SÁNG TỐI DO NGƯỜI
Thích Đạt Ma Phổ Giác
ĐÔI LỜI
TÂM SỰ
Trong khoảng trời đất bao la này, tùy theo
phước nghiệp của thế nhân mà có nên hình dạng sai khác, tùy theo nhận thức của
mỗi người mà tạo ra thói quen, để có kết quả trong hiện tại và tương lai. Cho
nên, cũng đồng là người nhưng mỗi
người mỗi khác, không ai giống ai. Mặt trời lúc nào cũng chiếu soi khắp nơi, nhưng chúng sinh căn tánh có sai biệt, do đó tạo ra thiên hình vạn trạng, mỗi người, mỗi cảnh. Cũng đồng là người nhưng kẻ đen
người trắng, kẻ thấp người cao, kẻ tốt người xấu, kẻ được người mất, kẻ hơn người thua, kẻ thành người bại .v.v..
Không phải ngẩu
nhiên con người được sinh ra quyền cao chức trọng, giàu sang tột đỉnh hay bần
cùng khốn khổ, đói rét khó khăn, khổ đau hay hạnh
phúc đều do con người tạo lấy. Mỗi cá nhân bản thân quyết định sự sống của
chính mình, không ai có quyền ban phước giáng họa, để tạo ra sự hiểu lầm về kiếp
nhân sinh như quan niệm của thời xa
xưa, cho rằng con người phải chấp nhận số
phận đã an bài, trước sau như một không thể
nào thay đổi được. Trời đã định đoạt sắp đặt thì phải chịu thôi, nhưng trời ở
đây mang ý nghĩa giá trị của luật
nhân quả luôn âm thầm tác động chi phối mọi hiện tượng sự vật trên thế gian
này, làm lành được hưởng phước tốt đẹp, làm ác chịu quả báo khổ đau, vì thế
sáng tối đều do mình tạo lấy.
Mặt trời chân lý
luôn soi sáng khắp nơi, luôn soi rọi khắp mọi nẻo
đường, luôn hướng đến nhân sinh và chan hòa cùng tất cả, nhưng vẫn không đáp ứng hết nhu cầu cần thiết
cho con người và vạn vật. Vì vậy, mà có sự sai biệt tạo nên mỗi hình, mỗi vẽ, mỗi
cảnh, mỗi hoa.
Đạo Phật không dừng
lại ở số phận hẩm hiu hay phó thác cho cuộc sống đã an bài, mặc tình thả trôi
theo dòng đời, để tự mình hủy diệt chính mình rồi ngồi đó than thân, trách phận.
Trong khi đó hoa vẫn nở, trời vẫn trong, mây vẫn bạc, suối vẫn reo, như hòa cùng khúc nhạc lòng, luôn vang vọng khắp muôn nơi. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân
sâu xa của nó, sáng tối đều do mình tạo ra. Con người là một tài sản vô giá lớn
nhất, không thể nào phủ nhận được, nếu chúng ta biết đem tài sản vô giá đó ra
xài, thì việc gì chúng ta cũng có
thể làm được.
Một gia đình, một
xã hội, một thế giới, cần rất nhiều người nhiệt tình có tài năng và đạo đức. Luôn vì lợi ích chúng
sinh mà phục vụ, thì mới có thể giúp ích cho con người, cho xã hội, được một cuộc
sống bình an và hạnh phúc. Do đó, việc giáo dục con người không phải dễ dàng,
điểm thiết yếu là làm sao giáo dục có văn hóa và đạo đức, để
mỗi người ý thức được trách nhiệm và bổn phận của chính mình.
Do đó vai trò
giáo dục để phục vụ con người, không quan trọng ở vị trí chức danh mà phải làm
sao giáo dục cho tất cả mọi người, thật sự sống có ích cho tha nhân và xã hội.
Không phải lý thuyết suông mà cần phải ứng dụng thiết thực vào trong đời sống hằng
ngày, sáng hay tối đều do con người quyết định. Nếu ta chấp nhận có một đấng
siêu hình nào đó đã sắp đặt, định đoạt, số phận cho con người, thì vô tình
chúng ta đẩy con người vào vị trí tối tăm, con
người mất hết quyền làm chủ và cuối cùng bị nô lệ phục dịch cho đấng tối cao.
Trong khi đó,
con người có khả năng học hiểu tư duy quán chiếu, làm được những điều khó
làm, mà các loài khác không thể làm được. Điều nầy các nhà khoa học xác quyết một cách rõ ràng, nhờ sự
cầu tiến của con người mà thế giới có nhiều thay đổi tốt đẹp và tiến bộ không
thể ngờ. Sáng tối đan xen lẫn nhau khi ánh sáng có mặt, bóng tối tự nhiên biến
mất, nhưng tối tăm lúc nào cũng lấn chiếm ánh sáng chân lý, vì thế mà tạo
ra mâu thuẫn cuộc đời. Đạo Phật không dừng lại ở nơi tối tăm, luôn dùng ánh sáng trí tuệ để chuyển hóa si mê và u tối thành trong sáng hiện thực. Có bốn loại
ánh sáng để chuyển hóa tối tăm:
mặt trời Ánh sáng
mặt trăng Ánh sáng
của lửa Ánh sáng
trí tuệ
Ánh sáng mặt trời
có công năng soi sáng được ban ngày,
giúp cho vạn vật sinh sôi nẩy nở và phát triển một cách hài hòa, nhưng chỉ được ban ngày. Đôi khi vẫn bị mây mù, mưa gió, bão bùng, che
khuất, do đó ánh sáng mặt trời chỉ chiếu soi một nửa, nên chỉ soi sáng trong giới
hạn. Ngoài ra ánh sáng mặt trời còn được sử dụng trong công nghiệp, y học, phục
vụ con người và cuộc sống…
Ánh sáng mặt
trăng cũng vậy, giúp cho ban đêm được trong sáng,
để con người ngồi lại bên nhau cùng tâm tình, thưởng thức vẽ đẹp thiên nhiên. Ánh
sáng mặt trời soi sáng ban ngày, ánh sáng mặt trăng soi sáng ban đêm, nên vẫn hạn
chế ở một mức độ nào đó. Ánh sáng mặt trăng có thể tạo cảnh
quan thôn dã, soi sáng con đường làng, là đề tài sáng tác văn học cho thi nhân…
Ánh sáng của lửa
giúp con người chuyển hóa được lạnh lẽo, giúp con người ổn định an sinh đời sống
hằng ngày, bằng những món ăn tinh
khiết để duy trì sự sống. Về mặt tích cực, lửa giúp con người an sinh đời sống
hằng ngày nhưng ngược lại, lửa
có thể thiêu đốt tất cả nếu chúng ta bất cẩn và sử dụng không đúng chỗ. Vì vậy,
ba loại ánh sáng mặt trời, mặt trăng và lửa, nếu chúng
ta biết sử dụng hài hòa thì sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho con người, còn không
thì tác hại của nó có thể hủy diệt hết tất cả. Do đó chỉ có ánh sáng trí tuệ, mới
đủ sức chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của kiếp người, thành an vui hạnh phúc
ngay tại đây và bây giờ.
Ánh sáng trí tuệ
cũng có hai loại:
-Trí tuệ thế
gian
-Trí tuệ xuất
thế gian
Thường thế
gian, ai thông minh lanh lợi biết được nhiều việc hoặc học cao hiểu rộng, thì
cho đó là người có trí tuệ. Nhưng trí tuệ nầy
do học mà được, nên xuất phát từ lòng tham lam của con người. Vì vậy họ si mê
chấp ngã càng cao, thấy mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là thầy thiên hạ. Nên độc
tài thao túng, dùng mưu mô chước quỷ để
bình thiên hạ tạo ra ân oán, oan gia trái chủ, dùng miệng lưỡi biện tài vô ngại
để lung lạc lòng người, nói một đường làm một nẻo, chẳng khác gì con vẹt, bắt
chước nói tiếng người.
Bởi nói được mà
làm chẳng được, nên có địa vị cao trong xã hội càng làm tổn hại cho nhiều người.
Do ý thức vận hành của sự chấp ngã sai khiến, nên càng làm tổn hại nhiều cho
thiên hạ. Như sự nghiệp của Tần
Thủy Hoàng vì muốn gồm thâu lục quốc, mà máu người biến thành biển cả. Do lòng
tham chi phối và sai sử, nên con người đa số đều xây dựng sự nghiệp của mình bằng
xương máu của thiên hạ. Sử sách còn ghi lại biết bao ông vua thời phong kiến vì
chủ nghĩa cá nhân, mà tàn sát
và giết hại vô số con người.
Do đó trí tuệ
thế gian, chỉ giúp cho con người tăng trưởng thêm lòng
tham vô bờ bến. Vì vậy, nếu ai là người tài giỏi, cần phải học hỏi và trau dồi
đạo đức, để nâng cao sự hiểu biết giúp nhân loại bằng tình thương yêu chân thật. Nhờ có tu tập chúng ta mới biết được
giá trị thật giả cuộc đời, do đó dễ cảm thông chia sẻ, bao dung và tha thứ, để
không làm tổn hại cho nhau.
Trí tuệ xuất thế
gian: Để không nhầm lẫn với trí tuệ thế gian, nhà Phật gọi là trí tuệ bát nhã,
nhưng trí tuệ xuất thế gian cũng có ba loại:
– Trí tuệ lộn
ngược
– Trí tuệ bắp vế
– Trí tuệ rộng
lớn
Trí tuệ lộn ngược,
là loại trí tuệ không phân biệt được đầu đuôi trước sau một cách rõ ràng, nó giống
như cái bình lật úp trở lại,
dù có chế nước vô bao nhiêu cũng bị tràn ra,
không chứa được chút nào. Hạng người nầy tuy có nhiệt tình học hỏi, do không có
định tâm tỉnh giác, tuy có cố gắng học hỏi lời Phật dạy, nhưng vì nghiệp chướng sâu dày nên chẳng hiểu biết
gì hết. Do đó, thế gian thường gọi hạng người này như nước đổ lá môn, như nước
xao đầu vịt, đổ vô bao nhiêu cũng bị trôi đi hết,
cho nên nói là trí tuệ lộn ngược.
Khi đã đến chùa
nghe pháp, học xong trả lại cho thầy, thật là uổng công vô ích biết chừng nào!
Tu học như thế, biết đến
bao giờ mới được trí tuệ rộng lớn, Phật pháp tuy khó nghe, nhưng chúng ta đang nghe và đã nghe, chẳng lẽ nghe
xong, rồi trả lại cho thầy hay sao? Nếu có, chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, biết
đây là nghiệp chướng sâu dày do nhiều đời không gieo trồng hạt giống trí tuệ,
nên bây giờ mới bị lú lẩn ngu ngô như thế. Biết được như vậy chúng ta hãy nên
thành tâm sám hối, cố gắng siêng năng tinh
tấn học hỏi chuyên cần. Tại sao có người nghe một hiểu mười, nghe mười hiểu trăm, còn ta nghe xong chẳng hiểu gì hết. Bởi ta
không gieo nhân thông minh trí tuệ, nên phải chậm lụt hơn người và kém hiểu biết. Biết được vậy rồi,
chúng ta phải làm sao cố gắng học hỏi, suy tư, quán tưởng. Ta không gieo nhân trí tuệ, làm
sao có quả trí tuệ, có người sở dĩ thông minh sáng suốt là do đã học hỏi và
huân tập nhiều đời, không có gì là do bổng nhiên khi không mà có được.
Thời Phật còn tại
thế có một tăng sĩ tên là Châu Lợi Bàn Đặc, cùng xuất gia một lượt với
anh mình, cùng nghe giảng pháp và tu tập như nhau. Vậy mà người anh lại biện tài vô ngại
và chứng quả A La Hán, còn người em không thuộc nỗi một bài kệ bốn câu, dù thầy
đã cố gắng hết sức mình để học nó suốt mấy tháng trời. Người anh thấy thế, sợ
em mình thọ dụng của đàn na tín thí mà không tu tập được sẽ bị tổn phước, bị
người đời chê trách. Nên khuyên em mình hãy nên hoàn tục, về sống đời cư sĩ tại gia nuôi dưỡng cha mẹ, bố thí cúng
dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn hoạn nạn, để gieo trồng phước đức.
Ngược lại, Lục tổ
Huệ Năng cũng dốt nát quê mùa, làm nghề đốn củi nuôi
mẹ, chỉ nghe một câu kinh liền ngộ đạo và sau đó phát tâm xuất gia. Trong suốt
tám tháng trời ngài chỉ làm một việc giả gạo, nấu cơm, ấy thế mà ngài được truyền y bát, làm vị Tổ thứ sáu thiền
tông Trung Hoa. Sau nầy, ngài đã báo trước ngày giờ ra đi trước ba tháng và để
lại nhục thân không bị hoại cho đến ngày hôm nay.
Còn Châu Lợi
Bàn Đặc, mặc dầu đã hết sức cố gắng học hỏi, nhưng vẫn không thuộc một bài kệ bốn câu? Được
người anh khuyên hoàn tục, người em buồn vô hạn, vì luôn mơ ước được sống phạm hạnh trong vòng tay âu yếm của đức Thế
tôn. Đang suy nghĩ miên man trước dòng đời nghiệt ngã, nữa
muốn ở lại tu tập, nữa muốn trở về thế tục. Cuối cùng, thầy đành chấp nhận hoàn
tục. Vừa đi vừa buồn, sực nhớ vì mình chưa từ giã đức bổn
sư, nên Châu Lợi Bàn Đặc bèn quay trở lại,
đến thiền thất đức Phật cung kính thưa về. Phật hỏi: đệ tử có chuyện gì không tốt
đến với con?
Dạ! Kính bạch đức
Thế tôn, không biết trước kia con gieo nhân gì, mà hiện tại con hết sức cố gắng
để học một bài kệ bốn câu, đến nay đã hơn sáu
tháng mà vẫn không thuộc. Con học trước quên sau, học sau quên
trước, nên anh con nói thôi đừng tu nữa, hãy về nhà đi, làm nhiệm vụ của một cư sĩ tại gia hộ trì Tam bảo thì tốt hơn. Phật biết được nhân duyên của người đệ tử, vẫn muốn tiếp
tục đời sống xuất gia thoát tục, vì bất đắc dĩ mà phải chịu nghe lời anh, nên ngài an ủi và động viên
một cách khéo léo.
Này đệ tử,
không thuộc một bài kệ bốn câu, không phải là lỗi lầm đáng tiếc để con hoàn tục
ra đời. Do túc duyên đời trước của con chưa được khai phát, chỉ cần con thiết tha
thành tâm sám hối, phát nguyện được trí tuệ rộng lớn và chia sẻ cùng với tất cả
mọi người, thì sau này con sẽ được toại nguyện. Nói xong đức Phật đưa cho chiếc khăn trắng và căn dặn rất kỹ càng, mỗi ngày con chỉ cần
quan sát chiếc khăn nầy, cố gắng
theo dõi sự chuyển biến của nó ra sao, con chỉ làm một việc đó thôi, đây là
pháp yếu tu hành đặc biệt cho hạng người như con. Lời nói của Đức Phật như được rót mật vào lòng, làm cho tâm của Châu Lợi
Bàn Đặc cảm thấy an ổn nhẹ nhàng, trào dâng lên niềm vui vô hạn.
Đây là một đề mục thiền quán, đòi hỏi thiền
sinh cần phải chú tâm cao độ, không dùng nhận thức để phân biệt so sánh, mà chỉ
nhìn một cách tường tận sự vật như thế nào, biết rõ
như thế đó, không thêm một niệm thứ hai vào.
Như hai con mắt người thợ mộc,
muốn ngắm cho chính xác khúc gỗ, thì phải nhắm bớt lại một con. Tu tập cũng thế, nếu chúng ta cứ để cho tâm của mình
muốn chạy đi đâu thì chạy, như khỉ leo cây, như vượn chuyền cành, tu học như vậy biết đến bao giờ mới được thành tựu
đạo quả.
Dưới sự hướng dẫn
chỉ dạy sâu sắc của đức Thế tôn, đã giúp cho Châu Lợi Bàn Đặc nhận thức rõ
ràng, lợi ích của sự chú tâm ròng rật, miên mật đúng pháp. Rồi thời gian trôi
qua, chiếc khăn từ màu trắng
chuyển sang màu ngà, nhờ vậy Châu Lợi Bàn Đặc thấy rõ sự vô thường của vạn vật,
chiếc khăn lúc nầy không còn mới
như xưa nữa. Con người cũng vậy, khi được sinh ra và lớn lên rồi
già, bệnh, chết, giống hệt như chiếc khăn hiện giờ. Nhờ
quán chiếu tinh cần như thế, nên cuối cùng Châu Lợi Bàn Đặc đã chứng quả A La
Hán với chiếc khăn nhiệm mầu.
Chúng ta tu
theo Phật, khi nghe câu chuyện trên đừng để tình trạng trí tuệ lộn ngược chi phối,
thì uổng cả đời tu của mình. Muốn vậy, ta cần phải nương tựa thầy lành bạn tốt, cố gắng tinh cần
quán chiếu lời dạy của ngài, nếu không việc tu học của chúng ta bị rơi vào trí tuệ lộn ngược, thì uổng công vô ích, như nước đổ lá môn, như nước xao đầu vịt, đổ vô bao nhiêu cũng bị trôi đi hết.
Trí tuệ bắp vế:
Chúng ta đến chùa nghe pháp, đều ghi nhớ rõ ràng từng câu, từng chữ, nhưng khi đứng dậy ra về đều quên hết. Người học
đạo như thế gọi là trí
tuệ bắp vế, vì khi nghe quí thầy hướng dẫn thì nhớ, lúc về thì quên, giống như người ăn bánh kẹo để trên bắp vế, khi đứng dậy rớt hết.
Đây là hạng người, nếu được đến chùa học hỏi,
tu tập, cảm thấy an lạc và hạnh phúc, chẳng khác nào người đang lạnh gặp được
áo ấm, nhưng khi trở về nhà thì mọi
thứ đâu vào đấy, phiền muộn khổ đau, bực bội cứ tiếp tục phát sinh. Học đạo như vậy uổng công vô ích, người tu như thế cần phải biết hổ thẹn, sám hối, gắng
sức ra công học hỏi, thường xuyên quán chiếu suy tư không một phút giây lơ là, biết cách sắp xếp công việc cho hợp
lý, làm việc nào biết việc đó.
Khi đến chùa
nghe pháp, chúng ta cố gắng học hiểu rõ ràng nghĩa lý lời Phật dạy, để rồi sau khi ra về nhớ
đó mà ứng dụng và thực hành. Nghe học như thế, thật sự mới
có lợi ích thiết thực, xứng đáng là người Phật tử. Nếu đã đến chùa khi nghe thì
hiểu, khi về thì quên, nên đụng chuyện phát sinh đủ thứ phiền não, làm cho mọi
người mất niềm tin và không còn muốn tu học nữa. Tu học như thế vô tình phỉ báng Phật pháp, cho nên
chúng ta phải cố gắng tu học trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa u mê tối tăm, thành trong sáng thanh tịnh, chuyển hóa khổ đau, thành
an vui hạnh phúc, tu học như vậy mới xứng
đáng là người con Phật.
Trí tuệ rộng lớn:
Đây là loại trí tuệ do siêng năng rèn luyện
quán chiếu tu tập, không phải do học hỏi hiểu biết mà được, nên nói là trí tuệ
rộng lớn.
Trí tuệ rộng lớn
là trí tuệ thấy biết đúng như thật, tuy sống
giữa dòng đời ô nhiễm, mà không bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỹ chi phối. Luôn sống
vì mọi người, phục vụ chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán. Sống
vì tha nhân chứ không vì lợi ích riêng tư, lấy niềm vui
nhân loại làm niềm vui chính mình. Muốn được như vậy, chúng ta phải phát nguyện đời đời
kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo, vì lợi ích chúng sinh, thấy ai cũng là người thân người thương của mình, nên dễ dàng cảm thông và tha
thứ, bao dung và độ lượng, thương yêu
và hiểu biết, sẵn sàng đoàn kết thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau, trên tinh thần vô ngã vị tha.
Tổ Bát nhã đa
la được nhà vua tặng cho hạt châu, một hôm ngài gọi ba vị hoàng tử con vua lại
hỏi rằng:
Hạt châu này
vô giá nhất trên đời, vậy có thứ gì quý hơn không? Hai vị hoàng tử lớn đều đồng ý với
nhau, hạt châu này quý nhất không gì có thể sánh bằng!
Ngược lại hoàng tử út không chịu, nên nói: Kính bạch thầy
có một thứ quý hơn hạt châu này nhiều, đó là trí
tuệ! Con làm sao chứng minh được điều đó? Thưa thầy, hạt châu này tuy quý giá nhưng nó là vật vô tri, nó không tự biết tốt
hay xấu, quý hay tiện, mà phải nhờ trí tuệ của con người xem xét nhận định, nên
nó mới trở thành hạt châu vô giá, bằng không thì nó chỉ giá trị như viên đá,
hòn sỏi, không hơn không khác.
Tổ liền thọ ký,
ngươi về sau sẽ làm lợi ích cho nhiều người.
Sau này hoàng tử xuất gia trở thành vị tổ thứ hai mươi tám của Ấn Độ tên Bồ Đề Đạt Ma và ngày nay chúng ta biết
tu thiền là nhờ công giáo hóa rộng khắp của ngài. Thế nhân lúc nào cũng quý trọng tài sản vật thực nên phân chia ra
có quý, có tiện, có tốt, có xấu. Tài sản là vật vô tri phụ thuộc vào con người,
nhưng chúng sinh vì không hiểu biết nên
tìm cách gom chứa về mình, do đó sanh ra cướp bóc giết hại lẫn nhau, gây ra phiền
muộn khổ đau cho nhân loại, vì thế rơi vào tối tăm si mê và mờ mịt. Riêng người con Phật lấy
trí tuệ làm nền tảng, chính nhờ có trí tuệ chúng ta thấu rõ bản chất vạn vật là
vô thường tạm bợ, huyễn hóa không thật, nên bớt si mê chấp ngã. Nhờ vậy cuộc sống
ngày càng thêm thăng tiến, giảm bớt
tham lam, sân giận, si mê, chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc,
ngay tại đây và bây giờ.
Thế gian, ai cũng ước muốn được thọ hưởng đầy đủ các nhu
cầu cần thiết trong cuộc sống như tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc ấm, ngủ kỹ, nên dễ dàng làm hại
lẫn nhau bất chấp luân thường đạo lý. Để đáp ứng nhu cầu của con người, một vị
thần hiện ra nhờ người nông dân truyền trao lại cho nhà vua bốn viên ngọc quý.
Người nông dân thật thà tốt bụng. Cầm bốn viên ngọc quý hăng hái lên đường trao lại cho nhà vua. Trước tấm
lòng chân thật của người nông dân, đã làm cho nhà vua cảm động, nên ngài thương tình cho phép anh ta chọn lấy một viên ngọc.
Trước một sự thật không thể ngờ, làm cho bác nông dân không khỏi lúng túng, nhưng giá trị của viên ngọc chỉ cho được một công
dụng nhất định. Bác nông dân xin phép nhà vua để chờ bàn lại với gia đình, nên
lấy viên ngọc nào cho phù hợp.
Về nhà, ông
trình bày công dụng và giá trị của mỗi viên ngọc để gia đình tùy nghi chọn lựa.
Viên ngọc thứ
nhất, sẽ đem lại cho chủ nhân những thức ăn ngon lành theo ý muốn, dù trên đời
này có một thợ nấu tài ba lỗi lạc cách mấy cũng không bằng.
Viên ngọc thứ
hai sẽ đem lại cho chủ nhân, tất cả trang sức, quần áo, lụa là, gấm vóc sang trọng
nhất.
Viên ngọc thứ ba
sẽ đem lại cho chủ nhân, các loại vũ khí tối tân hiện đại nhất, để các chàng
trai đủ khả năng thành người hùng và dễ
dàng thu phục thiên hạ.
Viên ngọc thứ
tư sẽ đem lại cho chủ nhân, muốn cần bao nhiêu tiền bạc của cải vật chất cũng có, không cần phải đổ mồ hôi tốn công sức
và làm lụng vất vả nhưng vẫn có được.
Bà vợ là người
lên tiếng đầu tiên, chọn viên ngọc thứ nhất để được muốn ăn gì có đó. Không phải bận bịu lo làm ăn khổ nhọc, thế gian này ăn no, ngủ kỹ là sung sướng và khoái lạc
nhất trên đời.
Đám con trai không chịu, đòi chọn
viên ngọc phò vua giúp nước bình thiên hạ, lập chiến công hiển hách để được lưu danh vào sách sử muôn đời.
Phía con gái cũng không vừa, liền nhao nhao phản đối đâu được
như thế! Thắng người thì sinh ra oán hận, ăn nhiều thì sinh lười biếng, thà nhịn ăn mà trang sức lộng lẩy thơm tho, vậy không khoái hay sao!
Thế là ba phe
muốn bảo thủ ý kiến của mình, làm cho bác nông dân càng thêm rối rắm. Cả nhà
cùng nhau tranh cãi loạn xạ, chẳng bên nào chịu nhân nhượng và từ đó cuộc chiến
tranh lạnh bắt đầu xảy ra, ai cũng cho ý kiến của
mình là đúng, nên không ai chịu nhường cho ai. Cuối cùng, hơn một tuần lễ trôi qua mọi việc trong nhà đều bị đình trệ
hết, chẳng ai muốn làm gì cả.
Sớm hơn ngày hẹn, bác nông dân đã có mặt trước bệ rồng.
Vua ngạc nhiên hỏi: Gia đình khanh đã chọn được viên ngọc nào? Muôn tâu bệ hạ,
xin cho phép gia đình con không nhận viên ngọc nào hết? Ủa, tại sao lạ vậy? Đức
vua ngạc nhiên! Bác nông dân liền kể lại sự việc: Trên đời này không gì quý bằng
an vui và hạnh phúc. Vàng bạc gấm vóc lụa là, thức ăn sơn hào hãi vị, vũ khí tối tân chỉ làm cho con người
tăng trưởng thêm lòng tham lam ích kỷ, sân si
nóng giận và giết hại lẫn nhau. Gia đình con là một bằng chứng thiết thực, hơn mười ngày qua chúng con đang sống trong
địa ngục hiện tiền. Càng mưu cầu tham đắm
riêng tư càng nhiều, càng thêm khổ đau chồng chất, chỉ cần muốn ít biết đủ theo
khả năng hiện tại dù nghèo khó vẫn an vui hạnh
phúc. Trớ trêu thay, thế gian này không biết bao nhà tỉ phú đã phải bỏ mạng sa
trường vì hụt hẳn bên bờ hạnh phúc, họ cứ mải mê chạy theo trường đời danh lợi,
quyền cao chức trọng, để rồi phải ra đi trong tủi hận ưu phiền. Chúng ta cứ bám víu dính mắc vào
nhu cầu vật chất quá nhiều, nên quanh năm suốt tháng đều bị nó trói buộc. Các
nhà tỉ phú họ đâu có thiếu thốn nghèo khó, tại sao vẫn phải tự tử! Hạnh phúc nhất
của con người là từ nội tâm trong sáng thanh tịnh, sống giữa cõi đời nhiều ô
nhiễm đầy dẫy tham lam, thù hận, si mê mà chúng ta không bị dòng đời cuốn trôi
và nhấn chìm. Vẫn làm việc phục vụ chúng sinh vô điều kiện mà không dính mắc đắm
nhiễm, đó mới là người có trí tuệ rộng lớn.
Đôi lời tâm sự chân thành xin được bộc bạch
cùng các chư huynh đệ pháp lữ gần
xa. Chúng tôi xin nguyện được kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.
Thường Chiếu ngày đầu xuân năm Tân
Mão
THÍCH
ĐẠT MA PHỔ GIÁC
KHÔNG CÓ GÌ LÀ
CỐ ĐỊNH
Nói đến đạo Phật
là nói đến tinh thần nhân quả là nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người
sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp báo từ nhiều đời, mà hiện tại cho
ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn, nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm
cao độ. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến,
chuyển biến liên tục từng phút giây không có gì là cố định cả.
Một hôm tại tịnh
xá Kỳ Viên Phật đang chuẩn bị buổi tham vấn đạo lý cho tất cả quan quân thành
Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc cùng đoàn
tùy tùng sau khi đảnh lễ đức Thế tôn, mọi người đều ngồi sang một bên rồi thưa hỏi rằng:
Thế nào? Thế
Tôn! Tất cả Bà La Môn sau khi chết sanh trở lại làm Bà La Môn chăng? Giai cấp Sát Đế Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà La cũng lại như thế chăng?
Này đại vương, đâu được như vậy! Trên đời có bốn hạng người:
1-Hạng
người từ tối vào tối.
2-Hạng
người từ tối vào sáng.
3-Hạng
người từ sáng vào tối.
4-Hạng
người từ sáng vào sáng.
Thưa đại vương, thế nào là hạng người từ tối vào tối?
Ở đây có một số người được sanh ra trong gia đình hạ tiện thấp kém, ở đợ làm mướn,
gia đình Chiên đà la, làm nghề đồ tể, lưới cá, giăng bẫy, đổ rác, đương lát và làm các nghề nghiệp thấp kém khác. Cơm không đủ no, áo không đủ mặc, ăn uống thiếu thốn, nghèo cùng, bệnh tật
chết yểu, thân thể xấu xí, luôn làm các việc hạ tiện và cũng bị người sai làm các việc hạ tiện, ấy gọi
là tối. Trong chỗ tối đó, người ấy thân hay làm việc ác, miệng nói ác, ý suy
nghĩ ác, do nhân đó sau khi chết người ấy sanh
vào cõi dữ địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh chịu nhiều khổ báo. Giống như người từ tối vào tối, luôn sống trong tối tăm hắc ám, vô minh mê muội, đời này làm
ác, đời sau làm ác, không biết lối đi. Người từ tối vào tối cũng lại như thế.
Đại vương! Thế nào là người từ tối vào sáng? Như đã nói ở trên, tuy đang ở trong chỗ tối nhưng người này ý luôn suy nghĩ điều tốt lành, miệng nói lời lành, thân
hay làm việc tốt, luôn tôn kính người tu hành chân chánh, biết giúp đỡ chia sẻ,
khi gặp người hoạn nạn. Do nhân ấy, sau khi chết được tái sanh vào các cõi trời,
hoặc trở lại làm người cao sang quyền quý. Giống như có người từ đất bước lên kiệu, từ kiệu bước
lên ngựa, từ ngựa lên voi hay từ voi lên lầu. Người từ tối vào sáng cũng lại như thế.
Thế nào là người
từ sáng vào tối? Ở đây có người sanh ra trong nhà cao quý, có địa vị danh vọng
trong xã hội, gia đình Bà La Môn giàu có, gia đình Sát Đế Lợi giàu có, nhiều tiền
của, nhiều tôi tớ, thân tướng tốt đẹp trang nghiêm, thông minh trí tuệ ấy gọi
là sáng. Nhưng hiện tại người ấy
thân hay làm các việc ác, miệng nói lời ác, ý suy nghĩ ác hại người hại vật, do nhân duyên đó sau
khi chết, bị đọa vào ba đường dữ chịu nhiều khổ báo. Giống như có người từ lầu cao bước xuống voi, từ voi
bước xuống ngựa, từ ngựa bước xuống kiệu, từ kiệu bước xuống đất, từ đất rơi xuống
hầm và lọt xuống hố sâu. Người từ sáng vào tối cũng lại như thế.
Thế nào là người
từ sáng vào sáng? Có những người sanh ra trong gia đình giàu sang cao quý, có địa
vị và danh vọng cao trong xã hội, có nhiều tiền của, nhiều kiến thức, sống vương giả nhiều tôi tớ, muốn gì được nấy. Hiện
tại ý luôn suy nghĩ tốt lành, miệng
nói lời lành, thân hay làm những việc phước đức và hay khuyên nhủ mọi người
cùng làm theo. Người như vậy sau khi chết do nhân tốt lành đó, nên được sanh
lên các cõi trời để hưởng phước báu thù thắng. Giống như người từ đất đi thẳng lên các lầu cao và
thoải mái dạo chơi trên ấy. Người từ
sáng vào sáng cũng lại như thế.
Phật nói kinh
này xong, vua và các quan được nghe điều chưa từng nghe và biết được điều chưa từng
biết, bao nhiêu thấy biết sai lầm từ xưa đến nay đều được sáng tỏ hết.
Theo lịch sử Ấn
Độ cổ xưa, người Ba Tư cổ đại nay là Iran thuộc giống dân da
trắng xâm lăng toàn thắng, dân gốc Ấn
Độ là da đen. Để nắm quyền cai trị phân biệt chủng tộc giai cấp, một số người
có quyền thế họ chế tác ra luật manu cho rằng trời Phạm thiên sanh ra vạn vật.
Theo tập cấp phong kiến cổ xưa, ai sanh ra
thuộc giai cấp nào thì trước sau phải chịu như vậy không thể nào thay đổi được,
giống như tổ chức của
loài ong, loài kiến.
Bốn giai cấp
này được sắp đặt và hình thành theo hệ thống pháp lý hẳn hòi dựa theo truyền thống xa xưa, có một đấng tối cao ban phước giáng họa
trên thế gian này. Vậy phong kiến là gì? Phong kiến là phong chức cấp đất và
phong kiến còn mang ẩn nghĩa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến.
Trong tổ của loài ong cấp nào việc đó, ong thợ chỉ một việc xây tổ, ong nước
chuyên đi lấy nước, ong mật chuyên đi hút mật hoa, ong thầy thuốc chuyên lo pha
chế mật hợp với từng loài, ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu cẩn thận,
ong đực lo truyền giống, ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái, nhưng có cả hàng trăm con ong đực, nên ong cái được tôn vinh là ong
chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt, gọi là mật ong chúa. Khi ong
chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả ong dân
đều quỳ mọp hết, tỏ vẽ cung kính khép nép và sợ sệt.
Một con ong
chúa, có khả năng sinh nhiều trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì, ong thầy thuốc
chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó. Như tổ thiếu ong hút mật, thì ong chúa đẻ
nhiều ong hút mật. Đặc biệt là đẻ ong chúa con, lâu lắm mới đẻ một lần, mỗi lần
chỉ ba trứng. Nhưng thật dã man
thay, ong chúa biết được giờ ong chúa con nở, nên ong chúa mẹ đã đến nằm chờ sẵn,
trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con. Kế đến ong
chúa con thứ hai, tiếp tục được sinh ra và vẫn bình yên vô sự. Đây là điều kỳ lạ
của loài ong, nhưng chị ong chúa con thứ hai này nằm chờ sẵn, đợi đến cô em ong
chúa thứ ba vừa chào đời liền cắn chết. Dã man thay, gia đình loài ong là thế
đó.
Tuy nhiên, con
người thì khôn hơn, nên lợi dụng
quyền thế sắp đặt chẳng khác nào loài ong, dưới danh nghĩa một đấng tối cao có quyền ban phước giáng
họa để áp đặt và cai trị. Con người ngày xưa với thiên hình vạn trạng, so với bầu vũ trụ bao la này thật là nhỏ bé, nên không
đủ sáng suốt biết rõ sự thật trước những hiện tượng như sấm sét, sóng thần, động đất, hõa hoạn,
lũ lụt, dịch bệnh đã cướp đi nhiều sinh mạng
của con người mà không ai tìm ra nguyên nhân, nên đành chấp nhận xuôi tay phó mặc
cho số phận thượng đế đã an bài. Ngày xưa người có quyền
hành thế lực lợi dụng con người thiếu hiểu biết, nên đã đặt ra đấng quyền năng và tự xưng mình là thiên tử, tức con trời được đấng
tối cao sai xuống trần gian để trị vì thiên hạ.
Ngày nay nhờ sự
tiến bộ của khoa học, con người ngày càng văn minh hơn nên đã phát hiện mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này
đều do nhiều nguyên nhân hợp lại, không có cái gì do một nhân mà hình thành.
Chính khoa học đã làm sáng tỏ học thuyết nhân quả nhà Phật, “cái này có thì cái
kia có, cái này không thì cái kia không”. Không có gì là cố định cả, không ai
có quyền ban phước giáng họa, giả sử nếu có thượng đế thì chỉ là thượng đế tối
cao của chính mình. Mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nếu
thượng đế có khả năng ban phước giáng họa,
tại sao không ban phước lành hết cho tất cả chúng sanh để cùng nhau chung hưởng
cảnh thái bình.
Cho nên vua Ba
Tư Nặc hỏi Phật như vậy có đúng không? Phật liền trả lời:
Này đại vương nên biết, có bốn hạng
người: Có người từ tối vào tối, có người từ tối vào sáng, có người từ sáng vào
tối, có người từ sáng vào sáng. Đây là
bài kinh nhân quả Phật đã chỉ cho chúng ta một cách rõ ràng và thiết thực,
mọi việc đều có thể thay đổi được tùy theo khả năng tu tập của mọi người.
Hạng người thứ
nhất là hạng người kém phước đức do không biết làm các việc tốt lành, lại không
gặp được thầy hiền bạn tốt nên suốt đời sống trong đau khổ lầm mê. Do đời trước
làm các việc bất thiện hại người hại vật, nên đời này sanh chỗ xấu ác, lại
không được học hỏi trau giồi kiến thức, không biết nhận định đúng sai nên đành
chấp nhận cuộc đời giống như bèo dạt mây trôi, sống
trong phiền muộn khổ đau. Cuối cùng rơi vào
chỗ tối tăm mờ mịt, lại tiếp
tục gây tạo nghiệp nhân xấu ác, do đó đành phải chịu mãi mãi ở chỗ tối tăm. Hạng
người này đáng thương hơn đáng trách, vì họ không đủ phước duyên thân cận thầy
lành bạn tốt, nên chúng ta cần phải quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
kết duyên lành với họ. Làm sao được gần gũi họ, để có cơ hội sẻ chia từ vật chất đến phương tiện
tinh thần, hướng dẫn cho họ biết tin sâu nhân quả khắc phục bớt việc làm có hại
cho người và vật.
Hạng người thứ
hai là hạng người biết cầu tiến, tuy ở trong hoàn cảnh xấu ác nhưng họ may mắn gặp được thiện hữu tri thức
hướng dẫn chỉ dạy nên họ nhận ra sai lầm quá khứ do mình tạo ra. Họ cố gắng
siêng năng tinh cần chịu đựng,
quyết tâm khắc phục làm mới lại chính mình, bằng cách sám hối hứa chừa bỏ nghiệp
nhân xấu ác và tùy theo khả năng hoàn
cảnh sự sống để làm việc phước thiện, nên họ chuyển được quả xấu
thành nhân tốt lành do đó họ được từ tối vào sáng.
Hạng người thứ
ba tuy có phước trong hiện tại nhưng vì họ nhận định sai
lầm theo quan điểm cố định, nên đời này mặc tình gây tạo tội lỗi, đến khi phước
hết họa đến, đành chấp nhận chịu quả khổ đau như người từ sáng vào tối.
Hạng người thứ
tư là hạng người luôn tỏa sáng khắp mọi nơi, vì họ đã tin sâu Tam bảo, tin sâu nhân
quả hiểu được giá trị của cuộc sống nên lúc nào cũng làm lợi ích chúng sinh, để chia sẻ phúc lộc
bình an đến với mọi người trên tinh thần vô ngã vị tha.
Người bần cùng
khốn khổ, hay nóng giận oán thù, tham si tưởng tà vạy, si mê không cung kính, người
tu hành chân chánh, chê bai không khen ngợi, quả xấu đến liền liền, người như thế khổ đau, suốt kiếp trong giam cầm,
như tối vào nơi tối.
Nếu có người bần
cùng, tín tâm ít nóng giận, thường sanh tâm hổ thẹn, bố thí lìa xan tham, thấy
người tu chân chánh, thấp mình và thưa hỏi, tùy khả năng giúp đỡ, khuyên người hay bố thí, vui theo
việc làm tốt, người tu phước như thế, đời này đến
đời sau, luôn sanh vào cõi lành, như tối vào nơi sáng.
Người hiện tại
giàu có, tà kiến nhiều nóng giận, tưởng mãi sẽ giàu sang, si mê không cung
kính, người tu hành chân chánh, thường chê bai hủy báng, người bố thí ngu dại,
ngăn cản người làm thiện, con người ác như thế, từ đây đến đời sau, sanh vào địa ngục
khổ, như từ sáng vào tối.
Nếu có người
giàu có, tín tâm không nóng giận, thường khởi tâm hổ thẹn, tôn kính người giới
đức, cúng dường cùng san sẻ, thăm hỏi người đáng
kính, cúng dường vô điều kiện, khuyên người hay giúp đỡ, khen ngợi người làm
phước, người tốt sống như thế, từ đây đến
mai sau, hưởng phước vô cùng tận, như sáng
càng tỏa sáng.
Cuối cùng Phật
tóm tắt bằng bài kệ bốn hạng người, tùy theo khả năng tạo nghiệp tốt xấu của nhân loại mà cho ra kết
quả khác nhau, chứ không phải cái gì cũng cố định cả. Theo truyền thống cổ xưa phong tục tập quán của người Ấn Độ luôn quan
niệm rằng con người và vạn vật do đấng phạm thiên sanh ra, ai như thế nào thì trước sau phải chịu như vậy. Giông giống như tổ chức của loài ong, chỉ có ong chúa mới
định đoạt tất cả, mạng sống tất cả loài ong đều do ong chúa sắp đặt, không có
ong dân nào có quyền làm khác. Con người có phước hơn các loài vật nhờ sự học hỏi, tư duy, suy xét, quán chiếu, các loài vật thì
sống theo bản năng do sự tạo nghiệp
nhân nào quả nấy nên chịu quả cố định, hay còn gọi là định nghiệp, nghiệp không
thể thay đổi.
Con người nhờ
có óc suy xét sáng tạo, ý chí, nghị lực, mạnh mẽ biết nhận định đúng sai nên có
khả năng thay đổi vận mệnh chuyển xấu thành tốt, chuyển
mê thành ngộ, gọi là bất định nghiệp. Nghiệp có thể thay đổi được, như bản thân chúng tôi chẳng hạn. Trước kia
do si mê lầm chấp với quan niệm chết là hết không có nhân quả nghiệp báo, không
có tội phước, nên hơn nữa đời người
tôi đã gây tạo không biết bao nhiêu là tội lỗi, dù đó là cha mẹ hay người
thân.Tôi đam mê cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm sống tán tận lương tâm để hưởng thụ cho riêng mình. Nếu nói
cái gì cũng cố định cả, thì
giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.
Phật pháp đã cứu
đời tôi để vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết
thực! Nếu con người không có niềm tin vững chắc về chính mình, thì khó làm mới
lại cuộc đời nên đành cam chịu số phận đã an bài, người như thế sẽ mãi mãi sống trong đau khổ lầm
mê.
Đây là bài kinh Phật giải thích cho vua Ba Tư Nặc hiểu rõ về tiến trình diễn biến của
nhân quả, luôn biến chuyển thay đổi không ngừng theo thời gian tùy theo khả năng tu tập của mọi người. Vậy mà có một số
đông người trên thế gian này lầm chấp cho rằng người chết sanh người, trời chết
sanh trời, thú vật chết sanh thú vật và còn có quan niệm khác, trời sanh ra vạn
vật để phục vụ cho con người và cúng tế thần linh. Con người ai sanh ra trong
giai cấp nào thì phải chịu số phận của giai cấp đó, cụ thể như thời Phật còn tại thế và cho đến ngày
nay vẫn còn như vậy ở đất nước Ấn
Độ, phân chia ra làm bốn giai cấp:
1-Giai cấp Bà
La Môn giáo nay là Ấn giáo.
2-Giai cấp
Sát Đế Lợi.
3-Giai cấp Tỳ
Xá.
4-Giai cấp Thủ
Đà La.
Ngoài ra còn có hạng người không được xúc chạm gọi là
Chiên Đà La, hạng người
này không được học hành, không có các quyền lợi về văn hóa kinh tế, nhu cầu sống bị mọi người xa
lánh, coi thường, khinh rẻ, không gia đình không nhà cửa, không thân bằng quyến
thuộc, bệnh tật, thất nghiệp, bị xã hội ruồng bỏ, sống lang thang vất vưỡng thiếu
thốn khó khăn và đói rét.
Bà La Môn giáo
thuộc quyền giai cấp giáo sĩ chuyên
lo nghi lễ cúng tế cầu nguyện, hướng dẫn tu tập phạm hạnh, chuyên
làm văn hóa chế tác luật lệ. Giai cấp này họ thường
tự hào rằng, họ được sanh ra từ miệng đấng Phạm thiên. Miệng dùng để ăn uống nói năng giao thiệp, thuyết pháp hướng dẫn chỉ dạy cho
tất cả mọi người nên giai cấp này được ăn trên
ngồi trước, từ vua quan đến thứ dân đều phải tôn sùng và kính trọng.
Sát Đế Lợi là
giai cấp vua quan nắm quyền sinh sát trong tay, muốn giết ai thì giết còn gọi
là giai cấp chiến sĩ, võ tướng quý
tộc. Nắm quyền cai trị điều hành xã hội, coi đất nước giống như lãnh thổ riêng của mình. Giai cấp này họ tự
hào rằng được sanh ra từ hai vai của đấng Phạm thiên. Thân thể gồm có đầu mình
và tứ chi, đôi vai luôn gánh vác hết cơ thể. Họ cho rằng
mình là thiên tử tức con trời, được sai xuống đây để trị vì thiên hạ và thế là
họ muốn làm gì thì làm, không ai có quyền ngăn cản.
Tỳ Xá là giai cấp
thợ thuyền, buôn bán, làm ăn có nhiệm vụ
cung cấp nhu cầu cần thiết cho cả nước, về phương tiện sinh sống đảm bảo an sinh cho hai
giai cấp trên và họ tự hào được sinh ra từ bụng Phạm thiên, bụng là một chi phần
tiêu thụ và dung chứa thức ăn để nuôi cơ thể. Vì được sinh ra từ bụng cho nên họ
phải có nhiệm vụ, đáp ứng chu toàn đời sống no đủ cho mọi người giai cấp nắm
quyền.
Thủ Đà La là giai cấp nô lệ phục dịch vô điều kiện sống rất
cực khổ và bần cùng, họ được mệnh danh sinh ra từ hai bàn chân của đấng Phạm
thiên. Hai bàn chân trong con người phải chịu hết toàn thân, bao nhiêu nặng nhọc
hai bàn chân phải chấp nhận gồng gánh hết. Họ làm lụng vất vã nhọc nhằn nhưng cơm không đủ no áo không đủ mặc, lại bị đánh đập
một cách vô tội vạ. Ngày nay nếu ai có dịp đi Ấn Độ sẽ thấy rõ hơn những gì Phật nói cách nay mấy ngàn năm bây giờ vẫn tồn tại, thậm chí còn chia chẻ tỉ
mỉ hơn hệ thống phân biệt khi xưa. Các giai cấp này theo học thuyết cha truyền con nối,
không được chung đụng lẫn nhau. Người thuộc hai giai cấp dưới có nhiệm vụ phục
tùng hai giai cấp trên vô điều kiện, cho nên cuộc sống của họ lúc nào cũng nhọc nhằn, khổ sở, nghèo hèn, thiếu
thốn, khó khăn đủ thứ.
Đây là quan niệm khi xưa của thể chế phong kiến còn ảnh hưởng đến ngày nay, họ thống
trị con người như cách sống của loài
ong loài kiến, vì thế vua Ba Tư Nặc mới thắc mắc,
hỏi học thuyết này có đúng chăng và có còn phù
hợp với con người hay không? Nếu người giàu sẽ giàu mãi, người nghèo sẽ nghèo
hoài và tệ hại hơn súc sinh sẽ mãi là súc
sinh. Nói như thế có đúng
không? Thực tế trên đời này thường cho ta thấy, có người thuở nhỏ bần cùng
nghèo khó, nhưng khi lớn lên do siêng năng chăm chỉ tinh cần, tích cực làm việc, biết tiết
kiệm và đáp ứng đúng nhu cầu sống của xã hội, nên hiện tại trở thành giàu có.
Ngược lại có người đang giàu, nhưng do phung phí
trác táng ăn chơi, hoặc công việc làm ăn bị thua lỗ, cuối cùng tán gia bại sản
trở thành nghèo khổ, vậy giàu nghèo đâu nhất định thì làm gì có giai cấp cố định
như quan niệm khi xưa! Còn nếu bảo rằng tất cả đều do số mệnh
đã định sẵn thì quá bất công và vô lý, nên Phật dạy rằng:
Do sự sắp đặt của
đấng tối cao, nên con người giết hại, trộm cướp, tà dâm, giả dối, sân hận, phỉ
báng thô lỗ, khao khát, thèm thuồng, hiểm độc và hiểu biết sai lầm. Nếu lỡ làm
việc xấu thì đổ thừa số mệnh tôi là thế, nên không biết hổ thẹn sám hối làm lại
cuộc đời. Còn người nghèo dù có cố gắng làm việc thì vẫn nghèo vì số phận đã an
bài. Nghèo là do không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người
hoạn nạn, hoặc do nhân trộm cướp lường gạt của người khác, nên đời nay phải
nghèo khổ.
Đạo Phật không chấp nhận cái gì cũng đổ thừa cho số phận, nên cuối cùng cuộc
sống giống như bèo dạt mây trôi.
Trong khi đó mọi người có khả năng làm
được tất cả, nếu người đó có ý chí và quyết tâm cao, thì không gì không thể
làm được. Họ không biết rằng cuộc sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân
duyên, mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này, đều nương nhờ lẫn nhau không có một sự vật nào
tách rời nhau mà bảo tồn sự sống. Nó là một dòng chuyển biến, chuyển biến liên
tục trong từng phút giây. Con người từ khi mở mắt chào đời là đã chịu sự chi phối
của nghiệp nhân quá khứ, rồi dần dần lớn khôn huân tập những thói quen mới.
Nếu sống gần
gũi và học hỏi bắt chước người có nhân
cách đạo đức, luôn làm những điều thánh thiện giúp ích cho nhân loại, thì phẩm
chất của người đó trở nên tốt đẹp, cao quý có thể làm lợi ích cho nhiều người.
Trái lại nếu sống gần gũi người xấu ác,
bị nghiệp ác chi phối, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, phẩm chất và nhân cách người
này trở nên thấp kém luôn làm khổ mình, khổ người. Như thế, cuộc sống của chúng ta đâu có gì là
cố định, nó sẽ chuyển biến đổi thay tùy theo hành động của mỗi người nếu biết
tu thân, tu giới, tu tâm niệm rộng lớn.
Hiện tại thế
giới chiến tranh hỗn loạn, con người độc ác với nhau, bệnh tật nghèo đói, thiếu
thốn khó khăn, chết chóc hoạn
nạn, chẳng lẽ ông trời lại tạo ra như thế? Còn nếu
chúng ta chấp nhận cuộc sống không có nhân quả nghiệp báo, đành phó thác đời
mình cho số phận, chẳng cần phấn đấu vươn lên
làm lại cuộc đời. Trong khi đó, con người có khả năng suy xét nhận định phát minh tư duy sáng tạo làm được nhiều việc không thể
nghĩ bàn, làm gì có ai sắp đặt, nếu có thượng đế,
thì chỉ là thượng đế của chính mình, mình làm tốt được hưởng phước báo, làm ác
chịu quả khổ đau.
THAY ĐỔI VẬN MỆNH
Mẹ tôi mỗi khi
sinh con đều ghi lại rõ ràng ngày, giờ, tháng đẻ, năm sinh của từng đứa một và nhờ tướng số sủ quẻ
cho từng người. Tám anh em chúng tôi chỉ có hai người là quẻ tốt, tôi và thầy
Nhật Từ. Tôi thuộc hạng người thông minh và ma mãnh, nên từ bé đã bon chen vào
đời rất sớm. Trong quẻ nói, tôi sau này sẽ làm vua hoặc quan lớn trong hai chế
độ. Quẻ nói về thầy Nhật Từ rất chính xác việc học sẽ thành đạt như ý muốn, có học vị cao đổ bằng tiến sĩ có đất
đai quyền thế và là người nổi tiếng trên thế giới. Tuy nhiên vì thầy Nhật Từ để
lộ tài năng quá sớm, cho nên có
phần bị thất bại trong cuộc đời hoằng dương chánh pháp vì thế giới loài người.
Sư phụ của thầy viên tịch khi thầy mới hai
mươi ba tuổi và lúc đó thầy được kế thừa trụ
trì Chùa Giác Ngộ trong khi đó thầy tu sau rất nhiều vị sư huynh, vì vậy thầy bị nhiều người ganh ghét
và muốn hãm hại thầy. Thầy đã từng bị hai ông tu sĩ đánh vì ganh tị, tật đố và còn rất nhiều chuyện
khác nữa, nhưng đó là những chuyện nhỏ.
Cuộc đời của thầy vì quá nóng lòng muốn Phật giáo Việt Nam vươn lên ngang tầm với các Phật giáo nước bạn. Thầy
quá nhiệt tình trong việc cải cách đóng góp, xây dựng mở mang, giúp cho nhiều
người hiểu được lợi ích thiết thực, trong việc đưa giáo pháp nhà Phật vào chương trình giáo dục chính thức, để nhiều người cùng học
hỏi và ứng dụng. Vì quá nhiệt tình và nôn nóng nên thầy bị dính vào thế kẹt, tiến
cũng không được, mà thối cũng không xong. Vô tình rơi vào trạng thái bị nghi ngờ? Nên trong truyện
Kiều có hai câu thơ:
Anh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Người có tài khi còn quá trẻ, để cho nhiều người biết quá
sớm là điều rất nguy hiểm, nếu thiếu phước đức có thể mất mạng như chơi, bằng không cũng dính vào vòng tù tội. Để thấy rằng
người tài giỏi, mà để lộ cho mọi người biết quá sớm là một điều thất bại lớn
lao. Bởi vì con người hay có tâm niệm ích kỷ, nhỏ nhoi, ganh ghét, tật đố, nên
người có tài dễ gặp tai nạn trong đời phải chịu cảnh long đong, gặp nhiều trắc
trở trong cuộc sống.
Thông thường ai
cũng muốn cũng cố địa vị của mình sợ người khác tranh
giành, cho nên thấy kẻ khác tài hơn mình do đó họ
tìm mọi cách dèm pha, gây trở ngại cho đương sự không thể phát triển được tài năng. Đó là một sự thật quá đau lòng, tình đời là
như thế. Có người, nhiều tài năng nhưng chẳng làm gì được, bởi vì để lộ tài năng quá sớm nên ai cũng sợ, vì vậy họ tìm cách ém nhẹm không
cho phát triển sợ người hơn mình. Chúng ta cũng không nên bận lòng hay buồn bã gì chuyện đó,
vì nó là bệnh chung của đa số chúng sinh, những người này đáng thương hơn là đáng ghét, bởi họ quá ngu si và mê muội.
Người quá tài
năng thường ít được may mắn, vì có nhiều
người sợ, sợ cái gì? Sợ mất quyền lợi của họ. Các vị tổ sư ngày xưa thường biết ẩn nhẫn, chờ đợi thời cơ và khi các ngài đã tiến thì không
có gì cản trở được, vì nhân duyên đã chín mùi. Thay gì thầy để dành tài năng đó, trước mắt nên y chỉ sư một vị Hòa Thượng đạo cao đức trọng ở
Việt Nam để chuyên tu học hỏi một thời gian. Chắn chắn trong tương lai thầy sẽ giúp ích được nhiều cho nhân loại.
Bởi vì sư phụ của thầy là
một Hòa Thượng chuyên tu, bị khuyết tật nói ngọng, nói đớt, từ khi còn nhỏ.
Ngài chỉ một lòng miên mật hành trì pháp môn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm
mà sau này hết nói ngọng, nói nghiệu và thuyết pháp trôi chảy như mây, như mưa.
Thật sự thầy Nhật
Từ quá tài giỏi điều đó ai cũng công nhận, nếu
thầy khéo léo hơn một chút, ẩn nhẫn
chờ thời cố gắng tu tập một thời gian, thì thế gian này sẽ tỏa sáng không có gì
phải ngăn ngại. Những việc
làm của thầy vừa qua không phải là sai, chỉ là chưa đúng thời cơ và nhân duyên mà thôi. Có người nói tôi sao
không theo phụ giúp thầy Nhật Từ để làm rạng rỡ công danh sự nghiệp, mà về Thường
Chiếu chụm lò làm chi cho cực khổ. Bản thân tôi không dám so sánh với thầy Nhật
từ, vì tôi làm lại cuộc đời từ sự si mê sa đọa nên vấp ngã trầm trọng và tôi chỉ
là một kẻ bần sĩ thiếu học từ thuở
nhỏ, đến khi vào Thiền Viện tu học, tôi cũng chỉ lanh quanh, lẩn quẩn, trong việc lao
động chân tay mà thôi. Còn thầy Nhật Từ là một tiến sĩ Triết học, học thức uyên bác tài ba lỗi lạc,
thầy nỗi tiếng bao nhiêu, thì tôi bị chê bai bấy nhiêu. Tôi từ cõi chết trở về
nhờ Phật pháp cứu vớt làm lại cuộc đời, không có tài năng chi cả chỉ làm những
việc cỏn con, để được hai thời cơm cháo sống qua ngày. Thầy Nhật Từ vì tâm nguyện
lớn cứu độ chúng sinh, thầy đạo đức và tài giỏi bao nhiêu, thì tôi xấu xa và dỡ
bấy nhiêu.
Còn quẻ của tôi
trên thực tế khác xa một trời một vực, cùng một người bói kẻ đúng người sai là
sao? Đúng, tướng số sẽ đúng nếu người đó quyết tâm
đi theo hướng đã sắp sẵn như quẻ của thầy Nhật
Từ! Còn tôi trong quẻ đâu có nói tôi đi tu, chỉ nói sau này tôi làm vua quan lớn
trong hai chế độ. Quẻ bói khẳng định thay đổi chế độ, quả thật đều đó rất đúng.
Tôi là con người mưu mô, xảo huyệt và ỷ
lại khi biết quẻ của mình như vậy, nên mặc
tình rong chơi hưởng thụ và cuối
cùng bị sa đọa vấp ngã nặng nề. Có người nói tôi, có phước có phần không cần gì
lo. Nhưng thực ra cuộc đời
của tôi cũng có một phần đúng
chứ, nếu như tôi không ỷ lại vào tướng
số chắc tôi cũng có thể theo nghiệp
vua quan. Một bằng chứng thiết thực khi đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất,
trước đó tôi là một tên đầu trộm, đuôi cướp có danh sách chờ ngày lên đường cải
tạo. Tôi khôn ngoan nắm bắt được thời cơ, phát tâm tự
nguyện đi TNXP xây dựng các vùng kinh tế mới. Tôi đã thăng quan tiến chức một cách nhanh chóng, nhưng thói quen xấu nó không tha cho tôi, vì tôi quá
đam mê say đắm bốn món tứ đổ tường như cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm đụng
vô món nào tôi cũng bị chết mê, chết mệt hết.
Tôi có một thói
quen mê muội khó bỏ nhất là dại gái, khi đã vào cuộc rồi thì không còn biết đường
về. Tánh tình ương bướng, ngang ngạnh,
ngang tàng nóng nãi, trực tính ăn ngay nói thẳng, không biết khuất phục một ai
và chẳng biết sợ một thứ gì, nên dễ bị người ta thù hằn ghét bỏ. Bù lại những
khiếm khuyết đó, tôi có lòng tự tin khá vững vàng, khi muốn làm gì thì phải làm
cho bằng được và cũng sẵn sàng vứt
bỏ ngang hông nếu cảm thấy không được hài lòng. Đó cũng chính là những thói quen ngu si mê muội, đã làm
cho tôi bị thất bại, cay đắng trên đường đời. Nhưng tôi thầm cảm ơn nó, vì nhờ
vậy mà ngày nay tôi mới có cơ hội và nhân duyên gặp được Phật pháp.
Thầy Nhật Từ
thì siêng năng học hành từ nhỏ
và giữ vững lập trường kiên định có hướng đi rõ ràng, còn tôi thì ỷ lại và lao
theo thói quen mê muội để hưởng thụ, vì nghĩ số mình như vậy nên chẳng cần phải lo. Do đó mà tôi
phải trả một giá quá đắt trong cuộc đời. Nếu không gặp được Phật pháp thì tôi
bây giờ sẽ ra sao? Tuy nhiên trong nhà Phật có thuyết nghiệp báo, trong đó có định
nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp cũng ví
như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Trong kinh có một
câu chuyện giòng họ Thích Ca sau bị vua Lưu Ly tàn sát, mặc dù Phật biết trước nhưng vẫn không thể nào khuyên nhủ và ngăn cản được. Vua Lưu Ly là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc và con lớn là thái tử Kỳ Đà người đã cùng hợp tác với tỷ phú Cấp Cô
Độc cúng dường xây dựng Tịnh xá Kỳ Viên cho chư Tăng tu học và hành trì.
Nguyên nhân dẫn
đến sự tàn sát này, là do quan niệm phân biệt giai cấp quá lớn trong thời kỳ
đó, mẹ của vua Lưu Ly chỉ là một tỳ nữ
bị giòng họ Thích ca tráo, vì chê vua Ba Tư Nặc không xứng đáng cưới công chúa
chính thức thuộc giòng dõi tôn quý. Lúc vua Lưu Ly còn nhỏ khi về thăm quê ngoại, thấy pháp tòa sang trọng vua leo
lên ngồi chơi thoải mái, vô
tình bị mấy người trong giòng họ Thích mắng chửi xối xả. Mi là con của một tỳ nữ
hạ tiện không xứng đáng được ngồi tòa này, mau cút đi cho lẹ không thì các ông
cho ăn cây ạ! Thái tử lúc đó còn trẻ bị mạt sát
quá đáng, nên trong lòng dấy lên nỗi hận thù, căm phẫn. Đường đường
mình cũng là một hoàng thái
tử một đất nước chớ bộ, mấy người này dám coi thường mình quá. Hãy đợi đấy!
Chàng ta thề độc, nếu sau này ta được lên làm vua quyết trả mối thù thâm sâu
này.
Từ ngày đó trở
về sau, trong lòng thái tử chỉ có một niệm báo thù, nên trong giấc ngủ lúc nào
chàng cũng thấy mình làm
vua rồi tàn sát giòng họ Thích Ca xóa sạch trong bản đồ thời đó. Nhưng thực tế thì lại quá trớ trêu, vì còn anh
mình là thái tử Kỳ Đà mới được quyền
kế vị. Do tâm điên cuồng muốn rửa hận quá sớm, nhân một hôm vua cha đi chinh phạt
nước láng giềng, thái tử liền giết anh mình và hiên ngang lên làm vua. Vua cha
được tin báo khẫn cấp liền quay trở về, nhưng cửa thành bị đóng nên không vào được,
đêm đó vì tức giận quá mức nên máu tràn cổ họng chết liền tại chỗ.
Có binh quyền
trong tay, vua Lưu Ly bắt đầu chiêu tập
binh mã tiến thẳng về thành Ca Tỳ La Vệ quyết rửa mối thâm thù năm xưa. Phật biết
được nên ba lần khuyên nhủ ngăn cản, không nên
vì chuyện sai lầm của quá khứ mà làm tổn hại con người bây giờ, nhưng vua một bề nhất quyết trả thù nên định nghiệp đã
hình thành, Phật cũng đành bó tay
và cũng không cách nào cứu được giòng họ Thích ca. Ngài Mục Kiền Liên thần thông
đệ nhất, biết chuyện sẽ xảy ra nên đã tìm cách cứu nguy. Ngài dùng thần thông,
đưa cả giòng họ Thích lên trời để lánh nạn
bằng một cái bát thâu nhỏ, nhưng cũng không cứu được. Cuối cùng giòng họ Thích bị
tàn sát gần hết.
Qua câu chuyện
trên là một bằng chứng thiết thực để mỗi người chúng ta cùng học hỏi và suy gẫm,
khi định nghiệp đã hình thành Phật vẫn không cứu được giòng họ của mình. Tuy
nhiên nghiệp phát xuất từ thân, miệng, ý, của mỗi người nếu vua Lưu Ly không cố chấp, mà biết nghe lời khuyên nhủ của
đức Phật thì làm gì có việc giết hại quá đáng như thế? Cuối cùng vua Lưu Ly và đám tàn quân cũng bị chết cháy sau bẩy ngày, đúng là quả
báo nhãn tiền. Vua Lưu Ly do suy nghĩ quá nong cạn, bởi vì đó là chuyện quá khứ nếu là
người nhân từ đạo đức khi làm vua thì ích nước lợi dân, bằng ngược lại sẽ làm
cho dân chúng lầm than, khổ sở. Và nghiệp có thể chuyển khi người đó có lòng
bao dung độ lượng, biết cảm thông và tha thứ, thì không có chuyện gì xảy ra.
Như có một chú sa di nọ theo thầy học đạo khi còn nhỏ, ông thầy là người chứng
đạo biết trước vị đệ tử của mình chỉ còn bảy ngày nửa là bị quả báo chết yểu,
nên thầy thương tình cho về thăm nhà lần cuối, mà không cho biết lý do. Trên
đường trở về nhà chú đi ngang qua dòng suối, một nhánh cây bị gãy trong đó có ổ
kiến lớn, đang bị dòng nước cuốn trôi. Chú thương tình nhẩy xuống suối vớt đàn kiến lên, mà
quên cả thân mạng của mình. Sau khi cứu đàn kiến xong, chú cảm thấy trong lòng
mình rất nhẹ nhàng và thoải mái. Thời gian về thăm nhà đã hết bẩy ngày, chú tiếp tục trở về chùa
để làm tròn bổn phận của một chú sa di. Thầy chú quá đổi ngạc nhiên nghĩ thầm, xưa nay mình chưa coi ai trật bao giờ, sao lại có chuyện như thế được? Ông thầy mới hỏi lại chú đệ tử,
trong suốt bẩy ngày về thăm nhà,
con có làm điều gì phước đức không? Dạ bạch thầy không ạ. À, con nhớ
ra rồi, trên đường về nhà con thấy đàn kiến bị nước cuốn trôi, con thấy tội
nghiệp chúng quá chừng nên đã nhẩy xuống suối vớt đàn kiến lên và sau đó con tiếp
tục về thăm nhà. Nghe nói
vậy, vị thầy liền nhập định xem sự thể ra sao. Mới biết chú đệ tử vì quên mình
cứu đàn kiến, mà được chuyển nghiệp thay vì bị quả báu chết yểu, giờ thì mạng sống
của chú đã được thay đổi và sống đến tám mươi tuổi. Nhờ vậy chú luôn cố gắng siêng
năng tinh cần tu tập và phát nguyện rộng lớn để giúp người, cứu vật do đó được
thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát.
Câu chuyện vua
Lưu Ly đã trở thành định nghiệp, vì do sự cố chấp,
cố tâm báo thù, nên Phật không thể nào ngăn cản được, mặc dù có sự trợ duyên của thần
thông đệ nhất Mục Kiền Liên, vẫn không cứu được giòng họ Thích. Còn câu chuyện
của chú sa di do quên mình cứu vật chẳng tiếc thân mạng, chỉ một lòng quyết tâm
cứu đàn kiến thôi. Nhờ vậy mới chuyển được ác nghiệp xấu từ quá khứ. Như trên đã nói nghiệp hình thành từ thân, miệng, ý, của
chính mình do ba nghiệp xấu chiêu cảm nên khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự
hiện. Nếu ta một lòng thành tâm, luôn trải rộng tấm lòng từ bi cứu giúp chúng
sanh một cách chân thành, thì việc làm ấy sẽ cảm được tình thương rộng lớn, nên dễ dàng chuyển hóa và
thay đổi được ác nghiệp quá khứ. Không phải chỉ một đời này chú sa di có thể
làm được, nhưng mà nhiều đời chú cũng đã từng gieo trồng phước đức quá nhiều, cộng
với sự thành tâm trong hiện tại cho nên chú đã thay đổi được nghiệp quả chết yểu.
Vì nghiệp báo quá đa dạng và phức tạp, chúng tôi chỉ mượn hai câu chuyện trong
kinh để chứng minh tướng số và số mệnh có thể thay đổi được, nó sẽ không đúng hẳn,
khi người đó đủ can đảm và nghị lực để làm mới lại chính mình.
Nói về nghiệp
báo thì có hai loại: Định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp là khi làm việc
gì phải hội đủ ba yếu tố quyết định: Thân, miệng, ý và có cố tâm, cố ý thì nhất
định sẽ trả quả trong nay mai. Bất định nghiệp là làm bất cứ việc gì mà chỉ có
thân và miệng không có ý chủ động, nên bất định nghiệp có thể thay đổi được chớ
không nhất thiết phải trả quả hoàn toàn. Làm người thì ai cũng có nghiệp tốt hoặc xấu lẫn lộn, nhưng nghiệp có thể thay đổi và chuyển được, tùy
theo sự quyết tâm làm mới lại chính mình của người đó. Vua Lưu Ly mặc dù đã được Phật khuyên nhủ và ngăn cản nhiều lần, nhưng vì vua tự ái và bị tổn thương quá lớn nên một bề quyết chí hành sự, do đó
gây ra trận thảm sát tàn bạo giòng họ Thích. Chú sa di nhờ quên mình cứu đàn kiến,
nên đã thay đổi được nghiệp nhân chết yểu.
Trở lại vận mệnh
của tôi và thầy Nhật Từ. Quẻ của thầy Nhật Từ hoàn toàn chính xác không có gì để
bàn cãi, vì thầy đi theo đúng hướng, còn quẻ của tôi thì sẽ làm vua quan trong
hai chế độ, nhưng sự thật có phải
vậy không? Tôi bê tha dính mắc từ khi còn nhỏ, nghiện ngập đam mê si dại, ích kỷ
hiểm độc, trộm cướp lường gạt bằng mọi cách, để có tiền thỏa mãn cho riêng
mình. Tôi đã nhiều lần làm lại cuộc đời, nhưng cũng không đủ khả năng để vượt qua nỗi.
Đến khi gặp Phật pháp chúng tôi mới có đủ khả năng và niềm tin, để vượt qua cạm
bẩy cuộc đời. Nhưng cũng không phải dễ dàng như
những gì mà mình mong muốn. Hiện tại tuy đã là người xuất gia, nhưng chúng tôi vẫn còn bị sự cám dỗ của nghiệp tình
ái lôi cuốn quá mãnh liệt, tuy không bị rơi rớt nhưng thật ra cũng có một chút tổn thương khá nặng nề?
Bởi vì nghiệp
tình ái đã ăn sâu nhiều đời, nhiều
kiếp, cho nên khó ai lọt qua khỏi lưới này, ngoài trừ các vị Bồ tát hoặc chư Phật giáng thế. Vô số kiếp trong dòng đời
nghiệt ngã chúng ta đã từng luân hồi trong lục đạo, nên nghiệp si ái đã hằn sâu
vào trong tàng thức của mỗi người. Vì yêu thích thân mình muốn cho nó được hạnh
phúc, nên sanh tình cảm yêu thương người
khác phái tạo ta sự trói buộc và dính mắc lẫn thân và tâm. Từ nghiệp
ái đó nên con người có mặt trên trần gian này. Chúng tôi là hạng người quá ngu
si mê muội đa tình, đa cảm, người đời hay nói là có số đào hoa. Ái còn có nghĩa là yêu thích quyến luyến, là nguyên nhân dẫn đến hạnh
phúc hay khổ đau. Rõ ràng tướng số nói cũng đúng, vì làm
vua hay quan thì có nhiều thê thiếp, mà người có nhiều thê thiếp tức nặng nghiệp
si ái.
Bởi si ái chấp
ngã nên tôi dễ nóng giận, quen ăn to
nói lớn theo kiểu quan quyền, vua chúa và hưởng thụ quá mức. Tuy tôi hiện tại đã
thay hình đổi dạng rất nhiều, có thể chuyển được vô số nghiệp ác, nhưng nhiều đời tập khí sâu vẫn phải miên mật gột
rửa không một phút giây lơ là, như người rình kẻ trộm. Nếu lơ mơ, lờ mờ một
chút thì thói quen xấu vẫn có cơ hội sai sử và
chi phối như ngựa quen đường
cũ, do đó nhiều người ở thế gian đành bó tay xin chào thua là vậy đó. Muốn thay
đổi và chuyển hóa thói quen xấu nhiều đời, chúng ta phải có cái gì thay thế vào
chỗ trống đó bằng những việc làm thánh thiện. Đến khi nào trong tâm chúng ta
không còn bị pháp ác ràng buộc thật sự, lúc đó chúng ta bắt đầu xả những thiện
pháp, làm mà không thấy mình làm, tu không thấy mình tu, vẫn làm việc phục vụ
nhiều người mà không bị các pháp trói buộc. Và cuộc đời tôi? Sự thật quá phũ
phàng! Tôi không làm vua quan gì cả hoàn toàn đi ngược lại tướng số đã xủ quẻ.
Nếu ai cũng chấp trước và
bám víu vào số phận đã an bài, thì thế gian này không ai còn tâm trí đâu để mà
làm việc và dấn thân phục vụ xã hội, vô tình đưa con người ta vào chỗ thụ động, biếng nhác,
bi quan chán chường. Và thế gian này sẽ khô khan, cằn cỗi, vì con người sống
không có tình nghĩa với nhau. Quả thật là một tai hại quá lớn, nếu ai có những
suy nghĩ và hành động như vậy.
là hết, Nên đành chấp nhận chịu khổ đau, Nay gặp Tam bảo bừng tỏ sáng, Chuyển được mê lầm từ muôn kiếp. À! Tình nghĩa bây giờ có thiếu chi Tưởng đâu xa lắm ngay nơi mình. Xưa nay lầm nhắm bên
ngòai kiếm Giờ thì đã biết thật rõ ràng.
Như vậy tướng số sẽ
đúng với người chấp nhận số phận đã an bài, như trồng dưa được dưa. Ngược lại
người gan dạ, ý chí can đảm, khi đã tin sâu nhân quả rồi sẽ cố gắng vượt qua số
phận, nhưng không phải dễ dàng. Tướng
số của tôi hoàn toàn đi ngược lại dự đoán. Theo tướng số tôi năm nay nay 52 tuổi Canh Tý mạng Bích thượng thổ đất
trên vách tường, quan đâu chẳng thấy, vua lại cũng không, xuýt chút toi mạng vì ngu si mê muội. Tôi,
đâu. Sức nghiệp mạnh quá chừng. Nếu lơ là một chút. Nó liền quay trở lại. Do đó biết bao người. Đành bó tay chào thua. Hôm nay có cơ hội. Xin đôi lời tâm sự. Chư huynh đệ gần xa. Mong cùng nhau suy gẫm. Để vượt lên số phận. Chớ yếu đuối chào thua. Hãy dũng mãnh siêng năng. Vượt qua cạm bẩy cuộc đời.
Thông thường trong sách tướng số hay nói:
Có tâm tốt không tướng tốt, Tướng tốt theo tâm tốt sanh, Có tướng tốt không tâm tốt, Tướng tốt theo tâm xấu mất. Rõ ràng tướng số
cũng không cố định một chiều,
nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt, thì
quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt. Ngược lại, nếu người đó ỷ lại vào tướng số
rồi làm chuyện phi pháp bất chánh, như giết người chẳng
hạn thì dù có tướng tốt cũng trở thành tướng
xấu. Vì thế, thầy tướng số lúc nào cũng dùng
câu thòng, chớ ít bao giờ dám khẳng định. Như vậy tướng số chỉ đúng có một phần, còn
hiện tại thì phải do người đó quyết định chín phần.
HẠNG NGƯỜI TỪ
TỐI VÀO TỐI
Thế nào là tối?
Tối ở đây là đen tối, hắc ám, u mê, tối tăm, dụ cho những việc làm xấu ác như giết hại, trộm cướp, tham lam độc ác,
tàn bạo vô luân, nóng giận thô lỗ, tiêu diệt hủy hoại và không biết đúng sai.
Do nhân như thế nên hiện tại
sinh ra chỗ ty tiện, thấp kém làm người ở đợ, đồ tể, lưới bẫy, nô lệ, gánh phân
hạ tiện lại bị người sai làm các việc hạ tiện, thân thể xấu xí, nghèo hèn bệnh
tật, chết yểu đều gọi là tối.
Giết hại là cướp
đoạt lấy mạng sống của chúng sinh gồm người và vật, đối với chúng sinh mạng sống
quý hơn tất cả, ai ai cũng tham sống sợ chết, dù là con người hay các
loài vật. Nếu chúng ta biết yêu quý mạng sống của mình như thế nào, thì người và vật cũng yêu quý mạng sống như thế đó. Vậy tại sao ta nỡ tước đoạt đi mạng
sống của chúng sinh. Khi giết hại một mạng sống, chính bản thân nạn nhân bị giết
oán thù tăng lên chồng chất, oan
gia này chất chứa mãi, đến khi hội đủ nhân duyên sẽ báo thù trở lại, đó là luật
nhân quả vay trả tuần hòan. Chỉ vì ham muốn và thèm khát, mà chúng ta có thể giết
hại chúng sinh.
Thấy được thế
gian này luôn tương tàn, tương sát lẫn nhau lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu để
bảo tồn mạng sống cho riêng mình. Đức Phật với lòng từ bi vô hạn, nên ngài đã
hướng dẫn hàng đệ tử xuất gia không được giết hại dù trong tâm tưởng, huống hồ
là trực tiếp giết hại. Thời Phật còn tại thế, vì thương xót các loài vật. Đến mùa mưa là mùa sinh sôi nẫy nở của các sinh vật, thuở ấy các thầy
Tỳ kheo phải đi khất thực, nên Phật chế ra ba tháng an cư tu tập tại chỗ, để
không giẩm đạp lên các sinh vật. Hạng đệ tử tại gia Phật chế giới không được giết
người là chính, còn từ con vật lớn như trâu, bò, heo, cừu,
dê, gà, vịt, cho đến các con vật nhỏ hạn chế tối đa được chừng nào, tốt chừng
đó.
binh đao. Người người theo Phật tu nhân thiện Cùng nhau chung hưởng cảnh thái bình.
Nếu mọi người
ai cũng ý thức giữ giới không sát sanh hại vật, thì thế giới này sẽ không còn
chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, lũ lụt, dịch bệnh và không còn phải
lo sợ bị trả thù cho nên không bao giờ lo lắng và sợ hãi. Đã không giết hại lại
hay còn tu nhân thiện nữa, nên mọi người sẽ sống trong bình an và hạnh phúc.
Trong các tội giết
hại, giết người là tội nặng nhất và là tội ác lớn nhất, nên giết người đa số phải
đền mạng chịu tử hình. Đó là
hình phạt cao nhất trong các hình phạt. Thế nên hành vi tước đoạt
mạng sống con người, là tội ác cực kỳ nguy hiểm. Theo sự công bằng của xã hội một
kẻ giết người, chắc chắn sẽ bị quả báo bị giết trở lại. Đôi khi luật pháp chỉ phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc chung thân là cùng, nhưng luật nghiệp báo không dễ dàng tha thứ,
vì sao? Chúng ta ai cũng coi sinh mạng mình là đáng tôn trọng tuyệt đối,
nếu có ai âm mưu muốn hại là mình
chống trả quyết liệt để bảo tồn mạng sống. Giết chết một mạng người tội ác rất
lớn, là nhân gây thù chuốc oán đời này đời sau. Nếu người bị giết lúc đó khởi
niệm oán hận muốn trả thù, thì đời sau họ sẽ trở thành thủ phạm khi hội đủ nhân
duyên.
Trên thực tế đã
cho chúng ta thấy rõ điều này, có người khi mới gặp ta cảm thấy mến thương, có người vừa gặp ta cảm thấy oán ghét
khó chịu. Bởi vì do niệm căm thù
trả thù ăn sâu vào tàng thức của họ, khi
gặp lại họ liền nhớ. Vì vậy là người con Phật chúng ta phải cẩn thận từng lời
nói hành động ý nghĩ của mình để
không xảy ra những lỗi lầm đáng tiếc, nó sẽ biến thành hành động trong nay mai
khi đã hội đủ nhân duyên.
Trường hợp nếu
chúng ta giết hại quá nhiều, quả báo sẽ dành cho ta vô số kiếp bị giết hại trở
lại, bị đọa vào chỗ khốn cùng để trả quả xấu, nếu được làm người thì bị quả báo
chết yểu, bệnh tật, thân thể xấu xí, nghèo hèn. Tuy nhiên không phải giết người
là tội như nhau, nếu người cố tình giết người để cướp của thì tội nặng hơn, vì đây là tội cố tình đã tính toán
trước. Hoặc là do oán thù muốn giết người cho hả giận, ngược lại chỉ cướp của
khi bị người phát giác ra, sợ quá giết người để phi tang, tội này nhẹ hơn. Như trường hợp của Tào Tháo với quan niệm
thà giết lầm hơn bỏ sót dù đó là
người ơn, tội này rất nặng
nề vì đã có tâm cố sát.
Một hôm Tào
Tháo bị thất trận trên đường tị nạn, mới nhớ mình có người bạn thân nên ghé lại
nhà tá túc, bạn bè lâu ngày không gặp gia đình mừng quá đón tiếp thân mật, người
chồng bèn đi mua rượu và sai gia nhân ở nhà chuẩn bị giết heo để đãi Tào Tháo.
Nghe tiếng mài dao sột sạt phía sau nhà Tào Tháo sanh nghi, nghĩ rằng bạn mình đi báo quan và người nhà
chuẩn bị vũ khí để chuẩn bị giết
mình. Nghiệp chinh chiến lúc nào cũng làm
cho người ta lo sợ nghi ngờ, vì ai cũng ham sống sợ chết, Tào Tháo trong cơn sợ
hãi bị thua trận và thoát chết. Nên đi tới đâu cũng bị sự ám ảnh ai cũng là kẻ
thù, từ đó Tào Tháo với quan niệm thà phụ người, chớ không để người phụ ta, thà
giết lầm hơn bỏ sót, do đó giết sạch hết người trong nhà.
Còn người bạn
đâu hay biết gì, đang hý hửng hân hoan trên đường mua rượu trở về nhà, để đãi
người bạn thân lâu ngày mới gặp lại. Nào ngờ đâu tai họa đã giáng xuống cho cả
gia đình. Vì sợ bị tố cáo nên Tào Tháo giết luôn người bạn để bịch đầu mối. Con
người ta vì tham sống sợ chết và không có tu tập nên nhận định hiểu biết sai lầm,
từ đó si mê chấp ngã giết hại lẫn nhau, vì vậy các vua thời phong kiến khi giết
một người nào đó do phản bội, vì sợ bị trả thù cho nên ra lệnh giết sạch ba họ.
Tình đời là thế
đó, cứu vật vật trả ơn, giúp người người trả óan. Gia
đình người bạn đang sống êm đềm hạnh phúc, chỉ vì một chút nhân duyên bè bạn mà
cả gia đình đồng chịu nạn bị thảm sát. Thời chiến tranh lọan lạc con người càng
thêm độc ác hơn, vì ai cũng tham sống sợ chết. Bởi đã gieo nghiệp ân óan
thù hằn giết hại lẫn nhau, dễ dẫn đến nghi ngờ sợ sệt nên Tào Tháo thà phụ người
chứ không để người phụ. Để thấy rằng con người lúc nào cũng ham sống sợ chết, vì muốn bảo vệ tính mạng
của mình mà ta sẵn sàng giết hết tất cả, chỉ vì sợ báo thù.
Ngày xưa chiến tranh xảy ra chưa có vũ khí hiện đại nên sự giết hại cũng hạn chế, con người do lòng tham mê chấp
ngã nghĩ mình là trung tâm của vũ trụ, cho nên muốn làm bá chủ thiên hạ.
Do đó bất chấp mọi hiểm nguy ỷ tài cậy sức, tung hòang ngang dọc, thu phục
thiên hạ, theo thì sống không theo thì chết. Sau này Tào Tháo nắm được quyền
hành rồi, những người không theo đều giết sạch, còn ai nghi ngờ cũng giết luôn nên có câu thà giết lầm hơn bỏ sót là vậy đó. Do si mê chấp ngã và
lợi dụng mình là thiên tử tức con trời, được thừa hành đấng tối cao trị vì
thiên hạ. Do đó thời phong kiến ai làm vua thì có nhiều cung phi mỹ nữ, có người
hầu kẻ hạ, muốn ăn món ngon vật lạ bắt buộc
mọi người lên rừng thiêng nước độc, lặn xuống biển sâu để tìm các thức ăn cao lương mỹ vị.
Ngày nay trên
đà phát triển của văn minh loài người, con người
càng ngày càng nhiều tiêm nhiễm thói quen tật xấu, hưởng thụ trác táng ăn chơi nên mặc tình gây tạo tội lỗi. Tệ nạn
xã hội càng ngày càng gia tăng một cách khủng
hoảng, tiêm nhiễm do nền giáo dục qua sách báo phim ảnh đồi trị một cách công
khai dẫn đến tha hóa lòng người. Nhiều vụ giết người dã man chỉ để lấy vài trăm ngàn tiêu xài, như có một trường hợp bé gái mới mười bốn tuổi vì
không có tiền chơi geam, nên đành đoạn
nhẫn tâm giết một em bé hai tuổi để lấy đôi bông tai bán hai trăm chín chục ngàn đồng. Vô số trường hợp giết
người một cách tàn nhẫn chỉ vì một chút lợi nhỏ, đạo đức nhân cách phẩm chất
con người thời nay xuống cấp quá mức đã đến hồi báo động, cần phải có biện pháp
và cách thức để ngăn ngừa giết hại.
Các nhà lãnh đạo,
nhà giáo dục, nhà tâm linh, cần ngồi lại để tìm ra giải pháp cách thức, làm sao
giúp cho con người nhận thức sáng suốt về những nỗi khổ niềm đau từ sự giết hại.
Theo quan niệm thần quyền trời sinh ra vạn vật để phục vụ thần linh và con người.
Ai theo truyền thống này sẽ cám ơn thượng đế vì đã
ban ơn cho họ, nên ngày xưa họ cúng thần linh rất nhiều loài vật, mỗi
lần như thế hàng trăm con vật. Luật pháp thế gian giết người phải
đền mạng có luật lệ rõ ràng, loài vật kém phước hơn loài người nên không có luật pháp hạn chế,
nhưng không nên vì thế mà chúng ta
cố tình giết hại.
Bởi quan niệm
trời sanh ra vạn vật, con vật dùng để cúng tế thần linh và phục vụ cho con người.
Nên có học thuyết vật dưỡng nhơn, từ chỗ thấy
bản ngã của mình là trên hết nên chấp trước bám víu lợi dụng lòng tin con người
thiếu hiểu biết. Theo quan niệm nhà Phật không có một nguyên nhân tạo ra tất cả,
mọi thứ đều do nhiều nguyên nhân kết hợp lại mà thành, cái này có thì cái kia
có, cái này không thì cái kia không. Và mọi thứ đều diễn biến theo tiến trình của
nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.
Trong nhà Phật
nói phạm tội ngũ nghịch như làm thân Phật chảy máu, giết A la hán, phá hòa hợp
tăng, giết cha, giết mẹ là trọng tội. Là năm tội nặng nhất trong các tội giết người.
Ai phạm vào năm trường hợp này
phải bị trả quả khổ báo cùng cực vô số kiếp trong địa ngục vô gián (chịu khổ
liên tục ) và quả báo dành cho hắn bị giết lại thường xuyên ở nhiều kiếp về
sau. Hắn sẽ bị đánh đập hành hạ đày đọa cực kỳ đau khổ, vì sự ra đi của những
người này đã từng đem nhiều lợi ích lớn lao cho nhân loại, là sự mất mát to lớn
của thế giới. Chúng ta nên nhớ rằng cha mẹ làm nên thân, dưỡng nuôi lo vật chất,
thầy tổ giúp tinh thần, an vui trong tỉnh giác.Vì thế, cha mẹ và thầy tổ ơn sâu khó đáp đền.
Ơn thầy tổ và cha mẹ cao cả như thế, chúng ta nở lòng nào mà nhẫn tâm giết
hại, vậy mà thế gian này vẫn thường xuyên xảy ra chuyện đó. Thật sự đau lòng hết
sức, nhân tình thế thái mất hết lương tri, phạm vào tội
này quả thật khó bề cứu chửa. Người ơn của mình mà còn
như vậy huống hồ là người dưng nước lã, tội này khó bề sám hối, tên sát
nhân phải trả quả cực kỳ đau khổ khi làm súc sinh bị đánh đập giết hại trở lại,
nếu được làm người thân thể xấu xí, bệnh hoạn, tật nguyền, chết yểu. Giết một
vĩ nhân thánh thiện để lại nỗi
niềm tiếc nuối đau thương, vì thế giới phải mất
đi một chỗ nương tựa vững chắc,
với những phút giây bình an nhất từ người đó.
Vua A Xà Thế vì
ham uy quyền thế lực, nên đã nhẫn tâm cướp đoạt ngôi vua và hành hạ cha mình
trong ngục tối cho đến chết. Sau nhờ Phật tế độ, vua nhận ra sai lầm của mình từ
đó ăn năn sám hối với lòng thành khẩn, thiết tha. Vua
từ đó phát tâm quy y Tam Bảo, phát nguyện hộ trì chánh pháp và hướng dẫn dân
chúng an cư lạc nghiệp trên
tinh thần vì lợi ích mọi người. Nhờ vậy đất nước của ngài luôn sống trong tình
đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Sau khi Phật niết bàn ngài là người đứng ra phân chia xá lợi và cũng là người đầu tiên đứng ra hổ trợ cuộc kết tập
kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ Xà Quật do tôn giả Ca Diếp chủ trì.
Luận về nhân
quả của vua A xà thế, nhờ công đức sám hối cải tà quy chánh biết phục thiện nên
hiện đời làm được vô số việc phước thiện lớn lao và còn hướng dẫn cho dân chúng
biết làm lành lánh dữ, tu nhân tích đức. Tội giết cha để chiếm đọat ngôi vua
đáng lẽ phải tội chết thê thảm, nhưng do biết ăn năn hối hận, cải tà quy chánh làm nhiều việc
lợi ích lớn lao nên đã chuyển hóa được nghiệp tội giết hại. Người có uy quyền
thế lực do nhiều đời tích lũy phước báo nên đời
này mới được làm vua. Làm vua thì nắm quyền sanh sát trong tay, nếu là vị vua
nhân từ đức độ thì sẽ giúp cho dân chúng, cơm no áo ấm, dân giàu nước mạnh. Ngược lại, sẽ
làm cho người dân khốn khổ, khó khăn thiếu thốn, đời sống
bần hàn, cơ cực, luôn sống
trong lo âu sợ hãi và bất an.
Lịch sử lòai
người từ khi mới khai thiên lập địa cho đến nay, không biết bao là cuộc tàn sát
giết hại lẫn nhau chỉ vì muốn làm bá chủ thiên hạ. Do nghiệp giết hại chiêu cảm,
nên thế giới lúc nào cũng xảy ra chiến
tranh, binh đao giết hại tàn sát lẫn nhau, bởi nhân quả tương tàn, tương sát. Phật đã nhìn thấy rõ điều này nên cấm
người xuất gia không được giết hại, còn người cư sĩ tại gia hạn chế được bao nhiêu tốt bấy
nhiêu.
Trong kinh nói:
Ai ai cũng sợ gươm đao Ai ai cũng quý mạng sống Lấy lòngmình suy lòng người Chớ giết
,chớ xúi người giết.
Đối với chúng
sinh mạng sống quý hơn tất cả, nếu
chúng ta biết yêu quý mạng sống mình như thế nào, thì người và vật cũng yêu quý mạng sống như thế đó. Vậy tại sao ta nở tước đọat đi mạng
sống của chúng sinh? Ngày xưa con
người hay mang danh một đấng quyền năng nào
đó để thu phục thiên hạ, ai theo thì sống không theo thì chết, vì vậy sự giết hại
quá nhiều làm cho lòng người càng thêm óan hận, cứ thế đời này kiếp nọ vay trả,
trả vay không có ngày cùng. Đó là những sự giết hại
cùng một lúc quá nhiều người, vì vậy mà thế giới lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, thiên tai, sóng thần,
động đất, lũ lụt và các loại dịch bệnh.
Giết một người
biết tu nhân tích đức, luôn hướng dẫn cho nhiều người tu hành, đã từng đem lại
lợi ích lớn lao cho nhân lọai thì tội này càng nặng hơn. Tên bạo ác phải chịu khổ báo cực kỳ đau khổ,
vô số kiếp bị giết hại trở lại và kèm theo quả báo bị si mê đần độn, nghiệp tội
này không biết bao giờ mới trả cho hết được. Và người này sẽ chịu khổ liên tục
bất cứ ở hình dạng nào, nếu làm thú thì bị đánh đập và bị giết hại thường
xuyên, khi làm người thì bần tiện khốn cùng, nghèo khổ đói rách, cô đơn thiếu thốn, mọi người không thích gần gũi, khinh chê xa lánh hoặc bị giết hại vô cớ.
Nếu người bị giết
có công trạng lớn lao đối với đất nước quốc gia, thế giới đã từng đem lại nhiều
lợi ích cho nhân lọai, thì sự giết hại một người như thế tội rất nặng. Hiện đời tên sát nhân
chịu quả báo mạng đền mạng và vô số kiếp bị đọa vào chỗ khốn cùng, nếu được làm
người sẽ bị trù dập hảm hại, bị khủng bố, thân phận thấp hèn và chịu nhiều quả
báo bệnh tật, chết yểu. Khi giết một người tức cướp đọat đi sự nghiệp của người
đó đang gầy dựng, quả báo sẽ dành cho hắn nhiều đời về sau sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khổ, lang thang, ngu dốt, đói khát.
Trường hợp đặc
biệt hơn, trong một tiền kiếp đức
bồ tát cùng đi chung một chiếc thuyền buôn gồm có năm trăm người, bị bọn cướp
chặn lại định giết hết để cướp của. Bồ tát liền ra tay giết hết bọn cướp, vậy
trong trường hợp này tội phước ra sao! Có phạm vào giới sát hay không? Dĩ nhiên là có tội đối với bọn cướp, nhưng giúp cho 500 thương buôn được sống phước rất lớn. Vừa trừ được
tai họa giết người cướp của, giúp cho mọi người sống an ổn không phải lo sợ nạn
cướp bóc, giựt dọc. Tuy phạm mà không phạm, đây là giới bồ tát vì cứu nhiều người
lương thiện và diệt trừ tệ nạn phi pháp. Cứu sống
được 500 người thương buôn, thì đảm bảo đời sống
an sinh cho được nhiều người, tuy có tội với tên cướp nhưng không đáng kể. Do đó tội phước cũng không cố định, tùy theo nguyên nhân mà kết
thành tội hay phước.
Nếu giết một
người là lao động chính trong gia đình phải nuôi cả nhà, làm cho gia đình bơ vơ, côi cút, thiếu thốn khó khăn, nghèo khổ không còn khả năng sinh sống. Ngòai việc chịu quả báo hiện đời
bị tử hình hoặc chung thân hắn ta còn chịu thêm nhiều đời sinh ra bị bỏ rơi, nghèo khó không nơi nương tựa. Khi giết một người, để lại sự mất
mát đau khổ của nhiều người thân gây ra óan hận càng thêm chồng chất, kẻ giết
người sẽ khổ não thất vọng, thất bại trong nhiều kiếp về sau.
Tuy nhiên không
phải giết người là tội bằng nhau, tùy theo mức độ giá trị của người bị giết mà
hắn ta sẽ trả giá nhiều hay ít. Rồi trường hợp giết người do bảo vệ biên cương bờ cõi để mọi người được sống bình yên
an ổn, do ngọai bang xâm lăng, tội này nhẹ
không đáng kể, vì đã có công gìn giữ đất nước. Vậy thì tội hay phước tùy theo
giá trị của người bị giết chứ không cố định một chiều. Còn người đang thi hành
nhiệm vụ để bài trừ tệ nạn xã hội, tình cờ bắn chết một tên trùm ma túy nguy hiểm
đã gây mầm đầu độc con người, làm tổn hại nhiều cho nhân lọai. Đất nước, giảm
được thiệt hại nặng nề về con người lẫn vật chất, giết tên tội phạm này vừa được
khen thưởng, xứng đáng góp phần vào công cuộc cải thiện ngày càng văn minh tiến bộ cho con người, không bị những thứ
độc hại quyến rũ và xâm phạm.
Bởi giết hại là
do sự chấp ngã mà ra, nên có một số người lợi dụng quyền thế đặt ra học thuyết
vật dưỡng nhơn, trời sinh ra vạn
vật để phục vụ cho con người và thượng đế. Ai theo truyền thống này sẽ cảm ơn thượng đế, vì đã ban cho họ được lộc ăn. Ở đây nhân giết hại, quả ăn thịt chúng sanh. Vậy thực sự lòai thú,
có chấp nhận đem mạng sống nuôi mạng người hay không? Một sự thực không thể chối
cãi được, thế gian này tương tàn
tương sát lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ,
lòai vật lớn dùng sức mạnh, bắt các con vật nhỏ để mà ăn. Con người thì khôn hơn, lợi dụng đấng quyền năng nào đó để phục vụ cho riêng mình. Ngày xưa với quan niệm cúng tế thần linh, khi đến
ngày lễ người ta phải giết hàng trăm sinh
vật để làm lễ tế thần, rồi sau đó con người mới được ăn.
Sau này Phật ra
đời, mới chỉ ra quả báo của sự giết hại, nên dần dần tập tục này mới được thay
đổi. Nếu ai cũng nghĩ rằng thượng đế sanh ra vạn vật để phục
vụ cho con người thì thật là quá bất công và tội lỗi. Khi giết con vật như trâu, bò, heo, dê, chúng vẫn giẫy giụa kêu
la thảm thiết, thậm chí có con khi biết sắp sữa bị giết, chúng rơi nước mắt trong thật là tội nghiệp. Thật
ra đâu có con vật nào tự hiến mình nạp mạng, vì chúng yếu thế hơn nên đành chấp
nhận như vậy mà thôi.
Nhớ lại những
năm 78, 79 chúng tôi ở những nơi rừng sâu, nước độc, để làm công tác xây
dựng vùng kinh tế mới, nhiều người dân tộc thường làm bẫy để bắt các thú lớn.
Nhất là lòai heo lẻ bầy chúng rất dữ, mỗi khi bị mắc bẫy treo giò, chúng sẵn
sàng cắn đứt một chân, rồi ở lại rình chủ nhân đến để trả thù. Đây là kinh nghiệm của những người làm nghề bẫy thú lớn
kể lại, như vậy đủ chứng tỏ
rằng lòai thú đâu có hoan hỷ khi bị giết hại.
Bằng ngược lại
lòai vật nói rằng, người dưỡng vật chúng ta có chịu hay không? Nếu không, tại
sao chúng ta bắt vật dưỡng nhơn, bằng chứng là
con muỗi con rệp chích chúng ta lấy chút máu để sống, vậy mà ta còn không chịu,
vẫn sẵn sàng đập chết không thương tiếc. Lòai vật
dù mạng sống nhỏ nhoi nhưng
chúng vẫn ham sống sợ chết, vì không chống cự lại nỗi nên bị
lòai người ăn thịt. Thật ra
lòai người quá bất công, vì ham muốn và thèm khát, để bồi bổ cho thân mình, rồi
đổ thừa cho vật dưỡng nhơn.
Tuy nhiên, giết
sinh vật để cung cấp thực phẩm cho con người cũng là một tội, nhưng tội này tùy theo giá trị của sự giết hại
mà tội và phước sẽ có phần cụ thể. Phước ở đây là cung cấp thực phẩm để phục vụ
cho con người. Do đó chúng ta phân ra làm ba vế, người nuôi, người giết và người
ăn. Có người đổ thừa tại có người ăn, nên mới có người nuôi và người giết. Vâng
đúng là như thế, vấn đề này
Phật đã thấy rõ ràng, thế gian là một chuỗi dài nhân duyên, là một cái vòng lẩn
quẩn, tương tàn tương sát lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu,
để bảo tồn mạng sống. Bởi thế, vì lòng từ bi vô hạn nên Phật đã chế ra giới
không được giết hại đối với người xuất gia, không trực tiếp giết, xúi bảo người
giết, không hoan hỷ khi thấy người khác giết, dù trong tâm tưởng.
Người Phật tử tại
gia, trước tiên là không được giết người và hạn chế tối đa từ con vật lớn cho đến
các con vật nhỏ, vì bất đắc dĩ lắm chúng ta mới
giết vật để nuôi thân này. Nên Phật nói có thân là có khổ, vì muốn bảo tồn sự sống
mà chúng ta đành lòng giết vật. Người Phật tử vì hòan cảnh sống, nên phải nuôi
súc vật bán để lấy tiền nuôi thân, nhất là những người ở vùng quê xa xôi hẽo
lánh, chỉ nuôi bán không trực tiếp giết hại tuy vẫn có tội, nhưng nhẹ hơn người trực tiếp giết hại. Tội ở đây là
khi giết hại mạng sống của con vật, chúng đau đớn giẫy giụa khi bị cắt cổ, mỗ bụng.
Vậy người con Phật phải biết khôn ngoan sáng suốt chọn lựa nghề nghiệp chân
chánh, để ít làm tổn hại các lòai vật và ở đây ai khôn thì nhờ, ai dại thì chịu,
vì đó là qui luật sống để sinh tồn của thế gian không còn con đường nào khác.
Trường hợp bất
đắc dĩ, vì sinh ra ở vùng sông biển
nên phải làm nghề lưới đánh bắt các lòai thủy sản, chúng ta không nên đánh bắt
các lòai còn quá nhỏ, vì luật pháp vẫn cấm đoán có hình phạt rõ ràng nếu ai vi
phạm. Nhưng luật nhân quả
sẽ không dễ dàng tha thứ khi hội đủ nhân duyên, vì quá tàn ác và nhẫn tâm. Và
chính yếu Phật chế giới cho người tại gia là không được giết người, còn các
lòai vật từ lớn đến nhỏ hạn chế tối đa được bao nhiêu hay bấy nhiêu, cho đến
khi nào đủ điều kiện thì chúng ta giữ giới hòan tòan không giết hại.
Có nhiều người
tuy hiểu biết Phật pháp tin nhân quả, nhưng
không dám quy y Tam Bảo vì sợ tội nhiều hơn khi lỡ lầm phạm giới. Xin thưa với quý vị, đã phạm tội thì ai cũng bị xử lý như nhau, nhưng người con Phật khi phạm tội nhớ lại mình
là phật tử, nên cố gắng sám hối ăn năn ráng chừa bỏ, từ từ tội diệt phước tăng. Còn người không quy y Tam bảo khi làm
tội không biết sám hối chừa bỏ và không có chỗ nương tựa, do đó tội chồng tội
vô tình rơi vào hố sâu tội lỗi.
Phật chế giới không giết hại vì lòng từ bi vô hạn đối với muôn lòai, để chúng
ta thấy rõ được sự tác hại của nó, mà cố gắng tìm cách vượt qua. Vì thế, là người
Phật tử chúng ta phải biết khôn ngoan
sáng suốt chọn lựa nghề nghiệp chân chánh để sinh sống, làm sao không làm tổn hại
đến muôn loài muôn vật.
Trong cuộc sống
khó tránh khỏi việc giết hại bất đắc dĩ, như làm ruộng trồng hoa màu để cung cấp và phục
vụ cho con người phải sịt thuốc trừ sâu, làm vệ sinh phải hại đến các lòai
trùng kiến, vậy người con Phật phải làm thế nào trong trường hợp này? Muôn lòai
trên thế gian này vốn tồn tại trong nhịp cầu nhân quả tương quan mang tính cách tương đối, nếu con người biết điều hòa phù hợp
thì sẽ hạn chế tối đa sự giết hại. Ruồi, muỗi, chuột, gián, là những lòai có thể
lây lan bệnh tật cho con người, vì muốn bảo vệ sức khỏe chúng ta có thể tiêu diệt
chúng một cách không thương xót. Thật ra, nếu
chúng ta sống vệ sinh ngăn nắp luôn thường
xuyên dọn dẹp sạch sẽ, thì sẽ hạn chế việc giết hại các lòai vật.
Trong kinh Phật
có một vị tỳ kheo do giữ giới trong sạch, nên không dám dọn dẹp làm vệ sinh sạch
sẽ chung quanh nhà, vì sợ làm chết các loài côn trùng. Phật biết được nên chỉ dạy:
Ông chỉ dọn dẹp sạch sẽ, đừng khởi tâm sát hại là được, không sao! Nơi nào không làm vệ sinh, dọn dẹp sạch sẽ, là cơ hội phát sinh các lòai sinh vật có hại.
Vậy trong nhà có nhiều kiến thì phải làm sao? Kiến là loài vật sống bám theo
con người do cộng nghiệp chiêu cảm, chúng sống nhờ những thức ăn dư thừa. Muốn cho chúng không sinh sôi nẩy
nở hoạt động tràn lan trong nhà, thì chúng ta mỗi ngày phải biết bố thí cho
chúng và cố gắng sắp xếp một chỗ thật xa nhà nhất, để chúng có thức ăn sinh sống, bảo đảm chúng sẽ không làm phiền
chúng ta. Việc làm này chúng tôi đã từng thí nghiệm và có kết quả như ý muốn. Giết hại là một thói quen xấu có
tính cách hại người, hại vật, làm cho nhân lọai khổ đau, chúng sinh bất ổn là
nhân tối tăm, u mê, mờ mịt.
Loài vật khi bị giết hại, oán hận ăn sâu
vào tàng thức trở thành oan gia trái chủ, khi hội đủ nhân duyên sẽ trả thù trở
lại.
Tóm lại hạng
người từ tối vào tối là hạng người kém phước đức do đời trước làm nhiều việc xấu
ác như giết hại trộm cướp, tham gian, tà dâm vô
luân, tàn ác hung bạo. Nên đời này sinh ra chỗ ty tiện thấp kém, tà kiến sâu nặng,
không tin nhân quả, ba nghiệp thân, miệng, ý, tiếp tục gieo tạo tội lỗi. Do chủng
tử thói quen xấu nhiều đời quá sâu dày, nên không có hiểu biết phân định đúng
sai nên đành chấp nhận số phận đã an bài, suốt đời sống trong đau khổ lầm mê.
QUẢ BÁO CỦA SỰ
GIẾT HẠI
1_Đọa ba
đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
2_Bị bệnh
tật chết yểu, khi được làm người trở lại.
3_Tâm ác
độc giận dữ, tàn bạo hung ác, nhiều đời khó dứt.
4_Tâm
luôn lo lắng, sợ hãi, bất an, vì sợ bị trả thù.
5_Người
và vật thường xa lánh, không dám gần gũi.
6_Ngủ mơ nhiều ác mộng.
7_Tất cả
chúng sinh đều óan hận chờ cơ hội trả thù.
8_Khi gần
chết điên cuồng sợ hãi.
Người Phật tử
chân chánh phải nên dứt khóat xa lìa nghiệp giết hại, nếu không sẽ bị đọa lạc
vào chỗ khốn cùng và chịu quả báo cực kỳ đau khổ vô số kiếp. Hiện tại mạng đền
mạng, hoặc chịu khổ trong ngục tù tối tăm, trước mắt chẳng
nói đâu xa đó là địa ngục trần gian. Chỉ có người phạm tội và người quản lý mới
biết mà thôi hoặc chúng ta được nghe kể lại, ai vào chỗ này mới thấy sự khổ ải
của nó. Đó là địa ngục trần
gian nếu ta biết nhìn bằng trí tuệ thì sẽ thấy vô số địa ngục hiện tiền, ngay
nơi trước mắt chúng ta. Cụ thể là các lò mổ
súc sinh, tại các chợ cá thịt cảnh giết chóc xảy ra trong từng phút giây, nếu
chúng ta biết xem xét sẽ thấy rõ ràng chẳng ở đâu xa. Nói chi bên cạnh chúng ta
còn cả một thế giới vô hình, các loài quỷ đói chúng khổ ải đói khát vật vờ cả
ngàn năm do nghiệp xấu chiêu cảm.
Do đó Phật dạy,
vì lòng từ bi nên trước khi dùng cơm chúng
ta phải khởi tâm bố thí thức ăn, thì
các loài quỷ đói mới thọ nhận được. Quả thật cuộc sống của thế
gian này, rất khó tránh khỏi những điều lầm lỗi đáng tiếc chỉ ít hay nhiều mà
thôi. Người con Phật phải biết khôn ngoan lựa chọn nghề nghiệp và việc làm ít tổn
hại cho các loài vật, khả dĩ cũng có tội nhưng nhẹ có thể sám hối được, chỉ bệnh đau
chút ít không sao. Nếu chúng ta biết xa lìa nghiệp giết hại, thì được mười điều
lợi ích như sau:
_ Đời đời kiếp
xa lìa sự bất an sợ hãi, không bị sự hăm dọa hay khủng bố.
_ Tâm từ bi
phát sinh, luôn sống trong an vui và hạnh phúc.
_Các thói quen
nóng giận, phiền muộn, bực tức, hờn mác, không chi phối được chúng ta.
_ Thân thể ít
bệnh tật hiểm nghèo, thường xuyên xa lìa các khổ nạn.
_Sống thọ
không chết yểu, tinh thần sáng suốt và không bị tai nạn bất ngờ.
_Chư thiên cùng các thiện thần thường ủng hộ và bảo vệ
chúng ta.
_ Thường
xuyên xa lìa các ân óan thù hằn, dứt trừ oan gia nghiệp báo trả thù.
_Đêm ngủ không nằm mơ thấy ác mộng, luôn thấy
điềm tốt lành.
_Thường
xuyên gieo trồng phước đức, nên tội chướng ngày càng thuyên giảm.
_Sau khi chết
được sinh thiên, không còn bị đọa vào ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Chúng sinh gồm
chung các lòai có tình thức, đều biết buồn, thương, giận, ghét, đều ham sống sợ chết. Do
vì tạo nghiệp bất đồng nên có hình thù khác nhau, nhưng sự sống không khác. Khi giết hại một mạng
sống oán hận sẽ ăn sâu vào tàng thức, chính bản
thân người bị giết, óan thù tăng lên
chồng chất, ôm ấp trong lòng tích lũy lâu
ngày, chờ dịp báo thù khi hội đủ nhân duyên.
Vì vậy ý thức
được khổ đau do sự giết hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống
cho mọi người và muôn loài. Làm cha mẹ chúng ta phải thường xuyên quan tâm đến
trẻ con trong gia đình, khi thấy chúng vô tình hay cố ý giết hại các loài ong,
kiến, bướm hoặc các con vật khác. Chúng ta phải khuyên dạy chúng, không nên làm
như thế sẽ có tội và một lúc nào đó sẽ bị trả
quả trở lại theo luật nhân quả. Còn nhỏ chúng đã quen tay giết hại, lớn lên các
em có thể giết người, khi không làm chủ được bản thân. Thực tế trên thế gian
này thường xuyên xảy ra rất nhiều vụ án cướp của giết người quá dã man, chỉ vì
vài chục ngàn để có tiền chơi geam hoặc một
hai triệu bạc, nếu ai có theo dõi báo chí hằng ngày thì sẽ biết.
NGƯỜI TỪ TỐI VÀO SÁNG.
Hạng người này
tuy đời trước tạo nhân xấu ác nên hiện tại sinh ra chỗ thấp kém, ty tiện nhưng nhờ cố gắng học hỏi thân cận thiện hữu
tri thức chỉ dạy biết được lỗi lầm quá khứ. Quyết tâm sám hối tội chướng làm lại
cuộc đời hướng về nẻo thiện, phát nguyện quy y Tam bảo gìn giữ năm điều đạo đức luôn thân cận thầy lành bạn
tốt, nguyện hứa chừa bỏ không tái phạm nghiệp nhân xấu ác và hay làm lành lánh
dữ. Thấp mình thưa hỏi đạo lý học
hỏi những điều hay lẽ phải, không nóng giận phiền muộn bực tức, bất mãn, hay
hòa nhã vui vẻ với mọi người. Tuy hoàn cảnh đời sống còn gặp nhiều khó khăn, nhưng lúc nào cũng phát tâm hoan hỷ cúng dường Tam bảo
tùy theo khả năng của mình. Sẵn
sàng chia sẻ giúp đỡ khi gặp người bất hạnh, khó khăn.
Thời Phật còn
tại thế có hai vợ chồng nọ, hòan cảnh thật là khốn khó gia tài sự nghiệp của họ
độc nhất vô nhị, chỉ có chiếc y là phương tiện che thân của
hai người, nếu chồng đi làm thì vợ ở nhà mặc quần áo không khí, cuộc sống của họ
cứ đắp đổi qua ngày như thế, không có một
ngày cơm no áo ấm. Ấn độ là một
đất nước nỗi tiếng về tâm linh từ thời xa xưa, nhưng lại là một nước có chế độ phân biệt
giai cấp và kỳ thị chủng tộc cao nhất thế giới. Dẫn đến sự chênh lệch giữa người
giàu và người nghèo quá xa, giàu thì không ai bằng, nghèo thì rớt mồng tơi. Nghèo đến độ là không có cái gì để gọi là
nghèo nữa, quá nghèo, nghèo đến nỗi không có đất để cắm dùi, nghèo xơ, nghèo xác.
Ngược lại hai vợ
chồng rất tin kính Tam bảo mặc dù nghèo khó nhưng vẫn sắp xếp thời gian để nghe pháp, chồng
đi nghe pháp thì về nói lại cho vợ nghe nhờ vậy sau một thời gian hai người đã
thấm nhuần lời Phật dạy . Hôm đó có một vị tỳ kheo đi khất thực ngang nhà, hai vợ chồng
thấy hình bóng của chư tăng liền phát khởi niềm tin kính Tam bảo. Với
lòng thành kính tôn sư trọng đạo, hai vợ
chồng muốn phát tâm cúng dường để mong hiện tại và đời sau thoát khỏi kiếp
nghèo khổ. Nhờ nguyện lực lớn lao đó, đã kích phát hai người phát tâm cúng dường
một bảo vật duy nhất để làm ăn sinh
sống, đó là chiếc y để mặc nuôi sống gia đình hằng ngày.
Tin này được đến
tai nhà vua như một tiếng sấm
làm chấn động cả triều đình, các quan lại đều bàn tán xôn xao về việc làm cao cả
của hai vợ chồng người nghèo. Nhà vua động lòng trắc ẩn trước nghĩa cử cao đẹp của hai vợ chồng nghèo kia,
bèn cung cấp đất đai vườn tược tiền bạc nhà cửa cho hai người để có đủ điều kiện
làm ăn sinh sống.
Thế gian này nếu
ai cũng có những tấm lòng cao thượng như thế, thì chắc chắn rằng mọi người sẽ được
cơm no áo ấm, xã hội khỏi phải bận tâm lo lắng về
vấn đề người nghèo, bởi ai cũng ý thức được trách
nhiệm bổn phận của mình để đóng góp giúp đỡ chia sẻ, thì cuộc đời hạnh phúc biết
bao. Ông vua đúng là một mẫu người nhân từ đạo đức phúc hậu, kể từ đó nhà vua
quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ nhiều hơn.
Còn gia đình
kia nhờ tâm cung kính, chí thành cúng dường nên đã thay đỗi được vận mệnh đen tối,
chuyển hóa kiếp nghèo khó. Người bần cùng khốn khổ khó có cơ hội vươn lên làm lại cuộc đời, bởi họ luôn mặc cảm tự
ti, hay oán trách trời đất sao nở đành lòng đài đọa hành hạ họ. Cuộc đời này sở
dĩ có người giàu kẻ nghèo, người khôn kẻ dại
đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có việc gì bổng dưng khi không mà thành. Nghèo là do
không biết bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người khó khăn, hoặc hay
trộm cướp lường gạt của người khác. Còn người giàu dù có tiền muôn bạc vạn, nhà
cao cửa rộng, nhưng không dám giúp đỡ cho ai hết, đến khi ra đi phải bỏ lại hết
tất cả, chỉ mang theo nghiệp tốt và xấu.
Trong Phật pháp
không đặt nặng giàu nghèo, giàu mà không giúp đỡ ai chỉ bo bo như ông thần giữ của, ai khổ mặc ai giàu như vậy có ích lợi gì? Nghèo mà rộng đường
nhân nghĩa, dám đem những cái mình
đang cần hằng ngày để chia sẻ cho người khác khi cần thiết. Đó mới thật là giàu, giàu lòng nhân ái,
giàu cả tấm lòng.
Có hai gia đình
nọ là bà con hàng xóm và là bạn thân với nhau, một người thật là giàu cái gì cũng có, một người thật là nghèo cái gì cũng không. Một hôm người nghèo sang nhà người
giàu than thở về số phận của mình sao quá nhọc nhằn khổ sở, cuộc sống lúc nào
cũng thiếu thốn khó khăn. Chị nhà giàu liền nói, bộ chị tưởng gia
đình tôi sung sướng lắm sao! Từ khi giàu có đến giờ, phải nhọc nhằn thức khuya
dậy sớm chạy theo công việc đầu tắt mặt tối. Không dám một ngày lơ lỏng, ăn không ngon, ngủ không yên, cứ nơm nốp lo sợ bị
trộm cướp viếng thăm. Lúc nào cũng sợ mất mát thiệt thòi, khổ lắm chị ơi. Chị bạn nghèo nghe nói thế, nếu vậy thì
chị chia bớt cho tôi đi, tôi thà chịu khổ một chút cũng không sao! Đâu được chị à! Bao nhiêu năm trời ròng rả cực khổ làm lụng vất vả,
nhín ăn bớt mặc nên mới có được sự nghiệp ngày hôm nay. Giàu mà tham lam, bỏn xẻn,
keo kiệt, có của cãi để hư hao mục nát, không dám đem ra san sẽ hay giúp đỡ cho
ai. Giàu như thế đâu có lợi ích gì cho nhân loại?
Như có ông tỉ phú kia, khi chết để lại một gia tài
kết sồ không có người thừa kế, cuối cùng tài sản bị sung vào công quỷ. Hằng ngày thức ăn của ông chỉ có cháo và cơm bình thường,
mặc vải gai lọai rẻ tiền, đi xe lọai cũ kỹ vậy mà gia tài của ông có trên tám
triệu tiền vàng, chưa kể đất đai ruộng
vườn nhà cửa, khi còn sống ông làm việc quần quật suốt ngày không dám nghĩ ngơi. Thấy người nghèo khổ đến xin miếng cơm, chén cháo để sống qua ngày, ông nói đi đi, hãy ráng làm
mà ăn, đồ hạng người làm biếng. Cả đời ông chưa từng giúp đỡ cho ai một cái gì, thậm
chí những người làm công trong nhà cũng
không có được cơm no, áo ấm.
Còn nghèo mà biết
nhân nghĩa, sẵn sàng chia sẻ
giúp đỡ mỗi khi có nhu cầu cần thiết, để giúp người qua cơn họan nạn khốn khó. Nghèo như vậy cũng nên nghèo, vì vẫn còn có lợi ích thiết thực cho người
khác. Như chúng tôi đã nói trong
cuốn gieo trồng phước đức, một câu chuyện có thực mà tôi đã trực tiếp chứng
kiến. Đất nước Việt Nam nhất là các tỉnh miền trung năm nào cũng bị bão lũ hăm dọa vài ba lần. Trong chuyến đi cứu trợ
năm đó, một gia đình nọ chồng bị chết trong cơn bão lũ, để lại một vợ và sáu đứa con còn thơ dại. Đứa lớn nhất mười bốn tuổi cả gia
đình đang ở nhà tạm để chờ cứu trợ, nhìn mấy đứa trẻ mặt mày sám sịt chứng tỏ
chúng chịu đói khát rất nhiều ngày.
Ấy thế mà, khi
nhận được một phần quà không đáng là bao, bà luây quây, luôi nguôi sớt ra làm
hai phần, rồi nhanh chân cầm một phần đem đi đâu đó. Một lúc sau bà quay trở lại,
với nụ cười tươi nở trên môi thật là hoan hỷ! Bà nói với chúng tôi, gia đình
con may mắn nhờ đòan cứu trợ giúp đỡ, song bên cạnh đó còn nhiều gia đình khó
khăn hơn gia đình chúng con, đang chịu cảnh đói rét,
thiếu thốn nhiều ngày. Tấm lòng cao thượng và sự hy sinh chia sẻ của bà ta, phải
là một vị bồ tát mới làm được những việc khó làm như vậy! Bản thân chúng tôi nhiều năm đi làm công tác từ thiện, khi mắt thấy tai nghe một việc
làm hết sức là nhân nghĩa, chan chứa tình yêu thương nhân loại bao la không bờ
bến. Nhìn lại việc làm của mình chẳng đáng là bao, chúng ta cần phải học tập và
bắt chước hành động cao thượng từ người phụ nữ ấy, cái mình đang cần để có sống
hằng ngày, mà mình dám dứt ruột ra để sẻ chia cho người khác, quả thật là điều
hiếm có trên cuộc đời này.
Nhờ vậy, chúng
tôi càng cố gắng hơn nữa, để làm sao
việc làm của đòan càng ngày càng được phát triển, được nhiều nhân tố tích cực bằng
cách mỗi tháng mỗi người chỉ cần nhịn một hai bữa ăn sáng, là chúng tôi có thể giúp đỡ được
nhiều người tạm thời qua cơn họan nạn, thiếu
thốn. Kết nối yêu thương, từ thiện duyên
lành, sẻ chia cuộc sống là tâm nguyện của chúng tôi sau thời gian vấp ngã, được
Phật pháp cứu vớt để làm lại cuộc đời.
HOA SEN TỪ BÙN DƠ
Có một chàng
thanh niên thuộc giai cấp nô lệ hạ tiện là giai cấp thấp nhất ở Ấn Độ, đang
gánh phân đi trên con đường làng. Hôm đó đức Phật theo thứ lớp đi khất thực
không phân biệt giàu nghèo hay sang hèn, ngài bình đẳng đi hết xóm này cho đến
làng khác. Tình cờ gặp chàng gánh phân, vì quá sợ sệt nên anh ta né sang qua đường
khác, nhưng trong lòng vẫn ao ước và
nuối tiếc, biết đến bao giờ mình mới được như các ngài. Đang trong vòng suy nghĩ miên man, bổng dưng chàng ta khựng lại, vì trước mặt anh ta là một
hình bóng từ ái và trang nghiêm rực rỡ ánh hào quang của đức Phật. Chàng ta hoảng
hốt định quay đầu bỏ đi vì sợ bị bắt tội, này chàng trai trẻ Như lai đang tìm đến con đây! Sao con lại phải sợ sệt và
tránh né làm chi hở? Một giọng nói ngọt ngào và êm ái, làm chàng trai ấy bất
giác bỏ đôi gánh xuống, quỳ thưa rằng:
Dạ kính bạch
ngài, con không dám thân cận quý ngài sợ làm ô uế giòng dõi tôn quý xin ngài đừng
đến gần con. Đức Phật nở một nụ cười chan chứa đầy tình thương và ôn tồn nói như sau:
Này chàng trai
trẻ, không ai có quyền bắt tội con đâu, con hãy yên tâm chính Như lai đang tìm đến với con. Như lai bây giờ, không còn là hoàng thái tử trong
giai cấp vua chúa nắm quyền thống trị như ngày xưa nữa. Như lai muốn chia sẻ với con một chút tâm tình
có được hay không? Nhưng con là hạng người cùng
đinh mà thuộc giai cấp nô lệ, ngài không sợ bị nhiễm bẩn hay sao? Trong giáo
pháp của ta không có phân biệt giai cấp, vì mọi người đều có giọt máu cùng đỏ
và nước mắt cùng mặn. Dạ kính bạch đức Thế tôn, chính các giáo sĩ Bà la môn thường nói rằng chỉ có giai cấp của họ
và các bậc vua quan mới là tôn quý, xứng đáng được ăn trên ngồi trước thờ cúng đấng Phạm thiên.
Chúng con là giai cấp nô lệ hạ tiện, chỉ biết phục dịch một cách vô điều kiện
cho họ mà thôi.
Chính vì vậy mà
ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ để ra đi tìm chân lý sống cho kiếp người.
Và ta đã biết rõ được sự thật, không có một đấng quyền năng nào ban phước giáng họa cho ai hết. Như lai xác quyết và bảo đảm với con điều đó. Giờ thì
con có muốn sống một đời sống mới, bình an và hạnh phúc hay không? Điều này xưa nay
con hằng mong muốn, nếu được Như lai cứu độ thì
còn gì hạnh phúc cho bằng. Thế là đức Phật nắm tay chàng trai trẻ ra bờ sông tắm
rửa sạch sẽ và dẫn chàng về tịnh xá Kỳ viên. Được xuất gia làm Tỳ kheo một thời
gian, do siêng năng tinh tấn tu hành nên
chàng đã chứng quả A la hán với lực dụng không thể nghĩ bàn.
Vua Ba tư nặc bấy lâu nay nghe nói giáo đoàn đức
Phật toàn là thế phát hạng cùng đinh thấp kém, nên tỏ ra bực tức và bất bình đức
Phật quá trời. Hôm nay lại nghe nói Phật vừa độ tên hạ tiện Ni đề nữa, vậy đâu
còn tôn ti trật tự hệ thống giai cấp tôn quý. Sau đó vua Ba tư nặc cùng đám tùy tùng, đi liền đến tịnh
xá để khuyên đức Phật không nên độ các kẻ cùng đinh nữa. Vừa đến cổng tịnh xá mọi
người nhìn thấy có một vị Tỳ kheo đang ngồi trên một tảng đá lớn trông dáng dẽ
trang nghiêm và đường bệ. Vua liền nhờ thầy Tỳ kheo ấy vào trình đức Phật, nói
có ta là vua Ba tư nặc đến viếng thăm. Thầy Tỳ kheo nhận
lời xong, liền biến mình qua tảng đá lớn và mất dạng. Một lát sau cũng từ tảng
đá đó thầy hiện nguyên hình trở lại, làm cho vua Ba tư nặc và các quan cận thần hết hồn. Vị Tỳ
kheo nói, đức Thế tôn đã hứa khả xin mời đức vua và các quan tùy tùng vào.
Sau khi đảnh lễ
đức Phật xong, vua Ba tư nặc ngồi sang một
bên, liền thưa rằng: Kính bạch đức Thế
tôn vị Tỳ kheo vừa vào yết kiến ngài là ai vậy mà có sức thần thông quảng đại,
vị ấy xuyên qua tảng đá lớn một cách nhẹ nhàng như trò ảo thuật. Bạch đức Thếtôn con muốn đảnh lễ và cúng dường vị Tỳ kheo ấy, có được hay không? Nhưng mục đích đại
vương đến đây để làm gì? Dạ con muốn giáo đoàn của ngài, không nên thế phát và
xuất gia cho các người giai cấp cùng đinh hạ tiện, vì như vậy sẽ làm ô uế giòng
dõi tôn quý của chúng con. Này đại vương, nếu những người đó được xuất gia làm
tỳ kheo và vẫn giác ngộ giải thoát, tu tập chứng quả Thánh thì bệ hạ tính sao?
Con nghĩ rằng không thể có chuyện đó được. Nhà vua có tin lời ta nói không? Dạ
tin chớ! Vị tỳ kheo mà ngài gặp ngoài cổng có sức thần thông đại tự tại đó
chính là Ni đề, người gánh phân thành Xá vệ thuộc giai cấp nô lệ phục dịch, mà
ta đã xuất gia hơn một tháng nay.
Nếu quả thật là như thế, con xin
phát tâm cúng dường tứ sự cho vị Tỳ kheo ấy.
Vua Ba tư nặc đến gặp Phật mục đích chính là,
không chấp nhận cho những người giai cấp hạ tiện nô lệ vào Tăng đoàn để tu tập. Vì ngài nghĩ rằng những người thuộc dòng dõi Bà la
môn tôn quý xuất gia vô số mà còn không chứng quả, huống hồ là những người hạ
tiện bần cùng này. Này đại vương,
giáo pháp của ta vốn bình đẳng về sự giác ngộ và si mê, nếu ai chịu
khó siêng năng tu tập và thực hành đúng
theo chánh pháp, thì cũng có khả năng chứng ngộ.
Đại vương nên biết, hoa sen mọc lên từ bùn lầy và vươn lên nở hoa tỏa ngát hương thơm tinh khiết và ai cũng có khả năng giác ngộ giải
thoát như nhau. Vậy mà, xưa nay
con cứ nghĩ rằng chỉ có những
người thuộc giai cấp tôn quý mới tu hành chứng quả thánh được, vì con thường
nghe những vị Bà la môn họ nói như thế. Ngày nay nếu
không nhờ gặp Như lai thế tôn chỉ dạy
và thấy rõ ràng sự thật của kiếp người, thì con chỉ biết rằng đấng Phạm thiên
sanh ra họ là để phục vụ cho giai cấp tôn quý chúng con. Xã hội Ấn Độ trước khi
đạo Phật ra đời, đã có truyền thống giai cấp thống trị và giai cấp bị bóc lột,
do đấng Phạm thiên làm chủ tể. Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ
đã tìm ra chân lý cho con người, ngài thấy rõ ràng tất cả mọi chúng sinh đều có
đức tánh sáng suốt để được giác ngộ. Và mọi người được sinh ra vốn bình đẳng
như nhau giữa si mê và giác ngộ,dù là giai cấp Bà la môn hay Thủ đà la nếu ai
gieo tạo quả xấu ác thì phải chịu quả khổ đau. Ai gieo trồng phước đức thì được
hưởng quả lành, hạnh phúc hay khổ đau đều do chính mình tạo lấy. Tôn quý hay
cùng đinh là do hành động của họ trong hiện tại. Sự ra đời của đạo Phật đã đem
lại quyền tự do và sự bình đẳng của con người.
Hạng người từ tối
vào sáng là hạng người đã nhận diện được lỗi lầm, nên từ đó cố gắng can đảm quyết
tâm làm lại cuộc đời để vươn lên vượt qua số phận bất hạnh, như vậy giàu hay nghèo không quan trọng, mà
quan trọng hơn hết mọi người chúng ta cần phải có tấm lòng và tình yêu thương
chân thật là được rồi.
người bần cùng Biết
tin sâu nhân quả Ít nóng
giận buồn phiền Thường
xuyên biết hổ thẹn Hay cúng dường giúp đỡ Người
tu hành chân chánh Biết
khiêm tốn học hỏi Những
điều hay lẽ phải Luôn
khuyên người bố thí Khuyến
khích và khen ngợi Người
cho lẫn người nhận Người
tu phước như thế Từ đây đến
đời sau Luôn
sanh các cõi lành Đời đời
hưởng phước báo Từ tối
vào nơi sáng Là hạng
người đáng kính.
PHÓNG SINH CỨU VẬT
Đạo Phật chủ
trương không giết hại, vì tôn
trọng quyền bình đẳng của muôn lòai không muốn làm đau khổ cho ai, ngòai ra còn
khiến khích mọi người hạn chế sự giết hại bằng cách phóng sinh cứu người, cứu vật.
Phóng sinh là vì lòng từ bi thương xót
không nở để chúng sinh đau khổ bị chết chóc, nên cố gắng tìm
cách ra tay cứu mạng chúng sinh. Cứu người hay cứu vật đều gọi chung là phóng
sinh. Những người làm công tác cứu hộ con người, trong các tai nạn đều gọi
chung là phóng sinh. Chúng ta có thể xây chùa to Phật lớn mở ra nhiều cơ sở giáo dục, mục đích là để phục vụ cho
con người “ Dù xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm phúc cứu cho một người”.
Giúp một người họan nạn đang bị bế tắc, hoặc gặp một sự trắc trở nào đó trong
cơn nguy biến, khốn cùng đó là cách thức phóng
sinh đối với con người.
Chúng ta có mặt
trong cuộc đời đã từng bị luân hồi trong sáu đường, lăn lên lộn xuống, thay hình đổi dạng vô số kiếp
từng làm người thân với nhau, như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bà con quyến
thuộc. Vì vậy mọi người hãy nên thường xuyên chiêm nghiệm, quán chiếu tất cả
chúng sinh là cha mẹ nhiều đời của chúng ta. Tất cả người nam là cha ta, tất cả
người nữ là mẹ ta, nhờ quán chiếu như vậy, thói quen
ham thích hưởng thụ giết hại nhiều đời sẽ dần được giảm bớt và tâm từ bi giúp
người, cứu vật ngày càng tăng trưởng.
Trong cuộc sống
chúng ta khó tránh khỏi việc giết hại các loài chúng sinh dù cố ý hay vô tình.
Cho nên phóng sinh giúp người cứu vật là việc làm thiết thực, xuất phát từ tâm từ bi bao la rộng lớn, khi
thấy con vật sắp bị hành hình hoặc đang đau khổ trong tuyệt vọng, chờ cái chết,
như trường hợp chú sa di cứu đàn kiến ở
trên.
Tất cả chúng
sinh là chư Phật ở tương lai, vì ai cũng có thể tánh bình đẳng sáng suốt, nhưng gì do vô minh che lấp nên tạo
nghiệp sai lầm bị đọa vào chỗ xấu ác. Trong kinh nói: Ta là phật đã thành,
chúng sinh là phật sẽ thành. Nếu ta cố ý giết hại chúng sinh chẳng khác nào hại
một vị Phật ở tương lai, vô tình làm mất
đi hạt giống bồ đề, thui chột tâm từ bi cao cả.
Ngày xưa đất nước Việt Nam các tỉnh miền trung
thường xuyên xảy ra thiên tai, lũ lụt. Người dân phải sống
trong cảnh màng trời chiếu đất, cơm không
đủ no, áo không đủ mặc, chiến tranh lọan lạc, nạn trộm cướp lộng hành. Có một
cư sĩ nọ rất tin kính Tam bảo, hết lòng
trì trai giữ giới, hằng ngày luôn sám hối, tụng kinh, lễ phật. Thấy cảnh tang
thương mất mát, dân tình khốn khổ, cư sĩ đêm ngày thành tâm cầu nguyện cho
mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau. Do tâm thành khẩn chí thành như thế, một hôm cư sĩ nằm chiêm bao thấy và nghe một thiền sư nói rằng: Muốn không bị thiên tai, bão lũ
hòanh hành, nạn đầu trộm đuôi cướp, chỉ có một việc duy nhất khuyên mọi người
giữ giới không giết hại và thực hành hạnh phóng sinh giúp người, cứu vật, thì mọi
việc đều tai qua nạn khỏi.
Vậy mà có một số
người trên thế gian này cho rằng, trời sinh ra vạn vật để phục vụ cho con người
và cúng tế thần linh, ai theo truyền thống này sẽ mang ơn thượng đế. Thảm họa chiến tranh binh
đao, sóng thần, động đất, lũ lụt, dịch bệnh, sở dĩ tới ngày nay vẫn còn tồn tại, là do ảnh
hưởng nhiều đời, nhiều kiếp của nạn tương tàn, tương sát, giết hại lẫn nhau và
ăn thịt chúng sinh. Do nạn giết hại đó,
chúng sinh khi bị giết đau khổ vô cùng sanh tâm óan hận, thù hằn, nên đã ăn sâu vào tàng thức và khi có cơ hội gặp lại nhau sẽ tìm cách trả thù.
Nếu ai cũng ý thức giữ giới không giết hại thì trên thế
gian này mọi người sẽ sống an vui hạnh phúc, không còn phải bất an và sợ hãi.
Còn nếu vì sự sống để nuôi thân này mà chúng ta phải giết hại, nhất là những
người sống ở vùng ven sông, ven biển, phải làm nghề đánh bắt các loài thủy sản
để nuôi sống bản thân và gia đình. Khi làm việc ấy chúng ta phải có tâm hổ thẹn
và từ bi, không nên đánh bắt những lọai thủy sản quá nhỏ, vì như thế sẽ vi phạm
pháp luật đánh bắt. Luật pháp nhà nước còn không cho phép, huống hồ là luật
nhân quả luôn âm thầm chi phối, dù trăm kiếp ngàn đời nhân đã tạo ra thì không
mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Cho nên mọi người hãy nên thận
trọng trong nghề nghiệp mưu sinh, vì hoàn cảnh và sự sống bắt buộc chúng ta phải
hành nghề như thế. Nhưng chúng ta phải có lương tâm, loài nào được bắt và loài
nào không được bắt, khả dĩ vẫn có tội nhưng tội nhẹ hơn. Người Phật tử tại gia
chủ yếu là giữ giới không được giết người, còn các loài vật từ lớn đến nhỏ
chúng ta hạn chế được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, cho đến khi nào thay đổi được
nghề nghiệp khác thì thôi.
HẠNG NGƯỜI TỪ
SÁNG VÀO TỐI
Theo truyền thống
thời xa xưa cho rằng có một
linh hồn bất tử, tức là hồn sáng nên có một số người lầm chấp, người chết sanh
cõi người, trời chết sanh cõi trời, thú vật chết sanh thú vật, ai nằm trong
hoàn cảnh nào thì phải chịu như thế từ đời này
qua kiếp nọ, không thể nào thay đổi được. Nếu chúng ta cho rằng có một linh hồn
bất tử, như vậy mọi người
tu sẽ không được lợi lạc gì, bởi vì nó bất di bất dịch, chúng ta có cố gắng tu
cũng không thay đổi và tiến bộ được. Đạo
Phật không thừa nhận có một linh hồn cố định, mà cho rằng có một tâm thức chuyển
biến, chuyển biến, liên tục trong từng phút giây, nhờ sự chuyển biến và đổi
thay đó, mà chúng ta mới có khả năng tu tập để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau
thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Thức là cái hay suy tư nghĩ tưởng biết phân biệt. Cái biết phân biệt
là một dòng chuyển biến không dừng, khi nhỏ thì
cái biết phân biệt theo trẻ con. Lúc lớn lên thì cái biết phân biệt theo
người lớn có phần chính chắn hơn.
Do đó, tâm thức
con người luôn biến đổi không dừng nghĩ. Còn linh hồn thì cố định, nên có học
cũng không giỏi, không học cũng chẳng ngu, nhưng thực tế có phải vậy không? Như bản thân chúng tôi, trước kia do hiểu
biết sai lầm cho rằng chết là hết, không có nhân quả tội phước gì cả nên nói năng, suy nghĩ, hành động ngu si, luôn làm những điều xấu ác
hại mình, hại người. Nếu nói cái gì cũng cố định cả, thì
tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.
Hạng người thứ
ba là hạng người có phước đức, do nhiều đời trước biết gieo trồng nhân tốt
lành, nên đời này có quyền thế địa vị cao trong xã hội có nhiều tiền của, nhiều
tôi tớ trong nhà. Nhưng do ỷ lại cái gì cũng cố định cả, trước sau như một
không thể nào thay đổi được, nên mặc tình phung phí, xa hoa, ăn chơi trác táng,
làm những điều phi pháp, bóc lột tôi tớ, thợ thuyền, thậm tệ, hại người, hại vật,
cuối cùng phước hết họa đến nên phải chịu quả khổ đau như người từ sáng vào tối.
Thời Phật còn tại
thế có một gia đình Bà la môn rất giàu có thuộc giai cấp tôn quý, nhưng gì hiểu biết sai lầm và nông cạn nên lúc
sinh tiền mặc tình bóc lột tôi tớ, tham lam ích kỷ bỏn xẻn chuyên làm những đều
xấu ác. Đó là bà mẹ của trưởng
giả Đế Đô vì vô thường chẳng hẹn cùng người, nên bà ta đã ra đi một cách đột ngột
không kịp trăn trối số vàng
mình chôn cất, cho đứa con trai duy nhất trong nhà biết, do sự luyến tiếc đó mà
bị tái sanh trở lại làm chó giữ của.
Cũng như thường lệ Phật bình đẳng theo thứ tự đi
khất thực, hôm nay vô tình đi ngang nhà ông Đế Đô một gia đình giàu có nhất làng ấy. Con
chó thấy Phật chạy ra sủa dữ dội trông rất hung ác, như muốn ăn tươi nuốt sống ngài. Nó gầm gừ nhảy chồm lên
hàng rào, Phật biết được nhân duyên nên dùng tâm từ để chuyển hóa con chó. Con
chó sau khi được Phật nhiếp phục không còn hung dữ như trước nữa, nó quay trở vào nhà nằm ỳ một
chỗ trông vẻ buồn thảm. Chủ nó đi việc ngoài về thấy chó không vẫy đuôi mừng,
mà nằm thừ ra. Ông ta liền hỏi gia đinh trong nhà, con chó vì sao như thế? Mọi người đều thuật lại nguyên nhân
cho ông chủ nghe. Tức quá ông chạy đi tìm Phật, tại sao ngài dám quở con chó của
tôi, để nó rầu rỉ nằm một chỗ. Này nhà Bà la môn thông thái, ta thương tiếc cho con chó nhà ông, chỉ vì ngu si
mê muội mà phải ra nông nỗi này. Chó của tôi chớ mắc mớ vì đến ngài. Ông tin lời
ta nói hay không, nếu tin thì ta sẽ nói nhân duyên của con chó này cho ông
nghe. Ừ thì ngài cứ nói đi. Con chó này là mẹ của ông khi trước, có phải mẹ ông
qua đời đã hơn năm nay? Ừ đúng rồi, tại sao ngài biết. Vì muốn
giúp cho mẹ ông chuyển hóa kiếp ngu si lầm lạc, nên ta mới tạo điều kiện để
gieo duyên lành với gia đình nhà ông. Nếu ông tin ta thì hãy về nhà đào thử thì
sẽ biết, ở dưới chân giường ngay chỗ con chó nằm đó có một hủ vàng rất lớn.
Khi còn hiện tiền,
mẹ ông sợ mọi người biết được hủ vàng nên đã chôn dấu ở dưới chân giường. Trong
cơn bệnh ngặt nghèo vì vô thường đến quá nhanh, nên mẹ ông không kịp trăn trối lại cho ông biết. Vì tiếc nuối tài
sản, nên phải đọa lại làm chó trong nhà của ông để giữ hủ vàng. Nghe nói như vậy nhưng ông Đế đô vẫn còn nghi ngờ, vì ông nghĩ rằng
sau việc này không nghe các thầy Bà la môn nói. Thôi mình về nhà thử đào lên
xem sao! Ông liền cho gia nhân đào xuống khoảng hơn nữa thước, thì đụng phải hủ
vàng. Con chó nảy giờ nằm bên cạnh chứng kiến tận mắt, nó mãn nguyện ve vẫy
đuôi ra vẻ mừng rỡ, xong chiều ngày đó nó âm thầm lặng lẽ ra đi và được tái
sanh về cõi trời. Sau đó bà ta về báo mộng cho con mình biết, nhờ Phật tế độ bà
thoát kiếp súc sinh mê muội.
Còn phần ông Đế
Đô sau khi chôn cất con chó xong, liền cùng gia
đình đến tịnh xá phát nguyện quy y làm đệ tử Phật, gìn giữ năm điều đạo đức.
Từ đó ông kính tin Tam bảo nên thường xuyên cúng dường trai tăng và luôn giúp đỡ những người bất hạnh nghèo khổ khó
khăn. Xưa kia ông chỉ tin có đấng phạm thiên là trên hết,
ông là giai cấp Bà la môn được quyền ăn trên
ngồi trước, buộc các giai cấp nô lệ và phục dịch vô điều kiện. Nhờ gặp Phật
ông mới biết thêm không ai có quyền ban phước giáng họa, không có sự sắp đặt cố
định của đấng thần linh chỉ có hành động do thân, miệng, ý, tạo ra tốt hoặc xấu,
mà cho ra kết quả trong hiện tại.
Chúng ta thường
lầm chấp cái gì cũng cố định cả, vô
tình dẫn đến chỗ đánh liều, người nghèo cùng chẳng thèm phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời, vì họ nghĩ rằng có cố gắng cũng vẫn nghèo, nên đành chấp nhận số phận hẩm
hiu, do đó người nghèo lại càng nghèo thêm. Còn người giàu sẽ sinh tâm ỷ lại, mặc
tình thỏa sức ăn chơi trác táng hưởng thụ, bóc lột vơ vét của người
khác đến khi phước hết họa đến, cuối cùng tán gia bại sản, tan nhà nát cửa. Qua
câu chuyện trên đã cho ta thêm một kinh nghiệm sống ở đời, bà mẹ của Đế Đô do quan niệm có một đấng tối cao ban phước giáng
họa, bà thuộc giai cấp ăn trên
ngồi trước có người phục vụ nô lệ. Bà mặc tình vơ vét và bóc lột những người làm công cho bà, vì
nghĩ rằng bà được thượng đế ban ân cho.
Đó là một sai lầm đáng tiếc và một sai lầm thứ
hai do luyến tiếc bám víu vào tài sản vật chất mà chưa truyền lại cho con, nên không tái sanh vào
chỗ tốt đẹp, cuối cùng trở lại sanh làm con chó trong nhà để giữ hủ vàng. Bà ta
không biết đời nay giàu sang danh vọng, quyền cao chức trọng nhiều của cải nhiều
tôi tớ, là do nhiều đời biết gieo trồng phước đức, tích lũy phước báo nên ngày nay mới được như thế. Bởi do tâm ỷ lại và tham lam ích kỷ
nên mới bị đọa lạc vào kiếp súc sanh, nhờ Phật tế độ bà chuyển được tâm mê lầm
chấp trước và nhờ đó được sinh về cõi trời. Con bà nhờ vậy mới trở thành một Phật
tử chân chính, luôn hết lòng hộ trì Tam Bảo và giúp đỡ người nghèo cùng khốn khổ.
Xã hội ngày xưa với thiên hình vạn trạng, bị thu nhỏ lại
bởi nhiều phong tục tập quán có thể làm chết người trong thiên hạ. Đa số đều theo hệ thống thần quyền có vị
chủ tể sắp đặt tất cả và có những tập tục cúng tế thần linh bằng con người và
vô số các loài vật khác, ai theo truyền thống này sẽ cám ơn thượng đế, vì đã ban ơn cho con người. Xã hội ngày nay nhờ biết áp dụng
khoa học thực tiển, tận dụng nguồn thiên nhiên sẵn có để đáp ứng nhu cầu vật chất
phục vụ cho con người. Chính vì vậy dễ làm sinh thái toàn cầu bị xáo trộn và ảnh
hưởng nặng nề về sự ô nhiễm môi trường. Nếu chúng ta thiếu hiểu biết thì sẽ làm
ảnh hưởng xấu và có thể làm thiệt hại cho nhau.
Như có gia đình kia nhà ở miền tây có
một vợ hai con, chồng làm giám đốc một công ty lớn ở TPHCM cuộc sống đủ đầy,
con cái học hành tới nơi tới chốn, bà
con hàng xóm ai cũng khen nức nở, thậm
chí có người thầm ghen tỵ, cuộc sống an vui hạnh phúc của gia đình họ. Rồi thời
gian sự nghiệp càng ngày càng thêm thành đạt, ông ta bắt đầu giở chứng lăng nhăn có bồ nhí trẻ đẹp ngang với tuổi con mình.
Ngày xưa khi chưa có bồ nhí, thì ông thường xuyên về thăm nhà chăm sóc vợ con tận tình chu đáo gia đình sống rất
ư là hạnh phúc. Riết rồi ông viện cớ, công
việc ngày càng bề bộn nên ít về. Ông mua một căn nhà riêng cho người đẹp để ông cùng chung
sống và cấp dưỡng đầy đủ cho gia đình cô ấy.
Tưởng hạnh phúc
tràn trề, nào ngờ đâu giông bão đang kéo đến mà ông ta không hề hay biết. Người
vợ lớn bắt đầu sanh nghi và cuối cùng đã phát giác ra chồng mình có bồ nhí. Và
thảm họa bắt đầu giáng xuống kể từ ấy, để dàn xếp cho sự việc ổn thỏa, không
làm mất uy tín chồng mình. Cô vợ lớn khôn khéo xuống nước nhỏ và sẵn sàng cho
cô bồ nhí một số tiền rất lớn, để cô lấy chồng làm ăn sinh sống. Sau khi thương lượng xong cô vợ nhỏ đồng ý với giải
pháp trên. Nhưng nghiệt ngã
thay con người với lòng tham không bờ bến, nghĩ rằng mình trẻ đẹp dại gì bỏ qua món mồi
ngon béo bở này. Người đẹp liền tương kế tựu kế, lấy
gậy ông đập lưng ông, dùng số tiền đó mướn
lại xả hội đen thủ tiêu bà vợ lớn.
Cô bồ nhí hý hửng
nghĩ rằng từ đây về sau, sẽ không còn ai quấy
rối mình nữa mặc tình công khai làm bà giám đốc. Nhưng bọn xã hội đen cao cơ hơn, thay gì thủ tiêu bà vợ lớn, chúng quay đầu ngược lại thỏa
thuận với bà vợ lớn để lấy thêm một số tiền. Bà vợ lớn biết được âm mưu thâm độc của cô bồ nhí, lòng giận lên sôi
sùng sục, tức muốn trào máu họng! Ức quá, bà ta mướn lại bọn xã hội đen cắt nhượng
hai tay, hai chân, cô bồ nhí cho thân tàn ma dại chơi, dám chọc đến bà hả!
Thế là vụ án đã
được đổi ngược lại và một kết cuộc rất là bi thảm. Cô vợ nhỏ bị cắt nhượng hai
tay, hai chân, phải đưa vào bệnh viện cấp cứu,
ông giám đốc biết được sự tình như vậy, ông ta
không còn đủ can đảm để sống nữa khi nghe hung tin ấy nên từ trên lầu cao nhảy
xuống tự tử chết. Kết cuộc cô bồ nhí cũng chết không cứu nỗi
do vết thương quá nặng. Chị vợ lớn
bị bắt và lãnh án tù chung thân. Ông chồng ngũm cù đeo. Hai đứa con đang học hành đàng hòang,
một đứa tốt nghiệp đại học, một đứa sắp sửa ra trường bị cú sóc quá nặng, cha
chết, mẹ ở tù. Trong cơn khủng hoảng quá
mức chúng không làm chủ được bản thân, nên lao vào rượu chè hút chích sau một
thời gian dài, bán sạch hết nhà cửa dẫn đến thân tàn ma dại. Cuối cùng một đứa
bị chết vì xốc thuốc và một đứa bị đưa vào
trung tâm cai nghiện.
Vì đam mê chốc
lác mà thảm họa ngàn năm, đã giáng xuống gia đình
ông giám đốc tan nhà, nát cửa, sự nghiệp bao nhiêu năm chắt chiu gầy dựng, chỉ một thóang đam
mê mà ôm hận cả đời. Sự thật là như thế, tình đời lắm
nỗi chua cay, một chút sa đà mà ra nông nỗi này. Đây là bài học thiết thực trong cuộc sống, ai hiện
tại nghĩ rằng mình là
giai cấp tôn quý cao cả đang có địa vị quyền thế trong xã hội, hãy nên suy gẫm
lại! Đừng, cứ một bề cố chấp, cho rằng mình đã được đấng tạo hóa ban cho ân sủng,
lầm chết? Vô tình đưa con người ta vào con
đường tội lỗi mà không hề hay biết, khi phước hết thì họa đến. Thật đáng tiếc
cho gia đình ông sự nghiệp một đời phút chốc tan thành mây khói để lại đau thương một cõi lòng, tiếng đời bêu rếu mãi
không thôi.
Từ ngàn xưa đến nay bao nhiêu anh hùng tài ba lỗi lạc,
các vua chúa thời phong kiến không chết ngòai chiến trường mà đa số chết dưới lỗ
chân trâu! Óai oăm thay, tiếng sét ái
tình đã làm cho người ta mê mẫn, tê dại cả tâm hồn. Vua thì nhiều cung phi mỹ nữ,
trai thì năm thê bẩy thiếp, ấy
thế mà khó ai qua khỏi, chút dậm cỏ sương. Bởi có một số
người lầm tưởng, thượng đế đã ban cho mình cái quyền ăn trên ngồi trước nên các vua thời phong kiến
nói rằng ta là thiên tử con trời, được quyền sanh sát trong tay. Tình đời cuộc
thế rồi cũng trắng tay, chỉ
mang theo khối vạn sầu, ai nặng tính dục ham hưởng thụ nhiều hãy nên suy gẫm lại.
đệ huynh Mong rằng thông cảm đời vô sự Chất chứa làm chi vạn nẻo sầu.
Đời nay giàu
sang phú quý, công thành danh toại là do nhiều đời đã gieo trồng phước đức, nên
bây giờ mới được như vậy. Không phải
bổng dưng mà có được, nhiều đời
tích lũy mới lên hương, sự nghiệp chắc chiu dài năm tháng, một phút si mê phải ngậm ngùi.
HẠNG NGƯỜI TỪ
SÁNG VÀO SÁNG
Đây là hạng người nhiều đời đã gieo trồng phước
đức, lại biết học hỏi tu tập làm lành lánh dữ, tin sâu nhân quả và đã thuần thục
nghiệp thiện, nên đời đời kiếp kiếp phát tâm Bồ tát đi vào đời cứu độ chúng
sinh. Thời Phật còn tại thế bên nam có cư sĩ đại phú gia Cấp cô độc chuyên tâm
cung kính cúng dường Tam bảo giúp cho giáo đoàn của Phật phát triển nhanh chóng
và lan rộng cho đến ngày nay. Ngoài việc cung kính cúng dường, ông thường xuyên
quan tâm lo lắng và giúp đỡ những người bất hạnh, nên được người đời ban tặng
cho danh hiệu Cấp cô độc. Bên cạnh đó còn có nữ cư sĩ đại phú gia Tỳ xá khư, bà
là một người phụ nữ tuyệt vời đẹp cả nhan sắc và đức hạnh.
Vô số kiếp quá
khứ về trước bà đã từng gieo trồng phước đức và phát thiện tâm đời đời, kiếp kiếp,
cung kính cúng dường những người tu hành chân chánh và luôn giúp đỡ chia sẽ khi
gặp người bất hạnh. Do phước báo và việc làm tốt đẹp đó, nên đời nào bà sanh ra
cũng làm một nữ nhân cao quý, không ai có thể bắt nạt, dù rằng bà sinh ra trong
thể chế giai cấp trọng nam khinh nữ. Và bà ta có được năm sức mạnh của phái đẹp,
mà những người phụ nữ khác không thể có được như nàng.
Năm sức mạnh đó
là: nàng có một nhan sắc tuyệt đẹp, nàng có nhiều tài sản thọ dụng không bao giờ
hết, nàng có nhiều bà con quyến thuộc, nàng có nhiều con trai, nàng có giới đức
trong sạch. Theo quan niệm khi xưa phụ nữ được coi là phái yếu được đấng tối
cao sinh ra để phục vụ cho đàn ông, có nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi dạy con cái
trong nhà. Có lẽ phụ nữ chân yếu tay mềm và nhiều tình cảm dạt dào nên cần phải
nương tựa đàn ông, được phái mạnh yêu thương, che chở và bảo vệ. Ngày nay ta
không thể gọi phụ nữ là phái yếu nữa mà phải gọi là phái đẹp vì họ chẳng yếu
chút nào, nhất là những phụ nữ có sắc đẹp, tiền bạc, bà con, con trai và có giới
hạnh đầy đủ tuyệt vời. Nhờ biết vận dụng và phát huy hết tài năng của mình,
phái đẹp luôn làm đàn ông phải “đổ nước, nghiên thành”. Đẹp đẽ và tài năng,
luôn làm cho phụ nữ thăng tiến một cách nhanh chóng và được nhiều người mến mộ.
Đó là một sức mạnh làm cho nhiều cánh đàn ông, đắm đuối mê say mà không thể nào
làm tổn hại thanh danh.
Sự giàu sang phú
quý cũng làm tăng thêm sức mạnh của phụ nữ, bởi mãnh lực của đồng tiền có thể
sai khiến nhiều người làm theo ý mình. Và ở điểm này phụ nữ có thể hơn đàn ông
về tiền bạc thế lực, còn lo tròn việc nuôi dạy con cái quả là một việc khó làm
đối với đàn ông. Song vào thời Phật hiện hành phụ nữ bị coi là món hàng để phục
vụ cho đàn ông, phụ nữ thường bị coi rẽ và khinh chê, nhưng nàng Tỳ xá khư đã
vượt qua rào cản đó và đã chuyển được gia đình nhà chồng tâm phục, khẩu phục.
Bà ta có đông đảo bà con quyến thuộc ai cũng kính mến tôn trọng và thường xuyên
bảo vệ ủng hộ bà. Và có con trai để kế thừa tông đường theo quan niệm khi xưa.
Người phụ nữ có
sắc đẹp và làm được nhiều lợi ích lớn lao, so ra vẫn hơn đàn ông nhiều, vì còn
phải có trách nhiệm bổn phận thiên chức làm mẹ và nuôi dạy con cái. Nhưng sức mạnh
cao quý nhất của họ là đức hạnh, là thước đo hoàn mỹ nhất của phái đẹp, nhất là
người nữ sống trong thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ. Chính đức hạnh và
nhân cách cao thượng của phái đẹp đã làm cho xã hội, chấp nhận tôn trọng mọi
người đều bình đẳng như nhau, để lại ấn tượng khó phai trong lòng mọi người.
Tuy nhiên đức hạnh không thể bình thường dễ dàng mà đạt được, nó đòi hỏi mọi
người chúng ta phải cố gắng ra công học tập, rèn luyện và nổ lực một cách tinh
cần mới được. Người phụ nữ ngoài công, dung, ngôn, hạnh, cần phải phát nguyện
gìn giữ năm điều đạo đức. Không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không
nói dối hại người, không cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập ma túy là nền tảng căn bản
giúp người phụ nữ vượt qua rào cản của trọng nam khinh nữ.
Đã là phụ nữ thì
phải đẹp và có đức hạnh, thì càng làm cho giá trị phái đẹp càng được tôn trọng
và yêu thương hơn. Xưa nay ông bà ta thường nói, “ cái nết đánh chết cái đẹp”
là người phụ nữ nhất là các cư sĩ Phật tử cần biết, bốn sức mạnh nhan sắc, tiền
bạc, quyến thuộc và con trai không bền vững, chỉ tạo nên hạnh phúc sung mãn về
vật chất, chớ không đem đến hạnh phúc lâu dài trong hiện tại và tương lai. Chỉ
có sức mạnh về giới hạnh, mới đem lại hạnh phúc lâu dài cho người phụ nữ.
Bà Tỳ xá khư là
một người phụ nữ có sức mạnh về vật chất lẫn tâm linh, nên bà đã chuyển hóa chồng
và quyến thuộc nhà chồng, mở ra trang sử mới về sự bình đẳng của nam nữ. Từ nhỏ
bà đã có phong cách tuyệt vời của một người phụ nữ tài ba xuất chúng về mọi
phương diện, khi còn là một cô gái độ mười lăm mười sáu tuổi cùng với các người
hầu gái định đến một bờ sông để tắm. Bất thần trời mưa to các người hầu gái đều
nhanh chân chạy vào đục mưa trong nhà, riêng nàng vẫn bình thản và ung dung đi
bình thường, để cho trời mưa làm ướt hết đồ khi vào đến nhà.
Lúc này có các
ngài Bà la môn đang vâng lệnh một đại phú gia giàu có nhất nhì trong nước, để
kén chọn một người phụ nữ lý tưởng về làm dâu trong nhà mình. Về phước tướng
nàng đã đạt được năm vẽ đẹp và quý phái của người phụ nữ, nhưng các Bà la môn vẫn
thắc mắc tại sao khi gặp trời mưa các hầu gái đều bỏ chạy hết để kiếm chỗ đục
mưa, còn cô thì không chạy mà thản nhiên ung dung đi bình thường, để bị mưa làm
ướt đồ hết. Nàng nói, tôi là một đàn bà nếu chạy nhanh sẽ mất đi vẽ đẹp của
phái nữ, bị người đời chê trách thô tháo như đàn ông. Không xứng đáng là một phụ
nữ có đầy đủ công, dung, ngôn, hạnh, thì sẽ bị mọi người chê trách. Quả thật
nàng đúng là một người phụ nữ lý tưởng và tuyệt vời. Các Bà la môn yêu cầu cô dẫn
về nhà và các ngài đã trình bày mục đích tìm một phụ nữ toàn mỹ, để cưới vợ cho
con trai mình là một đại phú gia giàu có. Cha nàng liền hỏi ý kiến con gái mình
có đồng ý không? Nàng liền chấp nhận và rất là vui vẽ.
Thế là bên nhà
chồng liền sắp đặt lễ cưới và cho người làm lễ rước dâu vài ngày sau đó, một
đám cưới lớn nhất chưa từng có từ trước đến nay. Về phần cô thì cha mẹ ruột cho
rất nhiều ngọc ngà châu báu, vàng bạc không thể tính đếm hết cùng tất cả người
hầu kẻ hạ. Để mừng ngày cưới vợ cho con, ông già chồng đã cho mời năm trăm đạo
sĩ tu theo phái khổ hạnh ép xác, lõa thể
đến để cúng dường chúc mừng ngày thành hôn của đôi trẻ. Vâng lời cha chồng cô đến
cúng dường các đạo sĩ lõa thể, làm cho cô bất bình và không hài lòng bỏ về phòng
riêng. Các đạo sĩ lõa thể lên tiếng chê trách cha chồng cô, sao không biết tìm
cô con dâu hiền thục khác. Trên thế gian bộ hết phụ nữ rồi sao, mà ông đi cưới
một cô gái xúi quẩy như vậy làm mất danh giá nhà ông. Bị sự chê trách của các đạo
sĩ, cha chồng cô không được hài lòng lắm, nhưng chưa có cớ gì để nói đứa con
dâu mới cưới.
Một hôm ông
đang ăn món cháo cao cấp với mật ong đựng trong đĩa bằng vàng, có một thầy Tỳ
kheo vào nhà khất thực, cha chồng cô nhìn thấy nhưng giả bộ làm lơ cô đứng kế
bên mới lên tiếng, xin thầy đi đến nhà khác vì cha chồng con đang ăn món cháo
thiu. Ông nghe nói vậy tức quá, liền đuổi cô ra khỏi nhà ngay lập tức. Cô không
chịu nên thưa lại với cha chồng, con phạm lỗi gì mà phải bị trục xuất ra khỏi
nhà. Con không phải là cô gái lăng loàng mất nết, đến nỗi phải bị cha đuổi mà
không có lý do chánh đáng.
Trước khi về nhà
chồng cha con có giao cho tám gia chủ bảo hộ, nếu con có lỗi lầm thật sự xin
cha cho mời tám gia chủ đến đây, để phân xử một cách công bình. Thứ nhất tôi
đang ăn món cháo thượng vị, mà nó nói tôi ăn cháo thiêu nên mời vị sa môn đi
nơi khác, nó dám phỉ báng tôi trước mặt người ấy. Thứ hai là nữa đêm đi ra sau
nhà có các tớ gái tớ trai theo sau để làm gì? Cô giải thích vì có con ngựa giống
mới đẻ, nên cô phải ra kiểm tra coi mọi người chăm sóc thế nào? Vì con thấy cha
chồng con không muốn gieo ruộng phước cúng dường với thầy, nên con mới nói cha
con ăn món cháo thiêu. Các vị gia chủ đều nói, vì ông không gieo phước điền mới
vậy có gì là sai? Hai lý do trên đều hợp lý, vậy con dâu ông có lỗi gì? Không bắt
được hai lỗi ấy, ông già chồng xoay ý kiến về buổi đầu trước khi nàng lên xe
hoa về nhà chồng, mẹ nàng đã từng dạy dỗ, con thường xuyên mặc đồ đẹp, ăn đồ
ngon và hằng ngày soi gương.
Dạ thưa cha, mẹ
con dặn phải mặc đồ đẹp là hằng ngày con phải giữ gìn quần áo giặt sạch sẽ để
tiếp đãi khách quý của cha. Phải ăn ngon là con phải ăn sau, khi đói mới ăn và
không kén thức ăn ngon dỡ, hằng ngày soi gương là ý mẹ con nói mỗi ngày phải dậy
sớm, dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa ngăn nắp và ngủ sau tất cả mọi người. Tám gia chủ
sau khi nghe bà trình bày, mới quay sang ông già chồng của cô, hỏi rằng vậy con
dâu ông có lỗi chỗ nào mà ông đuổi đi? Kể từ đó ông ta càng nể phục và quý mến
cô con dâu hơn nhiều, coi nàng như là vị cứu tinh của đời mình.
Trong vai trò bổn
phận làm vợ, làm dâu, có lẽ đẹp nhất và dễ thương nhất là khi nàng dâu mới về
nhà chồng. Và hiếm khi các nàng dâu giữ được sự hiền thục được lâu dài. Riêng
bà Tỳ xá khư không những giữ được nét đẹp hiền thục, mà còn làm cho cha chồng mến
mộ và quý kính. Cuộc đời của bà Tỳ xá khư là tấm gương sáng chói về công dung
ngôn hạnh, xứng đáng cho hàng tín nữ thời hiện đại chúng ta bắt chước noi theo.
Bà là người phụ nữ đầu tiên có công thỉnh Phật cho hàng cư sĩ tại gia, được thọ
trì bát quan trai tu tập hạnh xuất gia một ngày một đêm tại chùa, để gieo chủng
duyên lành với Tam bảo. Trước khi lên xe hoa về nhà chồng, bà được cha mẹ ruột
tặng cho chiếc áo choàng đáng giá gần trăm triệu tiền vàng. Một hôm bà đi nghe
pháp tại tịnh xá Kỳ viên, đến nơi bà nhờ tỳ nữ giữ dùm chiếc áo choàng dùm,
nhưng khi ra về vị nữ tỳ sơ ý để quên lại chiếc áo choàng trong tịnh xá. Với tấm
lòng từ bi bao dung và tha thứ, bà không rày la người tỳ nữ, mà chỉ nhờ đến tịnh
xá coi có quý thầy nào giữ dùm hay không. Ngài A nan biết áo của bà bỏ quên nên
đã cất giữ và đã trao trả lại cho bà. Riêng bà thầm nghĩ để làm một phước lớn
lao, nhân dịp chiếc áo bị bỏ quên bà sẽ bán chiếc này để xây dựng tăng xá cho
chư tăng ni có chỗ nghĩ ngơi tu học. Nhưng gì chiếc áo quá đắc giá nên không ai
mua nỗi, bà tự nguyện mua lại và lấy số tiền đó để xây dựng tăng xá.
Ngoài việc sắp xếp
lo chu tòan việc trong gia đình và phục vụ đóng góp lợi ích cho nhà chồng bà là
một người con dâu mẫu mực, quán xuyến quản lý tốt đẹp tất cả. Thuyết phục gia
đình chồng tín kinh Tam bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho bà thường xuyên cúng
dường tứ sự, cúng dường Tam bảo và không quên giúp đỡ người bất hạnh. Một hôm
bà cùng người thân cúng dường trai tăng, vô tình cô tỳ nữ làm bể chén kiểu quý.
Ngài Xá lợi phất sợ bà đánh đuổi cô nữ tỳ nên khuyên bà bằng bài pháp vô thường.
Lúc này Tỳ xá khư mới nói rõ một sự thật hết sức đau lòng, trong lúc bà đang
cung kính cúng dường chư tăng, các con của bà đã bị giết hại hết rồi, do bọn nịnh
thần tâu dối. Bà vẫn an nhiên tự tại lo tròn buổi lễ cúng dường như không có
chuyện gì xảy ra, huống hồ là những cái chén bể vô tri vô giác kia. Bà quả là một
phụ nữ Phật tử tuyệt vời nhất trong lịch sử nhân loại, xứng đáng cho hàng phụ nữ
ngày nay chúng ta noi theo.
Trong thời phong
kiến, nhất là tập tục trọng nam khinh nữ đã làm cho người đàn bà phải chịu nhiều
thiệt thòi và đau khổ, mà đấng thượng đế đã ghán cho theo quan niệm khi xưa. Bà
đã làm một cuộc cách mạng, gieo tiếng chuông tỉnh thức và bình đẳng giữa con người
với nhau. Bà là một người phụ nữ mẫu mực và thành công trên đường đời, về
phương diện gia đình bà là một người vợ lý tưởng lo vuông tròn mọi việc trong
nhà. Bà khéo léo quán xuyến điều hành và quản lý nhân sự, từ tôi tớ cho đến
nhân công được cha chồng tán thán khen ngợi, thường phụ nữ thời đó bị xem thường,
bị khinh khi nhưng bà đã vượt qua rào cản đó. Về mặt đạo đức tâm linh bà là một
Phật tử thuần thành, luôn gìn giữ năm điều đạo đức và thường xuyên thọ trì bát
quan trai giới. Bà lúc nào cũng cung kính cúng dường Tam bảo, cúng dường tứ sự
cho chư Tăng và luôn chia sẻ giúp đỡ người bất hạnh khốn khó.
Bà là người phụ
nữ tuyệt vời có một không ai trong lịch sử nhân loại, là một Phật tử thuần
thành có niềm tin sâu với ngôi tam bảo. Và bà là tấm gương sáng chói xứng đáng
cho hàng phụ nữ ngày nay noi theo, với những việc làm không thể nghĩ bàn. Bà đã
và đang thực hiện, tám nguyện vọng chân chánh giúp cho Phật pháp được lan rộng
đến bây giờ.
Một, được cúng
dường áo mưa cho Thế tôn và chúng tăng trong mùa mưa.
Hai, được cúng
dường tứ sự các Tỳ kheo mới gia nhập tăng đoàn.
Ba, được cúng
dường thức ăn và tiền cho các Tỳ kheo du phương hành cước.
Bốn, được cúng
dường các tỳ kheo bệnh thuốc thang đầy đủ.
Năm, được cúng
dường thức ăn thích hợp cho các Tỳ kheo bệnh.
Sáu, được cúng
dường các Tỳ kheo chăm sóc người bệnh.
Bẩy, được cúng
dường thức ăn nhẹ cho tăng đoàn.
Tám, được cúng
dường đồ tắm cho các Tỳ kheo ni.
Tóm lại, qua bài
kinh nhân quả đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng không có gì là cố định
cả. Từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều chịu sự chi phối và vận hành của
nhân quả, không có cái gì do một nhân mà hình thành. Tối hay sáng, tốt hay xấu,
giàu hay nghèo, sang hay hèn, quý hay tiện đều do con người tạo lấy, mọi thứ đều
có thể thay đổi được nếu chúng ta cố gắng quyết tâm, kiên trì, ý chí, chịu đựng
và bền bỉ lâu dài.
Я
Discussion about this post