THIỀN PHẬT GIÁO
Tâm Thái
Hỏi: Tôi nghe
thấy nói nhiều về Thiền nhưng không biết các Thiền đó khác nhau thế nào và làm
sao phân biệt được Thiền nào của Phật giáo?
Đáp: Khó mà nói
về tất cả loại Thiền vì danh từ này được dùng đến rất nhiều nên đã gây nhiều
lẫn lộn và hiểu lầm. Để giới hạn cho câu chuyện quá dài chúng ta chỉ bàn về
Thiền của Phật giáo. Ngoài đạo Phật cũng có nhiều đạo khác có những pháp môn
gọi là Thiền hoặc có những hình thức giống như Thiền. Danh từ Thiền có khi được
dùng để chỉ cho những hình thức tập trung tư tưởng hoặc để cho tâm định, không
tán loạn. Trước thời đức Phật cũng đã có nhiều đạo sĩ Thiền. Ngay trước khi đức
Phật đắc đạo, ngài đã có theo học một số tu sĩ Thiền và đã thành công rất
nhiều, tới những mức định cao nhất của các môn phái đó như định Phi tưởng phi
phi tưởng. Nhưng ngài thấy rằng những môn Thiền đó không đem lại được những điều
ngài muốn là đạt được là giải thoát, giác ngộ, nên sau đó ngài đến gốc cây bồ
đề ngồi Thiền trong 49 ngày và thành đạo. Vì vậy về hình thức tuy có thể gần giống
nhau nhưng về mục đích thì Thiền Phật giáo khác hẳn các môn Thiền ngoại đạo mà
chúng ta cần phân biệt cho kỹ. Ngoài ra hiện có nhiều môn Thiền cũng dùng những
phương pháp và những danh từ của Thiền Phật giáo, nhưng khi coi kỹ mục đích của
những môn Thiền đó thì thấy họ chỉ lợi dụng Phật giáo để đưa những người không
hiểu vào con đường sai lầm phục vụ những lợi ích cá nhân hoặc chính trị mà
thôi. Muốn biết Thiền nào là của Phật giáo thì việc trước hết là coi về hình
thức: phái Thiền đó phải có quy y đức Phật Thích Ca và theo đúng con đường mà
đức Phật chỉ dạy. Có những người tuy dùng những danh từ nghe như của đạo Phật
nhưng nhìn kỹ thì thấy họ dẫn dắt theo ngoại đạo.
H: Vai trò
của Thiền trong đạo Phật như thế nào ?
Đ: Thiền là danh
từ nói tắt của Thiền na (tiếng Sanskrit: dhyana, tiếng Pali : jhana). Thiền giữ
vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. “Ngay cơ sở của Phật giáo, tất
cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật
giáo mới được thể nghiệm hóa… nếu Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo
sẽ mất hết sinh khí. Tóm lại, Phật giáo chân truyền trước sau vẫn còn nằm trong
Thiền, tất cả sự tổ chức giáo lý đều phát xuất từ Thiền, do đó về mặt thực tu
cũng như về mặt lý giải Phật pháp, nếu muốn được hoàn toàn, chúng ta không thể
không phát kiến cái thỏa đáng tính tối hậu của Thiền.” (trích Đại thừa
Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken, do hoà thượng Thích Quảng Độ dịch).
Như vậy đã nói được vai trò quan trọng của Thiền trong đạo Phật.
H: Ngay
trong Thiền Phật giáo cũng có nhiều môn phái khác nhau ?
Đ: Thiền sư Tôn
Mật, đời Đường, chia Thiền làm 5 loại: 1) Thiền ngoại đạo, 2) Thiền phàm phu,
3) Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa), 4) Thiền Đại thừa và 5) Thiền Như Lai Tối Thượng.
Phái Thiền thứ năm đó còn được gọi là Thiền Như Lai Thanh Tịnh, Thiền Tổ Sư,
Thiền Đốn Ngộ, Thiền Đạt Ma … mà nay thường gọi là Thiền Tông.
H: Tại
sao Thiền Phật giáo lại chia làm nhiều thứ như vậy ?
Đ: Đức Phật
Thích Ca khi truyền đạo thì tùy căn cơ, trình độ mỗi người mà chỉ cho phương pháp
tu tập khác nhau, cũng ví như thầy thuốc chữa bệnh thì tùy bệnh mà cho thuốc như
vậy mới có kết quả tốt. Trong đạo Phật thường nói đến Tam Thừa: Thanh Văn thừa,
Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa. Hai Thừa trên còn được gọi là Nhị thừa, cũng
còn gọi là Nguyên thủy, hoặc Nam Tông vì các nước về phía Nam như Thái Lan,
Lào, Cam Bốt, Tích Lan chuyên theo thừa đó. Bồ Tát thừa thường được gọi là Đại
thừa hoặc Bắc Tông, được lan truyền tại các nước miền Bắc như Trung Hoa, Nhật
Bản và phần lớn Việt Nam. Ngoài ba Thừa trên, muốn nói cho đầy đủ thì có khi
còn kể thêm hai Thừa nữa để chỉ những người tu theo đạo Phật nhưng chưa thấm nhuần
sâu xa được lý Đạo: Nhân thừa và Thiên thừa. Những người tu theo Nhân thừa chỉ
mới tin Đạo, và mục đích chỉ là gây nhân lành để có quả tốt trong đời này và những
đời sau ở thế gian. Những người tu theo Thiên thừa thì muốn sau này sẽ được
sinh tại cõi trời để tránh sự khổ trần gian. Những người tu theo hai Thừa đó,
vì còn ở trong vòng mê nên gọi là phàm phu, phàm tức là chưa phải bậc thánh chứ
không có nghĩa xấu theo như ta thường dùng là thô tục, thấp kém. Pháp Thiền
phàm phu vì vậy chỉ có mục đích giúp cho tâm khỏi tán loạn để giữ cho thân,
miệng, ý tránh làm những điều xấu, nhưng chưa theo hoàn toàn được mục đích của
đạo Phật. Như vậy thực sự Thiền Phật giáo chỉ bao gồm các Thiền Nguyên thủy,
Thiền Đại thừa và Thiền Tông.
H: Thế
nào là Thiền Nguyên thủy ?
Đ: Thiền Nam
Tông, tức Nguyên thủy, được chỉ dẫn trong các kinh tạng Nam Tông. Tuy nhiều
phương pháp nhưng về thực hành thì có thể kể hai pháp thịnh hành nhất là:
Anapanasati (niệm hơi thở) và Vipassana (quán, minh sát). Do lời giảng của hoà thượng
Thích Minh Châu thì pháp môn Anapanasati được chỉ dạy trong kinh “Một
pháp” nằm trong bộ kinh “Tương Ưng”. Pháp này gồm việc dùng niệm
theo d i hơi thở vô, hơi thở ra, thí dụ :
“Quán
vô thường, tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra
Quán ly tham,
tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra … “
Pháp môn này
thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ, tức bốn chỗ (xứ) để an trú niệm là: thân, thọ,
tâm và pháp. Theo hoà thượng Thích Minh Châu thì ích lợi của Anapanasati vừa để
định tâm cho tâm khỏi giao động (thường được gọi là Chỉ hoặc Định), vừa phát
triển quán sát, suy tư (gọi là Quán hoặc Huệ). Ích lợi của pháp Thiền này là
làm cho “thân tâm nhẹ nhàng, phấn khởi, hoan hỷ, vui vẻ, ít bệnh, ít
phiền não”. Còn đường lối của Vipassana là chú niệm về ngũ uẩn, tức
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, là năm thành phần về thân và tâm cấu tạo nên con
người. Chú niệm vào ngũ uẩn để thấy rõ thực tướng của chúng và như vậy không
còn bám níu, chạy theo đó nữa. Phương pháp “chú niệm” đây có nghĩa là
quán sát một cách liên tục và chuyên chú. Đặc điểm của phương pháp này là trong
khi chú ý quán sát nhưng vẫn giữ một tâm trống lặng, tức không có khởi phân biệt,
xét đoán, giải thích những điều quan sát đó. Để giữ cho tâm trống lặng chúng ta
cần phải dẹp hết những khái niệm, thành kiến, có như vậy mới quán sát sự vật một
cách trung trực được . Vipassana áp dụng một cách sâu xa kinh Tứ Niệm Xứ
(Satipatthana Sutra), thường được coi là kinh chánh yếu của Thiền Nam Tông.
H: Thiền
Đại thừa như thế nào ?
Đ: Nói Thiền Đại
thừa tức nói đến những pháp Thiền có ghi trong các kinh điển Đại thừa. Khác với
Thiền Nguyên thủy thường được tả rất rõ ràng, chi tiết, các kinh điển Đại thừa
tuy có chỉ những phương pháp tu nhưng không có hệ thống rõ ràng như hai pháp
Thiền nói trên. Về phương pháp cũng vẫn là hai phương pháp chính là Chỉ và
Quán. Tuy danh từ giống nhau, nhưng theo hòa thượng Thích Thiện Hoa “Trong
kinh này (kinh Viên Giác) nói Chỉ, Quán không đồng lối Chỉ, Quán của Nguyên
thủy, vì lối Chỉ, Quán của Nguyên thủy là phải dùng phương tiện bên ngoài để
tu. Còn lối Chỉ, Quán của Đại thừa là xứng theo bản thể của Chân tâm mà Chỉ và
Quán“. Trong kinh Viên Giác, đức Phật còn chỉ thêm pháp thứ ba là
Thiền Na, pháp này không theo hẳn Chỉ hoặc Quán mà y theo tâm Viên giác thanh
tịnh (một danh từ chỉ Phật tánh) mà tu. Kinh này nói rõ phương tiện tu tuy có nhiều
nhưng không ngoài ba pháp đó, và có thể phối hợp ba pháp đó, bằng cách tu riêng
một pháp, hoặc hai pháp, hoặc cả ba pháp cùng lúc, tất cả thành 25 pháp tu.
Nhiều kinh lại kể những pháp Quán riêng biệt: Kinh Lăng Nghiêm kể kinh nghiệm của
nhiều vị Bồ tát về những đề tài quán khác nhau, như quán về tứ đại (đất, nước,
gió, lửa), 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức). Mỗi Bồ tát quán theo một trong
những đề tài đó và đều đắc đạo. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói :”A
Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền Na thì không có
trí tuệ.” (quyển 9, đoạn 2). Tu theo Bồ Tát hạnh, là tu theo Lục Độ Ba La
Mật, mà Thiền Định và Trí Huệ là hai điều căn bản và quan trọng nhất. Cho nên
nói tu Đại thừa, tức Bồ tát thừa, mà không tu Thiền là một điều thiếu sót đáng
kể.
H: Còn
Thiền Tông khác với hai môn Thiền trên như thế nào ?
Đ: Thiền Tông
được khởi đầu từ hội Linh Sơn, khi đức Phật truyền cho ngài Ma Ha Ca
Diếp:”Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, pháp môn mầu
nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi“.
Tổ Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất Thiền Tông. Cho đến Tổ thứ 28 là Tổ Bồ Đề
Đạt Ma (?-532) thì ngài qua Trung Hoa để truyền đạo nên thường được coi là Tổ
thứ nhất tại Trung Hoa. Đặc điểm của Thiền Tông nằm gọn trong bốn câu của Tổ Bồ
Đề Đạt Ma : Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến
tánh thành Phật. (được dịch là: Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ
thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Đặc điểm của Thiền Tông chính là điểm
“thấy Tánh”, có hiểu được điều này mới hiểu được mục đích và phương
pháp của Thiền Tông. Chữ Tánh đây không có nghĩa là tánh tình mà ta thường
dùng, cũng không phải là tánh chất. Việc định nghĩa chữ này là một việc không
nên làm và thực ra là không thể làm được, tuy vậy mà vẫn cần làm vì đó là trọng
tâm của Thiền Tông. Nói một cách đơn giản thì Tánh đây là bản thể của chúng ta,
của vũ trụ, cái bản thể dó không sinh, không diệt, không thay đổi như phần thể
chất và phần tinh thần của chúng ta. Nghe thật là dản dị nhưng ngày nào chúng
ta hiểu được điều đó thì được coi là người đã ngộ đạo, để đi đến con đường
thành Phật.
H: Như
vậy Tánh là gì, nếu nói “thấy Tánh thành Phật” mà không chỉ rõ được
Tánh là gì thì làm sao mà tu ? Tại sao Thiền Tông chỉ nói tới thấy Tánh mà
không nói tu hành thế nào?
Đ: Trong kinh
điển Đại thừa đức Phật nhiều lần đã nói tới Tánh, nhưng tùy trường hợp đã dùng
những danh từ khác nhau như: Phật Tánh, Chân Tâm, Chân Như, Bồ Đề, Tri Kiến Phật,
Niết Bàn, Pháp Giới, Tâm Địa, Như Như, Tự Tâm Hiện Lượng … Muốn diễn tả được
cái tuyệt đối, ngoài vòng đối đãi, phân biệt, so sánh thì thật là khó. Những
danh từ đặt ra chỉ là tạm thời, tùy trường hợp mà giảng giải thôi, chứ không có
cách nào để diễn tả cho rõ được. Thiền Tông cũng vậy, có khác là dùng những
danh từ rất thông thường, hoặc là chỉ bằng cách yên lặng, không nói gì, giống
như ông Duy Ma Cật đã trả lời Bồ tát Văn Thù Sư Lợi khi được hỏi về pháp môn
Bất Nhị. Thiền Tông không dùng những danh từ cao xa, huyền bí để tránh những khái
niệm, lý luận khó hiểu hoặc không thực tế. Vì vậy về danh từ để chỉ cái bản thể
đó thì Thiền Tông dùng những danh từ rất bình thường như: bát không đáy, thùng sơn
lủng đáy, đờn không giây, cây không rễ … Thiền Tông giúp chúng ta nhìn thẳng
vào đời sống hiện tại, nhìn thẳng vào tâm mình để tự tìm thấy chân lý. Những
lời Phật dạy chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta nương theo ngón tay đó mà
nhìn lên thì mới thấy mặt trăng, chứ chỉ nhìn ngón tay mà cho đó là mặt trăng
thì chẳng bao giờ thành đạo. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói Phật Thích Ca,
cũng như tất cả chư Phật khác, ra đời chỉ có mục đích quan trọng là chỉ cho
chúng ta thấy mỗi người đều có Tri kiến Phật (cái thấy biết giác ngộ). Thiền
Tông nhận rõ và lấy điều đó làm cứu cánh cho đường lối tu hành. Thiền Tông chỉ tin
ở Tánh, tức Chân Tâm, ngoài cái đó ra không có gì khác để đưa đến con đường
giác ngộ. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rõ muốn đạt quả vô vi thì phải
dùng nhân vô vi, nhân nào đi với quả đó, không thể tu theo pháp hữu vi mà mong
đạt đạo vô vi. Cũng theo đúng đường lối đó nên tổ Hoàng Bá (?-850) đã chỉ dậy
:” người học đạo đời nay chẳng thấy tâm thể này (chân tâm), cứ ở nơi
tâm sanh tâm (vọng tâm), hướng bên ngoài cầu Phật, chấp theo tướng để tu hành,
đều là pháp tà, chẳng phải đạo bồ đề“.
H: Nhiều pháp
Thiền như vậy thì biết nên theo pháp nào ?
Đ: Trong đạo
Phật khó có thể nói pháp nào hay hơn pháp nào. Mỗi người có một khả năng khác
nhau nên cần biết pháp nào thích hợp với người nào. Nếu muốn tu tập cho có kết quả
thì cần phải biết rõ khả năng, căn cơ của mình trước, và sau đó cần tìm hiểu
đạo cho kỹ thì mới có thể chọn lựa con đường thích hợp. Muốn tìm học và hiểu
thì cần có các thầy, bạn, kinh điển, sách vở, băng thâu thanh … Một vị thầy
chân chánh phải là một vị giảng rõ cho người học trò biết những pháp tu của đạo
để người đó hiểu rõ và cần tìm biết khả năng của người đó trước khi hướng dẫn
họ hoặc để họ tự quyết định. Nhiều người đã tu theo một pháp môn rồi thì gặp ai
cũng quả quyết là phải theo pháp môn đó mới là đúng, chứ không chịu xem xét kỹ
người đó khả năng, thích hợp ra sao. Kết quả là sau một thời gian người đó thấy
không hợp và chán nản hoặc bỏ cuộc. Vì vậy việc giảng giải cũng như việc tìm
hiểu các pháp môn là điều cần thiết để giúp chúng ta tránh những người lợi dụng
danh nghĩa đạo Phật, danh nghĩa Thiền để đưa chúng ta vào đường sai lầm.
Discussion about this post