THIỀN LÂM PA-AUK TẠI MIẾN
Thích Giác Hoàng
Pak
Auk Forest Monastery
c/-
Major U Khan Sain (Rtd)
653
Lower Main Road
Mawlamyine,
Mon State, Myanmar
Tel:
032 22132
Web
site: www.paauk.org
Teacher:
Ven. Pa Auk Sayadaw
Rangoon
Contact:
U
Thet Tin
30
Myananda Lane
Kyank
Grove Quarter
Yankin
Township, Yangon
Method:
Pak Auk method of meditation
1.
MÔI TRƯỜNG THIỀN VIỆN
Cảnh
quang, môi trường của Pa-Auk quả là tuyệt. Có lẽ đây là
thiền lâm có cảnh quang có một không hai ở Miến, đặc biệt
là thượng phần và trung phần thiền viện – khu dành cho
chư Tăng và nam cư sĩ. Mặc dầu tôi chưa đi nhiều nơi ở
Miến, nhưng tôi tin chắc rằng đây là nơi lý tưởng nhất
để tu thiền. Nhiều thiền sinh ngoại quốc đã từng đi nhiều
nơi và chư Tăng Miến cũng nói vậy.
Từ
ngoài lộ vào tới trung phần và thượng phần thiền viện
khoảng 2- 3 cây số, bao bọc bởi rừng non, rừng cao su lấy
mủ, và các dãy đồi với bao loại cây hoang dại thật
đẹp, nên thơ và yên tĩnh. Vào những buổi chiều tà, một
số Sư có việc đi lại từ ngoài vào, hoặc một vài vị
từ trong ra, đi bộ thảnh thơi trong chánh niệm, làm cho chúng
tôi tưởng tượng những hình ảnh trong kinh mô tả các vị
Tỳ-kheo giữ chánh niệm, thảnh thơi từng bước trong các
Tịnh Xá Trúc Lâm, Tịnh Xá Kỳ Viên, … ngày xưa vô cùng.
Từ
văn phòng của Thiền Viện (Sangha Office) lên đến Thiền đường
chính, đi bộ trung bình mất phải 10-15 phút. Thiền đường
toạ lạc trên một ngọn đồi khá cao, gần với tịnh thất
HT. Đường đi lên rất đẹp, vì bên đường là các tịnh
cốc bằng gỗ sơn đen, che phủ bởi các tàng cây ít tuổi hoặc nhiều tuổi.
Trong
rừng thiền rộng lớn đó, có nhiều cốc ở khá xa thiền
đường. Phải đi nửa tiếng mới tới thiền đường, hoặc
20 – 30 phút mới tới được phòng thọ trai. Từ trên chánh
điện nhìn xuống thung lũng, thấp thoáng am cốc đó đây ẩn
mình trong rừng xanh bạt ngàn đó, quả thật là cảnh trí
dành cho người tìm về tịch tĩnh.
Có
hai ba con đường dẫn đến thiền đường. Vào mùa an cư mưa
nhiều, nước chảy xiết thành thác, thành suối lớn nhỏ
ven các lối đi của chư Tăng. Gà rừng ngày đêm gáy vang núi
rừng. Có khi chúng còn vô tới sàng cốc chư Tăng làm ổ ! Sóc rất nhiều. Chúng chạy nhảy tự do, sống trọn với thế
giới thiên nhiên của nó. Thế giới loài người gần như
chỉ là những sinh vật bé nhỏ trong vũ trụ bao la và hùng
vĩ của núi rừng nơi đó!
Rắn
cũng có, nhưng có lẽ không nhiều. Người viết đến ở đó
trước sau hai lần, mặc dầu ngắn, nhưng chỉ thấy rắn hai
lần, và dường như chỉ có một con rắn ấy. Các loại bò
cạp, côn trùng khác cũng có, nhưng nhờ thanh khí tu tập của
chư Tăng nên chưa nghe ai bị hại vì những độc trùng này.
Người viết nghe một vài vị Sư khác nói thỉnh thoảng có
một vài loài thú lớn, như báo, cọp ra “thăm viếng”, và
chúng chỉ là những khách vãng lai của Thiền Lâm, đến rồi
đi, không để lại ấn tượng gì xấu cho hành giả ở đó
cả.
Phần
lớn chư Tăng ai cũng thích môi trường thiền viện thượng
phần. Ở đây ít có Phật tử hoặc tín nữ viếng thăm. Một
số thiền viện khác, có những ngày khách khứa thăm viếng
nhiều, hoặc chư Tăng Ni không cách biệt hoàn toàn, dù muốn
dù không thiền sinh vẫn bị tác động và chi phối bởi những
xung lực âm thầm và những ngoại duyên ấy. Môi trường thiền
lâm Pa-Auk quả thật là môi trường tốt nhất để mình tập
cắt dần mọi duyên, tập sống một đời sống độc cư thiền
định.
Theo
lời những vị đang tu ở đó, và theo cách quan sát của người
viết, có lẽ môi trường tu ở đây chưa phải là môi trường
tốt nhất cho chư Ni. Một phần một số am thất của chư
Ni gần sát đường, mặc dầu đã là đường nhỏ của làng
mạc, chứ không phải là đường lộ. Thứ hai có lẽ là công
trình xây dựng đang tiến hành, nơi ăn chốn ở cho chư Ni
chưa đi vào nề nếp thật sự. Thứ ba, khu vực chư Ni ở
xa chư Tăng quá mà không có một vị Ni nào đứng đầu để
lãnh đạo, giám sát Ni chúng nên cũng có những điều bất
cập. Mặc dầu các vị Tăng cao hạ đã được điều ra ở
gần đó để trông nom, giám sát; nhưng để chư Ni và nữ
hành giả thực sự đi vào nề nếp tu tập trên mọi phương
diện, có lẽ cần một khoảng thời gian nữa.
2.
CÁCH ĐẾN THIỀN VIỆN
Mua
vé xe từ thủ đô Yangon tới Thiền Lâm Pa-Auk tại Malamyine
tốn khoảng 5-7 Mỹ kim, tuỳ theo loại xe. Loại xe chúng tôi
đi, 5 Mỹ kim cũng đã sang lắm rồi, có cả máy điều hoà.
Xe chỉ khởi hành vào lúc 6-7 giờ tối, và thông thường đến
thiền viện 8 giờ sáng. Đi rất dễ, lên xe chỉ nói với
tài xế hoặc phụ xe, mình muốn xuống Pa-Auk Meditation Center,
phần lớn ai cũng biết và họ sẽ ngừng đúng chỗ. Từ đường
lộ vào trong thiền viện phía Ni (hạ phần), nếu đi bộ trung
bình mất khoảng 15 phút. Nếu vào phía bên trong thiền viện
của chư Tăng, đi bộ mất khoảng cả tiếng đồng hồ. Trước
cổng thiền viện thường có xe xích lô đạp, xe Honda hoặc
xe ngựa. Đi vào thượng phần thiền viện, trả tối đa là
nửa đô (đây cũng là giá hậu hỷ lắm rồi !).
Nếu
là chư Tăng thì vô bên trong để làm mọi thủ tục giấy
tờ, khai báo mọi thứ, như thể là giấy khai sanh cả đời
lẫn đạo vậy. Xuất gia năm nào, thọ Tỳ-kheo giới với
ai, ở đâu, với vị Thầy nào, năm trước an cư nơi nào,
thuộc hệ phái nào ? Dĩ nhiên là những vị Khất Sĩ phải
thưa là thuộc hệ phái Khất Sĩ. Để cho dễ nhớ đối với
các vị có truyền thống học Pāli, tôi đã dịch chữ Hệ
Phái Khất Sĩ thành Bhikkhuyana và được các vị ở đó chấp
nhận ngay. Dĩ nhiên là bộ phận văn phòng ngoại quốc phụ
trách phần này, và văn phòng tổng quát của thiền viện liên
hệ đến phòng thất, hướng dẫn căn bản nơi thọ trai, thiền
đường, v.v…
Nếu
là chư Ni hoặc tín nữ, có thể vô chư Ni trước, tìm các
vị quen biết để thưa hoặc vô văn phòng ở hạ phần thiền
viện (Lower Monastery Office) để trình bày, rồi đảnh lễ HT
viện chủ sau.
3.
CÁCH QUẢN TRỊ THIỀN VIỆN
Hoà
thượng viện chủ là vị có đức độ, sở chứng cao nhất,
và cũng là vị có quyền tuyệt đối quyết định mọi sinh
hoạt trong thiền viện. Hành giả vừa mới vào để xin tu,
trước nhất là gặp vị chịu trách nhiệm tiếp khách ngoại
quốc (Registration Office for Foreigners). Sau đó, các vị phụ
trách văn phòng tổng quát sắp xếp phòng ốc, vị trí đi
đứng trong Tăng đoàn.
Vào
những mùa ít Tăng có một vài cốc trống, chư Tăng có thể
được xếp vào những cốc ấy ngay. Nếu cốc không trống
thì ở các phòng gần Sangha Office, hoặc ở độc lập, hoặc
ở chung với một vị khác. Chờ đến khi có cốc trống, các
vị sẽ sắp xếp cho mình ở cốc riêng. Việc ở một cốc
nào hoặc dời đến một cốc khác tuỳ thuộc hoàn toàn vào
sự sắp xếp của ban trị sự thiền viện. Có một số cốc
mình đang ở, nhưng cốc đó vốn được một vị Sư hoặc
một vài Phật tử nào đó xây cúng dường cho vị Sư đó,
nếu vị đó đến tu tại thiền viện thì thiền sinh đang
ở được sắp xếp đến một cốc khác.
Hiện
nay các cốc chư Ni ở hạ phần thiền viện cũng trong tình
trạng đó. Vì thiền viện không có điều kiện xây dựng
phòng ở cho chư Ni, nên nếu thiền sinh nào có điều kiện
xây dựng cốc cho riêng mình thì thưa với Tăng chúng, các
vị sẽ liệu chỗ nào phù hợp để cho xây dựng một cốc
nơi đó. Bất cứ khi nào vị ấy đến đó tu tập đều được
ưu tiên tạm sở hữu cốc đó; nhưng sau khi đi rồi, cốc
đó tuỳ thuộc vào sự điều dụng của Tăng chúng.
Một
số vật dụng cần thiết như là gối, mền, ra trải giường,
bát, muỗng, ly, dù, dép (phần lớn các Sư nơi ấy mang dép
lào), thậm chí là đèn bin (nhưng bin mình phải tự lo lấy)
đều có thể mượn tại Sangha Office.
Nếu
muốn rời thiền viện, mình có thể nhờ văn phòng do người
cư sĩ phụ trách (Lay Office) để mua vé giúp. Nên thông báo
trước một tuần để các vị sắp xếp khi nào tiện thì
mua vé và giữ chỗ cho tốt.
4.
CỞ SỞ HẠ TẦNG
Trong
vòng 15 năm trở lại từ khi nhiều người ngoại quốc biết
đến Hoà thượng và đến tham vấn học Thiền với Ngài,
cơ sở nhanh chóng được xây dựng. Một thiền đường uy
nghiêm rất lớn, dung chứa khoảng 150 – 200 thiền sinh ít
nhất mỗi tầng lầu. Tầng trên cũng còn gọi là Chánh Điện
hay Giới Đường nữa, vì vào những ngày Giới chư Tăng tụ
tập ở đó để tụng Giới Bổn.
Một
trai đường 2 lầu và cũng dùng để làm thiền đường, ngang
tầm với chánh điện chính. Bên cạnh là một dãy nhà để
chư Tăng đến nhận thực phẩm. Tại thiền viện hiện nay
chỉ có khoảng 220 tịnh cốc (kuti) bằng ván gỗ, sơn đen.
Mỗi tịnh cốc như vậy chỉ ở một người. Những cốc của
thiền viện cất lúc trước có đúng theo kích cỡ hơn, các
kuti cất sau cũng đều bằng gỗ và thỉnh thoảng bằng xi
măng, rất lớn, có thể ở bốn người cũng được, nhưng
lại ưu tiên cho một số vị và mỗi vị ở một kuti lớn
như vậy. Cốc ở nơi xa ấy cũng khá tiện nghi, có thể gần
nhà tiêu tiểu, hoặc đôi khi có cả trong cốc luôn. Các cốc
ấy khá lớn so với các cốc thường, phần lớn do chư Tăng
hoặc Phật tử ngoại quốc tài trợ tiến cúng. Với số lượng
kuti chỉ khoảng 220, nhưng thiền sinh lại quá đông, nên Chánh
Điện, thiền đường, trai đường đều được tận dụng
tạm thời như phòng ngủ cho chư Tăng Miến cả. Sau khi khoá
thiền tối chấm dứt lúc 9 giờ, chư Tăng ngủ tại chỗ và
có thể dậy lúc nửa đêm hay 3 giờ sáng và bắt đầu thiền
toạ rồi.
Ngoài
ra, còn có một dãy nhà 8 phòng dành làm bệnh xá, dưỡng đường.
Bên cạnh đó là một dãy lầu 3 tầng dành cho 3 mục đích:
tầng trên là thư viện; tầng dưới là văn phòng điều hành
tổng quát của thiền viện, phòng computer dành cho văn phòng
và biên tập kinh, sách, pháp thoại, các thước phim quan trọng
của thiền viện; còn lại là phòng ở cho khách Tăng tạm
trú ngắn hạn, hoặc lâu dài nếu các cốc đã hết; tầng
dưới hoàn toàn dành làm phòng ở.
Có
lẽ cũng nên đề cập ở đây, thư viện của thiền viện
bao gồm kinh sách nguyên tác bằng Pāli, các bản dịch, các
trước tác của HT bằng tiếng Miến, các dịch phẩm kinh văn
quan trọng bằng tiếng Anh, bên cạnh các tạp chí, sách báo
đủ loại. Băng đĩa của các bậc danh tăng thuyết giảng
về thiền học hoặc kinh tạng cũng có một số. Tất cả
đều có thể mượn nghe.
Hiện
nay thiền viện đang được xây dựng tiếp. Thiền đường
và các phòng ốc dành cho chư Ni đang trong giai đoạn cuối.
Thiền đường cho chư Ni cũng hai tầng và lớn như chư Tăng,
dung chứa từ 400 – 500 thiền sinh.
5.
CÁC THIỀN SƯ TẠI THIỀN VIỆN
Ngoài
HT viện chủ Pa-Auk chịu trách nhiệm chính về mọi mặt tại
thiền viện, còn 2 vị khác đặc trách phụ giúp Ngài hướng
dẫn thiền tập. Thông thường, các thiền sinh (Tỳ-kheo và
thiện nam) ngoại quốc được HT hướng dẫn trực tiếp. Chư
Tăng Miến và cư sĩ nam được 2 vị khác, cũng có kinh nghiệm
tu đặc biệt, do HT thiền chủ bổ nhiệm hướng dẫn. Một
vị còn khá trẻ, năm nay khoảng 35 – 37 tuổi, nói tiếng
Anh lưu loát. Còn vị khác không biết tiếng Anh. Đôi
lúc HT đi tổ chức các khoá tu ở hải ngoại, vị Sư trẻ
ở nhà phụ trách hướng dẫn thiền tập cả. Thời gian HT
chắc chắn ở tại thiền viện là thời an cư, từ 15 – 06
đến 15 – 09 âm lịch. Một số thiền sinh ngoại quốc lại
thích trình pháp với vị Sư trẻ hơn, vì có nhiều thời gian
để thưa hỏi những vấn đề liên hệ đến thiền hoặc
giới luật. Điều đó cũng được, khi HT đồng ý.
Phía
chư Ni phần lớn là do vị Sư trẻ hướng dẫn thiền tập.
Tuy nhiên, cũng có một số chư Ni ngoại quốc, đặc biệt
là Đài Loan muốn trình pháp với HT. Các vị đến trình pháp
vào lúc 10:30 –11:00 giờ sáng, trước khi Ngài dẫn chư Tăng
đi khất thực, hoặc sau khi Ngài đã nhận thực phẩm rồi!
6.
THỜI KHOÁ TU TẬP
Thời
khoá ở thiền viện này nếu áp dụng cho hành giả Miến Điện
quả là khít khao, gần như không có thời giờ để làm việc
khác nữa. Đối với người ngoại quốc còn có thời
gian rảnh chút đỉnh vì không phải tụng kinh và nghe pháp
bằng tiếng Miến vào lúc 5:30 – 7:00 chiều tối. Thời khoá
hằng ngày như sau:
3:30
sáng: Thức chúng.
4:00
– 5:30: Tụng kinh sáng và thiền toạ chung.
5:45-
6:30: Điểm tâm.
7:00
– 9:00: Thiền toạ chung.
9:00-
10:00: Trình pháp và các công việc lặt vặt riêng.
10:10: Thọ trai.
12:30
– 2:30: Thiền toạ chung.
3:00
– 4:30: Thiền toạ chung.
4:30
– 5:30: Trình pháp, các công việc cá nhân và công quả.
5:30
– 7:00: Tụng kinh tối và pháp thoại bằng tiếng Miến.
7:00
– 9:00: Thiền toạ chung.
Tụng
kinh sáng chỉ khoảng 15-20 phút tối đa trước khi chính thức
vào thiền toạ. HT đã ghi âm sẵn và có vị phụ trách mở
máy, như vậy đại chúng cứ theo đó mà tụng. Kinh tụng ở
đây bằng tiếng Pāli và đã dịch sang tiếng Anh, được biên
tập thành KINH NHẬT TỤNG (DAILY CHANTS) nên hành giả có thể
thỉnh khi vừa tới để học và tụng với đại chúng.
Nếu
theo thời khoá biểu đúng mức đòi hỏi sự tinh tấn của
hành giả rất nhiều. Các thời toạ thiền chung, tất cả
thiền sinh đều phải lên đầy đủ. Trong thời gian ngồi
thiền ấy, chờ cho đến khi nào tiếng chuông được đánh
lên mới xả thiền. Dĩ nhiên cũng có một số vị vì lý do
ngồi lâu quá chưa quen, nên xả thiền trước, đi xuống sớm
một chút. Điều đó cũng ảnh hưởng đến sự tập trung
tư tưởng hoặc sự gia công nỗ lực của một số thiền
sinh khác. Trường hợp như vậy, các vị phụ trách trông nôm
thiền sinh trên thiền đường thỉnh thoảng có nhắc nhở.
Vì mục đích tạo không khí yên tĩnh tối đa cho thiền sinh
trong khi tu tập, nên các thiền sinh không được nói chuyện
ở khu vực thiền đường.
Sau
khi xả thiền lúc 5:30 sáng, các thiền sinh trở về phòng mang
bát xuống phòng nhận thực phẩm đã mất hết 10 phút rồi.
Các Sư Miến và đặc biệt các Sư nhỏ hạ hoặc Sa-di, phải
chờ các vị lớn hạ đi trước, nên đến khi các vị nhận
được thực phẩm, vừa dùng xong, nhiều vị mang cả bát lên
thiền đường tu tập.
Như
thời khoá biểu chúng ta thấy, thời gian trình pháp và các
công việc lặt vặt được chia thành sáng chiều. Nếu mình
trình pháp vào buổi sáng thì khỏi phải trình buổi chiều.
Thời gian này cũng là thời gian rảnh chút đỉnh để tắm
rửa, giặt giũ cá nhân hoặc quét dọn khu vực am cốc của
mình.
Thời
gian bắt đầu chuẩn bị cho đến thọ trai xong từ 10: 10 cho
đến 12:00. Vì 12:30 đã bắt đầu hành thiền, nên 12:15 đã
đánh kiểng. Nếu các vị nhận cơm đi đầu và ăn nhanh có
thể có thời gian dư từ 30 – 45 phút, còn các vị đi
sau và ăn chậm gần như không còn thời gian nghỉ trưa !
Duy
chỉ có chư Tăng ngoại quốc, nếu là trình pháp buổi sáng
thì thời gian từ 4:30 – 7:00 là thời gian rảnh để nghỉ
ngơi hoặc tham cứu thêm kinh luật hoặc pháp môn. Một số
vị đau lưng hoặc ngồi lâu chưa quen có lẽ không hợp với
thời khoá ngồi từ một tiếng rưỡi đến hai tiếng này.
Bên
cạnh sự lợi ích của trình pháp mỗi ngày, cũng có những
trường hợp ngược lại, vì mỗi ngày phải trình sự tu tập,
tiến bộ của mình như thế nào, mà thực tế nhiều thiền
sinh làm không được, nên lại sợ trình pháp và gặp HT viện
chủ, lắm lúc tạo ra tâm lý căng thẳng đối với một vài
thiền sinh.
7.
KHẤT THỰC VÀ THỌ TRAI
Pháp
khất thực của thiền viện, thật ra chỉ là sắp tới trưa,
chư tăng đắp lum y đi nhận thực phẩm tại thiền viện,
thay vì đi khất thực ngoài làng hoặc phố phường. Đó cũng
là điều hay, vì nhắc nhở chư Tăng phép khất thực xin cơm
nuôi thân, mình không là gì cả, hoàn toàn tuỳ vào sự bố
thí cúng dâng của cư sĩ mà mình mới tu được, từ đó bản
ngã của mình hầu như không có cơ hội để phát triển; và
một cách tự nhiên, hành giả trở thành người khiêm hạ
mà mình không cần phải cố gắng gượng gạo. Nhiều Phật
tử từ xa lại, có khi còn bồng theo con cháu nhỏ, đứng thành
hàng nghiêm trang chờ chư Tăng đi tới dâng cơm hoặc dâng
những gì có thể, như trái cam, trái quýt, cây kẹo, bị đậu
phộng, bị muối, v.v… Tất cả những hình ảnh khiêm cung,
lễ độ, trân trọng, quý mến chư vị Đại Đức đó đã
đập vào tim não của các nhà Sư khi nhận thực phẩm, giúp
rất nhiều cho sự nỗ lực của chư Tăng trong những ngày
tháng thật sự khép mình tu tập!
Điều
luật trên áp dụng cho toàn thể đại chúng, kể cả HT viện
chủ, các vị Thầy giáo thọ, các vị lớn tuổi hạ và cả
những vị già nua nhưng vẫn còn đi nhận thực phẩm được.
Đúng thời đều phải xuống sắp hàng và lần lượt đi nhận
thực phẩm (khất thực) cả. Ngoại trừ các vị bị bệnh
nằm tại dưỡng xá của thiền viện, thì có các vị nuôi
bệnh khất thực thế. Tất cả thực phẩm mà người bệnh
dùng, phần lớn cũng giống như chư Tăng bình thường, ngoại
trừ khi có yêu cầu đặc biệt. Dù là bệnh cũng không
được dùng chiều, trừ khi thắt ngặt lắm mới dùng.
Ngay cả những vật dụng hay thuốc men, đồ ăn cho người
bệnh đều phải qua sự chứng minh của chư Tăng, không được
tự mua về dùng. Nếu không như vậy, dùng đều sái luật.
Buổi
sáng, chư Tăng vẫn phải mang bát xuống và sắp hàng như buổi
trưa. Có một số vị cảm thấy quá mệt mỏi khi phải sắp
hàng, chờ đợi, mất thời giờ chỉ vì cái bao tử, cái sắc
uẩn giả hợp này nên các vị nhịn ăn sáng luôn. Mặc dầu
các vị vẫn ý thức được sự đi đứng, ngồi nằm, ăn
mặc, nói làm … của một vị Tỳ-kheo, nếu biết khéo tu
thì trong mọi hoàn cảnh đều có thể tu được, nhưng sự
thật cũng vì cái ăn mà phải tranh thủ thời gian, quả thật
là một điều mệt nhọc cho hành giả ! Do đó, bữa trưa HT
sắp xếp cho các nhà Sư Nguyên Thuỷ, Khất Sĩ, Đại Thừa
ngoại quốc ăn mỗi ngày một ngọ đi trước, kế là các
vị Miến ăn một ngày một ngọ, sau nữa là các nhà Sư Nguyên
Thuỷ, Đại Thừa; và chư Tăng thiền viện đi sau cùng.
Hạ
lạp ở trường thiền này rất lưu tâm, nên chư Tăng phần
lớn đi, đứng, ngồi đều đúng theo tuổi hạ của mình.
Thực
phẩm trong trường thiền này duy nhất là chay. Một số
thiền sinh ở đó cho rằng do yêu cầu của khối người Hoa,
nên trường thiền mới dùng chay. Sự thật không phải vậy,
vị HT trú trì đời trước chẳng những mỗi ngày ra làng
đi khất thực mà chỉ dùng chay thôi, và có lẽ khi HT Pa-Auk
tiếp nhận thiền viện này cũng đã dùng chay lâu rồi. Sau
khi nhận thực phẩm xong, các vị lên phòng thọ trai, hoặc
tìm một chỗ nào ngồi thích hợp. Một số vị lên trai đường
trước để trải toạ cụ, một số sau khi lên trai đường
rồi mới trải toạ cụ để ngồi rồi thọ trai luôn đều
được. Trước khi dùng, cũng tuỳ theo mỗi vị mà có cách
lạy Phật, cúng dường thầm hoặc ăn trong chánh niệm mà
không có đọc kinh cúng dường, cầu nguyện gì cả. Ở Miến,
một số vị còn dùng tay, ăn bốc như Ấn Độ và Tích Lan
vậy.
Vì
chỉ nhận thực phẩm đựng trong bình bát như vậy, nên có
một số vị đôi khi ăn không hết vì một lý do nào đó,
nên trường thiền để sẵn 3 sô lớn để đổ cơm thừa,
bánh trái dùng không hết, hoặc lá, bao, v.v… Cơm thừa trong
sô lớn để cho chim, thú trong rừng. Bánh trái chư Tăng hồi
hướng lại, nam nữ cư sĩ đem xuống dùng trưa hoặc đem về.
Sau khi thọ trai xong, phần ai nấy lặng lẽ đi rửa bát, lau
khô rồi mang về phòng cất.
Buổi
chiều tại rừng thiền không có chuẩn bị bất cứ loại
nước gì cho thiền sinh cả. Vào những ngày Giới, nam nữ
Phật tử thỉnh thoảng lên dâng nước ngọt cho chư Tăng trước
sân Chánh Điện. Thông thường là sau khi xả thiền lúc 4.30,
một số ghế đã được sắp sẵn, các nam nữ rất cung kính
khi dâng nước cho chư Tăng.
Có
lẽ cũng cần nên biết về chất lượng thức ăn chay tại
rừng thiền. Theo quý vị tu ở đó nhiều tháng, có vị vài
năm cho rằng, đã không dùng nổi thức ăn chay ở đó nữa,
đặc biệt là chư Ni. Riêng tôi thì thấy cũng thường, có
lẽ vì ở ngắn ngày. Vì số lượng thiền sinh ở đây quá
đông, trung bình các mùa từ 500 – 700, kể cả Tăng lẫn Ni
và nam nữ cư sĩ, chưa kể vào các lễ hội có thể lên tới
1000. Có lẽ vì lý do này nên các cư sĩ phụ trách nhà bếp
(đặt tại hạ phần thiền viện) rất vất vả, nên đôi
khi chăm sóc thức ăn cho đại chúng không được chu đáo chăng
? Nhưng theo người viết, đời sống tu sĩ không làm gì ra
của cải vật chất, mỗi ngày được hai bữa cúng dường
sáng trưa như vậy cũng đã là phước báu lắm rồi. Rất
nhiều cư sĩ tại gia ở Miến làm rất vất vả, nhưng cơm
không đủ nuôi bụng thực sự, không có điều kiện cho con
cái học hành, nhưng còn nhịn lại để dâng cho chư Tăng Ni
tu học nữa. Quả là những tín chủ có tấm lòng vàng, đã
hỗ trợ thúc đẩy các hành giả tu học rất nhiều !
8.
CÁC PHẬT SỰ KHÁC
(1)
Giảng Luật và Thiền: Năm 2005, tại thiền viện có tổ chức
lớp học Luật một tuần một hai buổi tối cho các tân Tỳ-kheo,
hoặc những vị muốn tham cứu về giới luật. Sách lấy làm
giáo trình là GIỚI BỔN TỲ KHEO (THE BUDDHIST MONASTIC CODE -The
Patimokkha Training Rules Translated and Explained) do Đại Đức
Thanissaro người Mỹ soạn dịch. Tại thiền viện có nhiều
vị tinh thông luật tạng, nên thiền sinh Miến có thể tham
vấn trực tiếp từ các vị ấy. Nhưng phần lớn các vị
ấy không biết tiếng Anh, đó cũng là thiệt thòi cho những
thiền sinh ngoại quốc muốn học thêm về giới luật.
Một
điều khá hay mà các thiền viện hay các tu viện lớn ở Miến
không có, đó là, ở khu trung phần thiền viện có cả khu
biệt trú để chư Tăng ra đó sám hối tội tăng tàn.
Sáng sớm các vị vô trường thiền điểm tâm và cả ngày
tu tập, sinh hoạt bình thường, chiều 5 giờ các vị ra để
biệt trú. Nhiều vị đã 40 hạ, nhưng khi nhận ra mình phạm
lỗi nào như luật định cũng sám hối trước đại chúng
và xin ra đó để biệt trú. Quả thật đối với những vị
lớn tuổi hạ, tự phát lồ với tâm thành như vậy không
phải ai cũng làm được, và không phải nơi nào cũng có !
Thời
gian trước, vì muốn cho thiền sinh biết rõ về phương pháp
tu tập của thiền viện như thế nào, nên có tổ chức lớp
học: Knowing and Seeing (Tri Kiến) dựa theo pháp thoại Ngài đã
giảng khi tổ chức khoá tu tại Đài Loan, và những gì đã
được chắt lọc biên tập trong tác phẩm này.
Và
cũng với phương hướng đó, rất có thể mỗi năm có những
chương trình khác biệt nhằm giúp cho thiền sinh mở rộng
kiến văn và nhận thức đúng đắn về lý tưởng mình đang
theo, hay là tông chỉ của thiền viện mà mình đang tu tập.
(2)
Thuyết Pháp: Pháp thoại bằng tiếng Miến đều được chư
Thượng Toạ, Đại Đức ở đó giảng đều đặn vào chiều
từ 6 đến 7 giờ tối. Nhưng pháp thoại bằng tiếng Anh hầu
như không có. Mặc dầu HT đã qua Đài Loan tổ chức khoá tu
và giảng chuyên đề bằng tiếng Anh Kinh Đại Niệm Xứ (Mahā-Satipaṭṭhāna-Sutta)
trong Trường Bộ Kinh để hướng dẫn thiền sinh, và được
thâu lại, nhưng có lẽ vì tiếng Anh của Ngài nói hơi khó
nghe, nên hầu như không phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, vị
nào muốn nghe để học thêm Pháp, có thể mượn tại thư
viện hoặc văn phòng phụ trách thiền sinh nước ngoài.
Thỉnh
thoảng có một vài vị Thượng Toạ, Đại Đức ngoại quốc
đang tu hoặc viếng thăm thiền viện cũng được thỉnh giảng,
đặc biệt là những ngày giải hạ. Mỗi lần giảng, vì để
tiện cho chư Ni, nên chư Tăng phải ra giảng đường của chư
Ni ở hạ phần thiền viện để nghe giảng. Từ thượng phần
xuống hạ phần thiền viện hơi xa, nên trong mùa an cư, hầu
như không tổ chức. Khối người biết tiếng Hoa ở đó tu
khá đông, nên mỗi lần giảng như vậy đều có người dịch
sang tiếng Hoa cả.
(3)
Khất Thực Gạo Sống: Mỗi năm như vậy các Phật tử ở
một ngôi làng nào gần đấy, xin HT cho phép toàn dân của
họ cơ hội dâng thực phẩm đến chư Tăng, không kể già
trẻ, nam nữ, giàu nghèo. Ai có điều kiện thì cúng nhiều,
không có điều kiện thì cúng ít. Vì để tiện cho chư Phật
tử, nên HT sắp xếp cho họ cúng dường gạo sống. Rất nhiều
Phật tử chỉ cúng mỗi vị Tăng mỗi muỗng gạo sống mà
thôi. Ngày ấy toàn thể chư Tăng, không phân biệt Nguyên Thuỷ
hay Đại Thừa đều được mời đi khất thực cả. Những
vị theo truyền thống Nguyên Thuỷ đắp y lum, những vị Đại
Thừa đắp y kẹp, đều đi chân trần, không cầm quạt. Chư
Ni (Tỳ-kheo-ni và tu nữ tại Miến) đều được mời đi hết.
Sau
khi điểm tâm xong, xe do thiền viện sắp xếp đã đợi sẵn,
đưa các Sư tới một ngôi chùa, hoặc một địa điểm nào
đó để tập trung. Thay vì chư Tăng phải tự ôm bát đi khất
thực như truyền thống xưa nay, thì các em học sinh của làng
đó cầm bát thế cho chư Tăng, và cứ như vậy đi cho
hết các đoạn đường mà các Phật tử đứng chờ. Khi gạo
đầy bát, các em đổ vào các bao do các cư sĩ hộ viện
đem theo sẵn, và sau đó đem về thiền viện để phòng những
lúc người cúng dường không đủ.
Riêng
chư Ni thì tự ôm bát lấy. Bát của chư Ni tại Miến không
giống như bát của chư Tăng Ni Việt Nam, có hình dạng như
cái bô, màu trắng. Chư Ni tại Miến không được quần chúng
cung kính cho lắm. Điều này nếu có điều kiện tôi sẽ trình
bày trong một bài khác.
9.
CHI NHÁNH CỦA THIỀN VIỆN
Tại
Yangon cũng có một thiền viện thuộc chi nhánh của HT Pa-Auk
khá lớn, quy mô, có tầm vóc, không thua gì các thiền viện
khác ở thủ đô. Thiền viện có tên: Thanlyin International Meditation
Centre[1] (Thiền Viện Quốc Tế Thanlyin). Từ phi trường Yangon
tới thiền viện này tốn khoảng 15 – 20 Mỹ kim cả khứ hồi.
Người viết đến đó vào một buổi chiều, dự định đến
tu một thời gian, nhưng vì vị Thiền Sư biết Anh ngữ đi
hải ngoại hướng dẫn thiền tập rồi, nên phải đành giã
từ mà về. Chính vì vậy, người viết không biết nhiều
về sinh hoạt thiền viện này. Tuy nhiên, theo nhận xét của
một số vị đã từng tu ở đó và đang học ở trường Đại
học Phật Giáo ở Yangon, tu viện tổ chức khá tốt. Tiến
sĩ Mehn Tin Mon, hiện đang phụ trách môn Thiền Chỉ (Samatha)
và luận thư Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhamma-saṅghaha)
tại trường là chủ tịch hội đồng quản trị của thiền
viện, và cũng là người tán đồng quan điểm tu sĩ Phật
giáo nên ăn chay trong bối cảnh hiện đại.
Cảnh
trí trường thiền quả thật lý tưởng: diện tích đất khá
rộng, cây cối nhiều. Một bảo tháp vàng lớn uy nghiêm giữa
rừng cây xanh mát, nằm khuất tận phía bên trong của thiền
viện trông rất cổ kính và thiền vị. Buổi tối, nhiều
chư Tăng Ni và Phật tử sau khi hành thiền xong, quay về bảo
tháp Shwe Dagon tại Yangon – nơi tôn trí Xá-lợi tóc của Đức
Bổn Sư, cũng như rất nhiều tượng Phật – để đảnh lễ,
tưởng nhớ ân đức của Ngài, và trong sâu thẳm có lẽ còn
để cầu sự gia bị của chư Phật, chư Thánh Tăng nữa.
Nếu
là chư Tăng, lên Thiền Lâm Pa-Auk ở Mawlamyine tu có lẽ tốt
hơn. Thời gian người viết ở đó, có 3 Tăng Việt Nam ở
đó tu: một sư Nguyên Thuỷ, một sư Khất Sĩ, một thầy Bắc
Tông đã chuyển sang Nam Tông, nên các vị có thể hỗ trợ
về phần chuyển ngữ. Còn nếu là chư Ni biết Anh ngữ, trong
giai đoạn hiện nay có lẽ tu tại thiền viện ở Yangon tốt
hơn, nếu có Thiền Sư nói tiếng Anh hướng dẫn. Vì
ở đó, phòng ốc đã ổn định, và chư Ni chắc chắn được
các Thiền Sư giám sát khít khao hơn. Điều này sẽ giúp thiền
sinh tiến bộ nhiều trong những ngày tháng nghiêm mật tịnh
tu. Tuy nhiên, chư vị không biết Anh ngữ tới Thiền Lâm Pa-Auk
ở Mawlamyine tiện hơn, vì Sư Cô Tường Liên đã ở đó tu
gần 3 năm rồi, nên cũng có nhiều kinh nghiệm và có thể
giúp phần chuyển ngữ.
Hiện
nay ở các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Tích Lan,
Đài Loan, Mỹ đều có các trung tâm tu tập theo đường lối
của Hoà thượng Pa-Auk.
10.
TÀI LIỆU THAM CỨU TRƯỚC
Sự
nghiệp nghiên cứu học thuật của HT Pa-Auk dựa vào Thánh
Điển Pāli, đặc biệt Visuddhimagga của Ngài Bhaddhantācariya
Buddhaghosa. Do đó, thiền sinh có thể nghiên cứu luận
thư này trước khi đến đây tu tập là điều kiện cần.
Bản dịch Thanh Tịnh Đạo Luận của Ni Sư Trí Hải, hoặc
Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu do Thượng toạ Phước
Sơn biên soạn là những tài liệu căn bản. Bản dịch tiếng
Anh The Path of Purification của Tỳ-kheo Ñāṇamoli, hoặc The Path
of Purity của Pe Maung Tin là nguồn tài liệu chính cho những
vị biết Anh ngữ.
Tác
phẩm được xem là giáo trình cho đường lối thiền tập
của Ngài là Knowing and Seeing (dịch sát: Biết và Thấy), bản
dịch tiếng Hoa: Như Thật Tri Kiến. Sở dĩ HT đặt tên như
vậy, theo người viết, vì thiền phẩm này dựa trên hệ thống
thất tịnh, mà đỉnh cao của lộ trình này là Tri Kiến Tịnh
(Ñāṇadassana-vissuddhi). Xem ra, bản dịch tiếng Hoa thêm vào
trạng từ ‘Như Thật’ nêu bật được nội dung thiền phẩm
muốn trình bày. Tác phẩm được hiệu đính, xuất bản năm
2005 là ấn bản khá hoàn hảo nhiều mặt so với ấn bản
đầu tiên năm1999, có thể thỉnh miễn phí tại thiền viện
để học.
Cũng
có thể tham khảo thêm giáo trình thiền học Samatha (2 tập)
do Giáo sư tiến sĩ Mehm Tin Mon hiện đang phụ trách giảng
dạy tại Trường Đại Học Quốc Tế Truyền Bá Phật Giáo
Nguyên Thuỷ (International Theravāda Buddhist Missionary University)
biên soạn. Giáo trình này xuất bản năm 2004, trên căn bản
dựa trên bộ Thanh Tịnh Đạo Luận soạn ngắn lại, và dĩ
nhiên, có tham khảo đối chiếu với một số Kinh, Luật trong
Đại Tạng.
Hiện
trên internet, tại: www.paauk.org có đầy đủ thông tin về trường
thiền, cùng những quy định, v.v…. Tác phẩm Teaching and Training được Tỳ-kheo Moneyya biên tập, đọc bằng chương trình Acrobat
Reader có thể được coi như là tài liệu căn bản về hệ
thống “Thất Tịnh” này.
Khi
người viết rời thiền viện, đĩa CD về Thiền Lâm Pa-Auk
chưa được hoàn tất, nên không có dịp thỉnh. Đĩa CD bao gồm cuộc đời, sự nghiệp của HT, cũng như thiền
viện trước khi được trùng tu, quang cảnh hiện nay, cảnh
thiền sinh thiền tập tại thiền đường, tụng kinh, cảnh
quý Sư khất thực, thọ trai, và một số thông tin khác, trông
cũng khá hay.
***
Xin
thành kính đảnh lễ chư Tôn đức đã tạo điều kiện nơi
ăn chốn ở, đã hướng dẫn tu tập trong những ngày tháng
ở Miến. Xin chân thành cảm tạ quý thân hữu và Phật tử
đã hỗ trợ, tạo điều kiện để người viết có chuyến
du lịch tâm linh vô cùng ý nghĩa này. Cũng xin ghi lại nơi
đây lời tri ân đối với tất cả chư huynh đệ tại Miến
đã giúp đỡ, chia xẻ kinh nghiệm tu tập trong những ngày
tháng lưu trú ở Miến. Cầu mong tất cả sớm đạt được
Đạo Quả (Magga-Phala) như mong đợi.
[1]
Thuộc Silawah Road, Phayagone Thanlyin, Yangon.
Website
của Thiền Viện:http://www.paauk.org
PHƯƠNG
PHÁP TU TẠI THIỀN LÂM PA-AUK
Thích
Giác Hoàng
Người
viết ghé thiền lâm này tu hai lần. Lần nào cũng ngắn ngủi,
không đủ thời gian để lãnh hội và thẩm thấu hết lộ
trình tu tập của truyền thống thiền quán này. Ai cũng có
thể đọc trong sách vở, hoặc nghe vị khác nói lại về tông
chỉ của nó là như vầy, như vầy, nhưng tất cả những điều
đó quả thật không thể so sánh được với những gì mình
tự thể nghiệm từ sự tu tập của chính mình.
I.
HOÀ
THƯỢNG THIỀN CHỦ
Hoà
thượng (HT) pháp danh Āciṇṇa, thông thường được nhiều
người biết đến với pháp hiệu là Hoà thượng Pa-Auk (Pa-Auk
Sayādaw). Sayādaw, tiếng Miến, là một tôn xưng đối với
những vị Thầy đức hạnh, được nhiều người cung kính,
trọng vọng. Trong một số trường hợp trịnh trọng hơn,
nhiều vị tôn xưng là HT Thiền Chủ Thiền Lâm Pa-Auk (Venerable
Pa-Auk Tawya Sayādaw). Tawya, nghĩa là “tùng lâm” hoặc “rừng”.
Hoà
thượng sinh năm 1934 tại làng Leigh-Chaung, thị trấn Hinthada,
thuộc vùng châu thổ khoảng một trăm dặm về phía Tây Bắc
thủ đô Yangon.
Lúc
Ngài 10 tuổi (năm 1944), thọ Sa-di giới tại một tu viện nơi
làng Ngài ở. Thời gian đó, Ngài theo đuổi sự nghiệp học
thuật, chuyên tâm nghiên cứu Tam Tạng Thánh điển Pāli, dưới
sự hướng dẫn của nhiều bậc Thầy khác nhau. Trong thời
gian còn Sa-di Ngài đã qua được ba kỳ khảo hạch về ngôn
ngữ Pāli.
Hoà
thượng thọ cụ túc giới năm 1954 khi Ngài vừa tròn 20 tuổi.
Cũng trong thời gian này, Ngài tiếp tục nghiên cứu Thánh điển
Pāli dưới sự hướng dẫn của nhiều bậc danh Tăng khác.
Năm
1956 Ngài đỗ bằng Pháp Sư (Dhammācariya) và được tấn phong
là “Pháp Sư”. Văn bằng này lúc trước tương đương
với văn bằng cử nhân Pāli Phật học đối với một số
nước.
Khoảng
8 năm sau đó, Ngài vẫn tiếp tục nghiên tầm giáo pháp, chu
du khắp Miến Điện để thọ học Pháp bảo từ nhiều
bậc danh Tăng thạc đức.
Năm
1964, vào mùa an cư thứ 10, Ngài đổi hướng, bắt đầu độc
cư núi rừng (đây là một trong 13 khổ hạnh mà Đức Phật
cho phép các Tỳ-kheo thực hành), và chuyên tu tập thiền định.
Mặc dầu vậy, Ngài vẫn để tâm đến văn học Pāli, song
song tu tập dưới sự hướng dẫn của nhiều Thiền Sư thời
bấy giờ.
Kể
từ ấy cho tới 16 năm sau, Ngài hoàn toàn ở núi rừng
trong nhiều khu vực khác nhau thuộc phía Nam Miến Điện. Ba
(3) năm đầu ở huyện Mudon, phía Nam của Mawlamyine (Tiếng
Miến đọc: Mô-lăm-nhai). Mười ba (13) năm kế tiếp ở thị
trấn Ye. Khoảng thời gian này, Ngài vừa học Thánh điển,
vừa tu tập thiền định, và sống một đời sống vô cùng
đơn giản.
Năm
1981, cố HT Aggapañña – viện chủ thiền viện Pa-Auk lúc bấy
giờ sắp thị tịch, nên mời HT Āciṇṇa về trú trì. Năm
ngày sau, cố HT Aggapañña xả bỏ báo thân, và kể từ lúc
đó, HT. Āciṇṇa chính thức trở thành HT trụ trì thiền
lâm Pa-Auk (Pa-Auk Tawya Sayādaw). Mặc dầu với công tác quản
lý một tu viện mới, HT vẫn độc cư thiền định trong một
tịnh thất nhỏ bằng tre nứa ở thượng phần của khu vực
rừng. Đây là một khu vực hoàn toàn vắng vẻ, yên tịnh
bao bọc bởi những dãy đồi vòng quanh dãy núi Taung Nyo. Khu
vực này bây giờ đã trở thành thượng phần của thiền
viện.
Từ
năm 1983, chư Tăng Miến các nơi bắt đầu đến. Mãi cho đến
năm 1990, chư Tăng ngoại quốc mới tìm đến và tu tập dưới
sự hướng dẫn của Ngài. Và cũng kể từ đó, nhiều người
biết đến Ngài, và chẳng bao lâu từ một am thất nhỏ bằng
tre nứa với một vài đệ tử đã trở thành một đại thiền
lâm có tầm cỡ nhất nhì ở Miến ngày nay.
Năm
1997, HT xuất bản 5 tập nghiên cứu về thiền học bằng tiếng
Miến, với tựa đề là “Đạo Lộ Đến Niết Bàn” (The
Way to Nibbāna), giải thích chi tiết về lộ trình tu tập thiền
định. Các đệ tử và thiền sinh đang lần lượt dịch sang
tiếng Anh.
Vào
ngày 04 tháng 01 năm 1999, Ngài được chính phủ Miến truy tặng
tôn hiệu là “Agga Mahā Kammaṭṭhānācariya”, nghĩa là “Thượng
Thủ Đề Mục Định Đại Sư.” Để đáp ứng nhu cầu truyền
đạt kinh nghiệm tu tập cho hành giả ngoại quốc, hoặc để
giúp họ tháo gỡ những trục trặc trong quá trình tu, nên
trước thời gian tiếp Tăng ngoại quốc chẳng bao lâu, Ngài
học tiếng Anh. Hiện nay tiếng Anh của Ngài đủ để thực
hiện những gì Ngài mong ước. Ngài đã được mời tổ chức
các khoá thiền ở Đài Loan, Malaysia, Singapore, Trung Quốc, Tích
Lan, Nhật Bản, Hồng Kông, và Mỹ Quốc.
Hiện
nay thiền sinh đến học thiền với Ngài rất đông, kể cả
trong nước và ngoài nước. Thời gian người viết ở đó,
có khoảng 500 – 700 thiền sinh, bao gồm gần như đủ các
nước: Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, v.v… Các
nước khối Đông Nam Châu Á gần như đủ, ngoại trừ Thái
Lan. Vào mùa an cư, trung bình hàng năm có khoảng 600 – 700 thiền
sinh. Vào dịp lễ Đức Phật Đản Sanh, Thành Đạo, Nhập
Niết Bàn (Lễ Tam Hợp) cũng là ngày nghỉ lễ quốc gia của
Miến, cũng có thể nói là ngày Tết của họ, rất nhiều
người tu gieo duyên, số lượng thiền sinh đôi khi lên tới
cả 1.000.
Năm
nay (2006), Ngài đã 72 tuổi, nhưng sức khoẻ vẫn tốt. Khả
năng làm việc cũng gần giống như thời trung niên. Mỗi ngày
đều xuống Trung Phần thiền viện dẫn chúng khất thực (nhận
thực phẩm tại thiền viện), đi giám sát các Phật sự khi
cần thiết.
Tiểu
sử của HT tôi viết ở đây là dựa theo bản tiếng Anh được
các vị ở đó cho trước khi về. Chương trình hoằng pháp
của HT và các thông tin khác về tu viện, các vị có thể
tham khảo thêm tại: www.paauk.org.
II.PHƯƠNG
PHÁP
1.
Cách ngồi: Ngồi kiết già, bán già hoặc hai chân để dưới
đất hết đều được. Phần lớn đều có bồ đoàn. Cũng
tuỳ theo từng vị mà chọn bồ đoàn mình cao hay thấp. Có
nhiều vị còn lót nhiều miếng bồ đoàn mỏng dưới hai bên
chân cho êm và thăng bằng. Các thiền sư ở Miến hầu như
không chú trọng ngồi kiết già hay bán già. Phần lớn đều
ngồi hai chân để dưới đất, miễn làm sao lưng thẳng và
ngồi lâu là ổn. Hai tay để theo thế nào cũng được, trái
để trên, phải để trên, hay hai tai để ngữa trên hai bắp
đùi cũng không sao. Các bắp cơ phải được thư giãn hoàn
toàn. Hai mắt nhắm lại và thở đều đặn, bình thường.
Cách
ngồi ở Miến có lẽ nhiều vị Việt Nam và Trung Hoa, Đài
Loan sẽ dị ứng. Nhiều vị ngồi nghiêng một bên trái, hoặc
ngồi nghiêng bên phải, nhất là sau khoảng một giờ. Nhiều
vị để cả hai chân dưới mông. Dĩ nhiên, cũng có nhiều
vị thiền sinh ngồi rất tốt, ngồi liên tục một lúc từ
3- 4 tiếng đồng hồ mà vẫn giữ thế kiết già, lưng vẫn
thẳng, mặt vẫn thảnh thơi, không thấy dấu hiệu gì đau
đớn nơi thân. Và dĩ nhiên, cũng có một số vị ráng chịu
đựng, đối phó với cơn đau của mình nhưng vẫn giữ thế
kiết già và cho đến khi chuông đồng hồ reo lên.
Có
một số vị khi thiền toạ đem một tượng Phật nhỏ để
trước mặt để quán tưởng ân đức của Đức Phật cho
dễ.
Có một số vị thiền trụ (đứng yên lặng) cả nửa tiếng
đồng hồ, tôi cũng không biết cụ thể vì lý do gì, có thể
vì bệnh hôn trầm nên phải đứng chăng? Có một số vị
lấy khăn bịt cả mắt lại khi ngồi, hoặc đứng trong thời
thiền.
Mặc
dầu trong thời khoá biểu có đề cập đến thiền hành, nhưng
trên thực tế phần lớn đều thiền toạ cả. Nếu có thiền
hành thì gần như là việc tu tập cá nhân. Các vị ở đây
đi đứng sinh hoạt bình thường, chứ không có thiền hành
thật chậm như các trường thiền khác ở Miến. Một vài
vị ở đó tu cũng lâu rồi, cho rằng, với công phu thiền
toạ từ một tiếng rưỡi đến 2 tiếng một thời như vậy
trong thời gian dài, thì dầu có đi nhanh hoặc làm nhanh trong
các Phật sự, vị ấy vẫn không thất niệm, nên thiền hành
thật chậm không cần thiết.
Ở
đây, vì toàn bộ là chư Tăng và cư sĩ nam, nên vị Tăng nào
cảm thấy nóng bức có thể giải y thượng ra cho mát. Chính
vì vậy trong thiền đường chúng ta thấy đủ kiểu, đủ
thế: ngồi, đứng, bịt mắt, mở mắt, quấn y, giải y, hoặc
lấy cái gì đó quấn sơ thân. Cũng nên biết thêm là các
nhà Sư Miến không có y trung như các Sư Khất Sĩ, nên một
khi giải y thượng ra thì các Sư phải kiếm cái gì đó che
đỡ thân phần ở trên, hoặc để trần như vậy, và dĩ nhiên
cũng có một số Sư cũng có áo như các Sư Thái Lan hoặc các
Sư Nam Tông Việt Nam thường mặc. Một số vị cho rằng như
vậy mất trang nghiêm trước tôn tượng Bổn Sư, nhưng một
số vị cho rằng cũng hay hay, vì giống các pho tượng A-la-hán
trong các chùa. Cách giải y thượng trên như vậy, một vài
thiền viện cũng tại Miến, có lẽ vì cộng tu có cả Tăng
Ni, cư sĩ, nên không cho phép !
Trong
thời gian tu ở đó, người viết ngồi gần một vị
Sư Malaysia. Có một giai đoạn vị ấy lấy sách ra đọc,
dò tới dò lui những pháp số rất chi chít trong sách, rồi
thỉnh thoảng đóng sách, quán chiếu như vậy thời gian cả
tuần! Sự thật, tôi chưa hiểu hết các cách tu tập ở đây
cho lắm, chỉ trình bày những gì thấy nghe mà thôi.
Trong
thiền đường có 2 sọ người, không biết là bằng cao su
hay sọ người thật. Có những vị chuyên quán sọ người
như vậy trong một thời gian quán niệm tử thi. Ở hạ phần
thiền viện, trên đường vô phía bên trong dành cho chư Tăng,
có một nơi dành để hoả táng, do đó tại đó có một số
mộ của những vị quá cố. Gần đó, có một bộ xương người
đứng lồng trong kính, cũng rất ấn tượng cho thiền sinh
khi vừa vào tới thiền lâm.
2.
Khởi
Đầu Tu Tập
Đối
với một hành giả mới bắt đầu vào thiền lâm Pa-Auk, pháp
môn chủ yếu và hàng đầu vẫn là chánh niệm về hơi thở
(ānāpānasati) như trong Kinh Tứ Niệm Xứ trình bày.
Nhiều
thiền sinh không theo dõi hơi thở được rõ ràng và điều
đặn, Ngài bổ sung bằng cách đếm hơi thở: hơi thở
ra vào đếm một, hơi thở ra vào đếm hai, cứ như vậy cho
đến 8 rồi quay trở lại một. Số 8 chỉ là số để nhớ
đến Bát Thánh Đạo mà thôi. Tại sao không đếm tới 100,
1000, v.v… không thấy giải thích tại sao.
Tôi
nghe vị khác kể lại, có một cư sĩ từ Việt Nam qua tu gieo
duyên, bởi vì là một cư sĩ nên có nhiều mối lo toan trong
đời, phải tính toán, làm ăn, v.v… nên vào tu định rất
khó. Ông không biết cách nào để hàng phục vọng tâm, cho
nên ông sáng tạo cách đếm thay vì đếm tới 8, ông
đếm từ 1 cho đến khi nào có một vọng tưởng khởi lên,
ông liền ghi nhận vọng tưởng khởi lên vào số mấy, và
tiếp tục đếm tiếp. Nếu vọng tưởng quá nhiều, không
nhớ nữa thì bỏ, đếm lại từ một. Đấy cũng là cách
sáng tạo trong tu tập. Điểm ưu và điểm khuyết của nó
như thế nào, chúng tôi không dám lạm bàn ở đây.
Từ
nền tảng chánh niệm về hơi thở vị ấy từng bước điều
tâm, chế tâm, hạn chế các vọng tưởng điên đảo, và nhờ
đó vị ấy đạt được định (samādhi). Dấu hiệu để
ghi nhận sự thành tựu của vị ấy về pháp quán niệm hơi
thở là các thiền tướng (nimitta) xuất hiện. Trong một thời
gian dài đã nỗ lực thiền tập mà không thành tựu, một
vài thiền sinh xin đổi hướng tu, bằng cách quán tứ đại.
Cũng có trường hợp, sau khi quán tứ đại không thành tựu
rồi, thiền sinh xin quán niệm lại hơi thở.
Sự
thật, tu hành để đạt ngộ không phải là đơn giản như
chúng ta thường nghĩ. Việc tu hành có đắc được các
tầng định hay trí huệ mau hay chậm còn tuỳ thuộc vào các
Ba-la-mật (pāramī) đã gieo tạo trong nhiều đời nhiều kiếp
nữa. Có một số vị tu trong thời gian rất ngắn, có thể
từ 10 đến 15 ngày, thiền tướng xuất hiện và tiến thẳng
vào các giai đoạn sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền,
và từ đó tu tập các lộ trình khác. Cũng có nhiều vị tu
2 năm, 3 năm vẫn không thấy thiền tướng xuất hiện, thậm
chí mệt mỏi và xin rời trường thiền, đi tham học kinh điển.
Sau đó, tu tập lại thì thiền tướng xuất hiện! Cho
nên, kết quả đến nhanh hay chậm không thể đoán trước
được. Không thể nói tu 2 năm là nắm được yếu chỉ của
thiền học hoặc các lộ trình tu tập đều đã đi qua, hoặc
có thể nói là tu nhiều năm rồi các kinh nghiệm tâm linh đều
có !
3.
Trình
Pháp
Những
thiền sinh mới tới phải trình pháp mỗi ngày, sáng hoặc
chiều tuỳ mình chọn cho thích hợp. Dĩ nhiên là thiền sinh
phải thành thật và thành khẩn, thì may ra thiền sư mới chỉ
cách tháo gỡ được phần nào sự rối ren, tối đen của
tâm thức. Khi tu lâu hơn, từ 5 – 6 tháng hoặc khoảng một
năm, thiền sinh có thể trình pháp một tuần hai lần. Những
vị tu một năm trở lên có thể trình pháp một tuần một
lần.
Thời
gian trình pháp không giới hạn, tuỳ vào nghi vấn của thiền
sinh và giải đáp của Thiền Sư. Có khi chỉ 3 – 5 phút, có
khi cả 20 phút. Nhất là những thiền sinh trình pháp với HT
viện chủ thì rất ngắn, bởi vì HT không có thời gian nên
nói rất vắn tắt. Ví dụ, Ngài hỏi: định được bao lâu
? Nghĩa là trong lúc ngồi thiền từ 1 tiếng rưỡi đến 2
tiếng đồng hồ, mình định được mấy phút. Câu trả lời
tuỳ theo sự tu tập của mình. Có thể Ngài khuyên là quán
tưởng ân đức của Đức Phật, hoặc niệm “chết” (chết
đang đến, chết đến từng sát na), hoặc cũng có thể là
quán bất tịnh trong thân. Nói tóm lại, việc trình pháp hằng
ngày giúp thiền sinh rất nhiều trong việc tu tập. Ngũ căn
hoặc Thất Bồ-đề phần được Thiền Sư khéo léo hỏi để
cân bằng các chi ấy.
Phải
nói là Ngài khá bận vì số lượng thiền sinh quá đông, nên
không thể trả lời những câu hỏi mang tính lý thuyết, hay
pháp tu cụ thể như thế nào, thế nào. Một số thuật ngữ
Pāli Ngài dùng, đặc biệt về các pháp môn như là quán niệm
32 thể trược, quán niệm tử thi, quán niệm chết, quán niệm
ân Đức Phật, v.v… bằng tiếng Pāli cả, nếu mình không
có căn bản Pāli khó mà theo kịp. Vì lúc nào thiền sinh cũng
sắp hàng dài chờ sự hướng dẫn của Ngài nên thiền sinh
phải về tự học hỏi lấy. Sự thật, cách trình pháp và
hướng dẫn ngắn gọn cũng có cái hay của nó làm cho thiền
sinh không bị lạc dẫn vào những lý thuyết không quan trọng
mà trường thiền khác tại Miến bị vấp phải.
4.
Lộ
Trình Tu Tập
Như
tôi đã nói ở trên, nếu thiền sinh không xác định được
căn tánh của mình, mà thiền sư cũng không biết rõ căn tính
của mình loại nào, thì đề mục thiền sư cho để mình tập
trung tư tưởng quán chiếu là đề mục hơi thở (ānapāna).
Nếu hành giả không thành công với đề mục này thì thiền
sư có thể đổi đề mục khác, bằng cách cho quán niệm một
trong tứ đại (mahābhūta): đất, nước, gió, lửa. Có thể
nói, truyền thống thiền này là do Thiền Sư Pa-Auk tự nghiên
cứu và tu tập lấy, có cả Chỉ (Samatha) lẫn Quán (Vipassanā)
dựa trên nền tảng của Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga)
của Ngài Buddhaghosa (Phật Minh / Phật Âm). Đối với một
tân thiền sinh, Chỉ (thiền Vắng Lặng) là nền tảng tối
quan trọng để tu Quán (Tuệ Minh Sát). Tu cho hết lộ trình
thất tịnh này, tuỳ theo căn tánh của hành giả, nhưng với
kinh nghiệm của vị phụ trách thiền sinh nước ngoài, nói
rằng một hành giả căn tánh ổn định, phải mất vài năm.
Truyền thống thiền này không giống với truyền thống thiền
của Thiền sư Mahāsī và các vị đệ tử kế thừa của Ngài
hiện nay, chủ trương Chỉ Quán Song Tu, nhưng phần lớn các
Ngài đều nhấn mạnh đến Quán. Chi tiết của thất tịnh
như sau:
1.
Giới
Tịnh (Sīlavissuddhi): Thiền sinh phải giữ tròn 5 giới,
8 giới, 10 giới, 227 giới, (theo truyền thống Nam truyền, giới
Bổn của Tỳ-kheo chỉ có 227 giới). Ở đây, có thể thêm
vô 250 giới của truyền thống Bắc truyền). Vì ở Miến không
có Ni đoàn, chỉ có nữ tu, tiếng Miến gọi là Sa-già-lê
(người giữ giới) – giữ 10 giới, nên không thấy đề
cập đến 311 giới của Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Nguyên
Thuỷ hoặc 348 giới theo truyền thống Bắc truyền. Mặc dầu
nhiều vị Bắc truyền từ Đài Loan, Malaysia, Singapore hoặc
Tỳ-kheo-ni từ Việt Nam đến tu, nhưng cũng đồng hoá như
các vị Sa-già-lê ở Miến vậy.
Đối
với chư Tăng, chư Ni đều phải thực hành “Tứ Thanh Tịnh
Giới” của truyền thống Nguyên Thuỷ.
(1)
Giới Bổn Phòng Ngự Giới (Pātimokkha-saṃvara-sīla): Giới
bổn cho chư Tăng là 227 giới, 10 giới và 75 học pháp cho Sa-di,
10 giới cho chư Ni, 8 hoặc 5 giới dành cho nam nữ cư sĩ.
(2)
Căn Môn Phòng Ngự Giới (Indriya-saṃvara-sīla): Điều phục
các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
(3)
Sinh Kế Thanh Tịnh Giới (Ājīvapā-vissudhi-sīla): Nuôi mạng
sống đúng đắn. Trong trường hợp ở thiền lâm, thiền sinh
khất thực mỗi ngày, không được dùng thực phẩm phi thời.
(4)
Lộc Dụng Hệ Cư Giới (paccaya-sannissita-sīla): Sử dụng thực
phẩm, phòng cốc, thuốc men, và y phục đúng cách.
Lưu
ý, chư Tăng Ni ở đây không được giữ tiền dưới bất
kỳ hình thức nào, như money order, cheque, vàng, bạc, thẻ
tín dụng. Nếu còn đang giữ thì phải xả. Nếu xả đúng
pháp thì mình không có quyền lấy lại. Tốt nhất, là nhờ
ai đó ở Yangon giữ giúp, hoặc nhờ các vị cư sĩ hộ đạo
(các vị Miến hay sử dụng từ Kappiya (káp-pi-yá)) ở đó
giữ giúp trước khi gặp HT thiền chủ. Ngay cả cư sĩ muốn
tu gieo duyên một thời gian ngắn, có thể một tuần hoặc
một tháng đến 3 tháng, cũng phải sắp xếp nhờ ai đó giữ
giúp trước khi xuống tóc.
2.
Tâm
Tịnh (Cittavissudhi): Để tâm tại nhân trung theo dõi hơi
thở ra vào (ānāpānassati) một cách thuần thục. Giai đoạn
này định mà hành giả đạt được gọi là Đẳng Phần Định
(Sadisūpacāra). Với sự nỗ lực của hành giả tiếp tục
niệm hơi thở ra vào một cách thuần thục hơn, các phiền
não một phần nào lắng dần thì 3 thiền tướng (nimitta) sau
đây xuất hiện: (1) Biến tác tướng (Parikamma-nimitta): hành
giả sẽ thấy những sợi khói có màu lam nhạt xuất hiện
trước mặt. (2) Thủ tướng (Uggaha-nimitta): màu trắng,
(3) Tợ tướng (Paṭibhāga-nimitta): màu sáng hoặc một
khối trong suốt như viên ngọc. Một khi 3 thiền tướng trên
xuất hiện, có thể nói hành giả bắt đầu vào được Cận
Định (Upacāra-samādhi). Đây là giai đoạn hơi khó khăn và
mất thời gian đối với một số hành giả, đòi hỏi sự
nhẫn nại và kiên trì của hành giả rất nhiều. Nếu thành
tựu được giai đoạn này rồi thì các giai đoạn kế tiếp
có thể đi nhanh hơn.
Tiếp
đến hành giả được hướng dẫn thiền tập bốn trạng
thái thiền Sắc giới. HT thiền chủ là vị hướng dẫn
rất thành tựu về bốn trạng thái thiền này. Có một vị
Sa-di khoảng 10-12 tuổi đang ở đó, được HT ấn chứng là
xuất nhập sơ thiền đến tứ thiền tự tại. Nghe nói, nhiều
vị tu ở đó khoảng 5 – 6 tháng đều thành tựu bốn thiền
sắc giới này cả.
Qua
được tứ thiền, hành giả được hướng dẫn quán niệm
32 thể trược (kōṭṭhāsa) trong thân, Quán niệm xương trắng
(Aṭṭhikōṭṭhāsa), Quán niệm Ka-si-na màu trắng (Ōdātakasiṇa).
Qua
được giai đoạn trên, hành giả được dạy 4 trạng thái
thiền Vô sắc giới (Arūpa-jhāna). Trong một số trường hợp
Tứ thiền Vô Sắc không cần thiết dạy cho thiền sinh, nên
trong hoạ đồ của HT không thấy đề cập tới, nhưng trong
thực tế Ngài có dạy cho một số thiền sinh tại thiền
viện.
Qua
Tứ Thiền Sắc Giới, các phép quán niệm như: Từ Bi Quán
Niệm (Metta Kammatṭṭhāna), Ân Phật Quán Niệm (Buddhānussati
kammaṭṭhāna), Bất Tịnh Quán Niệm (Asubha kammaṭṭhāna), Tử Quán Niệm (Maranānussati kammaṭṭhāna) đều được hướng
dẫn. Bốn phép quán niệm trên được gọi là bốn phép Quán
Niệm Phòng Hộ (Caturārakkha kammaṭṭhāna), các vị độc cư
núi rừng cần phải học, đôi khi còn học trước cả các
phép quán niệm khác.
Từ
giai đoạn tập nhập sơ thiền đến giai đoạn an trụ tâm
trên tứ đại để quán chiếu, hành giả có thể rơi vào
hai trạng thái định: An Chỉ Định (Appanā Samādhi) và Cận
Hành Định (Upacāra Samādhi).
Đỉnh
cao của phép quán này trong giai đoạn này là quán niệm Giới
Đề Mục (Dhātukammaṭṭhāna), Bốn đại (Mahābhūta) và các
đặc tính, tướng trạng (Lakkhaṇa) của nó.
Đây
là hướng tổng quát của lộ trình tu tập, nhưng không nhất
thiết hành giả nào cũng đi rập khuôn. Có vị được hướng
dẫn chọn một trong 4 đại, ví dụ quán Kasiṇa trắng (Ōdātakasiṇa)
ngay khi đạt được tứ thiền. Có trường hợp từ Tam thiền
hành giả được dạy Từ Bi Quán Niệm (Metta Kammaṭṭhāna),
và cũng có thể học cách quán 3 tâm vô lượng khác nữa.
Điều này tuỳ thuộc vào căn tính của thiền sinh và sự
linh động uyển chuyển của Thiền Sư. Nói tóm lại, các đề
mục trong 7 phần của thiền định đều được hướng dẫn:
(1) mười đề mục trước mặt (kasiṇa), (2) mười đề tử
thi (asubha), (3) mười đề tưởng nhớ (anussati), (4) bốn đề
vô lượng tâm (brahma-vihāra), (5) bốn đề vô sắc (ārupa),
(6) một đề thực phẩm nhơ bẩn (āhāre-paṭikūla-saññā),
(7) một đề liễu tri tứ đại (catudhātu-vavatthāna). Và dĩ
nhiên lộ trình đó không nhất thiết phải đi hết một cách
chi tiết. Ví dụ, hành giả được hướng dẫn chọn một
trong 4 đại quán niệm, khi quán niệm thành công, các đại
khác có thể được giản lược.
Như
đã nói ở trên, đôi lúc thiền sinh không thành tựu khi khởi
động bằng quán niệm hơi thở thì thiền sinh chọn lộ trình
thứ hai như sau:
Chọn
một trong 4 đại để quán các tướng trạng của nó. Khi 3
thiền tướng xuất hiện thì các phép quán 32 thể trược
trong thân (thirty-two kōṭṭhāsas), quán xương trắng (Aṭṭhikōṭṭhāsa),
Ka-si-na trắng (Ōdātakasiṇa) được dạy tiếp. Sau đó qua
4 thiền sắc giới (rūpa-jhāna), rồi qua 4 pháp quán niệm phòng
hộ (Caturārakkha kammaṭṭhāna).
3.
Kiến Tịnh (Diṭṭhi-vissuddhi)
Nhờ
sự thành tựu của Tâm Thanh Tịnh, hành giả có thể tiếp
tục quán sát danh sắc và thành tựu bốn trí: (1) Sắc Nhiếp
Thọ Trí (Rūpa pariggaha-ñāṇa), (2) Danh Nhiếp Thọ Trí
(Nāma pariggaha-ñāṇa), (3) Danh Sắc Nhiếp Thọ Trí (Nāmarūpa
pariggaha-ñāṇa), (4) Danh Sắc Sai Biệt Trí (Nāmarūpa vavatthāna-ñāṇa).
Bốn loại trí này gọi tổng quát là “Danh Sắc Thức Biệt
Trí” (Nāmarūpa pariccheda-ñāṇa) [1].[1] Đây là Trí đầu
tiên hành giả đạt được trong 16 loại trí từ Kiến Thanh
Tịnh cho đến hết lộ trình của nó. Hành giả trong giai đoạn
này có thể nhận chân và phân biệt thế nào là danh và sắc
một cách tường tận, nghĩa là quán chiếu sự sanh sanh diệt
diệt của danh sắc một cách rõ ràng. Một số vị gọi là
tách được danh ra khỏi sắc và từ đó làm chủ một phần
nào thân tâm của mình.
4.
Đoạn
Nghi Tịnh (Kaṅkhāvitaraṇa-vissuddhi)
Trong
lộ trình này, hành giả được hướng dẫn Quán Thập Nhị
Nhân Duyên. Hai phương pháp được chọn để quán đó là Phép
Quán Thứ Nhất và Phép Quán Thứ Năm. Tôi nghe những vị tu
lâu năm ở đó nói lại, thành tựu hai phép quán này, hành
giả có thể nhìn thấu được một kiếp, hai kiếp hoặc 3
kiếp trong quá khứ của mình. Thành tựu hai phép quán này,
hành giả đạt được Duyên Nhiếp Thọ Trí (Paccayapariggaha-ñāṇa)
[2]. Đây là trí thứ 2 trong 16 loại trí trong lộ trình Thất
Tịnh – Thập Lục Quán Trí. Tri kiến đạt được của hai
giai đoạn 3 và 4 được gọi là Tri Biến Tri (Ñāta-pariññā).
5.
Đạo
Phi Đạo Tri Kiến Tịnh (Maggāmaggañāṇa-dassanavissuddhi)
Trong
giai đoạn này hành giả đạt được hai loại trí, đó là:
Tư Duy Trí (Sammasana-ñāṇa) [3] và Sinh Diệt Tuỳ Quán Trí
(Udayababaya-ñāṇa) [4]. Hai trí trên cũng có thể gọi tắt
lại là Độ Biến Tri (Tīraṇa-pariññā). Trong giai đoạn này
hành giả thật sự đi vào lộ trình Minh Sát Chiếu Kiến (Vipassanā-kammaṭṭhāna).
Đặc tính (lakkhaṇa), tác dụng (rasa), hiện trạng (paccupaṭṭhāna),
và cận nhân (padaṭṭhāna) của các sự vật hiện tượng
được nhìn đúng như bản chất, tướng trạng của chúng.
6.
Hành
Đạo Tri Kiến Tịnh (Paṭipadāñāṇadassana-vissuddhi)
Ở
giai đoạn này hành giả đạt được 9 loại trí kế tiếp,
đó là: Hoại Diệt Tuỳ Quán Trí (Bhaṅga-ñāṇa) [5], Bố
Uý Hiện Khởi Trí (bhaya-ñāṇa) [6], Quá Hoạn Tuỳ Quán Trí
(Ādinava-ñāṇa) [7], Yểm Ly Tuỳ Quán Trí (Nibbidā-ñāṇa)
[8], Dục Giải Thoát Trí (Muñcitukamyatā-ñāṇa) [9], Thẩm Sát
Tuỳ Quán Trí (Paṭisaṅkhā-ñāṇa) [10], Hành Xả Trí (Saṅkhārupekkhā-ñāṇa)
[11], Tuỳ Thuận Trí (Anuloma-ñāṇa) [12], Chủng Sanh Trí (Gotrabhu-ñāṇa)
[13].
7.
Tri
Kiến Tịnh (Ñāṇadassana-vissuddhi)
Tới
giai đoạn này nghĩa là hành giả đã vô được 4 Đạo (Magga).
Trong giai đoạn này, 3 trí sau sẽ hiện khởi: Đạo Trí (Magga-ñāṇa)
[14], Quả Trí (Phala-ñāṇa) [15], và cuối cùng là Tỉnh Sát Trí (Paccavekkhaṇa-ñāṇa) [16].
Mười
ba (13) loại trí từ giai đoạn thứ 6 đến thứ 7 có
thể gọi tắt lại là Đoạn Biến Trí (Pahāna-pariññā). Tới
đây, đối với một hành giả, “ sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc làm đã xong, không còn trở lui đời sống
này nữa.”
********************************
Đây
là lộ trình căn bản mà HT và các vị giáo thọ ở thiền
viện hướng dẫn thiền sinh tu tập. Vì thoả mãn tính tò
mò nghiên cứu, và cũng để giúp cho những vị không biết
tiếng Anh (tôi đã gặp ở Miến và ở vài nơi khác) bất
đắc dĩ trình bày tóm tắt lộ trình tu trên.
[1]
Tôi sẽ đánh số [1] cho đến [16] để tiện theo dõi 16 loại
trí trong hệ thống thất tịnh thập lục quán trí này.
Discussion about this post