PHẬT TÁNH VÀ TÂM TỪ
Nguyễn Thế Đăng
Từ Bi Hỷ Xả là những đức tính của một bậc Giác Ngộ:
“Đại từ đại bi đại hỷ đại xả chính là Phật tánh, Phật
tánh chính là Như Lai” (phẩm Bồ-tát Sư Tử
Rống, kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong bài này chúng ta tìm hiểu tâm từ và Phật tánh, y
cứ vào kinh Đại Bát Niết Bàn, chủ yếu
lấy từ phẩm Phạm Hạnh. Kinh này gắn
liền với tâm từ. Ngay trang đầu, Đức Phật đã nói: “Như Lai Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác thương mến che chở chúng sanh, là ngôi nhà lớn rộng cho chúng sanh
về nương ở, xem chúng sanh như con một là La Hầu La”. Suốt kinh đều nhắc đến
tâm từ, cho đến gần cuối kinh, phẩm Bồ-tát
Ca Diếp, có bài kệ tán thán Đức Phật, chủ yếu tán thán đại từ đại bi của
bậc Giác Ngộ.
Tâm từ là một thuộc tính của giác ngộ, đến độ nếu
không có tâm từ thì không thể gọi là giác ngộ:
“Này thiện nam tử! Tâm từ tức là Đại thừa. Đại thừa
tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai. Tâm từ tức là đạo giác ngộ. Đạo giác ngộ
tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.
“Này thiện nam tử! Tâm từ có thể vì tất cả chúng sanh
mà làm cha mẹ, cha mẹ tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.
“Này thiện nam tử! Tâm từ là cảnh giới chẳng thể nghĩ
bàn của chư Phật. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật chính là tâm từ. Nên
biết tâm từ chính là Như Lai.
“Này thiện nam tử! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng
sanh. Phật tánh ấy từ lâu bị phiền não che lấp nên khiến cho chúng sanh chẳng
được nhìn thấy. Phật tánh tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai” (Phẩm Phạm Hạnh).
Qua đoạn kinh trên, chúng ta có thể nói rằng thực hành
để đạt đến tâm từ trọn vẹn tức là đạt đến giác ngộ. Đạt đến tâm từ là đạt đến
Phật tánh, đạt đến tâm từ hay Phật tánh một cách trọn vẹn là thành Phật.
Kinh thường nhắc đi nhắc lại câu nói, “Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh”. Phật tánh là cái vốn có sẵn, không do tạo tác, nhưng
chúng sanh vì bị phiền não che lấp nên không thấy.
Nhưng tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh. Như
thế tâm từ cũng là cái vốn có sẳn, không do tạo tác, ở nơi chúng sanh mà từ lâu
bị phiền não che lấp khiến chúng sanh chẳng được nhìn thấy.
Nếu Phật tánh “không do tạo tác, không sanh không
diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch” thì tâm từ cũng “không do tạo
tác, không sanh không diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch”. Nói
thế nghĩa là chúng ta đang hiện có tâm từ này, đang sống và hoạt động trong hay
trên tâm từ này, dù chúng ta chưa thể nghiệm được nó.
Tâm từ là Phật tánh vốn có sẵn, toàn thiện, không tăng
thêm không giảm bớt. Đây là tâm từ của chân lý tuyệt đối và tối hậu. Còn những
pháp môn tu để khai mở, tương ưng với tâm từ của chân lý tuyệt đối và tối hậu
này như phát Bồ đề tâm, quán tưởng tâm từ, bố thí… thuộc về chân lý tương đối
và quy ước. Cho đến khi chân lý tương đối tương ưng và hợp chất với chân lý
tuyệt đối, lúc đó có giác ngộ viên mãn.
Sống là để tìm gặp nguồn từ bi vốn có sẵn, như Phật
tánh vốn có sẵn, và khai mở cuộc sống của chúng ta với tâm từ, thấm đẫm cuộc
đời chúng ta bằng tâm từ, làm lớn rộng hiện hữu của chúng ta bằng tâm từ. Cho
đến khi tâm từ trở thành vô lượng (Bốn vô lượng tâm) thì hiện hữu của chúng ta
cũng trở thành vô lượng.
Tâm từ là tâm thương mến, yêu mến, quý mến, dịu dàng,
gần gũi, bao che, muốn cho đối tượng không bị đau khổ mà luôn luôn được hạnh
phúc. Lòng tốt luôn luôn có nơi tâm từ: có tâm từ với đối tượng nào là có lòng
tốt (hảo tâm), có ý muốn tốt (thiện ý), không có ý làm tổn hại đối tượng ấy.
Tâm từ là sự ấm áp, sự thương mến cho đi một cách thuần túy mà không đòi hỏi
đáp lại cái gì cả. Như cha mẹ với con nhỏ, như mặt trời mặt trăng với cỏ cây.
Hơn nữa, kinh thường nói “tâm từ xem tất cả chúng sanh
đồng như con một”. Bậc “nhất tử địa” là bậc xem chúng sanh như con độc nhất
(nhất tử) của mình. Thế nào là ý nghĩa con một, đứa con độc nhất?
– Con là một liên hệ, kết nối về thân thể, huyết
thống. Con là một thân thể khác, một tâm thức khác của cha mẹ. Sự liên kết này
không thể đứt lìa trong bất cứ trường hợp nào, nhất là khi lại là con một. Tâm
từ xem tất cả chúng sanh là con một là tâm từ nối kết chặt chẽ với chúng sanh,
không thể để đứt lìa dù bất cứ nguyên nhân hoàn cảnh nào.
– Con một phải là quan trọng hơn mình, về mọi mặt,
mạng sống, tiền đồ tương lai, thành công, hạnh phúc… tất cả đều phải quan trọng
hơn cuộc sống của mình. Con một chính là tương lai và sự sống của cha mẹ.
– Cuộc đời cha mẹ phải làm mọi việc để con được an
toàn, hạnh phúc và thành đạt.
– Sự thương mến, yêu quý… dành cho đứa con độc nhất là
sự thương yêu lớn lao nhất, sâu đậm nhất và cũng là duy nhất.
Khi giữ được năm giới đối với chúng sanh (không giết
hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa) là chúng ta
bắt đầu biết thế nào là tâm từ, vì giữ năm giới chính là sự biểu lộ của tâm từ
với bên ngoài. Từ đó, chúng ta mở cuộc đời mình ra với tâm từ, huấn luyện tâm
bằng thiền định thiền quán để tâm từ có ngày trở thành vô lượng.
Phẩm Phạm hạnh nói: “Bồ-tát đối với chúng sanh phân làm ba
hạng: Một là những người thân yêu, hai là những người oán ghét, ba là những
người không thương không ghét. Mỗi hạng lại chia ra nhiều, trung bình, ít. Vị
này đối với hạng thân yêu nhiều ban cho sự vui lớn lao. Với hạng thân yêu trung
bình và ít cũng bình đẳng ban cho sự vui lớn lao. Với hạng oán ghét nhiều thì
cho ít phần vui. Với hạng oán ghét trung bình thì cho sự vui trung bình. Với
hạng oán ghét ít thì cho sự vui lớn lao.
“Bồ-tát dần dần tu tập thêm lên. Với người oán ghét
nhiều thì cho sự vui trung bình, với người oán ghét trung bình và ít, cho sự
vui lớn lao. Lại tu tập tăng thêm, với những người oán ghét nhiều, trung bình,
và ít đều bình đẳng cho sự vui lớn lao. Nếu với người oán ghét nhiều mà cho sự
vui lớn lao, bấy giờ gọi là thành tựu tâm từ”.
Khi với cả ba hạng người, nghĩa là mọi người trong thế
giới này, đều có thể tặng cho sự vui lớn lao, như thế có phải thế giới này đã
biến thành niềm vui lớn lao?
Kinh nói đến một số lợi lạc của việc thực hành tâm từ:
“Vì trừ những sự không lợi ích cho các chúng sanh, đây
gọi là đại từ. Muốn cho chúng sanh được vô lượng lợi ích an vui, đây gọi là đại
bi. Với các chúng sanh sanh lòng vui mừng, đây gọi là đại hỷ. Nếu chẳng thấy có
ta, tướng các pháp, thân mình, tướng chúng sanh, thấy tất cả pháp đều bình
đẳng, không sai khác, đây gọi là đại xả. Tự rời bỏ sự vui của mình mà đem cho
người khác, đây gọi là đại xả.
“Chỉ có bốn tâm vô lượng có thể làm cho Bồ-tát đầy đủ
được sáu pháp ba-la-mật. Bốn tâm vô lượng của Bồ-tát có thể làm cội gốc cho tất
cả hạnh lành” (Phẩm Phạm hạnh).
“Người tu tâm từ có thể dứt tham dục, sân giận”.
Bố thí cho những đạo sĩ có ngũ thông đông đảo khắp mặt
đất thì phước đức ấy “chẳng bằng tu lòng từ, trong một phần mười sáu”.
Tâm từ làm căn bản cho mọi pháp môn:
“Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật có
được căn lành đều do tâm từ làm căn bản. Bồ-tát tu tâm từ có thể sanh vô lượng
căn lành như quán bất tịnh, sổ tức, vô thường, bốn niệm xứ, mười hai nhân
duyên… cùng với bốn gia hạnh pháp noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất, kiến đạo, tu
đạo… cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, bốn thiền, bốn vô lượng tâm, không, vô
tướng, vô nguyện, vô tranh tam muội, trí biết bổn tế, trí Thanh văn, trí Duyên
giác, trí Bồ-tát, trí Phật” (Phẩm Phạm
hạnh).
Bồ-tát luôn luôn với tâm từ mà làm các hạnh. Chẳng hạn
bố thí thức uống:
“Lúc bố thí các thức uống, Bồ-tát ở trong tâm từ nên
nguyện rằng: Những thức uống bố thí hiện giờ đều cho tất cả chúng sanh chung
hưởng. Nguyện các chúng sanh rời niệm ưa sanh tử mà ưa thích Đại Niết-bàn trọn
vẹn Pháp thân, được các tam muội vào đại dương trí huệ sâu thẳm. Nguyện các
chúng sanh được vị cam lồ trí huệ xuất thế tịch tịnh lìa dục. Nguyện các chúng
sanh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Đủ pháp vị rồi được thấy Phật tánh. Thấy
Phật tánh rồi có thể rưới mưa pháp. Rưới mưa pháp rồi Phật tánh trùm khắp dường
như hư không… (Phẩm Phạm hạnh).
Tâm từ phối hợp với trí huệ soi thấy tánh Không và
cuối cùng hợp nhất với trí huệ thì tâm từ ấy trở thành Đại từ, tâm từ vô lượng
và vô thượng:
“Này thiện nam tử! Tâm từ tức là Đại Không. Đại Không
tức là tâm từ, tâm từ tức là Như Lai.
“Tâm từ là đạo vô thượng của tất cả Bồ-tát. Đạo là tâm từ, tâm từ tức
là Như Lai.
“Tâm từ nếu chẳng có thể thấu rõ
các pháp (là tánh Không), nên biết tâm từ ấy là tâm từ của Thanh văn. Tâm từ nếu thấy các pháp có tướng, nên biết tâm từ ấy
là tâm từ của Thanh văn.
“Này thiện nam tử! Nếu tâm từ chẳng có thể được mười
trí lực của Phật và bốn vô sở úy, nên biết tâm từ ấy là tâm từ của Thanh văn”
(Phẩm Phạm hạnh).
Nhờ tương ưng với “tâm từ là Phật tánh” này mà Bồ-tát
“có thể biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. “Bậc Bồ-tát Thập trụ biết tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng thấy chưa được rõ ràng, như trong đêm tối
thấy vật chẳng rõ” (Phẩm Phạm hạnh).
Nhờ “tâm từ là Phật tánh” này mà “các Bồ-tát do ở
trong Phật tánh mà xem chúng sanh bình đẳng như nhau không sai khác” (Phẩm Văn tự).
Trọn vẹn ở trong “tâm từ là Phật tánh” này, Đức Phật
“thấy rõ hoàn toàn Phật tánh của tất cả chúng sanh” (Phẩm Bồ-tát Sư tử rống).
Như vậy nhờ Phật tánh như là tâm từ, nói đầy đủ là từ,
bi, hỷ, xả mà thấy được tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, và chính vì thấy
biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà có được từ bi hỷ xả đích thực và
rộng lớn. Từ bi hỷ xả đích thực và rộng lớn đặt trên nền tảng Phật tánh chung
của mình và người, của tất cả muôn loài chúng sanh.
Phật tánh là nền tảng của tất cả đạo đức Phật giáo.
Đạo đức ấy không chia lìa với nhận thức của trí huệ, với hiểu biết của khoa học
(thấu rõ các pháp), với các ngành xã hội – nhân văn (tất cả chúng sanh), với
tất cả mọi mặt của xã hội con người.
Như vậy, tất cả mọi ngành học nghiên cứu của con
người, tất cả mọi sinh hoạt của thân, ngữ, tâm của con người, đều nằm trong câu
nói “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Chúng ta hiểu rõ hơn tại sao gọi đó
là “tiếng rống của sư tử”, phẩm Bồ-tát sư
tử rống.
Tâm từ có sức mạnh ảnh hưởng đến chung quanh: “Ví như
người ta thấy thú dữ từ xa thì tự nhiên sanh sợ sệt. Ngược lại, chúng sanh thấy
người tu tâm từ thì tự nhiên sanh vui vẻ, sung sướng” (Phẩm Phạm hạnh).
Tâm từ có sức mạnh lớn lao mà kinh nói là những thần
thông: “Ta nói tâm từ có vô lượng môn, chính là những thần thông” (Phẩm Phạm hạnh).
Trong phẩm Phạm
hạnh này có nhiều câu chuyện về Đức Phật để minh họa cho sức mạnh của tâm
từ. Đức Phật nhập “từ tâm tam muội” để điều phục con voi say do vua A-xà-thế
thả ra để hại Đức Phật. Hất văng tảng đá lớn năm trăm lực sĩ không làm gì nổi,
“nên biết chính là sức thiện căn của tâm từ khiến các lực sĩ ấy thấy như vậy”.
Rừng cây bị chặt, môi trường bị nhiễm bẩn do các Ni-kiền-tử làm để ngăn cản Đức
Phật đến một thành phố. “Lúc ta đến ngoài thành kia chẳng thấy rừng cây, chỉ
thấy trên mặt thành vũ trang chặt chẽ, ta liền thương xót khởi tâm từ. Những
cây cối mọc lên như cũ, có phần tươi tốt hơn.
“Nước sông, ao hồ, đều trở nên trong vắt, nhiều thứ
hoa nở đầy mặt đất… Lúc ấy thật ra ta chẳng hóa ra những rừng cây, cũng chẳng
làm cho nước trong sạch, cũng chẳng biến vũ khí thành những cành hoa. Nên biết
những việc ấy đều do sức căn lành của tâm từ làm cho nhân dân thành Thủ-ba-la
thấy như vậy”.
Còn nhiều chuyện về sức mạnh của tâm từ như vậy nữa.
Nhưng chúng ta có thể học một điều: sức mạnh của tâm từ có thể cải biến vật
chất, từ dơ thành sạch, từ hư hỏng biến thành tốt lành, và nhất là đối với con
người, có thể biến một tâm xấu ác thành một tâm hiền thiện.
Để kết luận về tâm từ, chúng ta trích bài kệ Bồ-tát
Ca-diếp tán thán Đức Phật, chủ yếu nói về tâm từ của bậc Giác ngộ. Bài kệ này
kết thúc chương Bồ-tát Ca-diếp:
sanh Tâm từ đó chính là nghé
nhỏ. Tự chịu các khổ vì chúng
sanh Nhớ nghĩ xót thương lòng
chẳng hối Quá thương yêu nên không
biết khổ Nên con kính lễ bậc Bạt
khổ. Như Lai tuy tạo vô lượng
phước Nghiệp thân khẩu ý thường
thanh tịnh Thường vì chúng sanh,
chẳng vì mình Nên con kính lễ Nghiệp
thanh tịnh. Như Lai chịu khổ, chẳng
biết khổ Thấy chúng sanh khổ như
mình khổ Dầu vì chúng sanh, ở địa
ngục Chẳng sanh tưởng khổ và
hối tiếc. Tất cả chúng sanh khổ
khác nhau Thảy đều Như lai một mình
chịu Biết rồi, tâm trở nên
kiên cố Nên chuyên cần tu đạo Vô
thượng. Phật chỉ đại từ tâm một
vị Nghĩ thương chúng sanh
như thương con Chúng sanh chẳng biết
Phật thường cứu Chê bai Tam bảo Phật,
Pháp, Tăng. Thế gian đầy đủ mọi phiền
não Cùng với vô lượng lỗi xấu
ác Phiền não và tội lỗi như
vậy Phật sơ phát tâm đã trừ
diệt. Duy chỉ chư Phật ca ngợi
Phật Ngoài Phật không ai biết
tán thán Nay con chỉ xưng tán một
điều: Là tâm từ trải thấm thế
gian. Tâm từ Như Lai gồm mọi
pháp Từ ấy độ được hết chúng
sanh Đó là vô thượng Chân giải
thoát Giải thoát, đó là Đại
Niết Bàn.
Nguyễn Thế Đăng
(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 174)
Discussion about this post