cho biết về Năm Thời Thuyết
Pháp của Đức Phật.
TRẢ
LỜI: Theo Ngài đại sư Trí Khả thì đức Phật thuyết
pháp chia là 5 thời kỳ:
1.
Thời
kỳ Hoa Nghiêm (Avatamsaka). – Sau khi mới thành đạo, đức
Phật dùng tuệ nhãn nhìn thấy rõ tâm địa các vị đại
Bồ tát và các bậc căn trí thượng thừa đã thuần thục,
nên Phật nói kinh Hoa Nghiêm để giáo hóa và điều ngự họ.
Trong số đó cũng có những hàng tiểu căn nghe, nhưng lại
chẳng hiểu đức Phật nói gì cả.
2.
Thời
kỳ A Hàm (Agamas). – Thời kỳ đức Phật nói kinh “Tứ
A Hàm”:
– Dirghàgamsa
sutra (Trường A Hàm)
–
Madhyamàgamas sutra (Trung A Hàm)
–
Ekottarikàgamas sùtra (Tăng Nhất A Hàm)
–
Samyaktàgamas sùtra (Tạp A Hàm) và
– Khudhana
sùtra (Tiểu A Hàm) (Tạp Tạng) thì gọi là “Ngũ A Hàm”.
Bộ kinh này đầu tiên đức Phật giảng tại vườn hoa Lộc
Uyển (Sarnath), nên sau này còn gọi là Thời kỳ Lộc Uyển,
vì căn cơ của các hàng Thanh văn còn thấp kém nên Phật nói
Pháp “Tứ Diệu Đế” (Catuariyasaca = Khổ, Tập, Diệt, Đạo);
diễn giảng trong 4 bộ kinh A Hàm, để giáo huấn các bậc
sơ cơ Tiểu Thừa.
3.
Thời
kỳ Phương Đẳng (Vaipulya). – “Phương Đẳng” có nghĩa
là thời kỳ thuyết giáo chung cho hết thảy chúng sinh, gồm
4 giáo TẠNG – THÔNG – BIỆT – VIÊN. Về thời kỳ này,
đức Phật nói kinh Vimalakirti (Duy Ma Cật) để giáo hóa các
bậc Tiểu Căn, rằng giáo pháp thuộc Nhị Thừa giáo chưa
phải là chỗ rốt ráo, cùng tột, đã vội cho là đủ, tức
Phật có ý quở trách để họ tự biết hối mà ham mộ giáo
lý Thượng Thừa.
– Tạng
Giáo, tức Tam Tạng Thánh Giáo.
– Thông
Giáo, tức có nghĩa là đức Phật thuyết pháp cho mọi hạng
người đều nghe. Hàng đệ tử căn cơ ám độn khi nghe giáo
pháp ấy thì “thông” vào Tạng Giáo; bậc căn trí sáng láng,
nghe giáo pháp ấy rồi thì được “thông” vào Biệt Giáo
và Viên Giáo, nên gọi là Thông Giáo.
– Biệt
Giáo, tức là đức Phật nói phép cho hàng Bồ tát, khác với
Tạng Giáo, Thông Giáo kể trên và Viên Giáo sau này, nên gọi
là Biệt Giáo.
– Viên
Giáo, Đức Phật đối với các bậc Bồ tát có căn trí thông
tuệ mà nói ra pháp cao siêu, mầu nhiệm, dạy đủ Viên, Đốn,
cho nên gọi là Viên Giáo.
(Trong
4 Giáo trên, TẠNG, THÔNG BIỆT, là 3 giáo thuộc về Quyền
Giáo, VIÊN giáo thuộc về Thật Giáo).
4.Thời
kỳ Bát Nhã (Prajnãramita), tức thời kỳ đức Phật nói
các kinh Bát Nhã để mở mang kiến, văn, giải, cho hàng Tiểu
căn, có tâm hướng thượng; nhưng hãy còn có chỗ cố chấp,
chưa dứt bỏ hết được, nên Phật nói pháp “Bát Nhã Không
Tuệ” để phá chấp, giúp cho họ không đạt lý CHÂN KHÔNG
DIỆU HỮU của các “Pháp”. (Đấy chẳng qua là “giả tướng”,
chứ thực ra không có cái gì là thật thể hiện hữu trên
cõi đời này). Nhờ đó mà hàng Tiểu căn sớm đạt được
giải thoát.
5.Thời
kỳ Pháp Hoa và Niết Bàn (Saddharmapundarikam – Nirvàna), tức
thời kỳ đức Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa và kinh Niết
Bàn cho mọi căn cơ, mọi lớp người (từ thượng căn, bậc
căn trí thông tuệ, đến trung căn, bậc căn trí trung bình
và hạ căn, bậc căn trí thấp kém), tất cả đều được
nghe và hiểu, tùy mỗi căn tính chúng sinh; cũng gọi là “HộiTam
Qui Nhất” cho đến khi đã thuần thục, nên đức Phật trực
chỉ nghĩa Khai, Quyền, Hiển, Thực, tức là chỉ thẳng Thật
Tính, Thật Tướng của các “pháp”; không ngoài mục đích:
“Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật Tri Kiến” cho chúng sinh đều
được chứng đạo quả “Vô Thượng Bồ Đề = Anuttara Samyak
Sambodhi”. Ngoài ra, cũng có những căn cơ vì quá thấp kém
thì Phật giảng kinh Niết Bàn để độ tận chúng sinh cùng
vào bể “Đại Hải Thanh Tịnh”, chứng đạo quả Giác ngộ
và Giải thoát.
Discussion about this post