PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

Blank
ĐỪNG BẢO XUÂN TÀN HOA RỤNG HẾT

 Vĩnh Hảo

 

(Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994. Sau một phần tư thế kỷ, chạnh lòng nhớ thầy, nhớ ba, tác giả ngồi gõ lại ngày cuối năm, gửi tặng mọi người)

 

SantruoccanhmaiThuở còn bé, cứ mỗi độ năm hết Tết đến là lòng tôi rộn rã, náo nức; ngồi trong lớp chỉ mơ nghĩ đến hội chợ, quần áo mới, tiền lì xì, chơi bài, đánh bầu cua, v.v… không làm sao mà học cho vô. Nỗi háo hức mong đợi cái Tết đã khởi sự xâm chiếm lòng tôi tự những ngày đầu tháng Chạp cho đến tận giây phút giao thừa. Cứ mỗi tờ lịch rơi xuống, tôi nghe như nỗi háo hức tăng mạnh thêm lên; càng gần ngày ba mươi càng thấp thỏm, bồn chồn, vui không sao tả được.

Nhưng vui nhất là ngày ba mươi Tết. Ngày đó, trong nhà trước ngõ đã được mẹ và các anh chị lớn lau chùi, sửa soạn, trang trí xong xuôi hết rồi. Tôi cũng có góp công trong việc chùi đồ đồng chứ chẳng phải không, vì tôi nghĩ công việc hết thì Tết mới đến nhanh được.

Mẹ tôi sửa soạn cho bàn thờ Phật và bàn thờ ông bà tổ tiên là kỹ lưỡng, chu đáo nhất. Đèn nến, hoa trái, trầm hương, trang nghiêm không kém gì bàn thờ ở chùa cả. Nhất là bộ lư đồng và các cặp chân đèn: sáng trưng, bóng lưỡn, y như vàng ròng vậy. Trên bàn thờ, ngoài hoa quả là những thứ mẹ tôi thường dâng cúng mỗi ngày rằm và mồng một, còn có bánh mứt, hạt dưa và nguyên một quả dưa hấu thật lớn nữa. Mẹ tôi chăm lo mọi thứ, chỉ dành cho ba tôi một công việc mà ông có thể làm được thôi, đó là trên đường từ sở về nhà, ghé mua một nhánh mai lớn từ hôm hai mươi hai Tết, trước ngày đưa ông Táo về trời. Ba tôi đặt chậu mai lớn cạnh bàn thờ, gần phòng khách. Chính chậu mai này làm cho không khí Tết ra vẻ Tết hơn cả.

Đến gần ngày 30 Tết mà thấy mai chưa chịu hé nhụy là ba tôi thúc thuốc cho hoa nở kịp Tết. Không biết ba tôi học cái mẹo đó ở đâu; chỉ thấy, không khi nào ông để cho mẹ tôi thất vọng trong “công tác” duy nhất của dịp Tết mà bà giao ông làm.

Đến ngày giao thừa thì mai nở rộ. Sau tràng pháo đì đùng góp tiếng với hàng triệu phong pháo đang nổ giòn khắp non sông, ba mẹ rồi đến anh chị em tôi, lần lượt thắp nhang lễ Phật, lễ ông bà tổ tiên. Trong nhà, khói hương nghi ngút. Mùi thuốc pháo cũng trộn lẫn trong không khí ấm cúng của đêm giao thừa. Lễ xong thì đến mục mừng tuổi và lì xì. Mục này hình như là mục chính của đêm giao thừa, tôi nghĩ vậy. Ba mẹ tôi ngồi nơi phòng khách. Bầy con 14 đứa (vắng người chị cả đi du học), nhỏ đứng trước, lớn đứng sau, quần áo mới chỉnh tề, sắp thành hai hàng ngang để mừng tuổi ba mẹ. Người chị lớn thứ nhì thay mặt bầy con chúc Tết, cầu ba mẹ mạnh khỏe sống đời. Sau đó, ba tôi đáp lễ đôi dòng vắn tắt nhưng đầy thương yêu, cảm động. Lúc nào cũng vậy, ông đều khuyên chúng tôi ăn hiền ở lành, chăm chỉ học hành để mai này giúp ích cho xã hội, cho giống nòi mà còn làm nở mặt tông tộc nữa. Rồi mẹ tôi lì xì. Lớn trước nhỏ sau. Những bao lì xì đỏ mà thuở ấy, bọn nhỏ như tôi thấy nếu thiếu chúng thì Tết cũng mất hết ý nghĩa.

Hí hửng mở bao lì xì ra xem, sau đó lũ trẻ chúng tôi, nếu từ mười ba tuổi trở xuống thì phải đi ngủ lại cho đến sáu giờ sáng mới được phép trở dậy để đón Tết. Đi ngủ ngay sau giờ giao thừa quả thực là một cực hình cho tôi! Các anh chị từ mười bốn tuổi trở lên không biết thức làm gì! Chắc cũng chỉ ngồi ăn bánh mứt, cắn hạt dưa, uống trà thôi chứ có đại sự gì đâu! Nhưng nằm trăn trở một lúc tôi thấy không khí trong nhà sao im quá. Tôi đoán, vậy là những người lớn đã rời khỏi nhà, đi đâu rồi. Tôi lén trở dậy, vén màn nhìn ra phòng khách: không có ai cả; chỉ có mình ba tôi thôi. Có lẽ mẹ và các chị đi chùa sư nữ ở gần nhà, còn các anh thì đi chơi với bạn bè.

Ba tôi ngồi uống trà, tư lự. Suốt năm, hình như chỉ có lúc này là ông có thể được ngồi một mình. Ba tôi làm ở Tòa Hành Chánh Tỉnh, một mình ông mà nuôi cả nhà mười mấy đứa con ăn học, cho nên không có phút giây nào thực sự rảnh rỗi cho ông ngơi nghỉ. Nhà đông con nên rộng cũng thành hẹp, chẳng còn khoảng trống nào cho ba tôi ngồi thở một mình với thế giới riêng của ông. Bây giờ ông ngồi đó, nét mặt không có vẻ gì là buồn cả. Có lẽ ông đang hồi niệm những chuyện cũ xa xưa thơ mộng nào đó trong cuộc tình của ông với mẹ. Nhưng thấy ông ngồi một mình như vậy, tôi bỗng chạnh lòng, muốn khóc. Tôi bước ra an ủi ông:

“Ba ơi, sao ba không đi chùa với me hả ba? Ba mệt hả?”

“Đâu có. Ba muốn ở nhà một mình, vừa coi nhà, vừa ngắm mai. Bảy giờ ba mới đi chùa. Sao con không ngủ? Nì, ăn miếng mứt gừng cho ấm bụng.”

Tôi nhìn cành mai ba cắm trong cái bình lớn cao gần bằng tôi. Cành mai vươn lên trên, tỏa ra tứ phía, đầy sức sống. Tôi không biết thưởng thức mai; chỉ coi sự hiện diện của nó như là dấu hiệu của xuân, của Tết mà nếu không có nó thì thấy thiếu vắng vô cùng. Nhưng ba tôi thì ngồi uống trà, ngắm mai một cách lặng lẽ với vẻ đam mê thích thú. Tôi nói:

“Mai đẹp quá hả ba!”

“Ừ, đẹp. Thôi, con đi ngủ cho khoẻ mai mới chơi được.”

Tôi rút vào phòng nhưng ba cứ ngồi mãi một mình nơi phòng khách, uống trà, ngắm mai.

Cành mai rực rỡ nhất vào ngày mồng hai, như thể toàn lực của nó được phát tiết vào ngày đó để rồi tàn dần theo những ngày Tết cuối. Khách nào đến cũng trầm trồ khen cành mai đẹp. Ba tôi chỉ cười. Mai còn nở nhưng ngày mồng tám chúng tôi đã phải cắp sách trở lại trường. Tôi không muốn đi học nữa. Mai còn nở là còn Tết, sao lại phải đi học! Đi học đâu có lợi ích gì chứ! Tại sao người ta lại bày ra chuyện học hành chi cho mệt nhỉ! Hậm hực trong lòng vậy thôi chứ cũng phải đi học, không đi thì bị phạt đòn. Ba mẹ tôi không bao giờ đánh con, nhưng chị lớn của tôi sẽ chẳng bao giờ tha bầy em nghịch ngợm hay biếng học cả.

Mỗi chiều đi học về, tôi vẫn thấy cành mai đó. Dư âm ngày Tết còn đọng trong lòng tôi thì cũng còn biểu hiện nơi cành mai. Tôi sợ mất đi cành mai đẹp ấy. Bánh mứt, trái cây trên các bàn thờ đã được hạ xuống từ ba ngày đầu năm. Chỉ còn cành mai là dấu vết cuối cùng của những ngày xuân vui vẻ, hạnh phúc và ấm cúng trong gia đình. Mất nó đi thì tôi không còn bám víu vào đâu được nữa. Và nếu nó mất đi có nghĩa rằng ngày Tết đã thực sự qua rồi. Tôi sợ điều đó lắm.

Vậy đó mà cành mai còn nở đẹp đến rằm tháng Giêng, khi mẹ tôi lại bày cúng hoa quả bánh trái xôi chè trên các bàn thờ. Hai ngày sau đó, mẹ tôi mới sai anh tôi dẹp chậu mai. Cành mai được đem ra đầu ngõ, đặt bên cạnh thùng rác, dựa vào cây trụ điện trước nhà. Khuya hôm sau, xe rác dọn sạch. Buổi sáng ra nhìn lại, chỉ thấy một khoảng trống ở giữa thùng rác và trụ điện. Tôi buồn muốn khóc.

Có lẽ tôi là đứa trẻ ham thích cái vui trường cửu. Những cái Tết vui tươi của tuổi thơ khi trôi qua chỉ làm đậm thêm nỗi buồn trong tôi mà thôi. Nỗi buồn vì mất đi mùa xuân. Nỗi buồn vì hết Tết. Nỗi buồn vì những trò vui chơi không kéo dài. Nỗi buồn vì cành mai đẹp đã khô héo và bị xe hốt rác dọn đi. Tất cả những thứ ấy dường như đã thúc đẩy tôi, kêu gọi tôi đi tìm một mùa xuân bất diệt. Hai năm sau cái Tết ấy, tôi vào chùa xuất gia.

 

Ở chùa, một nếp sống mới mở ra. Tôi loay hoay sống theo qui củ thiền môn, sớm chiều kinh kệ công phu trên điện Phật; quét sân, nhổ cỏ, tưới cây ngoài vườn chùa; lau bàn, chùi nền trong phòng tăng… thời giờ rảnh thì học kinh, học giáo lý, v.v… đến nỗi không còn hở phút giây nào để bận tâm về xuân, về Tết, về những cuộc vui mà tôi mong là không bao giờ chấm dứt.

Ở chùa cũng có xuân, có Tết, nhưng Tết ở chùa khác lắm. Chùa đón Tết như là một ngày vía Phật Di Lặc, hay là một dịp lễ lớn mà khách thập phương đến đông, cần phải đón tiếp. Ở chùa không có “ăn” Tết. Có gì đâu mà ăn! Quanh năm suốt tháng ăn chay đạm bạc thì Tết vẫn cứ là ba bữa ăn (có khi còn đạm bạc hơn bình thường, vì mấy ngày Tết nhà bếp đâu có nấu nướng chi, chỉ lột bánh chưng bánh tét thay cơm thôi). Chùa cũng không có chuyện đánh bài đánh bạc, chơi cờ hay bầu cua cá cọp… nên cũng chẳng có gì gọi là trò vui. Chỉ có mệt mà thôi. Làm chú tiểu thì phải đứng mãi nơi chánh điện để thỉnh chuông cho khách thập phương thay nhau lễ bái, hoặc thỉnh đại hồng chung suốt ngày. Quý thầy muốn tiếng chuông chùa ngân suốt những ngày Tết, nên các chú tiểu phải thay phiên nhau thỉnh chuông liên tục. Mệt lắm. Thỉnh chuông thì phải mặc áo tràng và vì vậy cũng phải giữ trang nghiêm suốt ngày. Đến tối vẫn còn người đến lễ Phật. Gần mười hai giờ khuya mới được nghỉ. Xong ba ngày Tết thì thở phào như trút gánh nặng. Không buồn gì hết. Cảm ơn Tết đã qua mau để được ngơi nghỉ.

Chùa cũng có chưng bình hoa mai lớn, đẹp lắm. Tôi nghe nhiều người khen như vậy. Nhưng tôi không có thời giờ để quan tâm đến nó và khi nó bị dẹp đi, tôi cũng không biết là vào lúc nào. Mùa xuân, theo lối đó, có thể nói là không có; hay cũng có thể nói rằng tôi đã không có mùa xuân để mà mất nữa.

Vài năm sau, trưởng thành hơn một chút, tôi được cho đi học xa, ở một Phật học viện, đến Tết mới được về chùa của thầy tổ. Đêm giao thừa, làm lễ xong, bọn tiểu chúng tôi được cho phép ngồi uống trà ăn mứt với thầy. Thầy cũng lì xì bọn tiểu chúng tôi nhưng chúng tôi không để ý là có bao nhiêu tiền trong bao lì xì cả. Chúng tôi chỉ thích được ngồi bên thầy để có được không khí ấm cúng thương yêu mà thôi. Thầy cũng như cha. Khi chúng tôi bỏ gia đình đi tu, chúng tôi chỉ có mỗi người thân thương yêu, gần gũi chúng tôi nhất là thầy. Vừa uống trà, thầy vừa kể vài câu chuyện đạo cho chúng tôi nghe. Có khi thầy đọc thơ nữa. Những bài thơ Thiền, những bài thơ xuân; trong đó có bài thi kệ nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác thời nhà Lý mà lúc ấy tôi mới được nghe qua lần đầu.

Thầy đọc bài âm hán-việt trước, sau đó mới đọc bài dịch nghĩa cho chúng tôi nghe:

“Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mặt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai.” (1)

 

Nghe thầy đọc tôi rung động cả người. Tôi thấy được loáng thoáng những gì tôi đang kiếm tìm. Sau Tết, tôi rời chùa, trở lại Phật học viện để tiếp tục học. Lần này, tôi mang theo tâm tưởng cành mai của thầy tôi.

 

Tàn xuân Ất Mão (1975), khi cây mai cổ thụ tuyệt đẹp của trường tôi vừa rụng hết những cánh hoa cuối mùa, đất nước đổi thay.

Năm năm ở chùa, đến lúc đó tôi chỉ mới mười sáu tuổi và hãy còn là một chú sa-di ngây ngô chẳng hiểu gì về xã hội bên ngoài. Phật học viện giải tán. Các chú tiểu cùng trường lục tục trở về chùa cũ. Tôi ở lại trường cùng với các thầy các chú thường trú ở đây, làm ruộng, làm vườn, quyết tâm tu tập hành trì, bỏ mặc thế sự ngoài tai, đến nỗi không biết rằng chính trong thời gian đó, ba tôi bị bắt đi “học tập cải tạo” (thực ra là đi tù), và gia đình tôi, vì là vợ con của một viên chức chế độ cũ, đã bị chính quyền mới xem như là một gia đình xấu, các anh chị không thể tiếp tục dạy học, thậm chí còn không được gia nhập đội ngũ công nhân bốc vác của các xí nghiệp quốc doanh nữa.

 

***

 

Mùa xuân năm sau, tôi mới về lại chùa xưa thăm thầy và sau đó, về thăm gia đình đúng vào dịp Tết. Tôi không ngờ chưa đầy một năm sau biến cố 1975 mà gia đình tôi đã khánh tận. Nhà tôi không ăn Tết. Không có bánh mứt, hạt dưa. Không có bánh chưng bánh tét. Không có pháo. Không có bài bạc. Và dĩ nhiên là không có cả cành mai đẹp. Ba mẹ tôi cũng không có tiền để đặt vào bao lì xì đỏ cho bầy con, trong đó hãy còn bốn đứa vị thành niên. Các anh chị đã lập gia đình không về vì ở xa. Những anh chị em còn lại thì ngồi ủ rũ trong nhà y như những tội nhân bị giam chờ ngày xét xử. Ai thấy tôi về cũng vui mừng nhưng cười gượng gạo. Hình như họ không muốn một người xuất gia như tôi, dù vẫn cứ là người ruột thịt trong nhà, phải chứng kiến sự suy sụp tàn tệ của gia đình.

Tôi nhìn thảm cảnh gia đình mà sửng sốt, bàng hoàng. Ba tôi lúc đó vì bệnh quá nặng, mới được thả về từ trại tập trung cải tạo; hai chân bị sưng phù lên, chỉ ngồi một chỗ. Tôi lên gác nói chuyện với mẹ. Bà biết tôi chỉ về thăm rồi sẽ trở lại trường nên có bao nhiêu tiền trong bọc bà dúi cho tôi, sợ rằng tôi khó có dịp về lại nữa để bà có cơ hội biểu lộ sự chăm sóc của bà. Tôi nghĩ có lẽ số tiền đó bà mới kiếm được nhờ bán cái bàn hay cái tủ trong nhà để mua gạo cho cả nhà ăn cầm hơi. Nhìn quanh, tôi thấy trống trơn những vật dụng của gia đình. Tôi trả lại mẹ số tiền đó, nghẹn ngào từ giã bà. Bước xuống nhà dưới, tôi kéo hai em nhỏ ra ngoài, móc hết tiền túi (mà tôi được thầy lì xì), đưa cho hai em mang vào cho gia đình có mà ăn Tết. Sau đó, tôi vội vàng trở về chùa. Tôi không chia sẻ được niềm đau và những khó khăn của gia đình. Tôi chỉ muốn bước ra khỏi thực tế đó để khỏi phải bật khóc. Từ đó, tôi ý thức được rằng mùa xuân năm ấy đã bị kết thúc bởi một cơn bão khủng khiếp, quét sạch bao nhiêu niềm vui và lẽ sống của dân tộc, trong đó có cả mái ấm của gia đình tôi.

Tôi về chùa, ngồi một mình nơi cột cờ trước chánh điện, nhìn xuống núi. Đã mấy năm rồi, từ khi vào chùa, mùa xuân đi qua đời tôi lặng lẽ như vậy. Tôi không còn những háo hức hay tiếc nuối về sự còn mất của mùa xuân nữa. Nhưng nghe như trong lòng đau buốt mãi bởi một vết thương nào đó.

 

***

 

Tàn xuân năm 1985, khi chính quyền tổ chức linh đình lễ kỷ niệm mười năm chiến thắng của họ thì tôi đang lẩn trốn vì lệnh truy nã của công an tỉnh Đồng Nai và Sài-gòn. Cũng là lúc tàn xuân. Sự kết thúc của một cái này luôn là để mở màn cho một cái khác. Sự vui mừng của những người nọ có thể là nỗi khốn khổ của những người kia. Chỉ vài ngày sau đó, tôi bị bắt vì tội mà người ta gọi là “phản cách mạng.” Không ai ngờ một chú tiểu chỉ biết quét lá đa trong sân chùa như tôi cuối cùng lại đi vào con đường đó. Nhưng tôi biết rằng tôi đã không “phản” ai. Tôi chỉ muốn đi tìm một mùa xuân vui tươi cho đất nước quê hương tôi mà thôi.

Mùa xuân năm sau là mùa xuân đầu tiên tôi ở trong tù. Ở đây, tù nhân cũng nôn nả đón Tết. Tối ba mươi, phòng giam tổ chức uống trà ăn bánh tập thể và ca hát suốt đêm chờ giao thừa. Có kẻ hát bài “Xuân này con không về,” giọng không hay nhưng nghe truyền cảm lắm. Bài ca đánh trúng tâm trạng nhớ nhà của tù nhân khiến nhiều anh phải rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc. Tôi nhìn ra cửa sổ và thấy cây mai tứ quí thấp thoáng trong bóng đêm. Cây mai này chúng tôi nhìn thấy hàng ngày nhưng không để ý lắm. Bây giờ, trong thời gian này, nó mới thật là giá trị. Ngày mai mồng một, mọi người sẽ nhìn thấy nó và sẽ cảm thấy “Tết.”

 

Một tuần sau Tết dương lịch của năm kế tiếp, tôi được trả tự do với một lệnh tạm tha vì bệnh nặng. Nhưng ba tôi đã mất hai ngày trước khi tôi về. Ông không còn đủ sức để chờ đợi thêm một mùa xuân không vui trên đất này nữa. Tết đó là Tết Đinh Mão, 1987, tôi có mặt ở nhà (vì lệnh tạm tha không cho tôi được về chùa, ý người cầm quyền buộc tôi phải hoàn tục). Mẹ tôi mua tặng ba tôi một cành mai nhỏ khiêm tốn, đặt trước bàn thờ. Rồi mẹ tôi rót trà cho ba vào đêm giao thừa. Tôi nhớ hai mươi năm trước, ba tôi ngồi uống trà một mình, ngắm mai. Tôi nhớ ba cho tôi miếng mứt gừng ăn cho ấm bụng, bảo tôi đi ngủ; rồi ba tiếp tục ngồi lặng lẽ uống trà, ngắm mai. Chỉ có Tết ba tôi mới được rảnh để thưởng thức giây phút một mình ấy.

 

Năm nay, 1991, xuân chưa kịp về, tôi đã nhận tin báo của mẹ tôi từ trong nước gửi ra, cho biết thầy tôi vừa mất. Tôi lặng người. Đến chùa làm lễ tưởng niệm thầy, tôi đọc một bài thơ ghi lại nhiều kỷ niệm giữa hai thầy trò. Tuổi trẻ của tôi đặt hết trong chùa nên tình cảm thầy-trò sâu đậm như tình phụ tử. Ba tôi mất, tôi đã đau khổ và khóc nấc lên khi ngồi lặng một mình. Bây giờ thầy tôi mất, tôi không khóc nên tiếng nấc như vậy, nhưng nước mắt cứ chảy mãi, chảy mãi.

Tôi nhớ cứ xuân về là thầy tự tay cắm mai cho chánh điện chùa. Nếu mai không nở kịp Tết thì thầy đem trui gốc để thúc cho mai nở. Hết xuân hết Tết rồi thầy cứ ngâm “Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.”

 

Nhiều mùa xuân đi qua rồi mà tôi bây giờ vẫn cứ như thuở nào: vẫn là một đứa bé ham thích cái gì lâu bền, trường cửu. Tôi không mong đợi những mùa xuân tạm bợ, giả tạo. Nhưng mùa xuân cứ đến. Rộ nở để chấm dứt một cái gì và tàn phai cũng để bắt đầu cho một cái gì khác. Tất cả tàn tạ, trôi qua, mất đi. Ba tôi không còn để ngắm mai. Thầy tôi không còn để cắm mai. Và quê hương tôi đã vắng đi những mùa xuân thực sự tươi vui trong nhiều năm qua. Nhưng loáng thoáng đâu đó trong cuộc sống, tôi vẫn như nhìn thấy một nhánh mai rực rỡ, vươn lên, đầy sức sống. Như thể trong cuộc tìm kiếm của tôi, thầy tôi đã trao cho tôi một nhánh mai bất diệt mà chính trong những lúc đau thương cùng cực nhất, tôi nhìn thấy nó: không phải để thưởng thức, để được an ủi, mà là để cảm nhận rằng có một cái gì đó trường cửu, luôn có mặt trong kiếp sống phù du này.

 

California, mùa đông năm 1991.

 

 

__________________

 

  1. Bản dịch của Ngô Tất Tố.

Tin bài có liên quan

Ý Niệm Về Mùa Xuân Di Lặc

Ý niệm về mùa Xuân Di Lặc

Ý Niệm Sắc Xuân Nghệ Thuật Bonsai Nhật Bản

Ý Niệm Sắc Xuân Nghệ Thuật Bonsai Nhật Bản

Ý Nghĩa Ngày Tết – Thích Nữ Diệu Huệ

Y Hình Hoa Mai Hoa Đào

Y Hình Hoa Mai Hoa Đào

Xuân Viễn Xứ

Xuân Về Với Nếp Sống Đạo Đức Của Người Con Phật

Xuân Về Với Nếp Sống Đạo Đức Của Người Con Phật

Xuân Về Thay Áo Mới

Xuân về thay áo mới

Xuân Về Nơi Đất Khách

Xuân về nơi đất khách

Xuân Về Nguyện Ước Đạo Đời Viên Thông

Xuân về nguyện ước đạo đời viên thông

Xuân Về Ngẫm Đến Lẽ Thịnh Suy…

Xuân Về Ngẫm Đến Lẽ Thịnh Suy…

Load More

Discussion about this post

Đối Xử Với Mọi Người Như Với Đức Phật

Đối xử với mọi người như với Đức Phật

ĐỐI XỬ VỚI MỌI NGƯỜI NHƯ VỚI ĐỨC PHẬT Mingyur Rinpoche | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ   Là...

Nguồn Gốc Nghi Thức Bông Hồng Cài Áo – Khổng Trọng Hinh

Nguồn Gốc Nghi Thức Bông Hồng Cài Áo – Khổng Trọng Hinh

NGUỒN GỐC NGHI THỨC BÔNG HỒNG CÀI ÁO Khổng Trọng Hinh Câu chuyện "Bông Hồng Cài Áo" của chúng ta...

Góc Nhìn Người Phật Tử

Góc Nhìn Người Phật Tử

GÓC NHÌN NGƯỜI PHẬT TỬ: Hội thảo khoa học: 50 năm phong trào Phật giáo ở Miền Nam (1963-2013)Giác Hạnh...

Câu Chuyện Về Một Ngôi Chùa

Câu chuyện về một ngôi chùa

CÂU CHUYỆN VỀ MỘT NGÔI CHÙANguyễn Đan AnhChùa Thiền Tịnh nằm trên Quốc lộ 20 thuộc xã Phú Ngọc, huyện...

Bắt Đầu Và Kết Thúc Từ Một Mùa Xuân

Bắt đầu và kết thúc từ một mùa Xuân

BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC TỪ MỘT MÙA XUÂN Dương Kinh Thành            Nhớ tính triết...

Phật Thừa Tôn Yếu Luận

PHẬT THỪA TÔN YẾU LUẬN (Hiện Đại Phật Giáo Khái Luận)Thái Hư Đại Sư Thích Thiện Hạnh DịchLời giới thiệu:Phật...

Có Nên Dịch Lại Tâm Kinh Hay Không

Có Nên Dịch Lại Tâm Kinh Hay Không

CÓ NÊN DỊCH LẠI TÂM KINH HAY KHÔNGNguyễn Minh Tiến   Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm...

Dâng Sao Giải Hạn Đã Ở Mức Tệ Đoan

Dâng sao giải hạn đã ở mức tệ đoan

DÂNG SAO GIẢI HẠN ĐÃ Ở MỨC TỆ ĐOAN Hàng ngàn người ngồi xếp hàng bên ngoài chùa Phúc Khánh...

Mùa Dịch: Tôn Giáo, Khổ Đau, Và Thi Ca

Mùa dịch: tôn giáo, khổ đau, và thi ca

MÙA DỊCH: TÔN GIÁO, KHỔ ĐAU, VÀ THI CANguyên Giác Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh...

Đạo Lý Chân Chính Cho Người Cái Cần Câu Hay Con Cá?

Đạo Lý Chân Chính Cho Người Cái Cần Câu Hay Con Cá?

ĐẠO LÝ CHÂN CHÍNH CHO NGƯỜI CÁI CẦN CÂU HAY CON CÁ?Thích Đạt Ma Phổ Giác Ngày xưa tại một làng...

Thiền, Stroke Và Trái Tim

Thiền, Stroke Và Trái Tim

THIỀN, STROCKE VÀ TRÁI TIMChu Tất Tiến Cách đây vài năm, khi tôi đang còn chủ trương một chương trình...

Đạo Phật Có Thể Giúp Gì Cho Sức Khỏe Của Chúng Ta?

Đạo phật có thể giúp gì cho sức khỏe của chúng ta?

ĐẠO PHẬT CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO SỨC KHỎE CỦA CHÚNG TA?Stephen S. Hall | Hằng Như dịch Giáo sư...

Cõi Âm Có Hay Không? Nhận Thức Của Phật Giáo Đối Với Vấn Đề Này

CÕI ÂM CÓ HAY KHÔNG? NHẬN THỨC CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÀY?GS. Minh Chi Phật giáo không...

Kinh Điển Đại Thừa Có Phải Do Phật Thuyết Không?

KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA CÓ PHẢI DO PHẬT THUYẾT HAY KHÔNG? Thích Hạnh Bình Dẫu rằng, các lần kiết tập...

Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa

Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa

NHỮNG LỜI DẠYTỪ CÁC THIỀN SƯ VIỆT NAM XƯATeachings From Ancient Vietnamese Zen MastersTranslated and Commented by Nguyen GiacPhap Vuong...

Đối xử với mọi người như với Đức Phật

Nguồn Gốc Nghi Thức Bông Hồng Cài Áo – Khổng Trọng Hinh

Góc Nhìn Người Phật Tử

Câu chuyện về một ngôi chùa

Bắt đầu và kết thúc từ một mùa Xuân

Phật Thừa Tôn Yếu Luận

Có Nên Dịch Lại Tâm Kinh Hay Không

Dâng sao giải hạn đã ở mức tệ đoan

Mùa dịch: tôn giáo, khổ đau, và thi ca

Đạo Lý Chân Chính Cho Người Cái Cần Câu Hay Con Cá?

Thiền, Stroke Và Trái Tim

Đạo phật có thể giúp gì cho sức khỏe của chúng ta?

Cõi Âm Có Hay Không? Nhận Thức Của Phật Giáo Đối Với Vấn Đề Này

Kinh Điển Đại Thừa Có Phải Do Phật Thuyết Không?

Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa

Tin mới nhận

Lời Phật dạy về hai hạng người chìm trong nước

Quan niệm về đạo Phật sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt

Bài học từ câu chuyện Đức Phật và hồ nước

Vận mệnh trong lòng bàn tay

Làm khẩu trang bằng giấy vệ sinh, hãy bình tâm nghĩ lại lời Phật dạy

Lời Phật dạy về nguyên nhân phung phí tài sản

Tháng 4 – Mùa hoa Sala về!

Đức Phật dạy về hiếu đạo

Đức Phật đối trước bạo lực

Báo cáo tâm đắc về việc học tập Nữ Đức (Tập 4)

Chùa Bình A Tổ Chức Lễ Đặt Đá Trùng Tu Chánh Điện Và Kiến Tạo Đại Tượng A Di Đà Phật

Đức Phật dạy Pháp Niết bàn tức khắc

Đức Phật và con người hiện đại

Đức Phật may y cho đệ tử

Hòa thượng Viên Minh: Cô đơn là điều tuyệt diệu

Trong 49 năm Đức Phật có thuyết pháp hay không?

Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn

Chuyển hóa nỗi đau phản bội theo lời Phật dạy

Lời dạy của Ðức Phật về dấu ấn ‘Thành đạo’

Đức Phật hiện diện giữa cuộc đời

Tin mới nhận

Chỉ có con đường đó mà thôi

Chư Phật Đản Sinh … Liên Hệ Giữa Kinh A Hàm Và Thiền Tông

Thử Thách Của Những Tôn Giáo Khác Tác Giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Chuyển Ngữ: Tuệ Uyển

Kinh Sách Giảng Giải Bởi Hòa Thượng Thích Thanh Từ (Pdf)

Quả báo xua đuổi chúng tăng

Từ Như Ngộ tới Như Mê

Chớ lo lắng – hãy sống an lạc

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 53)

Con Ăn Chay Trường Nhưng Bác Sĩ Bảo Ăn Mặn Để Chữa Bệnh, Nên Làm Như Thế Nào?

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 17)

Từ Tượng Vua Lý Ở Hà Nội

Không có địa ngục?

Vấn đề hộ niệm cho người sắp lâm chung

Tuệ Trung Thượng Sĩ Hiện Thân Của Duy Ma Cật Và Bàn Long Uẩn

Ngọc Sáng Trong Hoa Sen

Nước Có Dậy Sóng Không

Xu Hướng Thế Tục Hóa Trong Phật Giáo Hiện Nay

Bát Thánh Đạo – Ebook PDF

Chánh Pháp Và Hạnh Phúc

Phật Giáo Nhìn Một Thoáng (Buddhism At A Glance) Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 185)

Đức Phật Từng Cảm Nhận Các Giác Cảm Đau Đớn

Vài Hàng Giới Thiệu Về Kinh Điển Phật Giáo

Giảng Giải Kinh Phước Đức

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 349)

Hiện Trạng Đại Tạng Kinh – Tháng 4, 2011

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 6)

Thấy biết chỉ là thấy biết (thầy Thích Tâm Hạnh giảng)

Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật

Tầm quan trọng của phát nguyện hồi hướng

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 34)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 122)

TP.HCM: Hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử trang nghiêm kính mừng Phật Đản PL.2566

Kinh Anan vấn Phật sự cát hung

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 166)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 17)

Giới Thiệu Bộ Phân Tích Đạo (Patisambhidamagga) Của Ngài Xá Lợi Phất

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 28)

Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải (sách)

Dẫn Luận Kinh Tạp A-hàm

Tin mới nhận

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 115)

Ấn Quang Đại Sư Khai Thị

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 353)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 72)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 282)

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 63)

Hàng Ngàn Tăng Ni Phật Tử Cung Tiễn Nhục Thân Cố Đại Lão Ht. Thích Trí Tịnh Nhập Kim Quan

Nữ Đức Vi Yếu – Chương 6: Khúc Tòng

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 358)

LỄ KÍNH CHƯ PHẬT – TÔN KÍNH ĐỐI VỚI CHÚNG SANH KHÔNG ĐỒNG KHÔNG GIAN DUY THỨ (tập 3)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 8)

Khai Thị Phật Học Cơ Bản (Phần Cuối)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 165)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 365)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 254)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 102)

Thiên Thân Tịnh Độ Luận

A Di Đà Phật Hay A Mi Đà Phật

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 113)

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Tập 15)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.