SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA TÂM THỨC
VÀ CON ĐƯỜNG THOÁT LY
Như Hùng
Độc
lập trong tư duy thường nghiệm
Tự do trong hành động tỉnh thức
Truy tìm những đột phá biến động của tâm thức, không hẳn y vào động tác được
hình thành từ bên ngoài, cũng có thể hành động đó được xuất phát từ những
nguyên tố, nhưng không do tác động ở nội hay ngoại tại, hoặc với đối tượng thì
khép kín nó vào định lý, đã đươc đóng khung bởi bức tường sản phẩm đơn thuần
của lý trí, nhưng thật ra nó không mang tính chất như thế.
Sự hành hoạt từ bên ngoài nếu có, ắt hẳn phải được hưng khởi từ nội giới, nhưng
cũng có những đột biến tựu thành từ sự lưng chừng giữa nội và ngoại, và có lúc
nó hình thành nhưng hoàn toàn chưa kịp đi qua quá trình kiểm chứng của nội tại.
Như vậy những đột biến ấy có mang tính chất tư duy thường nghiệm trước khi hưng
khởi? Và nếu không đi qua chặng đường ấy thì hậu quả như thế nào?
Nhân loại hôm nay đang đứng trước vực thẳm của ngút ngàn thống hận, điên loạn,
sợ hãi triền miên không lối thoát, cũng từ nguyên lý thiếu vắng sự có mặt của
những suy tư đúng nghĩa này, nỗi lo sợ bất an đang tràng ngập bao phủ trên vùng
tâm linh mà con người trực diện, sự xáo trộn, hãi hùng, quẩn trí, tai ương,
chập chờn phảng phất đâu đây, bước chân về đâu cũng thấy gập ghềnh vấp ngã, sự
sống được đặt ngang hàng với nỗi chết, và chết là trạng huống để trốn chạy niềm
đau triền miên thống khổ.
Sự tiến nhanh của con người theo những lối tìm cầu ở bên ngoài, đang làm băng
hoại tiềm năng tư duy ở nội tại. Ở đó chỉ có hành động, nhưng không cần kiểm
chứng, chỉ có vung vãi nhưng không hề thẩm định tra vấn để tìm phương thoát ly.
Những biến động của tâm thức có muôn ngàn trạng huống và dang thái khác nhau,
tùy vào sự tàng chứa trong chủng nghiệp của mỗi con người. Tựu trung vẫn hoàn
toàn nằm ở nội giới, hậu quả nguy hại hay không, phụ thuộc vào bản năng tiềm ẩn
trong mỗi chúng ta có thường nghiệm quán chiếu hay không? Và đâu là phương cách
thoát ly ra ngoài biến động ấy?
Con đường thoát ly ra khỏi những biến động đó, cần phải y vào 3 phương thức
“Tín, Hạnh, Nguyện’’ trong Phật Giáo. Đây là nền tảng tối hậu của những bậc Bồ
Tát siêu phàm đã nương vào để vượt thoát, đã tựu thành hạnh nguyên cao cả, và
là cửa ngõ quan yếu nhất, biến thực tại khổ đau thành miền cực lạc. Hẳn nhiên
đó là danh từ tổng hợp, để biểu thị đặc tính quan trọng trong tiến trình, chứ
không nhất thiết trong giáo lý Tịnh Độ mới có những đặt thù ấy. Nương vào thực
thể đang ẩn núp đàng sau những từ ngữ biểu tính đó, ta mới thấy đâu là giá trị
tuyệt diệu của một sự thể, vốn không nằm trong kiến giải của sự thể. Nương vào
ngữ ngôn, để tìm ra những bí ẩn thâm sâu đang bị khuất lấp bởi những nhãn hiệu
lừa phỉnh, khi nào vén mỡ dính mắc ấy ra khỏi lăng kính, lúc đó mới thấy được
đâu là thực tại nhiệm mầu. Và chỉ có phưong cách ấy, mới giúp ta thóat ly ra
ngoài, mọi phong toả kèm chặt của ý thức hệ, trước ta, trong ta vốn tràn ngập
và nhiều lần vung vãi ra ngoài.
Những con người đã từng mệnh danh, đỉnh cao của những triết thuyết. Từ những
chủ thuyết Hiện Sinh, Duy Vật Biện Chứng,Tự Do Chủ Nghĩa v.v…đâu đó đang bị tàn
phá, băng hoại và là một mớ lý luận nhồi sọ bóp méo, trong đó gây thêm khủng
hoảng, xao động, bất an, hay đúng ra là sản phẩm trang sức cho một thời đại.
Sau đó còn lại số phận sinh hủy như lúc ban đầu nó đã mang tính chất như thế. Bởi
lẽ khi hình thành một tiền đề cho một định lý, trước hết là phải phá tan những
gì đã có, để dựng nên một tiêu đề khác, cho có vẽ phù hợp với hiện tình. Điều
này đã được thiết lập từ căn bản đập vỡ để xây, và xây để rồi đập, tấn tuồng
này cứ thay nhau diễn, và đâu là thực thể nhiệm mầu tươi mát, một hạnh phúc
tuyệt diệu trong lòng cuộc đời?
Sự tham lam của con người lúc nào cũng lục lạo, xông xáo tìm kiếm một ít kiến
thức, hay vài trò múa rối của kẻ khác và biến họ thành thần tượng chế ngự, chi
phối cuộc đời của mình, để rồi bị ru ngủ trong mê cung thầm kín, hay cất giữ
trong bảo tàng viện được canh gác, phong toả bởi hàng rào kẽm gai của ý thức
hệ.
Lịch sử tư tưỏng đã từng chứng minh, không một thần tượng nào không bị sụp đổ,
vì lẽ sự dựng nên nếu có, chỉ là xu hướng nhằm thoả mãn sự khơi động đang ùn ùn
trào dâng ở trong, chứ không phải hình thành từ những tra vấn nổ tung trên hành
trình giải phóng ra khỏi triền phược. Nếu được cấu tạo từ điểm này, vô tình lôi
kéo ý niệm đó, trở thành cửa ngỏ khép lại, chôn chặt, đẩy ta vào hố thẳm đen
tối khác.
Thần tượng cũng có thể mang đến cho ta một vài khái niệm theo nghĩa ban bố, hay
làm cho ta mê mệt trong những cảm hứng nhất thời, nhưng nếu dùng nó như tiến
trình đi tới, thì hẳn chắc sẽ không đem lại giá trị tối hậu đích thực. Nhưng
nếu từ rung cảm đê mê đó, chuyển hoá thành niềm vui miêm viễn, không khéo lại
rơi vào ngõ ngách được bao trùm bởi màng lưới quan cảm, tưởng chừng khác. Trừ
khi nào ta đặt nó như một công án, gõ vào trong tận cùng thâm sâu của hiện hữu,
như là sự khơi động thường nghiệm, may ra ta mới vén mở được khởi nguyên. Y vào
lối này ta đã hoà điệu vào cung bậc tương xứng và đối tượng ban đầu tự nhiên
biến mất. Như vậy có phải là sự sụp đổ đúng nghĩa không?
Đã đến lúc lưỡi đao trãm cần phải chặt ngay vào ý niệm của ta, kể cả ý niệm
dùng để chặt, một khi phá tan những chướng ngại thì con đường vượt tung sẽ hiển
lộ tức khắc, thoát ra ngoài mọi kiên cố, định lý, lầm tưởng, bất biến, dù điều
này hình thành từ những tra vấn khơi động, nhưng không do kết quả tư duy thực
nghiệm. Khi nào lưỡi đao trãm chưa chặt phăng, thì lúc đó trong ta vẫn còn là
một nỗi trôi không lối về.
Đừng bao giời biến ta thành sản phẩm hay đồ trang sức do sự tác tạo của kẻ
khác, dù là ý tưởng để làm nổi bật bản năng đặc thù, hay sự uốn nắn của kẻ
khác, mà ta lầm tưởng đó là cách, để đưa mình tới đích của tung hô. Ta phải đập
tan hoang, tất cả những ý tưởng đã bao phủ ta vào một phạm trù và uốn nắn ta
trở nên khuôn mẫu trong mọi tư duy tác tạo.
Quan trọng hơn nữa đừng biến ta trở thành một thứ tín đồ, chỉ biết gục đầu sống
với chứng thư được cấp phát, hay độc quyền do kẻ khác cứu rỗi, mà chính kẻ rao
giảng tín điều đó, chưa một lần biết rõ bản mặt ban sơ của kẻ đã truyền trao.
Con đường để đi tới, để tựu thành và thoát ly ra ngoài mọi dính mắc khuôn mẫu
đó, là phải tìm cho chính mình một hướng đi đích thực, một lý tưởng đúng nghĩa
để phụng sự. Điều tối hậu nhất là phải độc lập trong suy tư và tự do trong hành
động. Dĩ nhiên đây không phải là hai từ ngữ để mặc chúng ta vung vãi, hay khoác
vào nó những hành động nguy hại do chính nó lừa phỉnh, và càng không có nghĩa
che dấu những ý tưởng đen tối đằng sau từ ngữ ấy. Nó được hình thành hoàn toàn
độc lập, những ý tưởng được hưng khởi đều phải đi qua quá trình tư duy đúng
mức, không nằm trong tín điều hoặc sự chi phối của đấng quyền năng nào.
Phải là độc lập trong tư duy thường nghiệm và tự do trong hành động tỉnh thức,
thì mọi hành hoạt thường dụng mới thể hiện trọn vẹn được giá trị an lạc, hạnh
phúc. Đó là con đường y vào những gì hưng động, quật tung, thầm kín, đang ngự
tiềm trong tâm của chính mình. Ở đó và trong đó, không bị sự mê hoặc, ru ngủ
của kẻ khác, trừ khi sự vén mở hiển bày chưa đạt đến mức, thì nó lại lôi kéo
khiến ta hệ luỵ. Tìm mọi phương cách để thành tựu và đem sở đắc đó, biến thành
niềm thương yêu xoa dịu đồng loại, phục vụ bằng cả chân tình, phụng sự cho kẻ
khác làm bước tiến tới hạnh phúc cao cả trong thương yêu, tạo dựng thế giới cực
lạc trong lòng khổ đau của muôn loài. Ba phương thức để tiến tới và thoát ly đó
là:
TÍN: là niềm tin tưởng tuyệt đối vào chân lý, vào chính khả năng hữu dụng bất
biến đang tiềm ẩn trong ta. Khả năng này khơi mở đúng lúc, thì cả càn khôn biến
thành thực thể nhiệm mầu, đây là then chốt quan trọng nhất, trong việc mở tung
cánh cửa tìm tới thực ngộ.
Ý thức trọn vẹn thâm tín vào chính ta, những kết quả tốt đẹp trong tương lai
hoàn toàn do chính mình tác tạo, không do bất cứ một đấng nào có thẩm quyền đặt
vị trí cho ta cả. Nếu tư duy đúng mức ta sẽ thấy những đấng toàn năng bất lực
trước những nghiệp quả mà ta đang cảm nhận gánh chịu. Quả thật nếu quý ngài là
biểu tượng tuyệt đối của quyền năng mà ta thường tôn thờ, có lẽ ngài đã mang
chúng ta lên thiên đường hay niết bàn từ lâu rồi. Tại sao chúng ta vẫn cứ lặn
hụp trong thế giới đầy thống hận, khổ đau này?
Đức Phật, một nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại đã từng minh định, ngài là một
con người như tất cả những con người cư ngụ trên mặt đất và ngài đã dùng trí
tuệ của chính mình để thực hiện con đường giải thoát, mà không cần đến sự gia
hộ của bất cứ đối tượng nào, và ngài đã tựu thành sự nghiệp ấy. Vậy ai là người
có thẩm quyền tối hậu để đưa ta thoát khỏi tử sinh, nếu không phải là ta?
HẠNH: Là những hành hoạt được xuất phát và tưụ thành trong tỉnh thức, đem đến
cho mình và kẻ khác giá trị tuyệt hảo, niềm an vui, hạnh phúc trong lòng biến
hiện của cuộc đời. Ở đó ta không tìm thấy, sự có mặt của những bản ngã, chỉ
biết hành xử trong độc đoán, do sự sai sử của ý thức nguy hại, vung vãi những
cặn bã kinh khiếp mà con người từng phải ghê tởm, lắc đầu, chối bỏ, trốn chạy.
Cái thẩm quyền đó không ai nhắc khéo và ban bố cho ta, nó vốn nằm sẵn trong ta,
ở hai cánh cửa khác nhau, một bên là con đường đưa ta đến ngút ngàn hoa thơm
thơ mộng tuyệt diệu, sự hân hoan sung sướng chào đón ta trên mọi lối về, và
trong ta là cả một khung trời mơ đang ngự trị, một chân trời màu hồng, một bình
minh ướp đầy hương thơm ngào ngạt hoa lá, và những đêm trăng sáng soi hành
trình tìm tới đỉnh cao của tử sinh vượt thoát, thấp thoáng đâu đây dáng chị
Hằng làm mát diu từng đêm trường cô quạnh, một thực tại vô cùng nhiệm mầu phủ vây.
Lối thứ hai đó là khúc quanh của con người, của những thống khổ triền miên
không một ngày mai tươi sáng. Đâu đó chỉ có hố thẳm thương đau, và những bóng
đen ma quái bao phủ, gieo rắc nỗi khổ đau cho muôn loài. Sự nguy hại cứ thay
nhau đè nặng, trên lối về cuối cùng của một đời. Lắm lúc ta tưởng chừng vào
quyền uy thế lực có được, để tạm quên thực tế biến động, đè nặng, ám ảnh, trong
từng đêm chập chờn với giấc ngủ không trọn. Và ngày mai thiên hạ có tung hô,
cũng chỉ là sự miễn cưỡng, để xén bớt một chút gì ta có thể bù đắp được, nó trá
hình và không thật như chính cái không thật mà ta đã tưởng chừng.
Và đâu là ngõ hoa đem đến cho mình và tha nhân, một bình minh tươi sáng, một đóa
hồng chớm nụ trong nắng mai?
NGUYỆN: là con đường để hoàn thành những nguyện lực cao cả, chân chính, được
nuôi dưỡng huân đúc ở trong ta. Những nguyện lực ấy đã được đúc kết từ những cơ
nguyên ban đầu, nó là môi giới nối liền giữa thực nghiệm và tựu thành, biên
giới giữa tác động và an lạc, và là kết quả tất nhiên của những tác tạo, hành
hoạt, thường xuyên do ta mang đến.
Không phải chờ đến lúc sắp xuôi tay nhắm mắt, ta mới sực nhớ đến con đường tối
hậu để đi tới phát khởi, lúc đó quá muộn màng, bởi lẽ nó là môi giới và kết quả,
không hẳn là sự quyết định của chính nó. Sự tựu thành phải được xây móng ngay
từ niềm tin, nguyên tố thứ nhất và thứ hai, kết quả còn lại là điều tất nhiên,
không do ai mang đến mà chính ta, chính niềm tin và hiện thực ban đầu đó. Những
ý lực nào ru ngủ ta, đừng để đến lúc thảnh thơi mới thực hiện, ta cần phải chặt
phăng ngay, vì sẽ không có một ngày nào ngơi nghỉ đúng mức cả, nếu ngày ấy còn
nằm trong sự chờ, đợi để được. Phải duy trì ý niệm và nguyện lực liên tục trong
ta, thì điểm đích mới có cơ may tựu thành.
Những biến động của tâm thức sẽ không đè nén mãi trong ta, nếu ta chuyển hướng
và biến nó trở thành nguồn suối tắm mát triền phược, bằng con đường hành động
vượt thoát. Và đâu là điểm khởi và chung cuộc cho một đời trôi nổi?
Như Hùng
Discussion about this post