lại là
một việc khác nữa.
Cái
điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây một lần nữa,
là việc tự thân cần nên thực hành các pháp môn tu của
Tổ, Phật hơn là chỉ học lý thuyết để làm giàu tri kiến,
dù đó là tri kiến giải thoát siêu việt của đức Phật
đi chăng nữa. Bỡi vì, trong việc tu học, để cứu cánh giải
thoát, dù ở thời nào cũng vậy, không tự thân thực hành
để tự vượt qua năm cữa ải căn bản của đạo pháp là
Giới, Định, Huệ, Tri kiến giải thoát và Giải thoát tri
kiến giải thoát, thì không thể có giải thoát triệt để.
Trong khi đó, như ai cũng đều biết, do cái tâm lý cầu an,
giải đãi thường tình của thế nhân, là thích việc dễ,
ngại việc khó, ham thích hiểu biết lý lẽ để làm giàu
kiến văn, nhưng lại ghét việc thực hành những lý thuyết
ấy, vì nhọc thân, khó làm. Mà việc khó nhất trong mọi việc
khó ở đời lại chính là sự khắc kỷ trong tu hành, bỡi
tâm lý cố hữu của con người thường tự “xí xoá, dễ dãi”
với mình hơn là “hỷ xả” với người khác. Cho nên, rành
rẽ lý giải thoát mà không thực hành lý ấy đến nơi đến
chốn thì cũng chỉ là việc làm vô bổ.
Một
điều hết sức dễ hiểu, thí như hằng ngày tụng cả trăm
bộ kinh Di-đà, mà tự thân thì không niệm Phật cho đến
nhứt tâm bất loạn như lời Phật dạy trong kinh, thì làm
sao đến lúc cận tử nghiệp có thể vãng sanh Cực lạc Tây
phương được ? Hoặc tụng hàng nhiều ngàn lần bộ kinh Kim-cang
Bát nhã trong đời, lúc nào cũng đọc thuộc lòng vanh vách
lời Phật ân cần chỉ dạy, rằng, “ly nhứt thiết tướng
tức danh chư Phật – lìa tất thảy tướng gọi là chư
Phật”, hoặc “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm –
nên không chỗ trụ mà sanh tâm này” vv…và vv… cũng như
hiểu rành cái lý lẽ không trụ vào sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp ắc dễ dàng tự vượt thoát trói buộc nhơn quả,
…….nhưng tự thân lại không hành theo lý ấy, tâm lúc nào
cũng vọng động trụ chấp, câu trước vào tất thảy pháp,
chẳng biết nương kinh để chuyển tâm từ động sang tịnh,
thì làm sao có thể thâm nhập diệu nghĩa của kinh mà thấy
tánh, để không lầm nhơn quả, vượt thoát vô minh?
Chúng
sanh trong nghiệp báo biết rành rẽ giáo lý giải thoát của
đức Phật mà tự thân không thực hành giáo lý ấy để tự
vượt thoát trói buộc của vọng nghiệp sanh tử, thì có khác
nào kẻ sắp chết đói nằm mơ thấy ăn cỗ, thấy ngon miệng
no bụng mà vẫn bị chết đói. Thế nên cần phải thực hành
giáo lý giải thoát, hơn là chỉ rành biết suông giáo lý ấy.
Chỉ có thực hành thì tự thân mới có khả năng nhận ra
được sự nhiệm mầu của Phật pháp cũng như biết như thật
thế nào là sự linh diệu không thể nghĩ bàn của tâm Phật
chúng sanh nguyên uỷ.
Trở
lại với câu nói trên, ở đây, chúng ta nhân lời dẫn dắt
đầu tiên của đức Phật mà tự xác định cho mình cái đích
chân thật để hướng tới. Rồi một khi nhận ra được từ
xa cái đích phải đến (cứu cánh thăng hoa, giải thoát tâm)
bên cạnh những pháp phương tiện vi diệu, nhiệm mầu đã
được đức Phật và những vị Tổ sau Ngài từ bi ban phát,
thì việc tiếp theo phải nói là, thứ nhất, cần ở người
cầu đạo giải thoát một tín tâm không gì lay chuyển nổi
đối với chân lý đã được xác định ấy; thứ hai là cần
biết trạch pháp, tức sáng suốt chọn lựa một pháp môn
thuận hợp với căn cơ, trí tuệ và phước đức của từng
tín hữu để thực hành, cứu cánh khai mở tuệ nhãn; thứ
ba là cần sự quyết chí và nhất tâm hành trì pháp phương
tiện của Tổ, Phật mà mình đã chọn, cho đến kết quả
cuối cùng, dẫu có phải bỏ thân mạng ngay trong đời này
vì sự nghiệp giải thoát tử sanh nhơn quả trong tương lai,
cũng không nao núng.
Bằng
sự hiểu biết nông cạn qua kinh nghiệm tu học ít ỏi, hời
hợt của mình, đối trước mười phương Phật, tôi mạnh
dạn cho rằng, dù chỉ là một thân cận của Phật đường,
nhưng nếu ai đó tự biết mình có túc duyên với Đại thừa
chánh pháp, lại biết tự bước đi theo sự dẫn dắt của
ánh sáng Phật pháp đã được tích luỹ từ nhiều đời và
trong đời này, bằng chính đôi chân của mình, tuần tự thực
hành con đường giải thoát qua ba công đoạn trên một cách
kiên cố, chơn chất, miên mật, không tự dối lòng (bằng
bất cứ một pháp môn nào thích hợp với căn cơ của mỗi
người) ắc không sớm thì muộn, ngay trong đời này, cái tâm
“không tâm” giải thoát sẽ bất chợt ập đến mình lúc nào
không hay, cũng là tự làm nên một cuộc đổi đời không
tiền khoáng hậu, vượt quá muôn kiếp trói buộc nhân sinh
trong nháy mắt.
Nghĩa
là ngay cái sát na quang-minh giải-thoát tuông ập lên mình,
thì vô minh, cũng tức là cái “mầm biết” lầm lạc ngàn đời
đeo đẳng, trói buộc nhơn quả lưỡng nguyên, khiến mình
từng thấy phải sống chết, chết sống liên tục không biết
bao nhiêu lần trong tiềm thức vọng nghiệp, thấy vọng cảnh
khổ vui, cao thấp, sang hèn ..vv….bằng mảnh thức tâm phân
biệt theo khái niệm vọng lập, bất chợt tan biến. Ngay sát
na các pháp vỡ vụn, tuông xả, tan biến như ánh chớp, cái
biết vô minh tăm tối lầm lạc từ vô thỉ trong các kiếp
hữu tình nhường chỗ lại cho tánh quang minh tuyệt đối,
cũng là tánh biết nguyên uỷ hiển hiện, trùm khắp, xuyên
suốt, thì liền tự biết như thật (tánh biết tuyệt
đối biết như thật) chỉ vì một niệm mông mờ từ
vô thỉ bất giác sanh khởi, đã khiến cái tâm Phật chúng
sanh uyên nguyên, linh diệu, chơn không, thanh tịnh, vắng lặng,
không một tướng nào, hốt nhiên duyên sanh vạn pháp huyễn
hóa trùng trùng. Pháp pháp trùng trùng lưu xuất mà từng mỗi
huyễn pháp đó chưa hề đánh mất tánh căn bản của Phật
tâm.
Hay
có thể nói, trong hiện tại trước mắt chúng ta đây, thì
trọn tánh căn bản của Phật tâm sẵn chứa trong từng mỗi
sắc tướng hữu tình chưa từng rời lìa chúng sanh tâm trong
phút giây, gang tất nào. Nghĩa là từng mỗi chúng sanh tâm
đều sẵn hàm tàng cái tánh nguyên uỷ của Phật tâm, vốn
không sanh, không diệt, không sạch, không nhơ, không thừa,
không thiếu, không đến, không đi, trong trẻo, vắng lặng,
tự tại, thường hằng. Nhưng sở dĩ chúng sanh trong cảnh
giới này không tự biết như thế để được tự do tự tại,
chỉ vì hữu tình, cũng là những mảnh thức tâm kia (thức
biết) mê mờ lầm lạc sâu đậm trong vọng cảnh sanh tử
do thức biết vọng lập, nên quên mất bổn tánh thường hằng,
phi sanh diệt của mình. Nghĩa là vì tập nhiễm vô minh và
lưu lãng trong nhiều đời nhiều kiếp, mà từng chúng sanh
tâm quên mất bổn tánh chơn thật của mình. Vọng thức mê
lầm chạy theo một hướng bằng cái biết vọng, tự trói
buộc với các huyễn pháp trong vọng nghiệp sanh tử do chính
cái thức ấy biết vọng lập ban đầu, chấp các pháp kia
làm thật có, cũng là liền tự xoay lưng lại với chính mình.
Vì tự xoay lưng, tự đánh mất chính mình nên hữu tình mới
không tự sáng tỏ được rằng bổn tánh nguyên uỷ, cũng
là Phật tâm cùng chúng sanh tâm (đang có trọn đủ tánh căn
bản của Phật tâm) thiệt chẳng phải một, chẳng phải hai,
cũng không phải khác. Phật tâm và chúng sanh tâm có thể nói
lúc nào cũng hoà “một” trong tánh căn bản linh diệu. Tâm tâm
ấy đan xen, thông lưu, vô ngại nhau làm một, chưa từng rời
lìa nhau phút giây, gang tất nào trong từng mỗi hữu tình.
Chỉ vì một niệm bất giác sanh khởi mà Phật tâm tức khắc
biến thành chúng sanh tâm; từ cái biết chân thật, “toàn biết”
vô nhiễm, phi sanh diệt của tánh biết tuyệt đối, hốt nhiên
tuông sanh những tướng biết bằng “thức biết” sanh tử, trói
buộc vô minh nhơn quả, quên mất đường về. Tuy nhiên, nhờ
cái thức biết này là bóng dáng, là cái dụng, là bản sao
thu nhỏ của tánh biết, gồm chứa trọn đủ mọi tánh căn
bản của Phật tâm, thông lưu vô ngại “một” với Phật tâm
trong chỗ bất khả thuyết, bất khả tư nghì, nên hễ thức
biết này tự không sanh một niệm “biết” nào, hay nói cách
chính xác hơn, từ trong một niệm chơn chánh của thức biết
chưa từng vọng động, nghĩa là trước một niệm căn bản
của “tâm Phật chúng sanh” không sanh niệm, sau niệm căn bản
đó không dứt niệm, cũng là niệm niệm miên mật không từng
rời lìa nhứt niệm căn bản, thì ngay đó cũng là Phật tâm
nguyên uỷ bất nhiên hiển hiện. Phật tâm hiển hiện, cũng
là tánh quang minh tuyệt đối của tánh biết nguyên uỷ bất
chợt trở về lại với chính mình, cũng là trực ngộ tánh
biết bổn lai, thì ngay đó liền biết như thật, rằng, cái
“ta”, như chiếc bóng trong gương, là không là gì cả, ngoài
mảnh thức biết huyễn hoá do từ diệu tâm tuyệt đối lưu
xuất, cũng là cái dụng đến đi của một Phật tâm như như
bất động này. Chợt biết như thật “cái ta” mà từ vô thỉ
tự lầm chấp làm “thật ta” chỉ là cái bóng dáng huyễn hoặc,
như bóng hình phản chiếu của hạt ngọc lưu ly trong lăng
kính vạn hoa, thì ngay đó cũng là hết lầm, tự sống trọn
chân thật “một” pháp giới phi sanh tử. Còn nhìn lại cái
sắc tướng này thì cứ để nó tuỳ duyên đến đi, còn mất,
vì tự thể nó là thứ do duyên sanh, huyễn sanh, huyễn diệt
với “thời và không” trong cảnh giới vọng lập, huyễn hóa,
biến dịch. Còn tâm thức này khi ấy tự biết như thật,
nó như là những con sóng trong đại dương, dung chứa trọn
đủ mọi tánh căn bản của biển nước mênh mông, là một
phần bất khả phân ly của biển nước, cùng một tánh ướt
của nước, nên cứ để tuỳ thuận nhơn duyên mà vào ra cảnh
giới nhơn quả huyễn hoặc để hành Bồ tát đạo, để độ
lại những chiếc bóng mê như ta đã từng mê, mà thân tâm
ấy chẳng khác như ánh chiếu của tấm gương đi vào không
trung, trong tánh cách vô thưởng vô phạt, độ người mà chưa
từng có chỗ độ, chưa từng có người được thiệt độ.
Nghĩa
là, khi ấy chẳng vọng chấp có “ta” ở đâu đó, dù là ta
trong chánh niệm, bỡi còn có chỗ thấy có ta thì ngay đó,
sẽ như tên bắn trói buộc nhơn quả. Lại nói, cái “ta” có
từ vô thỉ nhẫn đến ngày nay, nhưng thật ra, tự trong đây,
trong tánh quang minh tuyệt đối, từ vô thỉ chí vô chung cũng
chỉ là trọn vẹn trong một ánh chớp, cũng là “đồng một”
pháp giới hư vô, phi thời gian, phi không gian, một niệm bất
giác làm “một” chơn không, thuần khiết, hư vô, tịch lặng.
Một niệm tinh anh, thanh tịnh đó cũng chính là trọn ba thời
(qúa, hiện, vị lai) bất khả đắc, là cái tâm Phật chơn
không, tịch lặng, tròn đầy bất khả thuyết bất khả tư
nghì.
Bóng
dáng chúng sanh, tức những mảnh thức tâm huyễn hoặc được
phóng xuất, giống như những bóng hình của viên ma-ni bảo
châu trong lăng kính vạn hoa, không phải thật có cũng chẳng
phải thật không, mà, tự trong cảnh giới như không như có
đó, đã mê mờ lầm lạc vì chấp tướng, chấp ngã chấp
pháp làm thật có. Cũng tạm ví như những mảnh trăng chiếu
soi trên biển nước, tự lầm chấp chúng làm thật có. Do
lầm chấp ngã, pháp làm thật có nên chúng mới tự thấy
có cảnh giới sanh diệt, thấy có đến đi, to nhỏ, tối sáng,
lên xuống, mất còn. Bằng nếu những bóng dáng tròn sáng
như-thật như-hư trong biển nước kia ngộ ra mình chỉ là
cái bóng của trăng thật, có trọn đủ các tánh căn bản
như trăng thật, là ánh sáng trùm khắp hư không, chiếu soi,
tịch lặng, không đến đi, không nhỏ to, không mất còn, thì
tức khắc tự chúng không còn thấy có tướng xuống lên mất
còn theo những con sóng nữa, mà tự thâu nhiếp làm một
vào cái mênh mang rộng lớn của cả bầu trời sáng trăng
vô cùng, vô tận, không đến, không đi, như như, tịch lặng
(pháp giới). Ngay đó chúng liền biết như thật, cái “tướng”
mà chúng đang đeo mang (bóng trăng trên biển nước) chỉ là
dụng, là bóng huyễn của mặt trăng, trọn chứa đầy đủ
bản tánh của trăng thật, trong trẻo, tròn đầy, tịch lặng,
thường chiếu, tự tại, nên liền ngay đó mặc tình tiêu
dao trên sóng nước mà không ngại lên xuống, mất còn.
Vạn
pháp trước mắt chúng ta, hữu tình vô tình, cũng như thế,
không khác. Sự thật là vậy, nên đức Phật mới dạy rằng,
sắc đây tức không, không kia tức sắc, sắc đó chẳng khác
không, không đây chẳng khác sắc, vì nhứt thiết các pháp
hữu vi (mọi sắc tướng sanh diệt) đều là huyễn pháp do
một tâm này duyên sanh, không thật có, nhưng lại dung chứa
trọn đủ mọi tánh căn bản của tâm Phật, chơn không, linh
diệu, tự tại, hay khéo sanh muôn pháp. Rõ biết như thế thì
có gì chẳng phải không từ pháp Phật xuất sanh, có gì chẳng
phải là Phật pháp ?
Sở
dĩ nói chúng sanh tâm cũng linh diệu, khéo sanh muôn pháp như
Phật tâm, bỡi nếu từng mỗi chúng sanh tâm thông lưu vô
ngại trong cái sắc tướng ngũ uẩn này mà không sẵn chứa
các tánh căn bản của Phật tâm, thì thân tướng này ắc
chẳng khác gì gỗ đá, chẳng thể lăng xăng vọng tưởng,
chẳng thể sanh khởi các pháp vui buồn, mừng giận, thương
ghét . . .vv, và nhất là chẳng thể tu hành để chuyển từ
chúng sanh tâm sang Phật tâm. Tuy nhiên, giữa Phật tâm và chúng
sanh tâm không có lằn ranh phân biệt. Nghĩa là, tự thuỷ uyên
nguyên, Phật và chúng sanh đồng một tâm này. Chỉ vì một
niệm bất giác sanh khởi mà có vô vàn chúng sanh tâm duyên
khởi lưu xuất. Chúng sanh tâm lăng xăng, vọng niệm, vọng
lập cảnh giới chúng sanh, vọng lập khái niệm để so sánh,
phân biệt vì cái tâm chấp, chấp ngã chấp pháp làm thật
có, nên mới tự thấy có sống chết đến đi, vui buồn, sướng
khổ trói buộc nhị nguyên, nghiệp báo nhơn quả. Thế nhưng
nếu một lúc nào đó, bằng một cách nào đó, chúng sanh tâm
bất chợt ngừng bặt vọng niệm, không một niệm sanh khởi,
hay nói đúng hơn, chúng sanh ấy chỉ sống trọn trong một
niệm của tánh biết căn bản, mà trước niệm không sanh niệm,
sau niệm không dứt niệm, cũng là trọn trong chánh niệm tròn
đầy, thì liền ngay đó, tự biết thế nào là cái tâm Phật
chúng sanh nguyên uỷ. Đó là chỗ linh diệu của Phật tâm,
cũng là cái tâm nguyên uỷ của hữu tình. Thế nên đức Phật
đã dạy một cách rõ ràng, rằng, ngay cả tham sân si cũng
là tánh Phật vậy.
Có
thể có bạn hỏi lại, tham, sân, si là ba món độc đã khiến
chúng sanh phải vì nó mà luân hồi, trầm tịch trong ba đường
khổ, sao lại nói là tánh Phật. Thiệt ra, chẳng pháp nào
không phải là Phật pháp, nghĩa là chẳng pháp nào không phải
từ một tâm Phật chúng sanh duyên sanh. Tham sân si cũng là
pháp duyên thành từ mảnh thức tâm vọng động, vọng chấp.
Mảnh thức tâm trong từng mỗi chúng sanh bất chợt dừng động,
thì liền có chỗ thấy biết như thật tham, sân, si không có
tự tánh, là huyễn pháp, vọng pháp, cũng từ một pháp duy
nhất (độc hữu) diệu mầu tuông sanh. Há có gì trên cõi
này chẳng phải từ trong pháp Phật lưu xuất ? Tất thảy
pháp pháp đều do duyên sanh, đều từ một tâm này mà ra vậy.
Theo
chỗ nghĩ suy nông cạn của người viết, thì những bạn đạo
nào tự thấy mình là người căn cơ, trí tuệ, nhiều phước
đức, có túc duyên với Đại thừa pháp, có thể mượn câu
“tham, sân, si cũng là tánh Phật ” dùng làm công án, thoại
đầu để tham hỏi hầu tự khai mở bổn tâm, chí ít là biết
mượn nó để tư duy, quán tưởng, chiêm nghiệm, ắc có lúc
thâm nhập lẽ thật của vạn pháp.
Có
một gợi ý. Tham sân si cũng là pháp, là vọng pháp, huyễn
pháp do tâm duyên sanh. Tất thảy pháp đều do tâm duyên sanh,
nên pháp pháp không có thật tánh, tướng thật của các pháp
là không một tướng nào. Thế thì tham sân si là gì,
từ đâu hiện tướng tham sân si? Hãy tự tư duy để lấy
đó làm của báu cho riêng mình.
Cũng
bỡi lẽ ấy mà khi đề cập tới các pháp, đức Phật đã
dạy “gọi là tất thảy pháp đó, nhưng chẳng phải tất
thảy pháp, chỉ tạm gọi là tất thảy pháp”.
Những
người căn cơ trí tuệ có thể chỉ cần tham hỏi những câu
như thế này một cách miên mật, chơn chất trong một thời
gian, Phật tâm ắc cũng có lúc bùng vỡ. Đến lúc ấy liền
biết như thật tất thảy pháp đều là hoa đóm trong không,
pháp Phật là phương tiện quyền biến, thiện xảo của bậc
đại Thánh trí hy hữu ngàn đời mà chúng sanh tạm mượn
để tự giác ngộ Phật tâm phi sanh diệt. Chỉ có tánh biết
là chơn thật, tự tại, nhưng bất khả thuyết bất khả tư
nghì, là tuyệt đối, “VÔ”.
Các
huyễn pháp lưu xuất, tuông sanh, do tâm duyên khởi, chẳng
khác như ta vô cớ tự nhấn mắt khiến thấy có muôn
vàn hoa đóm xảy sanh trong không. Hoa đóm đương nhiên là không
thật có, là thứ huyễn hoá, chỉ vì mắt duyên theo cái nhấn
mà thành có, có mà không phải thật có. Con mắt của phàm
phu (huyễn tướng, vọng thấy, vọng biết) nhận vạn pháp
trong cảnh giới nhơn quả (vọng cảnh) làm thật có, là lẽ
thường tình, bỡi vì trong cảnh giới huyễn hoá sanh tử kia,
chúng sanh không tự biết mình là thứ huyễn hoá, chẳng phải
thật có, vì chúng sanh ấy chẳng rõ được cái nghĩa “thật
hữu” phải được hiểu là tột nghĩa, tức tự tại, bất
sanh, bất diệt, là tuyệt đối. Còn dưới con mắt của tánh
sáng Bát-nhã, với cái thấy biết sáng suốt, toàn biết, như
như, vô phân biệt, vượt thoát lưỡng nguyên nhơn quả, lìa
khái niệm, thì những chúng sanh kia, vạn pháp kia đương nhiên
chỉ như hoa đóm trong không, không thật có. Thế nên, tuỳhai chỗ thấy biết, một cái thấy biết câu hữu vô minh,
trói buộc nhơn quả vì vọng chấp ngã pháp làm thật có,
và một cái thấy biết của con mắt Thánh trí, biết như thật
vạn pháp huyễn hoá, như hoa đóm trong không, nên mới nói
chúng sanh chẳng phải thật có, cũng chẳng phải thật không,
hoặc như có, như không là nghĩa lý đó.
Thấu
suốt cách minh bạch lẽ thật của vạn pháp, cũng là thấy
biết vạn pháp đúng như “thật tướng không tướng nó-là”,
là tự bừng sáng tánh biết bổn lai, là tự sáng tỏ nguồn
tâm nguyên uỷ. Sáng tỏ nguồn tâm, tức ngộ ra bản tánh
chân thật của vạn pháp, biết như thật vạn pháp không có
tự tánh, tướng thật của vạn pháp là không một tướng
nào, trong đó có cả cái pháp “ngã” mà từ lâu chúng ta đã
ấp yêu, chấp lầm làm thật có. Sáng tỏ nguồn tâm, một
trạng thái chuyển biến bất chợt của tâm thể, được ví
như, một sát na trước, màn đen bao trùm giữa đêm trừ tịch,
có mắt cũng như mù. Một sát na sau, mặt trời không rõ gốc
gát từ đâu, bất nhiên bừng sáng, soi tỏ vạn vật trước
mắt. Thấu tỏ nguồn tâm, tức ngay sát na đó cũng liền biết
như thật, nhất thiết pháp vô ngã, vạn pháp là thứ huyễn
hoá, như có như không, không tự tại. Vạn pháp trước mắt,
kể cả cái thân tướng như huyễn này đều do tâm duyên sanh,
tức tự minh bạch hóa cái tánh căn bản của “ngã và pháp”
để từ đó nhận ra chân lý duyên khởi của nguồn tâm, là
chỗ căn nguyên xuất lưu của vạn pháp. Biết như thật
vạn pháp do một tâm duyên sanh, tướng thật vạn pháp là
không một tướng nào, cũng là nhất thiết pháp vô ngã, thì
ngay đó tự sáng suốt, không lầm nhơn quả, liền tự vượt
thoát vô minh.
Cảnh
giới vô minh sanh tử, mà một sát na về trước chúng ta đang
tự mê mờ, ngụp lặn trong nó, nhưng không tự biết mình
đang câu trước vô minh, chẳng khác như cá sống trong biển
nước mà không biết rành nước là gì. Vô minh đó, cũng chính
là một tên gọi khác của cái “biết”, mà một hữu tình trước
khi sinh ra, cái mầm “biết” ấy vốn dĩ đã sẵn chứa trong
cái sắc tướng ấy tự bao đời bao kiếp rồi. Cái biết
của chúng sanh kia là cái biết thường tình mà ai cũng có,
tức cái biết vọng, biết lầm kết buộc nghiệp báo nhơn
quả. Cái biết ấy, cũng là nghiệp thức, theo dòng ngày tháng
trong nhơn quả nảy nở hơn lên do tập nhiễm theo thế giới
của từng chủng loài. Cái biết ấy là vọng thức phàm tình
phân biệt câu hữu vô minh tăm tối. Cái biết phân biệt ấy
càng nhiều, càng cao, càng sâu thì cũng có nghĩa mảnh thức
tâm sanh diệt ấy tự kết dệt vô minh ngày càng dày hơn,
cái nghĩa “biết” trói buộc càng sâu thẳm, đen tối hơn với
nghiệp thức mê lầm. Cái biết trói buộc ngã pháp đó cũng
là sở tri chướng, là vật cản ngại trên con đường thâm
nhập Phật tâm, mà điều kiện tiên quyết của người học
Phật là cần giải thoát tất thảy mọi tri kiến, kể cả
tri kiến giải thoát mà mình đang học. Phải hiểu, tri kiến
giải thoát đó cũng chỉ là phương tiện tạm mượn để
tự độ.
Nói
một cách chính xác hơn, nếu không có dòng thức biết lưu
lãng trói buộc vô minh kia “biết” đủ mọi thứ trên đời
(dĩ nhiên đều là vọng biết, lầm biết) thì ắc hẵn
đã không có cái thế giới vọng thức, vọng nghiệp này tồn
tại vậy.
Cho
nên, có một số pháp môn của nhà Phật có công năng làm
cùn mòn, làm lu mờ đi cái “biết” của dòng vọng thức trói
buộc nhơn quả, cũng tức là làm mỏng đi cái màng che lấp
của vô minh, để đến một lúc nào đó gặp duyên lành, hành
giả dễ dàng trực ngộ bổn tánh . Tham công án, khán thoại
đầu, trì chú, niệm Phật…cũng là một trong những pháp
môn có được cái công năng tối thắng ấy.
Lại
cũng không nên quên rằng, vì đây là vô vi pháp, nên dù ở
đâu và thời nào cũng vậy, tuỳ căn cơ, trí tuệ, phước
đức cũng như công hạnh hành trì pháp này của từng mỗi
người, thâm sâu hay hời hợt, miên mật hay giải đãi mà
sự thông tỏ ý nghĩa cùng tột của nó, tức sáng tỏ Phật
tánh, cũng có chỗ mau chậm khác nhau, có thật chứng thấp
cao sai biệt. Nghĩa là, từ một lời dẫn dắt ban đầu của
đức Phật, mà nội dung không kém phần bí áo, lạ lùng như
những câu nói trên, nhưng tuỳ cách thức thâm nhập nó như
thế nào mà hành giả có thể sáng tỏ lẽ thật của vạn
pháp, cũng là vào cữa đạo bằng con đường trực tiếp hay
gián tiếp, tức nhơn duyên để cứu cánh sang bờ kia bằng
cái tâm đốn ngộ hay tiệm ngộ mà tự nó (những lời dẫn
dắt trên cũng như những lời tương tự khác của đức Phật)
trở thành Đại thừa pháp hay là thành Tối thượng thừa
pháp. Và một khi sáng tỏ được lẽ thật của vạn pháp,
cũng là thân chứng giải thoát tâm từ chân lý giải thoát
của đức Phật, thì cũng ngay khoảnh khắc đó, tự thân bất
giác thăng hoa, cũng là ngoảnh đầu trực nhập đạo pháp,
là một bước đã ở bờ kia.
Người
viết xin mở ngoặc ở đây một chút về việc dùng từ ngữ
trong bài này, để rất mong tránh sự ngộ nhận có thể xảy
ra, nếu có ai đó hay câu chấp vào ngôn từ. Nghĩa là, tự
thuở khai thiên lập địa cho tới khi loài người xuất hiện,
cũng như tự thuở chưa có chữ viết rồi có chữ viết để
biểu thị ngôn ngữ và cho tới bây giờ, thì không có lời
lẽ nào, chữ nghĩa nào có thể mô tả hay hình dung “đúng
như thật” như lý tánh của tâm và sự vận hành bất khả
thuyết, bất khả tư nghì của nó. Bỡi tự thể của nó là
tánh chơn không, là tuyệt đối, nên không ai có thể biết
được nó. Và cái “Tâm” mà chúng tôi muốn nói ở đây chính
là chơn tâm, là chỗ thật tánh thật tướng của vạn pháp,
chứ không phải là cái vọng tâm lăng xăng, sanh diệt trong
từng mỗi hữu tình. Chư Thánh ngày xưa lập ngôn cũng là
một sự bất đắc dĩ vì không còn một phương tiện nào
khác tối ưu và có thể phổ biến rộng rãi hơn, dễ dàng
hơn hầu có thể dẫn dắt, chỉ đường cho chúng sanh tự
giải thoát vọng nghiệp sanh tử, thì chúng ta ngày nay cũng
nên hiểu, chỗ lập ngôn đó vẫn là phương tiện tạm mượn
để hình dung về “nó”, tức chân lý phi sanh diệt mà chư Thánh
muốn trỏ về, mặc dù đối với bản thể chơn thật của
nó thì sự chỉ trỏ kia không chỗ dính dấp, chẳng khác
gãi ngứa ngoài giày. Chỉ khi nào tâm của người học đạo
và ý chỉ muốn trỏ về của lời dẫn đạo trên kia tương
ưng khế hợp làm một trong chỗ không thể nghĩ bàn của bản
thể chơn thật của tâm, tức nguồn diệu tâm nguyên uỷ vô
sai biệt của tất thảy tâm (quá, hiện, vị lai tâm) đang
hiển hiện, tức chỗ thật tướng “một”, chơn không, như
nhứt, là tánh của tất thảy pháp, thì ngay đó mỗi mỗi
tự biết như thật thế nào là lẽ thật của vạn pháp, cũng
là khám phá tánh biết tuyệt đối mà không thể mở miệng.
Hay nói một cách rõ hơn là ở đây, lúc này, ngôn ngữ, tri
thức, tình tưởng, giác quan chẳng thể với tới cái chỗ
“tuyệt một” mà chính ta lại tự đồng một trong nó, trong
khi ta lại đang nói xa, nói gần về nó. Thế nên, diễn giảng
hay nghị luận về nó, nên hiểu giùm, như chúng ta đang nói
đang nghe đây, chỉ là phương tiện, chẳng khác mượn tay
chỉ trăng hoặc nếu nói không ngoa, thì chẳng khác những
người ngủ mê đang nói mớ cho những người trong mộng nghe
biết sự việc xảy ra trong lúc thức mà thôi. Có nghĩa là
cái sự nói kia hoàn toàn chẳng dính dấp một chút nào tới
cái lý tánh “không” chơn thật của vạn pháp một cách “đúng-như-thật-tánh-nó-là”.
Đó là sự thật. Cho nên, trong bài này, tuy có những lời
như “ngay đó chính mình” hoặc nói “tự thân” bất giác thăng
hoa, thì cũng chỉ là một cách nói, một cách tạm miễn cưỡng
mượn từ ngữ để mô tả diễn biến tâm linh từ bờ này
sang bờ kia một cách hốt nhiên, chóng vánh, không thể nghĩ
bàn mà thôi chứ chẳng phải một sự thần thông hay phép
lạ gì cả. Thần thông hay phép lạ ấy có chăng cũng chỉ
là việc, nhờ pháp Phật nhiệm mầu dẫn dắt, cũng như hành
trì chơn chánh các pháp phương tiện mà Tổ, Phật đã chỉ
bày, khiến có sự chuyển biến tâm linh từ chỗ trói buộc
sanh tử vô minh là bờ này, bất giác ngộ nhập pháp thể
thường hằng, phi sanh diệt là bờ kia.
Chỉ
một chút đó, cái khoảnh khắc vi diệu không thể nghĩ bàn
đó, còn nhanh hơn cái nháy mắt, mà biết bao đời chúng sanh
còn chưa nhận ra, khiến phải trôi lăn trong vọng nghiệp sanh
tử, làm đủ mọi thân tướng chúng sanh, thay hình đổi dạng
theo từng loài, từng đời, từng nghiệp báo nhơn quả.
Vì
thế ở đây chúng tôi muốn nói cho rõ, rằng, ngay cái chỗ
tạm gọi là “khoảnh khắc” đó, cũng không hề thấy trong
đây xuất hiện một ý niệm nhỏ nhất nào để chỉ thời
gian. Bằng có ý niệm về thời gian hay không gian, dù chỉ
là một khoảnh khắc hay một giới hạn nhỏ nhất mà tâm
ý có thể bắt gặp, thì đối với “nó”, tâm ý kia là vật
ngoài, là những mảnh tình thức (hữu tình) còn trói buộc
trong cảnh giới sanh tử của vọng thức, vọng nghiệp. Nghĩa
là, nếu còn có ý niệm, dù là một niệm tưởng nhỏ nhất,
vi tế nhất, là còn có ngã tướng và các tướng khác trói
buộc, là đang ở bờ này, còn đối với bờ kia thì vẫn
ngàn trùng cách xa biền biệt.
Hoặc
nói “ngay đó chính mình” thì trong đây cũng chẳng thấy có
gì là mình nữa, mà chỉ tạm gọi là mình trong phép dẫn
dắt cho dễ hiểu mà thôi. Bỡi cái gọi là mình thì ngay đó
đã tự tan biến không còn vết tích, vì bản chất của nó
là huyễn hoá, hay nói rõ hơn, mình kia chỉ là cái bóng, được
tánh biết “biết” một cách như thật, rõ ràng, xuyên suốt,
như biết mọi sự vật khác, rằng tất thảy các pháp tướng
(ngũ uẩn, lục trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ….các
thức vv…của thân tâm này, cảnh giới này) đều như hoa
đóm trong không, là những bóng dáng tự trong chỗ bất khả
thuyết bất khả tư nghị duyên thành, cũng là từ lý tánh
linh diệu của nguồn tâm duyên khởi, lưu xuất, không phải
thật có.
Nghĩa
là kẻ ấy hốt nhiên sang bờ kia một cách bất chợt
không có ý, là trạng thái vô ý, vô tâm giải thoát, là vượt
quá mọi kiến chấp ngã pháp, cũng như khái niệm về không
gian và thời gian của một sát na trước đó, là trực ngộ
pháp giới “chơn không, vô tướng, vô tác”, cũng là bừng sáng
tánh biết bổn lai, là không còn mê lầm nhơn quả.
Lại
nữa, nói bờ này, bờ kia cũng chỉ là một cách nói để
dẫn dắt mà thôi, chứ giữa hai bờ mê ngộ của tự tâm
hoàn toàn không có ranh giới, không có khoảng cách trói buộc
với “thời và không” như trong hiện tượng giới mà chúng
ta đang đối mặt. Nghĩa là vì cái tội vô minh mê lầm theo
vọng nghiệp, nên cái vọng tâm chấp ngã, chấp pháp (chúng
sanh tâm) cứ chực chờ hễ chợt thấy, nghe, hay, biết đối
đãi (thức trần huyễn hoặc) là liền đó vọng niệm trói
buộc với tất thảy tướng, tức vọng khởi cái tâm cân,
đong, đo, đếm, hay tự khởi vọng tưởng phân biệt theo khái
niệm nhị nguyên, đối đãi. Điều ấy có nghĩa là, tự trong
thức biết huyễn hoặc chẳng lúc nào rời lìa vô minh của
từng chúng-sanh-tâm, thì từng mảnh thức tâm kia tuy vốn dĩ
đã sẵn chứa đầy đủ tánh biết căn bản, uyên nguyên,
sáng suốt của Phật tâm, hay nói chính xác hơn, bản thể
chơn thật của những mảnh tình thức kia chính là bản thể
của Phật tâm, không hai không khác, nhưng do mê mờ trói buộc
nghiệp thức nhơn quả, cũng là tự xoay lưng lại với Phật
tâm, xoay lưng với tánh biết bổn lai, nên ít ai tự nhận
ra được “nó” cũng là “chính mình”.
Hay
nói rõ hơn, ít ai nhận ra cái thân tâm duyên hợp ngũ uẩn
này chính thiệt là cái bóng theo hình, tức cái dụng của
bản thể chơn thật mà mình “đang-là”. Suy rộng ra đến vạn
pháp, thì không một pháp nào chẳng phải từ một niệm bất
giác của tâm Phật chúng sanh phóng xuất. Cho nên, khi biết
mượn pháp Phật để học, rồi như pháp Phật mà hành trì,
đến một lúc nào đó chợt ngộ bổn tâm, thì cũng là ngay
đó bóng tối vô minh từ lâu đời che lấp tánh biết hốt
nhiên tan biến, không quá sát na tánh biết chơn thật bừng
sáng, tỏ rõ, liền biết thế nào là lẽ thật của vạn pháp,
không lầm nhơn quả, hoàn toàn khác với cái biết của một
sát na trước đó tự trói buộc nhơn quả, cũng là tự tuông
chảy, nổi trôi theo vọng nghiệp sanh tử vô minh.
Nói
“liền biết thế nào là lẽ thật của vạn pháp” là ai biết?
Là tánh biết vốn sẵn chứa trong từng mỗi mảnh thức tâm
bừng sáng, xua tan toàn bộ bóng tối vô minh, liền biết như
thật. Tánh biết bất nhiên hiển hiện trong cái con người
này, trong cái thân tâm vừa giác ngộ này, liền biết như
thật, rằng từ lâu xa trong vô lượng kiếp ảo hóa của nghiệp
thức, mảnh thức tâm kia chưa từng một phút giây nào rời
lìa tánh biết chơn thật, cũng là bản thể chưa từng sanh
diệt của chính nó, cũng là Phật tâm nguyên uỷ. Do mê theo
vọng nghiệp trói buộc nhơn quả mà mảnh thức biết kia quên
mất thể tánh chơn thật phi sanh diệt của mình. Chợt ngộ,
tức ngộ một tâm này đồng như Phật tâm, cũng là ngộ cái
biết này cùng tánh biết đồng một bản thể, không thêm
không bớt, không nhơ không sạch, không thánh không phàm, ….,
ngộ tất thảy pháp trùng trùng tuông sanh khi diệu tâm này
chợt động, cũng là tâm duyên động thì pháp pháp duyên thành,
cũng là do lẽ duyên khởi mà có các pháp lưu xuất.
Hoặc
như trong đây có dùng những từ ngữ như “vượt quá khái
niệm không gian và thời gian”, thì đó cũng chỉ là một cách
nói, mà không nên chấp chặt vào chữ nghĩa khiến tự trói
buộc vào thời không, nhơn quả. Nghĩa là, cũng trong một con
người này, bên cạnh cái thấy biết phàm tình trước mỏ
ác, nhờ pháp Phật dẫn dắt, hốt nhiên xuất hiện cái thấy
biết phi phàm của trí huệ giải thoát, cùng với cái biết
trước (thức biết phàm tình) thông lưu vô ngại nhau cùng
trong một thân tâm này, mà ở đó, không gian và thời gian
không còn có ý nghĩa ràng buộc nào đối với cái biết mới
bừng sáng, cũng là bản thể chân thật của mình, tuyệt đối,
không đến đi, phi sanh diệt. Chợt sáng tánh biết thì cũng
là ngay đó biết như thật, thực tại phi thời phi không, tất
thảy hàm linh hữu tình, vô tình, sơn hà đại địa cho đến
vi trần đều là các huyễn pháp do vọng tâm duyên sanh, không
phải thật có, như hoa đóm trong không, như trăng trong nước,
nên dẫu sơn hà đại địa có bể nát, nổ tung cũng chẳng
dính dấp gì tới bản thể chơn thật mà kẻ kia ngay ấy “đang-là”.
Thí như bụi trong ánh sáng, biến hiện, lên xuống, mất còn
nhưng bụi kia không làm tánh sáng của ánh sáng tăng giảm,
còn mất. Vì lẽ đó nên nói là vượt lìa không gian và thời
gian.
Để
kết thúc bài viết dông dài, nhạt nhẽo, lộn xộn, không
đầu không đuôi, làm mất thì giờ quí báu của các bạn
đạo, bằng với tất cả sự chân thật của mình, chúng tôi
mong rằng những bạn nào đã hiểu rành lý nhơn quả rồi,
đã xác định được đâu là chân lý giải thoát rồi, lại
cũng đã tự biết căn cơ duyên phúc của chính mình rồi,
thì không nên bỏ phí thời gian nữa, mà lo thực hành ngay
một trong những pháp phù hợp với mình, để có cơ hội bừng
sáng tánh biết, không lầm nhơn quả. Chợt hết lầm nhơn
quả thì thân xác này dẫu có ra sao thì ra, bỡi ngay đó tự
biết như thật “thật ta” không chỗ đến đi, mà dẫu có đến
đi thì cũng chỉ là thực hành hạnh nguyện từ bi để trả
ơn ba đời chư Phật, cũng như để tự trang nghiêm Phật độ
của mình ở vị lai mà thôi.
Discussion about this post