PHÁT BIỂU CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ĐỜI THỨ 14, TENZIN GYATSO,
VỀ VẤN ĐỀ TÁI SANH CỦA NGÀI
http://dalailama.com/messages/tibet/reincarnation-statement
Ngày 24 tháng 9 năm 2011
(Dịch Việt: Konchog Jimpa Lhamo)
Giới
Thiệu
Những
người dân Tây Tạng thân mến
của tôi, ở cả
trong lẫn ngoài đất nước
Tây Tạng, cùng tất cả
những ai đang tu tập theo truyền
thống Phật Giáo Tây Tạng
và những ai đang có những nối
kết với Tây Tạng
và người Tây Tạng: do bởi sự
nhìn xa thấy rộng của
những vị quân vương
thời cổ, cùng các vị
thừa tướng và các vị
học giả cao thâm mà toàn bộ
giáo lý của đức Phật,
gồm có những giáo lý kinh điển,
kinh nghiệm tu tập của
cả Ba Thừa và Bốn
Cấp Độ Mật
Điển, cùng với những
đề tài
và các môn học liên hệ khác, đã được
thăng hoa, phát triển một cách rộng
rãi trên Xứ Tuyết. Đối
với cả thế
giới, Tây Tạng đã trở
thành suối nguồn của
truyền thống Phật
giáo cũng như của các truyền
thống văn hoá liên
quan đến Phật giáo. Đặc
biệt, Tây Tạng đã cống hiến
một cách đáng kể cho hạnh
phúc của vô lượng người
dân đang sống tại châu Á, kể
cả những ai đang ở
tại Trung Hoa, Tây Tạng và Mông Cổ.
Trong một
chuỗi dài của việc
duy trì truyền thống Phật
giáo tại Tây Tạng, chúng tôi đã nuôi dưỡng một
truyền thống Tây Tạng
đặc thù, [đó
là] công nhận sự tái sanh của
các vị học giả
cao thâm, là những người đã đóng góp một
cách to lớn cho Giáo pháp
và cho chúng sinh, đặc
biệt hơn nữa
là cho cộng đồng tu sĩ.
Kể
từ khi đấng toàn giác Gedun Gyatso đã được nhận
diện và tuyên nhận
là hoá thân của ngài Gedun Drub
vào thế kỷ thứ
mười lăm, và từ khi Gaden Phodran Labrang tức là hệ
thống tái sinh của đức
Đạt Lai Lạt Ma được
thiết lập, thì những
vị hoá thân kế tiếp
[của đức Đạt
Lai Lạt Ma] cũng đã được tuyên nhận.
Vị hoá
thân thứ Ba trong truyền thống
ấy, ngài Sonam
Gyatso, đã được ban cho pháp hiệu Đạt
Lai Lạt Ma. Đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ
Năm, ngài Ngawang Lobsang Gyatso, đã thành lập
Chính Quyền Gaden Phodrang
vào năm 1642, trở thành vị lãnh đạo
tâm linh lẫn chính trị của
Tây Tạng. Đã trải qua hơn
600 năm từ ngài Gedun Drub trở đi cho đến
nay, một chuỗi dài bao gồm
các vị hoá thân thuộc dòng truyền
thừa của Đạt
Lai Lạt Ma đã được công nhận
một cách hoàn toàn
đúng đắn, không hề sai trật.
Các vị
Đạt Lai Lạt Ma [trong quá
khứ ] đã nhận lãnh trách nhiệm
như là những vị
lãnh đạo chính trị và tâm linh của
Tây Tạng trong suốt 369 năm từ
năm 1642 cho đến nay. Giờ đây, bản
thân tôi [Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ 14, Tenzin Gyatso]
đã tình nguyện chấm dứt
[việc nhận lãnh trách nhiệm]
như trên. Tôi hãnh diện và hài lòng là giờ
đây chúng tôi có thể noi theo một hệ
thống chính quyền dân chủ
là một hệ thống
đang nở rộ ở
khắp nơi trên thế
giới. Thật ra, ngay từ năm 1969 xa xưa trở đi, tôi cũng đã từng
nói một cách hết sức
minh bạch rằng những
ai có mối liên hệ [với
đức Đạt Lai Lạt
Ma và Tây Tạng], họ cần
phải quyết định
xem là các vị tái sanh của Đạt
Lai Lạt Ma có nên tiếp tục
trong tương lai hay không.
Tuy thế, trong khi thiếu vắng
những tôn chỉ rõ ràng, giả
sử nếu cộng
đồng những người
liên hệ bày tỏ một
ước nguyện mạnh
mẽ mong muốn các vị
tái sanh của Đạt Lai Lạt
Ma tiếp tục hiện
hữu, thì có thể có một
nguy cơ rõ rệt là sẽ
có những thế lực
chính trị có chủ ý sẽ
lợi dụng hệ
thống tuyên nhận hoá thân này để
hoàn thành những chương trình [tham
vọng] chính trị riêng tư. Do đó, trong khi tôi vẫn còn đầy đủ
sức khoẻ và tinh thần
minh mẫn, tôi nghĩ rằng có lẽ
điều quan trọng đối
với tôi là chúng ta cần phải
thiết lập những
tôn chỉ rõ ràng để tuyên nhận
vị Đạt Lai Lạt
Ma kế nhiệm, không để
bất kỳ khe hở nào cho sự
hoài nghi hay gian trá. Để có thể hiểu
được những tôn chỉ
này một cách trọn vẹn,
điều thiết yếu
là phải thấu hiểu
về hệ thống
tuyên nhận Tulku (hoá thân)
và về những khái niệm
căn bản đằng sau hệ
thống ấy. Bởi
thế cho nên, tôi sẽ vắn
tắt giải thích như
sau.
Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu về vấn đề tái sanh của ngài (Ảnh: dalailama.com)
Kiếp
quá khứ
và kiếp
tương
lai (kiếp
trước
kiếp
sau)
Để
có thể chấp nhận
được thuyết tái sanh hay về
thực tại của
các vị Tulku (tức các vị
hóa thân), chúng ta cần phải chấp
nhận sự hiện
hữu của đời
trước và đời sau, của
các kiếp
quá khứ và kiếp vị
lai. Chúng sinh hiện hữu trong cuộc
đời hiện tại
khởi đi từ những
đời kiếp trước
và chúng sinh đầu thai trở lại
sau khi chết. Sự đầu
thai trở lại một
cách liên tục này được công nhận
bởi tất cả
các truyền thống tâm linh Ấn
Độ cổ cũng như được
công nhận bởi tất
cả các trường phái triết
học, ngoại trừ
phái Charvakas [cũng thuộc Ấn Độ
cổ], là một phong trào duy vật.
Có một số các triết
gia hiện đại chối
bỏ kiếp trước
kiếp sau dựa trên tiền
đề cho là chúng ta
không thể nhìn thấy được
điều đó. Có những
người khác thì lại không vẽ
ra những kết luận
quá rõ rệt dựa trên cơ
sở này [của việc
không “nhìn thấy” được là có kiếp
trước kiếp sau].
Cho dù có rất nhiều
truyền thống tôn giáo công nhận
việc đầu thai trở
lại thì các truyền thống
này lại có những cái nhìn khác nhau, chẳng hạn
như là các quan điểm khác nhau về
cái gì là cái đầu thai trở lại,
đầu thai trở lại
như thế nào, và sự
việc xảy ra như
thế nào khi đi qua
giai đoạn chuyển tiếp
giữa hai kiếp sống.
Có một số truyền
thống tôn giáo chấp nhận
viễn ảnh của
kiếp tương lai, nhưng
lại chối bỏ
khái niệm về những
đời quá khứ.
Nói chung, người Phật
tử tin tưởng rằng
không có khởi đầu của
sự chào đời và họ
tin rằng một khi chúng ta đạt
được giải thoát khỏi
vòng xoay luân hồi, bằng cách khắc
phục
được nghiệp báo và các tâm thức
tiêu cực, thì chúng ta sẽ không phải
bị đầu thai trở
lại dưới sự
lôi kéo của những điều
kiện nghiệp duyên đó nữa.
Do đó, người Phật tử
tin rằng có thể chấm
dứt việc đầu
thai như là kết quả
của nghiệp báo và các tâm thức
tiêu cực,
nhưng đa số các trường
phái triết học Phật
giáo đều không
chấp nhận rằng
có sự chấm dứt
của dòng tâm thức. Việc
chối bỏ quá khứ
và chối bỏ sự
đầu thai trong tương lai sẽ
tương phản với
các khái niệm Phật giáo liên quan đến
[các giáo lý thuộc về] nền
tảng, đạo và quả,
và những điều này cần
phải được giải
thích dựa trên một cái tâm thuần
thục [được chế
ngự] hoặc một
cái tâm bất thuần thục
[không được chế ngự].
Đối
với những ai có thể
nhớ lại được
tiền kiếp thì việc
đầu thai trở lại
là một kinh nghiệm rất rõ ràng. Tuy nhiên, đa số những
người tầm thường
đều quên đi tiền kiếp
của họ khi họ
phải trải qua quá trình của
cái chết, của giai đoạn
giao chuyển (thân trung ấm) và của
việc đầu thai. Đối
với những người
này thì đời quá khứ và đời
tương lai có chút
mù mờ, nên chúng ta phải dùng luận
lý dựa trên chứng cớ
rõ rệt để chứng
minh cho họ về kiếp
trước kiếp sau.|
Có rất
nhiều những lý giải
tranh luận khác nhau được đưa
ra dựa trên lời Phật
dạy, cũng như dựa
trên những luận giải
tiếp nối sau ngài, để
chứng minh
về sự hiện
hữu của kiếp
trước kiếp sau. Một
cách vắn tắt, những
lý giải ấy đưa
đến 4 điểm như
sau: lý luận cho rằng mọi
vật được sinh ra bởi
một vật tương
tự như nó trước
đó, lý luận cho rằng mọi
vật được sinh ra bởi
một nguyên nhân nguồn gốc
chắc thực trước
đó, lý luận cho rằng tâm thức
đã làm quen [huân tập] với những
gì trong quá khứ, và lý luận cho rằng
những gì trải qua trong quá khứ
là những kinh nghiệm đạt
được.
Một
cách rốt ráo, tất cả
những lý giải tranh luận
trên đây đều dựa trên khái niệm
cho
rằng bản tánh của
tâm, cùng tánh thông suốt và tánh tỉnh giác [của
tâm ấy], bắt buộc
phải dựa trên sự
sáng tỏ thông suốt và sự
tỉnh giác như là các nguyên nhân chắc thực.
Không thể nào có một thực
thể nào khác, chẳng hạn
như là một vật
thể vô tri vô giác
nào đó, [lại có thể trở
thành] nguyên nhân nguồn gốc chắc
thực [đưa đến
sự hiện hữu]
của bản tâm. Điều
này tự nó có thể chứng
minh được. Qua sự phân tích dựa
trên luận lý, chúng ta có
thể đi đến kết
luận rằng một
dòng chảy mới mẻ
của sự thông suốt
và sự tỉnh giác [của
bản tâm] sẽ không thể
nào hiện hữu nếu
không có được những nguyên nhân chắc
thực, hoặc không thể
nào hiện hữu với
những nguyên nhân
không liên can. Trong khi chúng ta quan sát để
thấy được rằng
tâm thức không thể nào được
sản xuất ra từ
một viện bào chế,
thì chúng ta cũng có thể đi đến kết
luận rằng chẳng
gì có thể diệt trừ
được sự tương
tục của tánh thông suốt
và tánh tỉnh giác vi tế [của
bản tâm].
Theo cái hiểu biết
trước giờ của
tôi, không có một nhà tâm lý học, vật
lý học hay thần kinh học hiện
đại nào lại có thể
quan sát và đoán trước rằng tâm là sản
phẩm đến từ
một chất đặc
nào đó, hoặc tâm là một sản
phẩm không đến từ
một nguyên nhân nguồn gốc
nào cả.
Có những
người có thể nhớ
lại được ngay cái kiếp
mà họ vừa trải
qua, kể cả nhiều
đời kiếp trước
nữa, và cũng có những người
có thể nhận biết
ra được những nơi
chốn và bà con họ hàng từ
những đời kiếp
đó. Đây không phải là việc chỉ
xảy ra trong quá khứ. Ngay cả
ngày nay cũng có rất nhiều người
ở phương Đông và phương
Tây có thể nhớ lại
được những tình huống
và kinh nghiệm từ những
đời quá khứ. Nếu
chối bỏ điều
này trong khi làm khảo cứu thì đó không phải
là một cách thức trung thực
và sẽ phiến diện
vô cùng, bởi vì điều ấy
đi ngược lại với
bằng chứng ở
trên. Hệ thống Tây Tạng
chứng nhận các vị hoá thân là một
phương thức điều
tra nghiên cứu trung thực dựa
trên sự hồi nhớ
về những đời
kiếp trước của
các cá nhân ấy.
Đầu
thai như
thế
nào
Có
thể có hai cách thức mà một
người nào đó có thể đầu
thai trở lại sau khi lìa đời: đầu thai trở lại
do
sự lôi kép của nghiệp
và các tâm thức tiêu cực nguy hại,
và đầu thai trở lại
nương vào sức mạnh
của lòng từ bi và sự
cầu nguyện. Đối
với lại cách thứ
nhất, bởi vì do vô minh mà các nghiệp lành và nghiệp
ác được tạo ra và những
dấu ấn của
các nghiệp này tồn đọng
lại trong tâm thức. Những
dấu ấn ấy
được kích hoạt trở
lại qua sự tham luyến
và bám chấp, đưa dẫn
chúng ta đầu thai trở lại
trong kiếp kế tới.
Sau đó, chúng ta không tự nguyện mà vẫn
cứ bị đầu
thai trở lại trong các cõi cao hơn hoặc
thấp hơn. Đây là cái
cách mà các chúng sinh bình thường
cứ liên tục, không dứt
đoạn, quày tới quày lui trong vòng hiện hữu
của luân hồi, y hệt
như là một bánh xe quay. Nhưng
ngay cả trong những hoàn cảnh
như thế thì chúng sinh tầm
thường với một
tâm nguyện tốt lành cũng có thể nỗ
lực tinh tấn tham gia vào các thiện hạnh
trong đời sống hằng
ngày. Họ huân tập bản
thân trong các thiện hạnh để
khi chết đi thì [những dấu
ấn của] các thiện
hạnh này lại được
kích hoạt trở lại,
trở thành những phương
tiện giúp họ tái sinh vào những
cõi cao hơn. Ngược lại,
những vị Bồ
tát tối thắng, là những
người đã đạt đến
con đường của cái thấy
(kiến đạo), các vị ấy không đầu
thai trở lại do bởi
nghiệp lực hay các xúc cảm
ô trược nguy hại lôi kéo, mà do bởi
sức mạnh của
lòng từ bi của các ngài dành cho
chúng sinh và dựa trên những lời
cầu nguyện muốn
đem lại lợi lạc
cho kẻ khác. Các vị ấy
có thể lựa chọn
nơi chốn và ngày giờ
chào đời, cũng như lựa
chọn cha mẹ tương
lai. Một sự đầu
thai như thế, duy nhất
bởi vì lợi lạc
cho các chúng sinh khác, chính là sự
đầu thai xuyên qua sức mạnh
của lòng từ bi và sự
cầu nguyện.
Ý nghĩa của Tulku (hoá thân)
Có vẻ
như là phong tục Tây Tạng
về việc sử
dụng danh hiệu ‘Tulku’ (Thị
Hiện Thân của Phật)
dành cho những vị hoá thân đã khởi
sự bắt đầu
từ khi những người mộ
đạo sử dụng
từ Tulku đó như là một
tước hiệu danh dự. Nhưng mà từ đó trở
đi thì cách gọi này trở thành là một
biểu lộ thông thường.
Nói chung, từ Tulku ám chỉ một
khía cạnh đặc biệt
của đức Phật,
là một trong ba hay bốn khiá cạnh
[phẩm tánh] đã được mô tả
trong Kinh thừa. Dựa trên những
giải thích về các phẩm
tánh này của đức Phật,
một người hoàn toàn thoát khỏi, không bị
trói buộc bởi những
tâm thức ô nhiễm nguy hại
và không bị trói buộc bởi
nghiệp, người ấy
có khả năng đạt được
Pháp Thân (Chân Thân) (Truth Body – Dharmakaya), và Pháp
Thân ấy bao gồm Trí Pháp Thân (Wisdom Truth Body) và Thể Tánh Pháp Thân (Nature Truth Body). Trí Pháp
Thân chỉ đến tâm giác ngộ
của một vị
Phật; tâm ấy, trong một
khoảnh khắc có thể
nhìn thấy trực tiếp
mọi thứ, một
cách
đích xác như chúng thật là. Tâm ấy
hoàn toàn tịnh hoá khỏi các xúc cảm
nguy hại, kể cả
hoàn toàn tịnh hoá khỏi các dấu
ấn của các tâm thức
tiêu cực ấy, xuyên qua việc
tích lũy công đức và trí tuệ qua một
thời gian dài.
Sau đó, đến Thể Tánh Pháp Thân, là đang
chỉ đến tánh không của
chính tâm toàn tri toàn giác ấy.
Đây là hai đặc tánh của chư
Phật dành cho chính
các ngài. Nhưng mà bởi vì các phẩm
tánh ấy không thể được
trực tiếp tiếp
cận bởi những
người khác, chỉ có thể
xuyên suốt được giữa
các vị Phật với
nhau, cho nên bắt buộc chư
Phật phải hoá hiện
trong hình tướng phàm để chúng sinh có thể
tiếp cận và như
vậy thì mới có thể
giúp đỡ được chúng sinh. Vì vậy, khiá cạnh
sắc tướng cao nhất
của một vị
Phật chính là Thọ Dụng
Thân (Báo Thân hay Báu Thân) (Body of
Complete Enjoymeng – Sambhogakaya), có thể
được tiếp cận
bởi chư Bồ
Tát cao tột, và Thọ Dụng
Thân thì có năm phẩm tánh, mà một trong năm phẩm
tánh đó là an trú tại cung trời Sắc
Cứu Cánh Thiên
(Akanishta). Rồi từ Thọ
Dụng Thân ấy lại
hoá hiện ra vô
lượng vô số Thị
Hiện Thân của chư
Phật (Hiện Thân) hoặc
Tulku (Nirmanakaya – Hoá Thân). Các vị
hiện ra như là chư
Thiên hoặc loài người và có thể
được tiếp cận
bởi các chúng sinh
bình thường. Hai đặc tánh mang hình tướng
này của Phật được
gọi là Sắc Thân (Form
Bodies), có nghĩa là với dành cho những kẻ
khác.
Thị
Hiện Thân (Emanation
Body) gồm có ba phân loại: a) Hiện
Thân Tối Thượng (Supreme Emanation Body) giống như
là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đức Phật
lịch sử, đã hoá hiện
mười hai công hạnh của
một
vị Phật, chẳng
hạn như là đảnh
sanh vào nơi chốn mà ngài đã lựa
chọn, vân vân; b) Hiện Thân Mỹ
Thuật (Artistic
Emanation Body) để phụng sự
người khác bằng cách thị
hiện như là những
nghệ nhân, nghệ sĩ, vân vân; c). Hoá Hiện Thân (Hoá Thân) (Incarnate Emanation
Body) mà qua đó chư Phật hiện
ra trong vô số hình tướng khác nhau như
là con người, Hộ Phật,
con sông, chiếc cầu, dược
thảo và cây cối để
giúp đỡ chúng sinh. Trong số ba loại Thị
Hiện Thân này, sự tái sanh của
các vị đạo sư
tâm linh được công nhận và biết đến
như là các vị Tulku tại
Tây Tạng nằm trong loại
Thị Hiện Thân thứ
ba. Trong số các vị Tulku này, có thể
có nhiều vị là những
Hoá Thân đầy đủ phẩm
tánh thực sự của
chư Phật, nhưng
điều này cũng không nhất thiết
là áp dụng được cho tất
cả các vị Tulku. Trong số các vị
Tulku của Tây Tạng, có nhiều
vị là tái sanh của các vị
đại Bồ Tát tối
cao, của các vị Bồ
Tát trên con đường tích lũy (tư lương
đạo) và con đường chuẩn
bị (gia hạnh đạo),
cũng như là tái sanh của những
vị đạo sư,
là những vị tuy qua minh chứng chưa
thực sự bước
vào đến con đường tư
lương đạo và gia hạnh
đạo ấy của
chư Bồ Tát. Do đó, danh hiệu Tulku được
dành cho các vị Lama tái sanh được đặt
trên cơ sở rằng
các ngài [không khác nào] giống
như là các vị giác ngộ,
hoặc do bởi các ngài có sự kết
nối với một
số các phẩm hạnh
nào đó của chư vị
giác ngộ.
Như
đức Jamyang Khyentse
Wangpo đã có nói:
“Tái sanh là chuyện xảy
ra khi một người nào đó đầu
thai trở lại sau khi vị
tiền nhiệm qua đời;
hiện thân là khi một sự
hoá hiện xảy đến
mà không cần
có sự qua đời của
vị [hoá thân] gốc.”
Tuyên nhận các hoá thân
Viện
tuyên nhận ai là ai qua, việc nhận
diện đời trước
của một người
nào đó, việc ấy xảy
ra ngay cả khi chính đức Phật
Thích Ca còn tại thế. Có rất
nhiều câu chuyện đã được
tìm thấy trong
Phẩm thứ tư
– Agama (Ngũ Bộ Kinh) của Luật
Tạng, trong Truyện Tiền
Thân Phật, trong Kinh Hiền Ngu, Kinh Bách Nghiệp và vân vân. Trong đó, Như Lai đã khai mở
về luật vận
hành của nhân quả, kể
lại vô lượng vô số
câu chuyện về những
ảnh hưởng nghiệp
báo của đời trước
được một người
nào đó trải nghiệm trong đời
này ra sao. Thêm vào đó, trong chuyện
cuộc đời của
những vị đạo
sư Ấn Độ
là những người đã sống
sau thời đại đức
Phật, cũng khai mở cho ta thấy
về những nơi
chốn chào đời trong những
kiếp quá khứ của
các vị ấy. Có rất
nhiều những câu chuyện
như thế, nhưng
hệ thống công nhận
và thứ tự hoá các vị
tái sanh đã không xảy ra tại xứ Ấn.
Những
hệ
thống
tuyên nhận
các vị
tái sanh tại
Tây Tạng
Trước khi đạo
Phật đến Tây Tạng
thì kiếp trước kiếp
sau cũng đã được công nhận trong truyền
thống bản xứ
thuộc đạo Bon của
Tây Tạng. Và từ khi Phật
giáo được truyền bá tại
Tây Tạng thì gần như
tất cả mọi
người dân Tây Tạng đều
tin vào kiếp trước kiếp
sau. Việc đi điều tra, tìm kiếm tái sanh của
rất nhiều vị
đạo sư tâm linh, là những
người duy trì Phật pháp, cũng như
phong tục cầu nguyện
các vị ấy một
cách vô cùng thành tín, tất
cả đã trở thành những
điều được thực
hành rộng rãi ở khắp
nơi trên xứ Tây Tạng. Có rất nhiều những kinh văn chính thống, các văn liệu
bản xứ của
Tây Tạng, chẳng hạn
như Mani Kabum hoặc Giáo Lý Năm Nhánh Kathang cùng những tài liệu
tương tự như
Tập Luận của
Các Đệ Tử Kadam hoặc
Chuỗi Châu Bảo: Giải
Đáp Các Thắc Mắc, là những
tài liệu được kể
lại bởi vị
đạo sư Ấn
Độ vô song, ngài
Dipankara Atisha của thế kỷ
thứ mười một
tại Tây Tạng, trong đó có kể
lại về những
câu chuyện của các tái sanh của
Thánh giả Quán Thế Âm, Bồ
Tát của Đại Từ
Bi. Tuy thế, truyền thống
chính thức tuyên nhận các vị
tái sanh của các
đạo sư như
truyền thống tái sanh ngày nay đã khởi sự
bắt đầu vào đầu
thế kỷ thứ
mười ba qua sự việc
ngài Karmapa Pagshi đã được chính các đệ tử
của ngài tuyên nhận ngài là tái sinh của [vị
tiền nhiệm] Karmapa Dusum Khyenpa, dựa trên chính những
chỉ dẫn được
để lại cho đệ
tử bởi vị
tiền nhiệm ấy.
Từ đó trở đi, đã có mười
bảy hoá thân Karmapa
trong hơn chín trăm năm
nay. Cũng giống như thế,
bắt đầu từ
việc tuyên nhận ngài Kunga Sangmo là tái sanh của ngài Khandro Choekyi Dronme của thế
kỷ thứ mười
lăm cho đến
nay thì đã có mười vị tái sanh của
Samding Dorje Phagmo. Cho nên, trong số
các Tulku được tuyên nhận tại
Tây Tạng, có những vị
là tu sĩ và những vị là hành giả
Mật thừa, cả
nam lẫn nữ. Hệ
thống tuyên nhận các vị
tái sanh dần dần lan truyền
đến các truyền thống
Phật Giáo Tây Tạng khác, kể
cả đạo Bon, ở
Tây Tạng. Ngày nay, có những vị
Tulku được tuyên nhận trong khắp
bốn truyền thống
Phật Giáo Tây Tạng, Sakya, Geluk, Kagyu và Nyingma, cùng với Jonang và Bodong, là những vị
hiến mình cho Giáo
pháp. Nhưng cũng
có những trường hợp
cho thấy là trong số các vị
Tulku ấy, có những vị
đáng phải hổ thẹn.
Đấng toàn giác Gedun Drub, một đệ
tử tâm truyền của
ngài Je Tsongkhapa, đã khai lập
tu viện Tashi Lhunpo tại vùng Tsang và đã chăm lo cho các đệ tử
của ngài. Đại sư
Gedun Drub thị tịch vào năm 1474 vào tuổi 84. Cho dù lúc đầu,
chẳng có nỗ lực
nào để nhận diện
lại tái sanh của ngài, nhưng
cuối cùng người ta bị
buộc phải tuyên nhận
đứa trẻ tên Sangye Chophel, ra đời vào năm 1476 tại
Tanak ở vùng Tsang, bởi vì những
gì đứa trẻ đó nói ra cho thấy
nó có một trí nhớ cực
kỳ tuyệt vời và không chút gì sai trật về
cuộc đời trong quá khứ.
Từ đó trở đi, một
truyền thống tái sanh đã khởi
sự bắt đầu,
chuyên đi tìm kiếm và tuyên nhận lại
những vị tái sanh kế
tiếp của các vị
Đạt Lai Lạt Ma do Gaden Phodran Labrang, và sau đó, do
Chính Quyền Gaden Phodran, điều hành.
Cách thức tuyên nhận
các vị
tái sanh
Sau khi hệ
thống tuyên nhận các vị
Tulku bắt đầu hiện
diện [tại Tây Tạng],
có nhiều cách thức khác nhau đã được
khởi sự và phát triển. Trong số
những phương cách khác nhau này thì phương cách quan trọng
nhất liên quan đến lá thư
tiên đóan của vị tiền
nhiệm cùng với những
hướng dẫn và những
dấu hiệu khác nhau có thể
xảy đến; hoặc
qua cách vị tái sanh nhớ lại
và kể lại một
cách đáng tin cậy về
chuyện đời trước;
hoặc qua cách vị ấy
nhận diện ra được
những vật dụng
thuộc về vị
tiền nhiệm hoặc
nhận diện ra được
những người thân cận
trong đời trước. Ngoài những
phương thức ấy
ra, còn có thêm những phương thức
bổ túc khác, chẳng hạn
như là thỉnh
xin các tiên đoán của những vị
đạo sư tâm linh đáng tin cẩn, cũng như
hỏi xin tiên đóan của những
vị thầy tiên tri thế
tục (oracle) trong
khi các vị này đang ở trong trạng
thái xuất thần, hoặc
quan sát các linh ảnh hiện tra trong những
hồ nước thiêng của
những vị hộ
pháp như là Hồ Lhamoi Latso, là hồ
nước linh thiêng ở về
phiá nam Lhasa.
Khi xảy
ra sự việc có nhiều
hơn là một người
ứng tuyển tương
lai có thể được tuyên nhận
là một vị Tulku, và quyết
định lựa chọn
tối hậu trở
thành việc quá khó
khăn, thì có một phương pháp tiên đoán nữa
được đem ra sử dụng,
đó là việc dùng những viên bột
(zen tak) ngay trước một linh ảnh
trong khi khẩn thiết thỉnh
nguyện năng lực của
chân lý nhiệm mầu.
Hiện
thân trước
khi vị
tiền
nhiệm
qua đời
(ma-dhey tulku)
Thông thường,
một vị tái sanh phải
là một người đầu
thai trở lại làm một
con người khác, sau khi vị tiền
nhiệm qua đời. Thông thường,
các chúng sinh bình thường không thể hoá thành ra một
hiện thân khác trước khi họ chết (ma-dhey tulku), nhưng chư
vị đại Bồ
Tát tối cao, là những người
có thể đồng lúc hoá hiện
trong trăm ngàn hình tướng khác nhau, các vị ấy
có thể hoá hiện ra một
hiện thân ngay cả trước
khi các vị ấy lìa đời.
Trong truyền thống tuyên nhận
Tulku của Tây
Tạng, có những hiện
thân thuộc vào cùng một dòng tâm thức
với vị tiền
nhiệm, có những hiện
thân có sự liên hệ với
nhau qua năng lực của nghiệp
duyên và sự cầu nguyện,
và có những hiện thân đã hoá hiện
như là kết quả
của sự gia trì và phó thác.
Mục
đích chính yếu
của sự hoá hiện
của một vị
tái sanh là để tiếp tục
công việc chưa hoàn tất
của vị tiền
nhiệm để hộ
trì Giáo pháp và [hoá độ]
chúng sinh. Trong trường
hợp của một
vị Lama như một
người bình thường, thay vì có một
vị tái sanh thuộc vào cùng trong một dòng tâm thức,
thì một người nào đó với
những liên hệ kết
nối [tâm linh] với vị
Lama ấy, xuyên qua phước duyên thanh tịnh
và [năng lực] cầu nguyện,
thì người đó cũng có thể được
công nhận là hiện thân của
vị Lama. Một cách khác hơn
nữa, cũng có thể là vị Lama sẽ
bổ nhiệm một
người kế thừa,
và người kế thừa,
có thể là một đệ
tử hoặc một
người nào đó trẻ tuổi
hơn, sẽ được
tuyên nhận là hiện thân của
vị Lama kia. Bởi vì những
sự lựa chọn
như vậy cũng có thể
xảy ra trong trường hợp
của một chúng sinh bình thường, nên trường
hợp có một vị
hiện thân không
thuộc vào cùng một dòng tâm thức
cũng có thể xảy ra trước
khi [vị tiền nhiệm]
lìa đời. Trong một số
trường hợp, một
vị đại cao tăng Lama cũng có thể có một
vài tái sanh khác nhau đồng một lúc, chẳng
hạn như hiện
thân của thân, hiện thân của
khẩu và hiện thân của
ý, vân vân. Trong thời
hiện đại, có những
trường hợp nhiều
người biết đến,
ấy là có những vị
hiện thân đã hóa hiện trước
khi [vị tiền nhiệm]
lìa đời, chẳng hạn
như là trong trường hợp
của ngài Dudjon
Jigdral Yeshe Dorje và ngài Chogye Trichen Ngawang Khyenrab.
Sử
dụng
chiếc
Lư
Vàng
Bởi vì thời
mạt pháp này ngày
càng tệ mạt, và bởi
vì các tái sanh của những vị
Lama cao trọng được tuyên nhận
ngày càng nhiều, lại có một
số vị được
tuyên nhận bởi các động lực
chính trị, nên con số những
vị tái sanh được công nhận
qua các phương pháp không đúng
đắn và đáng hồ nghi ngày càng cao, và kết quả
của sự việc
này là gây ra một tai hại hết
sức to lớn cho Đạo
pháp.
Trong giai đoạn xung đột
giữa Tây Tạng và Gurkha
(1791-93), chính phủ Tây Tạng đã phải
cầu cứu sự
hỗ trợ của
quân đội Mãn châu
(Manchu). Kết cuộc là quân đội
Gurkha đã bị đánh đuổi khỏi
lãnh thổ Tây Tạng, và sau đó, chính quyền Mãn châu đã soạn
ra một bản kiến
nghị 29 điểm dựa
trên cái cớ là giúp cho cơ quan điều
hành của Chính Phủ Tây Tạng
thêm phần hiệu quả.
Kiến nghị này gồm
có những đề nghị
về việc có thể
bắt thăm từ một
chiếc Lư Vàng [chiếc
bình làm bằng vàng] để quyết
định về việc
công nhận tái sanh của các vị
Đạt Lai Lạt Ma, của
các vị Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama) cũng như của
các vị Hutuktu – một tước
hiệu Mông Cổ dành cho những
vị Lama cao trọng. Do đó, phương
thức bắt thăm này đã được
noi theo trong một vài trường hợp
tuyên nhận hóa thân của Đạt
Lai Lạt ma, Ban Thiền Lạt
Ma hoặc một vài vị Lama
cao trọng khác. Nghi
thức cần phải
noi theo đã được viết xuống
bởi đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ
Tám, ngài Jamphel Gyatso. Cho dù sau khi một
hệ thống như
vậy đã được giới
thiệu trước đây, nhưng
trong trường hợp của
Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Chín, thứ Mười
Ba và trong trường hợp bản
thân tôi, Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười Bốn,
thì phương thức bắt
thăm từ chiếc Lư
Vàng đã được bãi bỏ.
Ngay cả
trong trường hợp của
Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười, vị
hoá thân đích thực đã được tìm thấy
và trên thực tế thì cái phương
thức trên không hề được
tuân theo, nhưng để làm vui lòng người
Mãn châu, đã có một công bố ra đời,
đơn giản báo cho họ
biết rằng nghi thức
đó đã được sử dụng.
Hệ
thống chiếc Lư
Vàng thật ra chỉ được
sử dụng trong hai trường
hợp duy nhất là Đạt
Lai Lạt Ma
đời thứ Mười
Một và đời thứ
Mười Hai. Tuy
nhiên, Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười Hai đã được
tuyên nhận trước khi cái phương
thức chiếc Lư
Vàng được áp dụng. Và vì vậy
cho nên, chỉ có duy nhất một
trường hợp Đạt
Lai Lạt Ma được lựa
chọn dựa vào chiếc
Lư Vàng.
Cũng như thế, trong số
các hoá thân của Ban Thiền Lạt
Ma, ngoại trừ đời
thứ Tám và đời thứ
Chín, không có một trường hợp nào khác mà phương cách này được sử
dụng. Hệ thống
bắt thăm này đã được áp đặt
bởi chính quyền Mãn châu, nhưng
người Tây Tạng không có
chút niềm tin nào vào điều này bởi
vì việc này thật sự
chẳng mang một tính cách tâm linh nào cả. Dù là như
thế, nếu phương
cách này được sử dụng
một cách chân thành,
thì cũng chúng ta cũng có thể
xem đó tương tự giống
như cách thức tiên đoán dựa
trên việc
sử dụng các viên bột
(zen tak).
Vào năm 1880, trong thời điểm
tuyên nhận Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ Mười
Ba là hoá thân của đời thứ
Mười Hai, ta thấy vẫn
còn hiện hữu những
dấu vết của
sự liên hệ Đạo
Sư và Bảo Hộ
giữa Tây Tạng và Mãn châu. Đạt
Lai Lạt Ma
đời thứ Mười
Ba đã được tuyên nhận là vị
hoá thân đích thực không hề sai trật
từ đức Ban Thiền
Lạt Ma đời thứ
Tám, từ những tiên đóan của
các vị thầy tiên tri (oracle) thuộc [hai tu viện]
Nechung và Samye, cùng với việc quan sát những
linh ảnh hiện ra trong Hồ Lhamoi Latso, và do đó, nghi thức chiếc
Lư Vàng đã không được noi theo. Ta có thể hiểu
về điều này rất
rõ ràng xuyên lá chúc thư cuối cùng của
đức Đạt Lai Lạt
Ma đời thứ Mười
Ba, viết vào năm Con Khỉ Nước
(1933), trong đó ngài có nói rằng:
“Như
tất
cả các ông đã biết, tôi đã được
lựa chọn, không từ
cái tập quán lựa chọn
bắt thăm từ chiếc
Lư Vàng, mà tôi đã được lựa
chọn dựa trên những
lời tiên tri và tiên
đoán. Theo đúng như những lời
tiên tri và tiên đoán mà tôi đã được
tuyên nhận là tái sanh của Đạt Lai Lạt
Ma và đã được tấn phong.”
Khi bản
thân tôi được công nhận là hoá thân đời
thứ Mười Bốn
của Đạt Lai Lạt
Ma vào năm 1939 thì liên hệ
Đạo Sư và Bảo
Hộ giữa Tây Tạng
và Trung Hoa đã chấm dứt [trước
đó] rồi. Vì vậy cho nên, không có cần phải
đặt câu
hỏi về nhu cầu
sử dụng chiếc
Lư Vàng để xác nhận
việc tuyên nhận hoá thân của
tôi. Điều mà rất nhiều
người biết là vị
Nhiếp Chính của Tây Tạng
vào thời điểm đó cùng với Hội Đồng Quốc
Gia Tây Tạng đã tuân theo phương thức
tuyên nhận Đạt Lai Lạt
Ma dựa trên
những tiên đóan của các vị
Lama cao trọng, của các vị
thầy tiên tri cùng với các linh ảnh
hiện ra tại Hồ
Lhaomi Latso; và Trung Quốc
không có bất kỳ một liên hệ
dính líu gì đến việc này. Cho dù là như
thế, có một số
nhân viên cao cấp có liên hệ trong chính quyền Trung Quốc
Quốc Dân Đảng ( Guomintang), đã xảo quyệt
tung ra những lời nói dối
trong giới báo chí nói rằng họ
đã đồng ý có những bước
đi trước qua việc sử
dụng cái Lư Vàng, và nói thêm rằng ông Wu Chung-tsin đã chủ toạ
lễ tấn phong của
tôi, vân vân. Lời
nói dối này đã được vạch
trần bởi Ngabo Ngawang Jigme, Phó Chủ Tịch
Ủy Ban Thường Trực
của Hội Nghị
Quốc Gia Nhân Dân, một người
được Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa xem là nhân vật cấp
tiến nhất. Điều
này đã trở nên rất rõ ràng trong Phiên Họp thứ Nhì
của Hội Nghị
Toàn Vùng Tự Trị Tây Tạng
(ngày 31/07/1989), khi vào cuối
bài diễn văn, ông ta đã giải thích chi tiết
tường tận và trưng
bày cho mọi người xem các văn kiện
như là các chứng cớ.
Rồi ônh ta lên đòi hỏi:
“Có nhu cầu
nào để cho Đảng Cộng
Sản theo
chân và tiếp tục những
lời nói dối của
Trung Quốc Quốc Dân Đảng
không?”
Chánh sách giả dối
và hy vọng
hão huyền
Trong
thời gian vừa qua, có những
trường hợp của
những người quản
lý vô trách nhiệm, chuyên quản lý gia tài bất động
sản giàu có kếch sù của những
Lama. Những người này đã ham mê chạy
theo những cách thức công nhận
tái sanh một cách bất chính và điều
này đã làm hại đến thanh danh của
Giáo pháp, của cộng đồng
tu sĩ cũng như của xã hội
của chúng ta.
Thêm vào đó, từ
thời Mãn châu đến nay, các giới chính trị
có thế lực của
Trung Hoa thường xuyên tham dự trong các phương
tiện đầy xảo
trá, sử dụng Phật
giáo, các vị thầy của
Đạo Phật cũng như
các vị hoá thân Tulku như là các công cụ
để hoàn thành các
tham vọng chính trị của
họ, qua việc họ
can thiệp
vào các vấn đề của
Tây Tạng và Mông Cổ. Ngày nay, những nhà lãnh đạo
độc đoán của Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa, là những
người cộng sản
chối bỏ tôn giáo nhưng
lại vẫn tham dự
vào các vấn đề tôn giáo, họ
đã áp đặt cái gọi là chiến
dịch giáo dục cải
tạo, và
tuyên bố về cái gọi
là Trật Tự Thứ
Năm, liên quan đến việc kiềm
chế và công nhận các vị
tái sanh, bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 1 tháng Chín, năm 2007. Điều này thật
là một sự xúc phạm
và đáng bỉ hổ. Việc
bắt ép tuân theo những cách thức
không thích đáng khác nhau để công nhận
các tái sanh [với mục đích] xóa sạch
truyền thống đặc
thù của văn hoá Tây Tạng hiện
đang tạo ra những thiệt
hại rất khó chữa
lành.
Thêm vào đó họ nói là họ
đang chờ tôi chết đi và rồi
họ sẽ tuyên nhận
Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười Lăm theo sự lựa
chọn của họ.
Điều này thật rõ ràng, là qua các quy luật, điều
luật mới đây, cũng như
qua các tuyên ngôn của họ tiếp
theo sau đó , họ có một chánh sách rất
chi tiết để lừa
gạt người Tây Tạng,
cùng lừa gạt những
môn đồ của truyền
thống Phật Giáo Tây Tạng và cộng
đồng thế giới. Do đó, bởi vì tôi có trọng trách phải
bảo vệ Giáo pháp và chúng sinh, và ngăn chặn các âm mưu
nguy hại ấy, nên tôi phải
đưa ra lời công bố
sau đây.
Tái sanh kế tiếp
của
Đạt
Lai Lạt
Ma
Như
tôi đã có nhắc đến trước
đây, tái sanh là một hiện
tượng chỉ nên xảy
ra, hoặc là qua sự tình nguyện
lựa chọn của
cá nhân có liên hệ, hoặc ít nhất
là cũng qua sức mạnh của
nghiệp duyên, phước báu và sự
cầu nguyện. Bởi
thế cho nên, cá nhân
người tái sanh có toàn
quyền quyết định
là muốn
tái sanh ở đâu, tái sanh bằng cách nào và qua hình thức nào mà vị
tái sanh sẽ được tuyên nhận.
Đây là một thực tại
không ai có thể ép buộc, hoặc
sử dụng mánh khoé để
thao tác. Điều này đặc biệt
lại càng không đúng đắn nếu
những người cộng
sản Trung Quốc, là những
người dứt khoát chối
bỏ ngay chính cái ý
niệm về kiếp
trước kiếp sau chứ
đừng nói chi đến khái niệm
về những vị
Tulku tái sanh, bây giờ lại muốn
can thiệp vào hệ thống
[tuyên nhận] tái sanh, và nhất là tái sanh của
các vị Đạt Lai Lạt
Ma và Ban Thiền
Lạt Ma. Điều này đi ngược lại
với hệ tư
tưởng chính trị của
họ và mở ra cho ta thấy là họ có hai bộ mặt.
Nếu tình trạng như
thế này tiếp diễn
trong tương lai, thì không
thể nào người dân Tây Tạng
và những ai đang đi theo
truyền thống Phật
Giáo Tây Tạng
có thể công nhận hay chấp
nhận được.
Khi
tôi vào khoảng chín mươi tuổi,
tôi sẽ tham vấn với
những vị Lama cao trọng
thuộc các truyền thống
Phật Giáo Tây Tạng, cùng với
cộng đồng Tây Tạng
và những người có liên hệ
đang noi theo Phật Giáo Tây Tạng. [Vào lúc đó] tôi sẽ thẩm địnnh
lại về cơ
chế Đạt Lai Lạt
Ma xem có nên tiếp tục hay không. Dựa trên căn bản
đó, chúng ta có thể đi đến một
quyết định. Nếu
[vào lúc đó] có quyết định là tái sanh của
Đạt Lai Lạt Ma cần
phải tiếp tục
và có nhu cầu để Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ
Mười Lăm được tuyên nhận
thì trọng trách của việc
tuyên nhận hoá thân phần lớn
sẽ nằm trong tay của
những nhân viên có
liên hệ [được uỷ
quyền], thuộc cơ
quan Gaden Phodrang Trust của
Đạt Lai Lạt Ma. Những
vị này cần phải
tham vấn với các vị thủ
ngôi trì giữ các truyền thống
tu tập khác nhau trong
Phật Giáo Tây Tạng, cùng tham vấng
với những vị
Hộ Pháp tín cẩn, là những
vị đã được nối
kết chặt chẽ
không phân lìa và đã tuyên thệ
[trung thành] với dòng truyền thừa
của các vị Đạt
Lai Lạt Ma.
Những nhân viên [được uỷ
thác này] cần phải nhận
lấy những lời
khuyên và hướng dẫn từ
các vị có liên hệ và thi hành phương
thức tìm kiếm và tuyên nhận
dựa theo truyền thống
trong quá khứ. Tôi sẽ để
lại những lời
hướng dẫn rõ ràng minh bạch
về việc này. Hãy ghi
khắc trong tâm khảm rằng,
ngoại trừ vị
tái sanh được tuyên nhận xuyên qua những
phương cách chính thống như
thế, thì không thể công nhận
hay chấp thuận một
ứng viên nào được lựa
chọn từ những
lý do chính trị, bởi bất
kỳ ai, kể cả bởi
những người thuộc Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa.
Đạt Lai Lạt
Ma
Dharamsala
Bản Việt ngữ (dịch tạm) được Konchog Jimpa Lhamo chuyển dịch từ bản Anh ngữ vào ngày 26/09/2011.
Bản Anh ngữ được chuyển dịch từ bản Tạng ngữ và được đăng tải trên trang nhà chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma: www.dalailama.com.
Discussion about this post