Tôi là một Phật tử lớn tuổi ở
Việt Nam thỉnh thoảng đi chùa, được biết hiện nay có ít
nhất một ngôi chùa đang có khuynh hướng thay thế chữ Phật
bằng chữ Bụt. Thay vì lâu nay khi bạn đạo gặp nhau
hay khi gặp quý Thầy thường nói “A Di Đà Phật” hay “Mô Phật”
thì nay đổi lại thành “A Di Đà Bụt” hay “Mô Bụt”. Tôi thấy kỳ quá. Chữ Phật lâu nay đã thấm vào dòng
máu người con Phật mắc chi phải đổi. Vậy xin hỏi
ban biên tập sự khác biệt giữa hai chữ Phật và chữ Bụt
và có nên thay thế chữ Phật bằng chữ Bụt như Bụt tử,
Bụt giáo, Giáo hội Bụt giáo Việt Nam, Mô Bụt không?
TRẢ
LỜI: Thật ra chữ Bụt đã được Thầy Nhất Hạnh
khởi xướng dùng từ hơn ba mươi năm nay ở các chùa thuộc
hệ thống Làng Mai, Pháp Quốc và đã được vận động trên
báo chí ở hải ngoại sau đó (Tạp Chí gần Thế Kỷ 21 số
123). Gần hai năm nay từ này đã theo Thầy trở về Việt Nam.
Thay vì trực tiếp trả lời quý đạo hữu ở Việt Nam, Ban
biên tập chúng tôi sao lục lại 4 nhận định về việc này
đã có từ trước đây: (1) Thượng
Toạ
Tiến sĩ Thích Trí Hoằng hiện là Viện chủ chùa
Hải Ấn, bang Connecticut, (2) Hoà
Thượng
Thích Thanh Từ (3) Cư sĩ Phan
Mạnh
Lương, chủ bút Tạp Chí Giao Điểm, Hoa Kỳ và (4) Sư
Cô
Chân Không, Làng Mai, Pháp.
Toạ Thích Trí Hoằng
Viện
chủ
chùa Hải Ấn, bang Connecticut
“…
Trong
chiều hướng đó, ngày nay cũng có vài vị cố gắng
thay đổi danh hiệu các vị Phật và Bồ Tát với ý nghĩ làm
như thế nghi lễ có tính cách Việt Nam hơn. Ví dụ sự thay
đổi cách niệm Phật: Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
hay Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni, hoặc là Nam Mô Bồ Tát
Quan Thế Âm v.v… thay vì niệm theo lối cũ: Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu ni Phật hay là Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát.. Đây
là một nỗ lực đáng quý trong ý hướng làm mới đạo Phật.
Trên phương diện ý hướng là thế, nhưng trên thực tế sự
thay đổi này tạo nhiều trở ngại cho sự hành trì. Vì cả
trên phương diện lý thuyết cũng như thực hành các luận
cứ này không có cơ sở chắc chắn. Vì ngày nay các
tiêu chuẩn ấn định cho nhân danh và địa danh vẫn đặt
căn bản trên ngôn ngữ gốc. Những thay đổi này chỉ là
những thay đổi trên hình thức, trên danh từ do đó đã trở
ngại rất nhiều cho sự tu tập. Có cần thiết chăng là
sự thay đổi pháp môn tu tập cho hợp với căn cơ của mình.
Trong
khi chúng ta niệm một danh hiệu hay gọi một danh xưng, lâu
ngày danh hiệu đó quan hệ mật thiết với chúng ta không những
trên phương diện lý trí mà cả trên phương diện tình cảm.
Mỗi âm thanh phát lên là cả một thế giới hiển hiện.
Ví dụ danh từ “cha mẹ” thay đổi theo từng vùng: ba má,
bố đẻ, thầy mợ, cha mạ, ba mẹ v.v… Tuy nhiên đứa con
thuộc vùng nào thì dùng tiếng vùng đó, tiếng địa phương
đó đã thấm thía vào máu thịt cho nên khi gọi lên danh từ
đó cũng gọi lên tất cả nghĩa tình thắm thiết. Vì thế
khi thay đổi tên gọi chúng ta sẽ cảm thấy xa lạ ngay. Ví
dụ bắt người miền Nam phải gọi cha mẹ là “bố đẻ”
thì quả là khó khăn vô cùng, và ngược lại người Bắc
phải gọi cha mẹ bằng “ba má” thì khó khăn cũng không
kém. Hoặc có người nhân danh chính thống để bắt mọi người
phải gọi cha mẹ bằng “bố cái” theo danh xưng cổ “Bố
Cái Đại Vương” thì quả là một khó khăn lớn cho nhân
dân cả nước.
Đối
với việc niệm Phật cũng thế, nếu chúng ta thay đổi tên
gọi của Phật chúng ta đã đánh mất đi cả thế giới
tình cảm tâm linh gắn bó với danh xưng đó. Hơn nữa tại
ba miền vấn đề danh xưng đã thống nhất rồi, đều dùng
danh từ Phật, còn chữ Bụt chỉ là tiếng cổ còn sót
lại trong văn chương bình dân mà thôi. Có những danh từ
cổ ngày nay chúng ta không còn dùng nữa. Nếu có những cảm
hứng cá nhân trong việc sử dụng một vài danh từ cổ, thì
đó chỉ là trường hợp riêng tư. Ví dụ: có người
vẫn thích dùng từ “Thăng Long” thay vì Hà Nội, không phải
vì thế danh xưng Hà Nội trở thành sai lầm và bị thay đổi
đi. Chúng ta không thể lấy cảm hứng cá nhân làm tiêu chuẩn
chung cho mọi người.
Thiết
tưởng cứu cánh của sự tu tập đặt ở sự chuyển hóa
nội tâm. Còn tất cả những danh xưng, hình tướng chỉ
là phương tiện. Phương tiện nào đạt đuợc sự tinh
hóa nội tâm đều là phương tiện tốt. Chúng ta không nên
quá câu nệ vào phương tiện mà quên cứu cánh.
Đối
với đức Phật chúng ta gọi Ngài thế nào cũng được, miễn
là chúng ta có sự tôn kính. Cũng như đối với cha mẹ, chúng
ta gọi bằng danh xưng gì cũng được, miễn là có lòng hiếu
nghĩa. Trước khi đức Thích Ca giáng trần, trong quá khứ
có rất nhiều vị giác ngộ, mà không hề biết đến tên
đức Phật.
Do
đó “Sư nói sư phải, vải nói vải hay” nếu
cứ mãi chấp nê vào vấn đề danh từ, chúng ta sẽ rơi vào
mê hồn trận của thế giới chữ nghĩa, đây là một
chướng ngại lớn trong việc tu tập. Đức Phật gọi đó
là sở trí chướng (chướng ngại do kiến thức).
Chính vì thế, chủ trương của Thiền Tông là: “Bất lập
ngôn ngữ văn tự, trực chỉ minh tâm kiến tánh lập địa
thành Phật” (không thiết lập giáo thuyết trên căn bản
văn tự chữ nghĩa, đi thẳng vào sự soi sáng nội tâm, nhìn
rõ bản tánh để giác ngộ thành Phật tại chỗ). Các tông
phái Phật Giáo khi dùng âm thanh ngôn ngữ trong việc hành trì
đều ý thức rõ rằng đó chỉ là phương tiện chứ
không phải cứu cánh. (http://www.thuvienhoasen.org/conduongphattrientamlinh.htm#02)
Thượng Thích Thanh Từ
Như
chúng
ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật
ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ.
Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này.
Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là
đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud
là giác, dha là người. Người giác ngộ
đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật
là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người
làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy
bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện
thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ
đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành
người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ
như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá
trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật
để nguyên từ “Phật”.
Nói
Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói
đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là
Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ
Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền
vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền
Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo
tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy
người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là
Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành
Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy
đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người
Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi
đầu.
Tại
sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời
Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ
Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần
được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh
thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa
dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như
vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt
Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói
đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt
cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế
gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật,
chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật
phải dùng những từ gần thời hiện tại (chữ Phật) như
giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì
vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật
là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải
thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức
giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
http://www.thuvienhoasen.org/nguonanlac-06.htm
hay PHẬT ?
Phan
Mạnh
Lương
Tạp
chí
Thế Kỷ 21 số 123 ra hồi tháng 7-1999 đã đăng một
bài tiểu luận viết rất công phu của Nguyễn Trọng Phu
với chủ đề Bụt hay Phật. Do sự đề xuất vấn
đề và các luận cứ được tác giả nêu ra, bài nầy hẳn
lôi cuốn được sự chú ý của khá đông độc giả nhất
là giới Phật tử. Trước khi trình bày phần quan điểm riêng
và đóng góp những sưu tầm khác liên quan đến vấn đề,
chúng tôi xin mạn phép được tóm tắt lại những điểm chính
trong bài viết để giúp các vị chưa có dịp đọc bài nầy
hoặc khó tìm ra tạp chí Thế Kỷ 21 số 123, có một ý niệm
chung và có thể nắm bắt được nội dung cuộc vận động
của tác giả. Dĩ nhiên chúng tôi chỉ lượt thuật những
điểm chủ chốt và điều tốt nhất đối với độc giả
nếu quan tâm đến vấn đề vẫn là nên tìm đọc toàn văn
bài viết nói trên. Những đoạn có dấu * là những ý chính
của tác giả.
Bài
tiểu luận “Bụt hay Phật” của Nguyễn Trọng Phu
gồm có 4 phần:
Lý
do đặt vấn đề
Định
nghĩa
danh từ Bụt
Việc
sử
dụng danh từ Bụt qua thời gian
Vì
sao
ngày nay chúng ta dùng lại danh từ Bụt?
Trong
phần 1 nói về Lý do đặt vấn đề là để: giải tỏa một
số hiểu lầm. Tác giả cho hay “một danh từ mới, danh từ
Bụt, đã xuất hiện trong khoảng 15 năm lại đây ở một
số đạo tràng, tự viện, nhóm tu học, cũng như trong một
số sách báo để tôn xưng bậc giác ngộ mà vẫn thường
được gọi là đức Phật.” Theo tác giả, “từ Bụt thực
ra đã có từ hồi lập quốc nhưng bị gián đoạn sử dụng
một thời gian nay được đem ra dùng trở lại có thể gây
nên môït số hiểu lầm; đặc biệt là đối với giới lớn
tuổi đã thường quen dùng từ Phật, thì cho rằng Bụt đối
với họ là để chỉ các vị Tiên, Thần và có tính cách
nôm na bình dân chứ không được hàm xúc thiêng liêng như
danh từ Phật” (*).
Điểm
thứ hai được tác giả nhấn mạnh là “sự hiểu lầm nâỳ
khá sâu rộng không những trong giới bình dân và ngay cả trong
giới trí thức làm công tác văn học giáo dục nữa”.(*) Cho
nên, với sự giải thích tiếp theo ở phần 2 và 3 tác giả
muốn giúp cho đông đảo bạn đọc thông suốt ý nghĩa của
từ Bụt, tạo nên “thuận lợi trong việc thay đổi một tập
quán về ngôn ngữ.” Và một khi được thông suốt – theo ý
tác giả – thì “tiến trình thay đổi sẽ nhanh chóng hơn và
sẽø tránh bớt được một số sở tri chướng mà bất kỳ
một sự thay đổi lớn nào cũng có thể gây nên. (*)
Trong
phần II về định nghĩa danh từ Bụt, tác giả đã dùng đến
4 từ điển để tra cứu. Bốn từ điển ấy là: Việt Nam
Từ Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, xb năm 1931, Từ Điển
Việt Nam, Khai Trí Saigon, 1971, Từ Điển Tiếng Việt, NXB Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 và Việt Anh Tự Điển, NXB Nguyễn
Văn Khôn, Sài Gòn, 1972. Điều thú vị là ba từ điển đầu
đều giải thích Bụt là: ông Phật; quyển thứ tư giải thích
Bụt là: Buddha.
Ngoài
bốn từ điển xuất bản trong thế kỷ XX từ 1931 đến 1988,
tác giả đã ra công tìm tòi thêm một quyển từ điển cổ
khác xuất bản năm 1651 tại La Mã để truy cứu xem người
Việt hồi thế kỷ XVI đã sử dụng từ Bụt để gọi Phật
hay chưa. Đó là quyển Dictionarium Annamitticum, Insitanum et Latinum
của Alexandre de Rhodes hiện còn lưu trử ở La-Mã. Theo từ
điển nầy thì hai danh từ Bụt và Phật đều đã được
dùng để gọi Buddhã (*).
Phần
III nói về việc sử dụng danh từ Bụt qua thời gian. Đây
chính là phần công phu nhất của tác giả. Ông đã tìm rất
nhiều chứng liệu trong ngôn ngữ hằng ngày, trong ca dao tục
ngữ, và nhất là trong sách vở, kinh sách, từ Bụt đã xuất
hiện từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XX, tính ra là 8 thế
kỷ và “đến thế kỷ 20 thì hầu như danh từ Bụt biến mất
trên văn đàn. Ngay cả trong một số lớn chùa chiền, và kinh
sách cũng rất ít dùng danh từ Bụt.”(*)
Về
nguyên nhân của tình trạng danh từ Bụt biến mất trên văn
đàn, tác giả đỗ lỗi cho “giới sĩ phu đã dồn mọi nỗ
lực vào việc học chữ Hán để đỗ đạt ra làm quan và
phản ứng của lớp người nầy đối với cuộc đô hộ của
người Pháp và tâm trạng dè bỉu chữ Nôm, cho rằng Nôm na
là cha mách qué” (*) – mà từ Bụt là một từ Nôm. Lý do cuối
cùng tác giả nêu ra là “vì thời Trịnh Nguyễn phân tranh,
hai bên đều có xu hướng mời các cao tăng từ Trung Quốc
sang để hoằng hóa nên từ Bụt bị lấn át mất và dần
dần đi vào quên lãng.”(*).
Để
kết thúc phần III, tác giả đưa ra một tin vui cho độc giả
là “May thay, vào khoảng 15 năm cuối thế kỷ 20 nầy, đã có
một số thiền sư, tăng ni và trí thức, đã mạnh dạn đứng
ra gọi Buddhã là Bụt. Hiện nay tại một số đạo tràng như
Đạo tràng Mai thôn ở Pháp, và các khóa thiền tập
ở khắp nơi trên thế giới, với hàng trăm người tham dự,
người ta gọi Buddhã là Bụt, như hít thở không khí bình
thường vậy, nhất là đối với thành phần trẻ từ 30, 40
trở xuống, không hề có một phân vân nào. Nhưng như thế
đã đủ chưa?”(*).
Với
câu hỏi chót “Nhưng như thế đã đủ chưa?” tác
giả muốn cuốn hút bạn đọc theo ông xuống phần thứ IV
vì sợ rằng với bao nhiêu dẫn chứng cụ thể từ thế kỷ
thứ XIII đến thế kỷ XX vẫn chưa đủ sức lôi cuốn độc
giả từ bỏ từ Phật để sử dụng lại từ Bụt cũ.
Ở
phần IV, tác giả Nguyễn Trọng Phu đã cố gắng trình bày
thêm những điểm có tính thuyết phục mạnh mẽ khác. Ông
đặt ngay câu hỏi: “Vì sao ngày nay chúng ta dùng lại
danh từ Bụt?” và ông đưa ra ba lý do chính yếu:
1)
Danh từ Bụt được dịch hợp lý từ chữ Phạn Buddhã, vì
cùng một âm B với nhau. Ông cho rằng ngay hai thứ tiếng phổ
biến nhất là Anh và Pháp cùng đều dùng âm B để dịch như
thế (Pháp: Boudha, Anh: Buddha); ở nhiều nước Phật giáo Nam
Tông cũng dùng âm B để dịch chữ Buddhã từ tiếng Phạn,
tuy giọng đọc có khác nhau đôi chút. Theo trào lưu chung thống
nhất cách phiên âm thì hiện nay, Phật giáo Bắc phương mà
Trung quốc là tâm điểm, từ lâu vẫn dịch Buddhã là Phật-đà
(佛陀) nay vừa mới bắt đầu dùng chữ Bột đà (勃 陀)
để gọi bậc Giác ngộ. Theo Tự điển Phật Học Hán Việt,
Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội, xuất bản 1992, mà
sách tham khảo là Thực Dụng Phật Học Từ Điển của Lô
Quán Cao và Hà Tử Bồi xuất bản ở Thượng Hải, thì: Bột
đà 勃 陀 Buddha (Thuật ngữ), còn gọi là Bột đà. Cách gọi
cũ là Phật đà. Gọi tắt là Phật – dịch là Giác (*).
Nên
nhớ là các từ điển Hán Việt của Đào duy Anh và Thiều
Chửu đều không có danh từ mới này. (*)
Cách
viết mới chữ Bột (勃) rất giống cách viết chữ Nôm Bụt
(侼) của ta và đều cùng đọc với âm B. Chúng ta rất tri
ân Tổ tiên từ thượng cổ của chúng ta đã khéo léo dịch
danh từ Buddhã ra chữ Bụt và lưu truyền lại cho chúng ta
mãi đến ngày nay. (*)
2)
Làm giàu trở lại ngôn ngữ Việt. Theo tác giả thì: “… trong
suốt quá trình lịch sử, các Nho sĩ Việt Nam vẫn dùng song
hành danh từ Bụt và Phật, như thế, thì nay chúng ta dùng
cả hai cũng là một điều hợp lý. Có bất hợp lý và kỳ
thị chăng, là một người lại chủ trương chỉ dùng danh
từ Phật mà thôi, với lý do rất đơn giản rằng danh từ
Phật có vẻ linh thiêng hơn, vì từ mấy chục năm qua, tại
các chùa, cũng đều dùng như vậy. (*)
3)
Bồi đắp gốc rễ tâm linh. Ở điểm cuối cùng nầy, tác
giả muốn hô hào việc sử dụng từ Bụt trở lại như là
một hành động trở về nguồn, bởi vì ” danh từ Bụt có
vẻ như bị biến dạng, chỉ là một sự kiện nhất thời
và bất bình thường, so với thời gian dài dằng dặc suốt
hơn 7 thế kỷ mà cha ông chúng ta đã sử dụng danh từ ấy.
Hơn thế nữa, dân ta vẫn có tiếng nói riêng trước khi có
chữ viết, có một nền văn hóa riêng khác với văn hóa Trung
quốc, thì các sinh hoạt về văn hóa tâm linh trải dài trong
khoảng 13 thế kỷ ấy, tạm kể từ thời Hai bà Trưng, nhất
định phải có tiếng Việt riêng để gọi Buddhã chứ không
phải chỉ có một tiếng Phật mượn từ chữ Nho mà thôi”.
Để
hậu thuẩn cho luận điểm của mình, tác giả đã mượn ý
của Thiền sư Nhất Hạnh trong quyển Thiền Sư
Tăng Hội, do An Tiêm Paris xuất bản 1998, cho rằng, vào đầu
thế kỷ III, Thiền tập ở Giao Châu, tên cũ của nước ta,
đã rất phát triển, còn phát triển hơn cả Trung quốc, và
“chắc chắn hồi ấy dân ta đã gọi Buddhã là Bụt, đã biết
đọc tam quy ngũ giới và xưng tán Tam Bảo bằng tiếng Sanskrit,
cũng có thể đã biết tụng đọc bằng tiếng Việt”- Và để
chứng minh thêm là từ Bụt đã có từ xa xưa với dân Việt,
bây giờ bỏ nó đi mà không dùng trở lại thì “Tổ tiên
lâu đời của chúng ta, nếu có sống lại mà không được
nghe cái thứ tiếng xưa kia quý vị đã từng được nghe, cũng
đã từng sử dụng, thì thử hỏi cái buồn sẽ sâu đậm
như thế nào? Như vậy, nếu có hiển linh, nếu có cảm ứng,
thì sự hiển linh, sự cảm ứng đối với cả một dân tộc,
tất sẽ sâu xa rộng rãi hơn đối với một vài người.
(*)
Trong
phần kết luận, để người đọc hết do dự trong việc sử
dụng lại từ Bụt, tác giả đã đi thêm một đòn tâm lý
và tâm linh khá mạnh rằng “ Nếu những thành tựu tốt
đẹp của tổ tiên tâm linh của chúng ta từ xa xưa mà bị
vứt bỏ không thương tiếc, thì không chừng chúng ta sẽ trở
thành những cô hồn vất vưởng đâu đó. Cho nên mỗi một
chúng ta trong khi tu tập, nên quán chiếu để tìm mọi cách
bồi đắp gốc rễ tâm linh của mình! (*). Đây
chính là luận điểm có phần xa lạ đối với người học
Phật, cho nên chúng tôi sẽ bày
tỏ quan điểm ở phần cuối bài.
Để
kết thúc bài viết, tác giả đã mượn ý của Nguyễn Công
Trứ để cổ động một lần chót cho việc dùng trở
lại từ Bụt “Cái tiếng Bụt mà ngày hôm nay tôi đang nói
đây, chính là cái tiếng Bụt mà cổ nhân người Việt chúng
ta đã từng nói như vậy trước tôi hàng bao nhiêu thế kỷ
rồi.”(*)
*
* *
Xuyên
qua
toàn bộ bài viết của Nguyễn Trọng Phu, người đọc
dễ dàng nhận ra ba điểm nổi bật: một là, tác giả đã
bỏ công tìm tòi, lượm lặt nhiều chứng cứ trong thi ca,
ngôn ngữ bình dân, kể cả nhiều từ điển xưa và nay, nhằm
mạnh mẽ hậu thuẩn cho cuộc vận động sử dụng lại
từ Bụt.
Hai
là, ông đã không ngại dùng bút pháp văn chương để khơi
dậy tình tự dân tộc, tinh thần độc lập và
cả tín ngưỡng tâm linh để thúc đẩy một sự chuyển
hướng, vì theo ông, dùng lại từ Bụt được xem như là một
hành động trở về cội nguồn dân tộc và tô bồi nguồn
cội tâm linh.
Và
điểm thứ ba là, tác giả cuối cùng muốn vớt vát, nếu
không chuyển hết sang dùng từ Bụt thì, ít nhất từ nầy
nay cũng nên được dùng song song với từ Phật.
Có
lẽ do quá chú trọng đến ba điểm trên đây tác giả đã
không lý tới hay bỏ quên không nghiên cứu sự kiện hai
từ Bụt và Phật đã đi vào ngôn ngữ Việt từ thời nào
và như thế nào? Ông chỉ chú trọng đến việc bảo vệ
tính cổ của từ Bụt mà không xem xét đến ý nghĩa
tinh túy của từ Phật, vì theo chúng tôi, chính đây
là nguồn gốc phát sinh tính “tử ” (tử ngữ) của từ Bụt
và tính “sinh” (sinh ngữ) của từ Phật. Hai yếu tố “tử”
và “sinh”nầy sẽ giúp chúng ta thấy rõ được lý do tại sao
từ Bụt đã dần dần biến dạng, mai một trong khi từ Phật
vẫn tồn tại và ngày càng phát triển trong đại chúng. Một
bạn đọc ở San Francisco đã góp ý về điểm nầy trong Thế
Kỷ 21 số 124, tháng Tám 1999, nhưng bạn ấy không đi vào chi
tiết.
Phần
đóng góp sau đây của chúng tôi nhằm bổ túc cho hai phần
quan trọng mà tác giả Nguyễn Trọng Phu chưa đề cập đến.
NÉT TỔNG QUÁT THỜI KỲ SƠ KHAI CỦA PHẬT GIÁO
VIỆT
NAM VÀ THỜI ĐIỂM XUẤT HIỆN CỦA TỪ BỤT
Nghiên
cứu
thời kỳ sơ khai của Phật giáo Việt Nam sẽ giúp chúng
ta thấy rõ vấn đề. Dựa vào những nét lớn trong Việt Nam
Phật Giáo Sử Lược của Hoà Thượng Thích Mật Thể, xuất
bản năm 1943, ta có thể ghi nhận tóm tắt một số đặc điểm
của thời kỳ nầy như sau:
* Do
địa thế của nước ta, Phật Giáo được truyền vào Việt
Nam qua hai ngả: bằng đường bộ từ Thiên Trúc (Ấn-Độ)
sang Trung Hoa, rồi từ Trung Hoa sang Việt Nam và bằng đường
thủy qua ngả Sri Lanca, Java vào Indonesia và Đông Dương. Trong
hai ngả nói trên thì chủ yếu là từ Trung Hoa.
* Sau
thời đại du nhập, Phật Giáo Việt Nam rất chịu ảnh hưởng
Phật giáo của Tàu kể cả tôn phái và kinh điển trong các
thời thịnh cũng như suy.
* Phật
giáo từ Trung Hoa được truyền sang Giao Châu rất sớm từ
đời nhà Hán tức từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3, với các
thiền sư như Ma-Ha Kỳ-Vực (Mâjajivaka hay là Jivaka) (294 sau
TL), ngài Khương Tăng Hội (Kҡng teng-Houei (280 sau TL), Chi Cương
Lương (Tche Kiang Leang (266 sau TL) và Mâu Bác (Méou-Pô-165-170
TL) là các vị đã đến truyền pháp đầu tiên ở nước ta.
Trong bốn vị cao tăng này, chỉ có ngài Mâu Bác là người
Tàu, còn ba vị kia đều là người Ấn. Do nhu cầu truyền
giáo, họ đã dịch từ Sanskrit Buddhã ra thành Bụt và từ
này đã dần dà đi vào ngôn ngữ dân gian, trở thành gần
gũi, phổ thông từ đấy trở về sau. Tuy nhiên, theo sử liệu,
các vị thiền sư đầu tiên nầy đến rồi đi chứ không
ai ở lại Việt Nam truyền đạo có hệ thống và có truyền
thừa như ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sẽ được nói dưới đây.
* Ngài
Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi đến Việt Nam vào thời Hậu Lý Nam Đế,
năm 580 TL (thế kỷ thứ 6) Ngài cũng là người Ấn từ Thiên
Trúc sang Trung Hoa và được Tam Tổ Tăng Xán khuyến cáo sang
nam phương truyền đạo. Nhờ có duyên với Việt Nam ngài đã
truyền dạy Phật pháp có hệ thống và đã trở thành Tổ
thứ nhất phái Thiền Tôn đầu tiên ở Việt Nam – phái Thiền
Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi..
Tính
theo thời gian và điều kiện phát triển thì từ Bụt đã
xuất hiện trong ngôn ngữ Việt sớm nhất là vào thế kỷ
thứ 2 và muộn nhất là thế kỷ thứ 6 và từ nầy đã do
các thiền sư Ấn đầu tiên dịch ra từ chữ Phạn Buddhã,
có nghĩa là bậc Đại Giác, Đại Trí, bậc Giác Ngộ, Người
Đạt Trí Tuệ Tột Cùng. Vì chẳng có sử liệu nào để lại,
chúng ta không thể biết một cách chính xác là từ Bụt nầy
đã do vị thiền sư Ấn nào chuyển dịch ra tiếng Nôm một
cách tài tình như vậy, vừa gọn, vừa na ná với từ gốc
Buddhã, vừa mang tính rất địa phương.
Tiếp
theo đây, chúng ta cùng xem xét đến danh từ Phật.
TỪ
“PHẬT” XUẤT HIỆN Ở NƯỚC TA VÀO THỜI NÀO ?
Vẫn
theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược thì những kinh điển từ
Thiên Trúc (Ấn Độ) truyền sang Trung Hoa trước Tây Lịch
phần thì bị dịch sai, phần thì mấy lần bị các vua chúa
thiêu hủy, khi chép lại bị nhiều sai sót và phải đợi cho
đến đời Đường Thái Tôn (khoảng 600 TL) tức là thế
kỷ thứ 6, thì ngài Trần Huyền Trang mới tạo nên một
khúc ngoặc lớn trong lịch sử phát triển Phật giáo ở Trung
Quốc và các nước lân bang trong đó có Việt Nam với công
cuộc đi Ấn Độ thỉnh kinh và dịch kinh của ngài.
Trong
tạp chí Giao Điểm số 31, mùa Thu năm 1998, tác giả Lâm Hồng
Thể với bài “Giày Cỏ Vượt Hy Mã Lạp Sơn” đã giới thiệu
công đức vô lượng của ngài Huyền Trang kể từ khi ngài
từ Ấn Độ trở về Tàu (645 TL) cho đến lúc ngài thị tịch
(664 TL) chỉ trong vòng 20 năm, ngài đã dịch được tất cả
675 cuốn kinh, đưa thêm 24.000 từ mới vào ngôn ngữ Phật
giáo Trung Hoa. Với kinh điển của ngài dịch ra, người sau
gọi là “Tân dịch” so với những lần dịch trước có phần
khác biệt rất nhiều. Những kinh điển Đại thừa do ngài
Huyền Trang dịch kể từ cuối thế kỷ thứ 6 dần dần được
truyền sang nước ta trong đó chỉ có từ Phật chứ hoàn toàn
không có từ Bụt nào. Và cũng từ thời kỳ nầy trở
đi, những kinh sách in ấn ở Việt Nam đều chỉ có từ Phật
mà thôi; thêm vào đó nhờ sự tụng đọc hằng ngày của
đại chúng đã làm cho từ Phật tự nhiên dần dần lấn át
từ Bụt dẫu cho từ nầy vẫn tồn tại và còn được sử
dụng trong ngôn ngữ Việt mãi cho đến thế kỷ 20 thì biến
dạng dần dần.
NGHĨA THÂM DIỆU CỦA TỪ PHẬT
QUA
CÁCH DỊCH CỦA NGÀI HUYỀN TRANG
Từ
Phật là một từ mới trong số 24.000 từ mà ngài Huyền
Trang đã tạo ra cho ngôn ngữ Phật Giáo Trung Hoa từ cuối
thế kỷ thứ 6. Ngài dịch từ Phạn ngữ Buddhã ra là 佛 陀
(Phật đà), viết tắt là 佛 (Phật). Hơn 1.300 năm sau, vào
gần cuối thế kỷ thứ 20, hai nhà ngôn ngữ học Trung Hoa
ở Thượng Hải dựa theo phương pháp Tây dịch phiên âm Buddhã
ra 勃 陀 Bột đà) mà theo âm ngữ Tây phương thì Bột đà
nghe ná ná như Buddhã vì cùng có âm B và Bột đà có vẽ tân
tiến hơn là Phật đà.
Thật
ra, hai vị học giả Trung Hoa Lô Quán Cao và Hà Tử Bồi mà
tác giả Nguyễn Trọng Phu trích thuật ở phần III chắc
hẳn không phải là Phật tử cho nên họ đã không thể
hiểu nỗi ý nghĩa thâm thúy của từ Phật do ngài Huyền Trang
sáng tạo dịch ra.
Đối
với người Việt chúng ta ngày nay, ngoại trừ lớp cao niên
còn quen thuộc với chữ Hán, nhiều người nhất là lớp trẻ
đã đọc và viết theo vần La-Tinh không biết chữ Phật viết
theo lối chữ Hán như thế nào. Từ Phật (佛) theo cách viết
chữ Hán, gồm có hai vế: bên trái là bộ Nhân (亻), bên phải
là chữ Phất (弗).
Dùng
pháp chiết tự để dẫn giải, bộ Nhân (亻) ở bên trái
có nghĩa là NGƯỜI.
Chữ
Phất (弗) ở vế thứ hai, có nghĩa là KHÔNG, là CHẲNG
ĐƯỢC; theo thuật ngữ Phật giáo đó là TÁNH KHÔNG.
Ghép
cả hai vế lại với nhau, Phật (佛) nghĩa là NGƯỜI NGỘ
TÁNH KHÔNG.
Diễn
giải một cách toàn diện hơn bao gồm cả hai vế, khi nhìn
thấy danh từ 佛 (PHẬT), nó nhắc nhở người Phật tử –
hay những ai biết chữ Hán – những điều nhận thức rất
căn cốt và thâm diệu sau đây:
* Phật
là một con người như tất cả mọi người.
* Vì
cũng là con người cho nên Phật với chúng ta đều bình
đẵng.
* Phật
không phải là Tiên, Thánh hay Thần và nhất thiết không phải
là một Thượng Đế “Toàn Năng” (Almighty God) như của bất
kỳ tôn giáo độc thần nào có quyền ban ơn giáng họa mà
người ta gán cho Thượng Đế này.
* Mỗi
người và mọi người đều có khả năng thành Phật,
chứ Phật chẳng dành riêng cho ai.
* Muốn
thành Phật thì phải tu hành và ngộ được Tánh Không,
chưa ngộ Tánh Không thì chưa thành Phật.
* Tánh
Không phải tu và hành mới đạt được chứ không thể
cầu xin hay do ai ban cho.
* Tánh
Không là Phật Tánh.
Đến
đây quý độc giả có thể đã hết sức khâm phục ngài Huyền
Trang vì sự uyên thâm Phật pháp, tính sáng tạo và sự liễu
Đạo của ngài, vì chỉ trong một từ với hai vế đơn giản,
ngài đã dạy cho chúng ta không biết bao nhiêu điều bổ ích,
hiểu một cách sâu sắc về đạo Phật và không thể hiểu
lầm đạo Phật với các tôn giáo khác. Những điều trên
đây cũng tỏ rõ được tính sanh của từ Phật và tánh
tử của từ Bụt trong sự so sánh giá trị về tính biểu
tượng của nó. Nó cũng giải thích tại sao từ Bụt đã
dần dần đi vào mai một và từ Phật vẫn được lưu truyền
trong tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Trong
thực tế ngày nay, khi xem xét đến tính DỤNG của hai từ
nầy thì từ Phật vẫn ở thế phổ thông hơn, thường dùng
hơn và xuôi tai hơn mặc dầu ý nghiã hai từ ấy vẫn chẳng
khác. Ví dụ: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chứ chẳng ai nói
Giáo Hội Bụt Giáo Việt Nam, hay Phật Giáo Thế Giới chứ
chẳng thể là Bụt Giáo Thế Giới, sẽ nghe rất lạ tai và
làm cho nhiều người lầm tưởng là vừa có một tôn giáo
mới ra đời. Hoặc Phật Tánh chứ không là Bụt Tánh hay từ
kép thường dùng là Phật Tử chứ không thể là Bụt tử,
vì nghe rất “tiếu lâm” nếu không nói là có ý châm biếm.
Và chúng ta có thể nêu ra vô số ví dụ khác.
Ngay
cả đối với Thiền sư Nhất Hạnh là người hiện đang chủ
trương dùng từ Bụt thì trong nhiều tác phẩm của mình, Thầy
vẫn phải còn dùng từ Phật chứ không thể dứt khoát loại
bỏ hẳn được.
Đứng
về mặt ngôn ngữ, từ Phật đã được hoàn toàn Việt
hoá cả hơn ngàn năm nay, đã đi vào hồn dân tộc và ngôn
ngữ Việt, chứ chẳng còn ai nghĩ nó là sản phẩm của sự
vay mượn từ chữ Nho, hoặc phải trả lại từ Phật cho người
Tàu vì Việt Nam ta đã có từ Bụt và làm như thế là
để trở lại với cội nguồn dân tộc.
Còn
về mặt tu Thiền, học Phật, chúng ta luôn luôn được nhắc
nhở là phải Phá Chấp – ngay cả Tâm, cả Phật cũng Không
– thì sá gì hai từ Bụt và Phật. Nếu có người hỏi:
” Chúng tôi thường nghe thuyết giảng là tu Thiền thì
phải triệt để Phá Chấp nhưng khi thực hành thì chẳng thấy
quý vị Phá Chấp mà còn làm ngược lại. Như vậy, quý vị
có tự mâu thuẫn với mình không? có tách rời Lý Thuyết
với Thực Hành?” Và chúng ta sẽ trả lời như thế
nào ?
Cố
vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật
đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm
cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn, sâu hơn
mà chỉ tạo thêm ra sự tranh luận mất thì giờ, chẳng bổ
ích gì cho sự tu học, gây thêm sở tri chướng, tạo thành
hai phe Bụt, Phật, mất tiền bạc in Kinh sách mới, chưa nói
đến những trục trặc, vấp váp khi tụng đọc theo lối mới
mà nhiều người đã từng kinh nghiệm. Dịch Tam Tạng Kinh
Điển và các Kinh Nhựt Tụng ra tiếng Việt là một nhu cầu
cấp bách và đáng làm nhưng tìm cách đổi từ Phật sang từ
Bụt là một việc làm xa vời với tinh thần Phật pháp.
XIN
ĐỪNG NHẦM LẪN GIỮA PHƯƠNG TIỆN VÀ CỨU CÁNH
Để
kết thúc, theo chúng tôi nghĩ, không cần phải vận động
thay thế. BỤT hay PHẬT đều cùng một nghĩa. Cứ tùy duyên,
tùy cảnh, tùy thích mà dùng miễn là đừng lạc dẫn, đừng
lầm lạc ý nghĩa Bụt hay Phật là Tiên, Thánh, Thần hay thậm
chí là Thượng Đế “Toàn Năng”. Vả lại, điều mà chúng
ta cùng nhắc nhở với nhau ở đây là xin đừng và không nên
lầm lẫn giữa Phương Tiện và Cứu Cánh. Bụt, Phật
hay Boudha, Buddhã hay Bột Đà hay bất cứ từ nào chỉ đấng
Giác Ngộ đều là phương tiện diễn đạt, tự nó không phải
là cứu cánh.
Cứu
cánh của người học Phật là tu hành làm sao để dứt cho
được nghiệp quả, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, kiến
Tánh thành Phật. Có dùng từ Bụt/Phật hay không, hay dùng
từ này mà bỏ từ kia thì cũng chẳng nhằm nhò, hề hấn
gì và chẳng bao giờ vì vậy mà trở thành những cô hồn
vất vưởng như tác giả Nguyễn Trọng Phu đưa ra ở đoạn
kết luận bài viết của ông đã làm cho người đọc tưởng
chừng như đang nghe lời hù dọa trong một lối truyền đạo.
Y Nghĩa
Bất Y Ngữ, điều Y thứ ba trong Tứ Y mà Đức Phật dạy
trong Kinh Đại Niết Bàn giúp làm sáng tỏ thêm vấn đề và
xin được dùng làm lời kết cho bài nầy.
Cuối
tháng 11-1999
Phan
Mạnh Lương
TỪ BỤT
Sư
Cô
Chơn Không
Từ
những năm 1970, Thầy đã bắt đầu dùng từ Bụt để thay
thế cho danh từ Phật trong nhiều trường hợp. Trong các danh
từ Hán Việt, từ Phật vẫn còn được Thầy sử dụng, như
Phật giáo, Phật học, Phật tính, Phật tử, v.v.. nhưng từ
Bụt như một từ Nôm đã được Thầy sử dụng trong tất
cả mọi trường hợp khác. Ví dụ: ‘Bụt gọi thầy A Nan
‘ hoặc ‘ Thầy Xá Lợi Phất lên gặp Bụt’.
Dân
tộc ta đã từng gọi Buddha là Bụt ngay từ đầu thế kỷ
thứ nhất của Tây lịch và vẫn còn sử dụng từ ấy cho
đến ngày nay trong văn chương truyền khẩu. Phát âm
‘Phật’ là do ảnh hưởng Trung Quốc, và ta chỉ bắt
đầu phát âm như thế từ lúc quân nhà Minh sang xâm chiếm
nước ta.
Chính
thầy Khuy Cơ, cao đệ của thầy Huyền Trang cũng đã từng
nói rằng Buddha phiên âm là Bột mới đúng, phiên âm
thành Phật là sai. Nhận thức ấy đến hơi trễ,
thành ra người Trung Quốc không sửa sai lại kịp (*).
Không
có lý do gì mà một dân tộc phải đi theo sự sai lầm của
một dân tộc khác. Các dân tộc khác trong vùng đều
phát âm Buddha là Bụt như Thái Lan, Nhật Bản, Miến Điện,
Tây Tạng, v.v..
Thầy
nói sử dụng cách phát âm Bụt không có nghĩa là mình không
còn sử dụng những danh từ Hán Việt có chữ Phật, và như
vậy ta chỉ là làm giàu thêm cho tiếng Việt. Ví dụ ta có
thể sử dụng cả hai danh từ tâm Bụt (tâm Bụt không đâu
không từ bi) và Phật tâm (Phật tâm vô xứ bất từ bi). Mãi
đến thế kỷ thứ mười bốn, dân ta vẫn còn sử dụng danh
từ Bụt trong văn chương bác học, như vua Trần Nhân Tông
đã sử dụng trong các bài phú Đắc Thú Lâm Truyền Thành
Đạo Ca. Chúng ta chỉ mới bắt chước người Trung Quốc phát
âm chữ Phật từ sau đó, nghĩa là chỉ mới sáu trăm năm.
Chỉ mới trôi qua hai chục năm từ ngày ta sử dụng âm Bụt
trở lại mà danh từ này đã trở thành sống động, mọi
người nghe đã quen tai và cảm thấy rất gần gũi với Bụt
khi nghe và sử dụng lại cách phát âm này.
Sư
Cô Chơn Không
Lá
Thư Làng Mai 25 ngày 12-02-2002
Chú
Thích:
(*)
Đại Sư khuy Cơ, cao đệ của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang,
đời Đường, trong sách Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương,
quyển thứ sáu, có nói ‘Bột Đà (Buddha) là tiếng Phạn,
gọi tắt một cách sai lầm là “Phật” (Phạn văn Bột Đà,
ngọa lược vân Phật)’
Discussion about this post