MA NỮ SI TÌNH
Huỳnh Trung Chánh
Tha
phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng
hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi
đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy
tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ
hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài
ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ
Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều
chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn
biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
Nha
Trang là quê hương của nàng, biển chốn nầy ngay lần
đầu chàng đến – một đêm ba mươi mưa gió bão bùng
– quả thật rất thu hút chàng. Tiếng gầm thét biển
khơi tại chốn nầy đã gợi nhớ, đã khiến chàng
ray rứt buồn thương, mường tượng lại cảnh kinh hoàng
của một đêm đen tại bờ biển Trengganu, Mã Lai vào khoảng
hai mươi năm về trước.
Ngày
đó, Thanh và người yêu Hoàng Yến nôn nóng tháp tùng
một tổ chức vượt biên theo ngả cồn Long Sơn, Vũng
Tàu ra nước ngoài, với ước mơ tự do xây tổ ấm
và cơ hội gầy dựng sự nghiệp xứ người. Chiếc
tàu hai dàn máy nhỏ cưu mang đến ba mươi hai nhân mạng,
nằm ngồi sắp lớp dưới khoang, len lách theo con rạch
ngoằn ngoèo, quanh cồn Long Sơn, Vũng Tàu, hướng ra biển
khơi an toàn. Thế nhưng, chiếc tàu máy nhỏ chạy cà
rịch cà tang nên lênh đênh trên biển cả tuần, lương
thực mang theo cơ hồ khô cạn, mà chẳng thấy bóng dáng
đất liền, viễn ảnh đói khát ám ảnh mọi người.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, bỗng may mắn thấy chiếc
tàu đánh cá khá lớn thấp thoáng xa xa, bèn kêu la cầu
cứu. Chiếc tàu lạ nhân đạo đáp ứng, dừng lại tiếp
tế lương thực, đoạn chỉ dẫn cặn kẻ hướng đi đến
Trengganu (tức Terengganu), Mã Lai.
Chuyến
đi hồ hởi tiếp tục cho đến xế chiều ngày hôm sau
thì bóng dáng đất liền bắt đầu lờ mờ lộ dạng
xa xa, tuy vậy khi tàu tiến gần bờ thì trời đã tối
đen, không thể vào bến được, đành tạm neo thuyền
sát bãi ngủ qua đêm. “Chỉ một đêm nay, rồi mai lên
bờ” tiếng ca tửng tửng của chàng trai nào đó, khiến
thuyền nhân ai cũng rộn ràng… mỗi người một câu
đua nhau hân hoan phụ họa về một viễn ảnh tươi sáng
ngày mai.
Đôi
tình nhân Thanh Yến, tay nắm tay ngồi tựa bên nhau dưới
hầm tàu trao nhau nụ cười tràn đầy hạnh phúc. Yến
bỗng thỏ thẻ: “Mình chưa là vợ chồng chánh thức,
liệu họ có cho mình đi chung không anh?” “Anh nghĩ chắc
phải được chớ! Mình cứ khai bừa là vợ chồng thì
ai biết? Mà rủi có bề gì, thì em cứ xin bà cô ở
Pháp lãnh đi trước, anh qua sau mau chậm gì nhất quyết
mình cũng đoàn tụ nhau mà thôi!” “Không! Dứt khoát
là không! Em thề sẽ ở đây mãi mãi để chờ anh đi
một lượt!”. Yến phán ra lời “chắc mẻm” rồi
ngoẻo đầu qua chàng, ngủ yên lành như một cô bé con.
Thanh
bỗng giựt mình thức dậy khi nghe tiếng hét kinh hoàng:
“Ối trời ơi! Sao tàu mình trôi trở ra biển rồi bà
con ơi!”. Tiếng la lanh lảnh đánh thức mọi người. Vừa
mở choàng mắt, họ liền hốt hoảng khám phá ra chiếc
tàu đang chông chênh theo làn sóng dập vùi, vô cùng nguy
hiểm. Thế rồi, cha con chồng vợ ơi ới réo nhau, Thanh
lôi tình nhân theo mọi người phóng nhanh lên boong tàu.
Đến lúc nầy thì trong đám thủy thủ mới có người
thức giấc, hắn réo bạn: “Đ.M.! đứt giây neo tụi
bây ơi!..” đoạn hướng vào đám hành khách nhốn nháo
lên tiếng: “Chuyện đâu còn đó! chẳng có gì nguy
hiểm! Xin bà con cô bác bình tĩnh ngồi yên, để tui
cho nổ máy lái tàu trở vô bờ!”. Lời trấn an nầy
không giúp cho tình trạng hổn loạn cải thiện tí nào,
mọi người vẫn cuống cuồng kêu la, tràn qua phóng lại
theo độ nghiêng ngửa của con tàu theo từng đợt sóng.
Thế rồi, sau hai đợt sóng dâng cao liên tục, chiếc tàu
mất thăng bằng lật úp. Thanh bị hất ra khỏi boong tàu,
sóng vùi dập chàng chìm sâu lượt nầy qua lượt khác,
mấy phen lâm nguy ngộp thở choáng váng tưởng như phải
bỏ cuộc, nhưng bản năng sinh tồn thúc đẩy chàng cứ
tận lực quẫy mạnh trồi lên mặt nước, để rồi
cuối cùng khi thân thể rã rời thì như có phép lạ
chàng vớ được mảnh ván trôi ngang tầm tay, rồi bám
chặt. Bấy giờ Thanh mới sực nhớ đến Yến, chẳng
biết hai người đã tuột tay nhau lúc nào? và số phần
nàng ra sao? Trời tối đen, quanh quất chẳng thấy bóng
dáng một ai, Thanh thảng thốt cất tiếng gọi: “Yến
ơi! Yến ơi!” Tiếng kêu vô vọng lạc lõng trong đêm,
chỉ có tiếng sóng biển gầm gừ thay cho lời đối
đáp.
Thanh
ôm cứng tấm ván cứu tinh mặc cho sóng gió đưa đẩy,
thời gian kéo dài như vô tận, miệng khô đắng, tay chân
đau nhức rã rời. Khi trời lờ mờ sáng, thì hơi sức
của Thanh đã cùng kiệt, chàng tuyệt vọng nhướng mắt
nhìn quanh chỉ thấy hoa đóm hư ảo lập lòe. Tấm ván
trở nên nặng trĩu rồi tuột khỏi đôi tay, Thanh buông
xuôi chịu chết, bất ngờ chân chàng chạm trên cát, sức
sống tiềm tàng bừng dậy, chàng hối hả đứng lên
khám phá ra nước đã lắp xắp ngang bụng. Thanh cố
sức lê gót, dù bị sóng liên tục dập té xuống mà
vẫn ráng quơ quào bơi lội, bò trườn lết.. nhích
dần cho đến khi gục xỉu mê mang…
Sáng
sớm hôm đó, có người dân địa phương thấy cảnh tượng
xác người nằm la liệt trên bãi biển khẩn báo cho
chánh quyền cứu cấp, nhờ vậy mới kịp thời khám
phá ra năm nạn nhân còn thoi thóp đưa vào bệnh viện
cứu chữa. Nạn nhân sống sót gồm một bà đứng tuổi,
ba thanh niên, và một bé gái khoảng năm tuổi, đã lần
lần hồi phục sức khỏe sau vài ngày, dù thần trí
vẫn còn ngây dại thẫn thờ, đã được chuyển ngay
đến trại tị nạn Pulau Besa, và được Phủ Tị Nạn Liên
Liên Hiệp Quốc ưu tiên đặc biệt sắp xếp cho định
cư trong một thời gian ngắn.
Thanh
được gia đình vị giáo sư hồi hưu bảo trợ về Denver,
Colorado, Hoa Kỳ. Nhà giáo hảo tâm cảm thương cảnh ngộ
của chàng, chu đáo chăm sóc chàng về vật chất lẫn
tinh thần, đã khuyến khích và hướng dẫn chàng kịp
thời ghi danh đại học, rồi được tuyển vào trường
y, tương lai sự nghiệp của Thanh cứ tiếp tục thênh thang
theo năm tháng. Hành nghề bác sĩ tám năm, danh vọng cao,
tiền bạc rộng rãi… nhưng Thanh vẫn lủi thủi sống
trong cô đơn lặng lẽ. Chàng chẳng ngó ngàng đến bất
cứ người đẹp nào, cho dù cha mẹ nài ép cố tạo
cơ hội gặp gỡ mai mối. “Ôi! làm sao chàng có thể
xóa nhòa bóng dáng Yến tận đáy lòng? làm sao quên
nổi tai nạn thảm khốc của chiếc tàu định mạng vẫn
còn hằn sâu trong tâm khảm của chàng?” Mỗi khi nhớ
đến Yến, chàng thường mong ước cơ hội liên lạc
gia đình nàng, hi vọng làm được điều gì cho đẹp
dạ nàng nơi chín suối, nhưng điều rắc rối là chàng
hoàn toàn không biết gì về gia đình Yến, chỉ đại
khái nhớ là dường như Yến có kể rằng cha là một
nhà giáo tại Nha Trang mà thôi. Hai người vốn quen nhau
nhân một chiếc vượt biên bị “bể” trốn chui trốn
nhủi bên nhau, rồi biến thành nặng nợ ân tình thề
nguyền kết nghĩa vợ chồng. Thế rồi, chỉ mấy ngày
sau họ bỗng nhanh chóng móc nối một đầu mối khác
rồi dắt díu nhau đi ngay, thành thử họ nào có điều
kiện tìm hiểu gia đình của nhau. Thanh về Nha Trang chuyến
nầy, một phần nhằm dò la gia đình người yêu, một
mơ mộng ảo huyền như mò trăng đáy biển, để rồi
hằng ngày chàng chỉ biết bơ vơ nhìn biển khơi, vời
vợi buồn và để nhớ để thương.
Đêm
không trăng, sóng ầm ĩ, biển khơi đen ngòm… dường
như đã thôi miên Thanh đến mức bất động nên mặc
cho mưa lất phất rơi, chàng vẫn lầm lì chịu đựng
cho đến khi bị một làn gió lạnh lẽo len lỏi vào thân
thể run lẩy bẩy phải hối hả trở về khách sạn
nghỉ ngơi. Cảm thấy mệt mỏi và buồn nản, Thanh để
nguyên quần áo nằm lăn lên giường, vừa lơ mơ ngủ
thì bỗng có tiếng gọi nhỏ nhỏ: “Bác sĩ! Bác sĩ!
Xin làm ơn cứu người đang bất tỉnh!” Thanh chồm dậy,
chụp túi đồ nghề loại bỏ túi đi du lịch như phản
ứng nghề nghiệp bươn bả mở cửa bước ra. Một cô
gái trẻ mặt mày tái mét vì lạnh, mấp máy đôi môi:
“Người bệnh ở nhà trong hẻm gần đây” rồi lất
phất đi trước dẫn đường. Thanh bám theo cô gái bén
gót, loanh quanh qua hai hẻm nhỏ đến một cái chái tôn
xệch xạc, thì cô gái dừng lại khoát tay mời chàng
vào. Thanh vội trờ tới, mở cánh cửa khép hờ bước
vô trong, cô gái cũng len theo rồi lẫn đi đâu mất biệt.
Bà cụ nằm gục dưới đất, mặt tái xanh, mắt nhắm
nghiền… Chàng vội khám mắt, khám phổi, khám nhịp
tim và yên tâm nhận thấy bệnh nhân chẳng có gì nguy
hiểm, có lẽ chỉ vì già yếu, thiếu dinh dưỡng nên
chỉ một cơn buồn da diết bỏ ăn cũng đủ khiến bà
kiệt sức ngã xỉu mà thôi. Thanh đỡ bà lên giường,
thoa dầu nóng Bengay khắp người cho ấm, đoạn mớm cho
bà chút nước dinh dưỡng Ensure… Bà cụ ấm dần, mắt
chớp chớp, định ngồi dậy. Thanh ngăn lại:
– Bà
bác còn yếu lắm, xin nằm yên nghỉ ngơi!
Tuy
vậy, vừa cảm thấy khỏe đôi chút, bà cụ đã ái
ngại lên tiếng:
– Xin
đội ơn Ông tiếp cứu! Ủa! Làm sao Ông biết tôi ngất
xỉu mà cứu tôi vậy?
– Thưa,
cháu đang ở khách sạn thì có người nhà của bác…
ơ… cô gái gầy gầy đó… gõ phòng báo tin rồi
dẫn cháu đến đây!
– Lạ
quá! Tôi sống một mình hà! Làm gì có con cháu nào
ở gần đây?
Câu
trả lời khiến Thanh vô cùng ngạc nhiên, chàng thầm nghĩ:
“Cô gái dẫn chàng về đây rồi trốn mất dạng nghĩa
là sao? Chẳng lẽ họ sợ bị mình đòi trả tiền công
nên chối quanh chăng?” Tuy nghĩ vậy nhưng Thanh không nỡ
vạch trần ra sự thật, chàng chợt thấy tấm ảnh treo
trên tường có nét tương tợ với cô dẫn đường nên
dò hỏi:
– Thưa
đây là ảnh cháu của bác?
Nghe
hỏi, bà cụ bỗng khóc rấm rứt kể lể:
– Đó
là hình cháu Hoàng Oanh, con Út của tôi! Nó bị bệnh
viêm màng óc chết nay đã bảy năm rồi!.. hít… hít…
Nó là đứa con hiếu thảo, nếu còn sống thì tôi đâu
có cơ khổ như thế nầy!
Thanh
thầm nghĩ: “Lẽ nào, hồn ma cô gái nầy đã do nặng
tình hiếu thảo mà lộ dạng cho chàng thấy để xin
cứu giúp mẹ sao?”, chàng rùng mình rởn gai ốc nhưng
cố gắng giữ vẻ tự nhiên, ôn tồn an ủi:
– Tội
cô ấy quá mà cũng khổ thân cho bác nữa! Về già
sống một mình một bóng chắc gian nan lắm phải không
bác?
– Thằng
Hoàng Long, con trai tôi cũng nói giống như Ông vậy đó!
Nó nài ép tôi bán nhà về Saigon sống với chúng…
ngặt một nỗi là tôi muốn giữ căn nhà nầy… chờ
tin con gái lớn… rủi như nó muốn liên lạc về
nhà thì sao?
Bà
cụ sụt sùi, kéo vạt áo lau nước mắt, rồi cất tiếng
than trách bâng quơ đứa con vắng mặt: “Yến ơi! Con
ở đâu biền biệt mà hai mươi năm nay chẳng có tin tức
vậy con? Con có biết là má lo, má khổ lắm không con?”
Vừa
nghe tiếng gọi “Yến ơi!” thì Thanh đã choáng váng
mặt mày, chàng quýnh quáng hỏi một hơi:
– Có
phải cô ấy tên Võ hoàng Yến sanh ngày sáu tháng ba
năm 1958 tại Nha Trang, cha là nhà giáo Võ Hoàng phải không
bác?
Bà
cụ nửa mừng nửa lo run rẩy hỏi:
– Uả!
Cháu… sao cháu biết? Cháu quen với nó hả? Nó có nhắn
gởi gì cho bác không cháu?
Thanh
nghẹn ngào: “Bác ơi!” Rồi dường như không còn chịu
đựng nổi nữa, chàng quỵ xuống ôm bà cụ khóc thảm
thiết. Phải chật vật lắm, Thanh mới có thể kể
lể đầy đủ đầu đuôi thảm cảnh ngày xưa, cũng như
bày tỏ mối tình thâm trọng của chàng đối với người
yêu cho bà thấu hiểu. Sau đó, mặc dầu bà tỏ ý ái
ngại nhưng chàng vẫn nhất quyết xin bà nhận chàng
vào hàng rể con, cho chàng được thay thế Yến chăm
lo săn sóc bà lúc tuổi xế chiều nầy…
Thế
rồi, Thanh đưa bà Võ Hoàng vào bệnh viện kiểm tra
tổng quát sức khỏe, đoạn ra kế hoạch sửa nhà, mua
sắm vật dụng cần thiết, mở chương mục tiết kiệm
cho bà đứng tên… lấy lời chi tiêu hàng tháng, ngoài
ra khi Hoàng Long về thăm mẹ, chàng liền ưu ái tặng
“em vợ” chiếc gắn máy thời trang làm quà gặp mặt…
Biết bà hằng lưu tâm đến người chết, Thanh cũng
giúp bà sửa sang phần mộ chồng con ở quê…, rồi
lại đưa bà đến Chùa Hải Đức, thỉnh cầu tổ chức
cầu siêu cho Yến. Nhân khi bà đang bàn bạc chi tiết buổi
lễ cầu siêu với thầy tri khách, Thanh đi quanh chùa ngoạn
cảnh, vô tình gặp nhà sư già chất phác ngồi trên
chiếc ghế hư cũ bên hông chùa hóng mát vội xá chào.
Sư
cười hiền hòa dễ thương làm sao, lên tiếng:
– Con
viếng chùa lần đầu?
– Dạ
con đưa bà già đến xin lễ cầu siêu cho cô con gái –
chàng nhún vai – cô ấy đã từ trần trên hai mươi năm
nay, chắc đã đầu thai mất rồi, nhưng bà muốn thì
con cũng chiều ý cho bà vui vậy mà!
– Ơ!
Dẫu chưa đầu thai hay đầu thai rồi thì mọi nghi thức
tu tập như bố thí, lễ bái sám hối hay cầu siêu hồi
hướng cho người chết đều lợi ích như thường con
ạ!(1)
– Uả!
vậy mà con tưởng thân trung ấm(2) sẽ đầu thai trong
vòng 49 ngày, nên cầu siêu trong hạn nầy mới thực sự
lợi ích chớ? Mà tại sao phải kéo dài đến 49 ngày
vậy thầy?
– Như
con đã hiểu: người có nghiệp cực thiện vãng sanh
về cõi lành ngay, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo
về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… tức thời. Thế
nhưng có lắm người tạo nghiệp lành dữ hỗn hợp
sức thu hút hướng dẫn sanh về sáu cõi lừng khừng
chưa rõ rệt nên còn lẩn quẩn ở cõi nầy dưới
dạng thân trung ấm trong 49 ngày…, trong thời gian nầy
khi nào thân trung ấm chiêu cảm một nhân tố hoặc lành
hoặc dữ nổi bật, nhân tố kề cận nầy rất mạnh
mẻ có khả năng làm nghiêng ngửa phá vở cán cân đầu
thai lừng khừng và sẽ quyết định nẻo chuyển nghiệp.
Tóm lại, lễ kính cầu nguyện hồi hướng giúp cho
người chết qui ngưỡng Tam Bảo trong giai đoạn 49 ngày
nầy có công năng hỗ trợ lớn cho người chết dĩ
nhiên là lợi ích bậc nhất. Sau 49 ngày mà chưa đầu
thai thì vấn đề trở nên phức tạp, người chết đã
chuyển sang cõi Quỷ Thần(3) chớ không còn dạng thân
trung ấm nữa, uy lực của nghi lễ vì vậy cũng suy giảm.
– Lạ
quá! Tại sao có người không đầu thai bình thường mà
chuyển sang quỷ thần vậy thầy?
– Họ
cũng thuộc vào loại nghiệp nhẹ lành dữ không phân
minh, trong thời gian nầy nếu họ lẩn quẩn tiếc nuối
điều gì quá đáng tỉ như sợ mất của cải chôn dấu,
bận tâm về con cháu, say đắm lăng mộ, bâng khâng cơ
nghiệp thành bại… nên bỏ lở cơ hội đầu thai để
biến thành thứ ma theo con, giữ mồ, giữ của… có
khi cả trăm năm mà chẳng buông bỏ được… Đáng thương
nhất là những người trong giây phút cận tử tràn
ngập bởi sự kinh hoàng, một khối nghi dầy đặc,
một sự lo lắng tột độ… cũng có thể khiến cho
con đường chuyển nghiệp bị khựng lại… thí dụ như
người mẹ đang đặt hết tấm lòng bảo vệ sinh mạng
của con bỗng chết đột ngột rồi ôm ấp niềm lo lắng
tìm con không bao giờ nguôi ngoai… hay trường hợp một
người nữ ôm nặng lời nguyền chung thủy bỗng chết
thảm có thể bám chặt lời thề mãi mãi chờ chồng
qua năm tháng, có thể nói trường hợp chấp chặt kẹt
cứng vào trạng huống thảm tử nầy khó siêu thoát
lắm… (4)
Thanh
thoáng rụng rời, thầm lo chẳng biết Yến có lâm cảnh
nầy không? nên luống cuống hỏi:
– Đối
với những trường hợp nầy, thì liệu nghi lễ cầu
siêu có giúp vong linh siêu thoát nổi không thầy?
– Nói
chung lễ cầu siêu rất lợi ích cho vong linh, nhưng nó
còn tùy thuộc vào đức độ, phẩm chất của nghi lễ
và nhất là lòng dạ chí thành của thân nhân người
chết. Thật ra, phải hiểu rằng vị trí của thân nhân
vô cùng quan trọng vì chỉ riêng thân nhân do có sự ràng
buộc chằng chịt cộng nghiệp với vong linh mới có
khả năng chiêu cảm chuyển thông điệp cứu độ của
chư Phật Bồ Tát đến được với người chết và
“thức tỉnh” mê mờ của họ. Đôi khi vong linh cố chấp
khép kín tâm thức, thì người thân phải hiện diện
ngay tại địa điểm thảm tử, tha thiết giải tỏa khối
nghi của họ, thì may ra họ chịu mở lòng đón nhận Phật
Pháp nhiệm mầu mà siêu thoát con ạ!
Thanh
đang bối rối lựa lời đặt thêm câu hỏi cần biết
thì bà mẹ săn sái bước ra lên tiếng:
– Thầy
tri khách đã sắp xếp tổ chức cầu siêu vào ngày
mai như con mong muốn. Mà thầy đang cần con vào chánh
điện giúp thầy thông dịch cho một cô người nước
ngoài đang xin phỏng vấn thầy. Thầy cần gấp lắm
con ạ!
Thanh
luyến tiếc từ giã vị sư già, vào chánh điện gặp
cô gái Á Châu có nét người Thái Lan, nhưng cô xưng tên
tương tợ Tây ban Nha là Milanda Fernandez, chuyên viên Phủ
Tị Nạn Quốc Tế, cư ngụ tại New York, nên chàng đoán
gốc gác cô là Phi luật Tân, muốn tìm hiểu giáo lý
và nghi lễ Phật giáo. Cô cho biết rất thích Việt
Nam nên đã du lịch đất nước nầy liên tiếp ba năm
nhưng chưa gặp ai thông thạo Anh ngữ giúp đỡ, vì vậy,
cô cứ bám sát Thanh hỏi han đủ mọi đề tài, từ tôn
giáo sang đến lãnh vực văn hóa xã hội kinh tế của
miền Nam, kể cả thời kỳ xa xưa, khiến Thanh trả lời
“hụt cả hơi”. Thanh viện lý do phải đưa bà già về
để từ giã, thì cô vội trao danh thiếp kỳ kèo Thanh
nhớ liên lạc khi về Mỹ; Thanh lịch sự hứa và trao
đổi danh thiếp khiến mắt cô sáng hẳn lên.
Đúng
theo chương trình dự trù, lễ cầu siêu được tổ chức
nghiêm minh với sự tham dự của khá đông tăng chúng đang
dự khoá trung cấp Phật học, nên rất long trọng… khiến
cho bà mẹ cảm nhận được niềm an ủi lớn lao, và
Thanh cũng an lòng hoàn tất nghĩa cử thiêng liêng cho người
yêu mà bao nhiêu năm trời chàng hằng khắc khoải. Lễ
hoàn mãn. Thanh đảnh lễ cúng dường chư tăng, khi chàng
ngỏ ý cúng dường vị sư già quê mùa ngày hôm qua, thì
thầy tri khách cho biết sư là một du tăng lâu lắm mới
ghé ngang thăm chùa, đến đi như gió nội mây ngàn chẳng
biết đâu mà tìm. Thanh rời chùa đang chờ taxi, bỗng
có chú sa di chạy theo đưa tờ lịch cũ bèo nhèo, kêu
ới ới: “Bác sỉ ơi! Ông du tăng hôm qua nhờ đưa cho
bác sĩ cái nầy, mà nãy giờ con quên.” Thanh cám ơn,
nhận tờ giấy cẩn thận cho vào túi, rồi hấp tấp
đưa bà mẹ lên taxi về nhà.
Niềm
tin tưởng Pháp Phật có năng lực mầu nhiệm cứu độ
Yến siêu thoát khiến bà già “hả dạ” hân hoan cười
nói huyên thiên, và Thanh cũng mãn nguyện an vui thơi thới
trong lòng. Lâu lắm rồi Thanh mới thanh thản ngủ yên,
chàng ước mơ người yêu siêu thoát sẽ hiện về trong
mộng hàn huyên với mình. Giấc mộng quả thật đã
đến với chàng, chỉ tiếc là người hiện đến lại
là Oanh. Oanh lên tiếng:
– Em
Út xin cảm tạ anh đã hết lòng chăm nom lo lắng cho mẹ
em từ vật chất đến tinh thần, nhờ vậy mà em có
thể yên tâm tu học trong cảnh giới của em.
– Út
có bị đói khổ hành hạ không?
– Cõi
âm có muôn vàn cảnh giới sai khác, tùy theo nghiệp báo
khác nhau chi phối mà chuyển vào, nói chung thì đa phần
cảnh giới khổ, khổ cùng cực… Tuy nhiên, thuở sanh
tiền em tin tưởng Phật pháp, tạo nghiệp lành… chỉ
vì khi chết tình thương mẹ cô đơn quyến luyến mà
bỏ qua cơ hội đầu thai, nên mới rơi vào cảnh giới
nầy. Do đó, cảnh giới của em rất thoải mái, em tự
do tự tại phiêu bồng không bị ràng buộc và câu thúc
bởi áp lực nào cả, ngoài ra còn được chư Bồ Tát
thị hiện chốn nầy hướng dẫn tu học nữa.(5)
– Còn
hoàn cảnh Yến như thế nào vậy Út?
– Chẳng
biết thời cầu siêu long trọng có hiệu quả gì không
mà sao chị vẫn trơ trơ bất động dưới biển Mã Lai,
em không có khả năng tiếp xúc hay giúp đỡ gì được
cả. Anh ơi! Chị Yến em chắc bị khổ sở hành hạ kinh
hoàng lắm! Anh ráng tìm phương cách cứu gỡ chị ấy,
nhen anh!
Thanh
bàng hoàng định cất tiếng hỏi: “Cách gì? Cách gì
bây giờ?”, nhưng chẳng biết tại sao cổ họng lại nghẹt
cứng chẳng phát ra lời. Chàng ráng giãy giụa “ú
ớ” thì bỗng giật mình tỉnh giấc. Đầu nhức nhối
khó chịu, mồ hôi đổ ra như tắm, chàng bần thần
tự hỏi: “Nếu giấc mộng đúng thực thì tội nghiệp
cho Yến biết chừng nào!” Thanh bỗng nhớ mang máng
là dường như vị sư già có nhắc đến trường hợp
hiếm có theo đó người chết bị ám ảnh sâu đậm
về mối lo âu, khối nghi nan, nỗi uất ức, lời thề
nguyện… bị thảm tử khiến tâm thức kẹt cứng vào
đó khó lay chuyển… “Thế nhưng không có vị sư già
hướng dẫn thì mình biết phải làm thế nào đây?”
Nghĩ đến vị sư già Thanh mới nhớ tờ giấy lịch
của sư gởi chưa kịp đọc rồi quên mất. Thanh vội soạn
ra tờ lịch cũ nhàu nát, đọc được mấy giòng chữ
nguệch ngoạc:
Góc
biển mỏi mòn chờ
Tâm
chai cứng ngẩn ngơ
Gặp
tình lang chợt tỉnh
Chợt
thoát kiếp trơ vơ.
“Lão
du tăng quả là bậc thánh đã tiên liệu mọi việc mà
hướng dẫn mình. Như vậy, bằng mọi cách mình phải
theo chỉ dạy của Ngài mà đích thân đến bãi biển
năm xưa cầu siêu, thì họa may mới thức tỉnh nàng được”,
Thanh thầm nghĩ rồi vội vã đến chùa Hải Đức, viện
lẽ muốn thành tâm làm lễ cầu siêu cứu vớt vong linh
tại nơi xảy ra tai nạn cho thêm bảo đảm, nên khẩn khoản
thầy tri khách đặc biệt đi Mã Lai một chuyến. Thầy
cho biết rằng dù rất thông cảm hoàn cảnh của chàng
nhưng đành từ chối, vì thủ tục xuất ngoại khó khăn
và phiền phức… chẳng thể hoàn tất mọi việc trong
thời gian ngắn ngủi như Thanh mong mỏi. Chạnh lòng trước
nỗi buồn thương não nuột của chàng, thầy khuyên lơn
an ủi mãi, rồi bỗng như vừa sực nhớ ra, thầy rộn
ràng lên tiếng:
– À!
sao mình không nghĩ đến những vị thầy đang lưu trú
ở nước ngoài? họ không bị trở ngại bởi thủ tục
xuất cảnh chậm trễ, nên có thể đến Mã Lai dễ
dàng thôi.
– Thưa
con chẳng quen biết vị tu sĩ nào thầy ạ! Xin thầy từ
bi giới thiệu dùm con một vị… nghen thầy!
– Ơ!
thầy có quen biết vài tăng sinh đang du học tại Ấn Độ,
để chiều nay thầy điện thoại hỏi thăm xem có vị
nào hoan hỉ lo lắng việc nầy cho đạo hữu không?
Thế
rồi, thầy liên lạc với Đại Đức Bảo Minh, một tăng
sinh đang du học tại Tân đề Li, để ủy thác thầy tùy
nghi tổ chức trai đàn thủy lục tại Mã Lai. Đại Đức
mời thêm Thượng Tọa Mãn Khai đảm trách chủ sám cho
nghi lễ thêm phần nghiêm trang và hùng hậu.
Đúng
theo chương trình dự trù, Thanh cẩn thận đến Mã Lai
trước một tuần để chuẩn bị chu đáo sẵn sàng
mọi việc, từ khâu truy tầm đích xác bờ biển năm
xưa, thuê thuyền, thuê mua vật dụng linh tinh, đến việc
xin cảnh sát giữ trật tự an ninh một nghi lễ bất
thường tại một địa phương có tôn giáo khác biệt.
Đến phi trường Kualar Lumpur, Thanh phải đổi chuyến bay
địa phương đến phi trường Sultan Mahmud, thị trấn Kuala
Terengganu, thì trời đã xế chiều. Dù vậy, khi vừa
đặt chân vào khách sạn thì chàng đã liên lạc thuê
ngay một hướng dẫn viên du lịch để bắt tay vào việc
tức thời. Sau khi chăm chú nghe Thanh mô tả mơ hồ về
bãi biển năm xưa, Ted – người hướng dẫn – cho biết
biển cát ở đây trải dài nên định vị khó chính xác.
“Khó cách mấy thì anh cũng phải tìm cho ra, Yến ơi!
Giúp anh nhen em!”, Thanh thầm nghĩ. Thế rồi, Thanh thuê bao chiếc taxi cho chạy chậm chậm theo con đường
dọc theo bờ biển hướng Nam Bắc cho chàng quan sát. Khi
chiếc taxi qua khỏi cầu vượt qua sông Terengganu chừng
một ngàn năm trăm thước, khỏi ghềnh đá đến bãi
vắng vẻ vô danh Thanh bỗng cảm thấy rờn rợn cả châu
thân, bèn cho xe ngừng lại. Chàng đi dọc bãi biển êm
đềm lặng sóng, mà lại mường tượng như có tiếng
sóng vỗ vang rền đâu đó. Thanh thắc mắc hỏi Ted và
bác tài xế nhưng họ chẳng nghe gì khác lạ. Thấy hai
gã trung niên quê mùa đèo nhau trên chiếc xe đạp đi ngang,
Thanh thúc hối Ted chận lại, nhờ dò hỏi xem vùng biển
nầy sóng gió có mạnh bạo hơn các bãi khác gần đây
không?
Ted
hỏi xong rồi thông dịch. Anh chàng tương đối trẻ lanh
lợi đáp:
– Tôi
thấy thì cũng chẳng có gì khác biệt, nhưng có đám
đàn bà con gái nhút nhát cho rằng họ nghe trong tiếng
gió rú dường như có tiếng u oán thở than… Số là
cách nay vài mươi năm có chiếc tàu Việt tị nạn bị
chìm, thây người tấp vào bãi nằm la liệt vô cùng
ghê rợn nên dân làng gọi địa điểm nầy là “pantai
mayat” tức “bãi xác”, khiến cho kẻ giàu óc tưởng
tượng bàn tán hiện tượng gió rú gọi hồn nầy,
rồi đám đông nhát gan hùa nhau đồn đãi loạn lên vậy
mà!
Người
thứ hai lên tiếng cãi:
– Thằng
nầy sống ở tỉnh nên không rành địa phương nầy đâu!
Chớ bãi biển nầy có ma, nên chẳng mấy ai dám dạo
bãi biển đêm tối một mình. Chính mắt tôi thấy một
lần, và nhiều người khác cũng mục kích hiện tượng
rùng rợn nầy nữa! Đó là con ma nữ trần truồng
cứ nửa đêm sáng trăng hay tối trời cũng xuất hiện
tại bãi biển nầy, con ma lang thang bước tới lui kêu
khóc rên rỉ thảm thiết… nghe rợn cả người, nhưng
thật ra nó chẳng làm hại ai cả!
“Cám
ơn Trời Phật, cám ơn em Yến đã đưa đường dẫn
lối cho anh tìm đúng nơi nầy!”, Thanh xúc động nhưng
cố nén không để nước mắt ràn rụa, nhờ Ted dò
hỏi tiếp:
– Con
ma đó trẻ hay già? Độ chừng bao nhiêu tuổi?
– Trời
đất! Thấy ma là hồn vía lên mây rồi, có ai đủ can
đảm nhìn kỹ đâu mà đoán tuổi!
Trời
bắt đầu sụp tối, anh chàng kể chuyện ma có lẽ cũng
sợ lây, nên không để ai hỏi thêm lời nào nữa, khều
bạn phóng lên xe đạp chạy tuốt. Ted và bác tài tuyên
bố không tin chuyện ma nhảm nhí, nhưng khi Thanh đề nghị
nán lại đến nửa khuya cho chàng tìm hiểu con ma, thì
mặt mày họ tái mét, viện đủ mọi lý lẽ để đòi
quay về. Thanh phải tăng gấp đôi tiền thuê bao và năn
nỉ mãi họ mới đồng ý với điều kiện là cả hai
chỉ ngồi yên trên taxi, phần chàng nếu muốn xuống
bãi cứ tùy tìện.
Nôn
nóng gặp lại người yêu dù là bóng ma vất vưởng,
Thanh lững thững xuống bãi từ lúc 9.00 giờ sẵn sàng
đón chờ hội ngộ. Chàng ngồi bẹp trên bãi cát mịn,
lơ đãng nhìn biển khơi vời vợi hồi tưởng lại chuỗi
ngày hạnh phúc lứa đôi tuyệt vời xưa cũ. Chàng miên
man suy tư quên cả giờ khắc, mãi đến khi có cảm giác
lạnh lẽo rờn rợn vờn qua, mới giật mình định thần
quan sát thấy bóng người đàn bà lửng lơ vừa bước
ngang chàng. Rõ ràng không phải là Yến rồi, nhưng người
đàn bà nầy là ai đây? Cô ta dáng người mảnh khảnh,
độ chừng 25 tuổi, không mảnh vải che thân – thật ra,
đêm đó, đang mặc áo ngủ mong manh mà bị sóng vùi dập
thì đâu ai còn y phục nguyên vẹn nữa – dáo dác trông
ngóng biển khơi rồi rảo bước dài dài trên bãi cát
dường như đang khẩn trương tìm kiếm vật gì. Bỗng
cô ta đứng dừng lại, lộ vẻ thất vọng não nề, rồi
cất tiếng khóc nghẹn ngào: “Mỹ Lan ơi! Mỹ Lan con ơi!
Con lạc lõng ở đâu mà má tìm con hoài không được!
Ôi! Tội nghiệp con tôi biết chừng nào!..hu… hu…”
Tiếng rên rỉ kêu thương của bà mẹ khiến Thanh rúng
động cả tâm cang, chàng đứng lên định an ủi người
mẹ đau khổ đôi câu, chẳng ngờ vừa động đậy thì
bóng ma liền biến mất. Thanh đành ấp úng một mình:
“Tôi rất cảm thông với nỗi lòng của chị, tôi sẽ
ráng hết sức tìm ra cô con gái của chị đưa về đây
cho mẹ con gặp mặt, xin chị yên tâm!”
Thanh
trở ra xe. Xe nổ máy sẵn tự lúc nào, hai chàng con
trai bậm trợn sợ điếng hồn nhưng phải “gồng”
mình chờ đợi, nên chi khi chàng chưa kịp ngồi ngay ngắn,
bác tài đã phóng xe như bay về khách sạn. Thanh trăn
trở bất an không ngủ được. Trước đây, chàng chỉ
nghĩ đến Yến, giờ thì chàng lại nghĩ đến bà mẹ
mất con và tất cả những nạn nhân khác nữa. Họ đều
đáng thương và cần cứu giúp hầu sớm siêu thoát
khỏi chốn nầy, nhưng vấn đề là làm sao biết tên
tuổi của họ gấp để làm bài vị đây? Đang rối ren
suy nghĩ, Thanh chợt nhớ con bé Mỹ gốc Phi tự xưng là
chuyên viên Phủ Tị Nạn Liên hiệp Quốc, may ra có thể
giúp điều tra việc nầy. Hôm đến chùa Hải Đức hỏi
đạo, cô ta trao chàng danh thiếp nài ép chàng liên lạc,
nhưng Thanh bận rộn làm ngơ, giờ có việc mới điện
thoại nhờ cậy kể ra cũng hơi quê quê, nhưng đành phải
chịu chớ biết làm sao hơn.
– Hello!
Chào cô Milanda!
– Hi
anh Thanh! Tôi tưởng anh biệt tích luôn chớ!, tiếng cô
gái reo vui.
– Ơ!
Tôi định về Mỹ mới liên lạc với cô, nhưng nay có
việc gấp liên quan với Phủ Tị Nạn, nên buộc lòng
làm rộn cô đây.
– Uả!
Thế anh đang ở đâu? Anh cứ cho biết rõ chuyện gì?
Tôi sẵn lòng mà, đừng ngại!
– Tôi
đang ở Mã Lai và muốn tìm hiểu danh sách người Việt
trên một chiếc tàu tị nạn vượt biển đến Mã Lai
khoảng 20 năm về trước, cô giúp được không?
– Dĩ
nhiên là phải được, vấn đề là thời gian mau chậm
thôi! Anh cho biết chi tiết thử xem!
– Tàu
số VT325 đến Mã Lai ngày 8 tháng 01 năm 1978. Cô làm ơn
sưu tra trong vòng vài ngày được không cô?
Im
lặng khá lâu, cô gái mới ngập ngừng trả lời:
– Tưởng
chiếc tàu nào thì phải tìm tòi lâu, riêng hồ sơ chiếc
tàu nầy thì đang ở trước mặt tôi đây. Tôi sẵn
sàng giải đáp ngay những câu hỏi của anh, miễn là…
anh nói rõ lý do nào thúc đẩy anh muốn tìm hiểu hồ
sơ nầy?
– Chẳng
dấu vì cô. Chiếc tàu đó bị đắm chìm và chỉ có
năm người sống sót trong đó có tôi. Nay tôi vừa trở
lại bãi biển năm xưa dự trù tổ chức lễ nghi Phật
Giáo nhằm cầu nguyện cho người thân, nhân dịp tôi cũng
muốn cầu nguyện cho nạn nhân khác nữa nên cần biết
tên của họ, ngoài ra, nếu có thể xin cô vui lòng truy
tầm cho được tông tích của em bé gái còn sống sót
thì quý báu biết chừng nào!
– Lạ
nhỉ! Con bé còn sống mà cũng cần cầu nguyện nữa
sao?
– Chuyện
như thế nầy nè cô! Mới đây vào lúc gần nửa đêm
trời tối mịt tôi tìm đến địa điểm tàu chìm,
khi đang ngồi trên bãi cát bỗng có bóng ma dáng dấp
một phụ nữ Việt cỡ tuổi 25 lướt qua, cô ta vật
vã ngóng trông biển cả đoạn nhìn quanh quất khắp nơi
như cố tìm kiếm thứ gì thất lạc, cuối cùng cô
khóc nức nở kêu than: “Mỹ Lan ơi! Mỹ Lan con ơi! Con lạc
lõng ở đâu mà má tìm con hoài không được! Ôi! Tội
nghiệp con tôi biết chừng nào!” Thì ra cô nầy đã
chết mà tấm lòng thương con vô bờ bến trong bao năm
trời vẫn tràn ngập mênh mang không dời đổi, tôi tưởng
tượng cái cảnh khốn khổ cô quạnh khóc lóc tìm con
liên tục trong hơn 20 năm qua của bà mẹ mà ruột gan quặn
thắt trong lòng cô ạ! Vì vậy, tôi mong liên lạc với
cô bé, giải thích cháu rõ đầu đuôi nội vụ và nếu
có thể được thì sẽ năn nỉ cháu đi Mã Lai một chuyến,
hầu mẹ con có cơ hội gặp nhau, hi vọng nhờ đó hồn
ma được yên tâm mà siêu thoát.
Câu
chuyện thương tâm có lẽ cũng khiến cho người nghe xúc
động, Thanh loáng thoáng nghe tiếng cô ta sụt sùi một
lúc lâu, rồi mới rụt rè cất tiếng chậm, nhỏ và
đứt khoảng:
– Xin
anh yên tâm lo công việc bên Mã Lai. Phần tôi, tôi hứa
lãnh công tác tìm ra cô bé và sẽ đích thân đưa cô
bé qua Mã Lai trong thời gian ngắn… anh chỉ cần cho tôi
số điện thoại và địa chỉ khách sạn anh là đủ.
– Tuyệt
vời quá! Cám ơn cô vô cùng! Thật ra tôi không dám làm
rộn cô quá đáng đâu! Cô cho biết điện thoại cháu
bé cho tôi…
– Xin
lỗi cắt ngang anh nghen! Anh làm việc cao thượng thì cũng
cho tôi đóng góp chút công chớ, huống chi, tham dự nghi
lễ nầy chính là nghĩa vụ tất yếu của tôi mà. Anh
đừng áy náy chi cả, cứ yên chí lớn rằng tôi sẽ
mang đầy đủ những thứ anh cần trong vài ngày nữa.
Thanh
thầm nghĩ: “Cô ta là chuyên viên tị nạn, có lẽ chuyện
nầy cũng nằm trong phạm vi công tác của cô”, nên chẳng
thắc mắc nữa, chàng vắn tắt đọc số điện thoại
và địa chỉ rồi nhanh nhẹn: “Xin chào và hẹn gặp
lại!”.
Tổ
chức một nghi lễ Phật Giáo tại nước ngoài là việc
khá gian nan: dù giản dị tối đa thì ít nhất phải có
nhang đèn, chuông mõ, tượng Phật, tượng Địa Tạng,
tượng Tiêu Diện đại sĩ… nhưng đào ở đâu ra những
thứ nầy tại Terengganu? Ted là tay thổ công mà đưa Thanh
đi lòng vòng cả ngày chẳng tìm ra nơi nào bày bán.
Thanh lâm vào tình trạng bối rối chẳng biết giải quyết
cách nào, chàng nghĩ dù khổ nhọc lên phố Tàu tại
Kuala Lumpur mua sắm, chưa chắc trong một chuyến mà có
thể hoàn thành mọi việc. Ngày hôm sau, trước khi xuất
hành Thanh niệm Phật cầu xin Tam Bảo gia hộ, rồi đi
lang thang khắp đường phố, gặp người Hoa nào cũng
xáp tới han hỏi, và dù chẳng kết quả gì khích lệ
vẫn bền bĩ tiếp tục dấn bước chẳng nản lòng.
Cuối cùng, có một cụ già lẩm cẩm, thoạt lắc đầu
bước đi, chợt quay lại khuyên chàng thử đến một
tiệm tạp hóa trong hẻm chuyên cung cấp vật dụng và
thực phẩm khô cho người Hoa xem sao? Tiệm chỉ có sẵn
vài loại thực dụng, nhưng thím Wong chủ tiệm hứa chắc
rằng những Phật cụ cần thiết khác nếu đặt cọc
trước thì hàng hóa từ thủ đô sẽ đến ngay ngày
hôm sau. Đến khi biết rõ hoàn cảnh cô đơn và ngờ
nghệch của chàng ở xứ người mà phát tâm lành thiết
lập đàn tràng thủy lục cầu siêu độ cho thập loại
cô hồn, thím Wong vốn là Phật tử thuần thành, bỗng
hoan hỉ xin đóng góp công sức. Thế rồi thím cho mượn
một số vật dụng linh tinh, đề nghị thuê mướn phần
lớn Phật cụ cho đỡ tốn kém, thím cũng nhiệt tình
đảm phận phần thuê mướn nhân công, ghe vớt vong, bàn
ghế… cho ngày lễ… Tóm lại, công tác tưởng chừng
như thiên nan vạn nan, vậy mà sau khi Thành chân thành tin
tưởng vào sức gia bị của Tam Bảo, đã giải quyết
ổn thỏa một cách nhiệm mầu trong vài giờ, quả là
việc bất khả tư nghì.
Sau
mấy ngày bận rộn, Thanh được một ngày tương đối
thong dong, chàng thanh thản ngủ, thức giấc khá trưa mới
liên lạc với quí thầy báo cáo nội vụ, thỉnh ý bổ
túc vài điểm mà chàng còn mù mờ về lễ nghi và
chương trình đàn tràng. Chàng cũng thông báo nội vụ
cho thím Wong. Thím tỏ ra vô cùng hào hứng khi biết hai
vị đại sư đều là bậc chuẩn tiến sĩ, riêng Đại
Đức Bảo Minh còn thông thạo nhiều ngoại ngữ kể cả
tiếng Quan thoại. Thím quảng cáo cho đám người Hoa thế
nào, mà nhóm Phật tử Hoa kiều viện lẽ khách sạn
có lắm kẻ phóng túng bừa bãi nên ngỏ ý thỉnh quí
thầy về tư gia lưu trú và cúng dường thức ăn chay
lạt. Nhận thấy trăm sự đều có “quới nhân” gánh
vác, Thanh ung dung vận bộ đồ ngắn chuẩn bị dạo biển
một vòng. Vừa mở cửa, bỗng nghe tiếng cô nàng Milanda
reo vang:
– Anh
Thanh! Tôi dẫn người của anh tới đây nè!
– Chào
cô! Uả!..
Milanda
cười toe toét lên tiếng trách móc:
– Trời
ơi! Chắc anh ghét tôi lắm hay sao, mà không mời vào,
lạ quá sao mặt mày anh hớt hải như vậy?
– Xin
lỗi! Xin lỗi!
Chàng
mời nàng vào nhưng vẫn cố dáo dác ngoái lại tìm
con bé mà chẳng thấy đâu cả, nôn nóng chờ mãi chẳng
nghe nàng giải thích, đành bạo dạn lên tiếng:
– Tôi
thật không ngờ cô đến nhanh như vậy. Chắc tôi mừng
quá nên hơi lẩn thẩn, mà một phần có lẽ do sốt
ruột về tình trạng con bé nữa?
– Anh
hơi kỳ đó nhen! Hai mươi năm trước người ta năm tuổi
thì bây giờ cũng hai mươi lăm rồi! Cứ g̣ọi xách mé
con bé nầy con bé nọ hoài nghe hổng thông chút nào cả!
– Hì!
hì! Tôi quên mất điều đó chớ. Cho tôi xin lỗi nhé!
Vậy thì tôi xin Milanda vui lòng cho tôi biết tin tức cô
ấy? Cô ấy sống hay chết và hiện đang ở đâu?
Milanda
cười ngặt nghẽo:
– Uả!
Uả! Hồi nảy em đã báo cho anh là em đã đem cô đến
đây rồi mà!
Thế
rồi, trước vẻ mặt ngơ ngác và ngạc nhiên tột độ
của Thanh, cô ta bỗng phá ra cười, lối cười quái lạ,
nửa như ngây dại nửa thảm thương đến nổi nước
mắt tuông rơi lả chả. Thình lình Milanda khuỵu xuống,
khiến Thanh phải nhanh tay nâng đỡ. Cô bỗng nghẹn ngào
cất tiếng:
– Con
bé năm tuổi sống sót ngày xưa chính là Milanda, chính
là em đây anh Thanh à! Do hoàn cảnh côi cút em được tổ
chức thiện nguyện đặc biệt bảo trợ ủy thác Ông
bà Fernandez nuôi nấng. Theo hồ sơ tị nạn thì tên em là
Mi Lan viết rời, cha mẹ nuôi ghép lại thành Milanda cho
có vẻ Mỹ mà vẫn giữ chút gốc Việt. Tuy sống trong
môi trường Mỹ từ nhỏ, nhưng trong đáy lòng em vẫn
nhớ mình là người Việt… Vì muốn tìm hiểu nguồn
cội mình nên em tìm mọi phương cách xin làm việc tại
Phủ Tị Nạn để điều tra, đã sao chép trọn hồ sơ
chiếc tàu định mệnh đọc tới lui đến thuộc lòng.
Vì vậy khi anh điện thoại, em mới trả lời vanh vách
được. Đó cũng là lý do mà ba năm vừa qua em liên tục
du lịch Việt Nam, dù với nỗi lạc lõng buồn tênh do
ngôn ngữ bất đồng, may mà vô tình gặp anh… Từ khi
nghe anh kể lại hoàn cảnh khốn khổ của mẹ em, hàng
đêm đã gào khóc tìm con thơ suốt hai mươi năm trời,
em thương má em quá chừng hà! Anh Thanh ơi! Anh ráng tìm
cách cứu bả nghe anh!
– Chính
vì vậy mà tôi mới khổ công thỉnh mời quý sư chủ
trì “Pháp đàn tràng thủy lục” nầy, quý thầy cử
hành nghi thức siêu độ nhưng chính thân nhân “người
ràng buộc chằng chịt cộng nghiệp với hương linh mới
có sức chiêu cảm mạnh để chuyển hóa tâm thức vong
linh”, mình phải thành khẩn hướng về Tam Bảo tu tập
hồi hướng cho hương linh thì hiệu quả mới sâu xa mầu
nhiệm.
– Ôi!
Tự thuở giờ em có biết Phật đạo là gì đâu mà
tu tập?
– Chưa
biết rồi từ từ sẽ biết chớ có sao đâu! Mình phải
tìm hiểu, suy tư, rồi thực hành giáo pháp một cách
chân thành là sẽ có kết quả. Tôi nghĩ nếu ngày đêm
thành tâm tu tập rồi hồi hướng cho ông bà cha mẹ thì
dù thân nhân mình chết bao lâu, ở cõi nào đi nữa,
cũng do lực chiêu cảm mà đón nhận và được vô vàn
lợi lạc…
– Coi
kìa! Em thắc mắc là chẳng biết em làm cái gì ngay
bây giờ nè! sao anh không chỉ rõ cho em, mà nói lòng vòng
chuyện tu tập xa vời gì đâu á! em chẳng hiểu tí
gì cả hà!
– Còn
bây giờ thì cô cứ thành tâm quy kính Tam Bảo, cầu Tam
Bảo gia bị cho mẹ sớm thoát khổ, cô cũng nên đem hết
tấm lòng thiết tha thương yêu vô bờ bến hướng về
mẹ sao cho nó kết thành một sức lực vô biên có khả
năng giao cảm đến mẹ, từ đó bà mới khám phá rằng
đứa con mà bà bao năm trời ngày đêm tìm kiếm vẫn
an lành, và nhờ vậy bà sẽ an vui giải thoát.
Tối
đó, Thanh đưa Mỹ Lan đến bãi Pantai Mayat, căn dặn nàng
cố gắng bình tĩnh nếu thấy vong linh mẹ xuất hiện,
rồi giữ yên lặng để mỗi người tùy nghi hướng
về người thân tỏ bày tấm lòng thiết tha của của
mình. Đúng 11 giờ đêm, thì bóng ma trần truồng xuất
hiện, rồi cũng như lần trước con ma ngóng nhìn tìm
kiếm, đoạn kêu gọi con khóc lóc thảm thiết. Mỹ Lan
ràn rụa nước mắt, và dù Thanh khoát tay nhắc nhở,
bỗng chồm dậy khóc lớn: “Má! Con là Mỹ Lan đây
nè! Con thương má lắm, má ơi!”, nhưng nàng chỉ nói
với khoảng không vì bóng ma đã biến mất rồi. Thấy
vậy, Thanh cũng trang trọng hướng vào khoảng không khấn:
“Dì ơi! Đây là cô Mỹ Lan con của dì. Cô ấy thoát
nạn năm xưa và hiện sống tại Hoa Kỳ, cô về đây để
cầu Tam Bảo gia hộ cho dì sớm siêu thoát. Xin dì yên
lòng không phải bận tâm về cô nữa.”
Hôm
sau, cả hai cùng ra phi trường đón nhị vị tăng sĩ đưa
về Hội quán Hoa kiều tiếp đãi. Nhân thời mạn đàm
buổi tối, Thượng Tọa Mãn Khai ban cho thính chúng bài
pháp ngắn về Ý Nghĩa Thủy Lục Trai Đàn Chẩn Tế
bằng tiếng Anh, Đại Đức Bảo Minh thông dịch ra Quan thoại.
Đó là lần đầu tiên trên đời, Mỹ Lan nếm được
chút pháp vị nên rất hân hoan, nhóm người Hoa vốn tôn
trọng tục lệ thờ cúng tổ tiên cũng hồ hởi không
kém, họ ngỏ ý thỉnh quý thầy lưu lại vài ngày để
thuyết giảng đạo pháp, đồng thời xin đóng góp tài
sức cho Đàn Tràng và tham dự lễ dâng sớ cầu siêu
cho thân nhân, và dĩ nhiên được hoan hỷ đón nhận.
Do
đó, khác hẳn với phát họa sơ khởi về một nghi
lễ giản đơn cô quạnh, lực lượng hùng hậu của Phật
tử địa phương đã tiếp sức tổ chức Pháp đàn
thành qui mô, long trọng khác thường: có bục cao thờ
chư Phật Thích Ca, A di Đà… chư Bồ Tát Quán Âm, Địa
Tạng, đặc biệt cũng tượng Tiêu Diện Đại Sĩ, Hộ
Pháp Vi Đà… có 10 bàn đặt bài vị cho 10 loại cô hồn…(6)
Đúng
2.00 giờ trưa, quí thầy và mươi Phật tử tháp tùng
xuống tàu khởi đầu thủ tục vớt vong: Thượng Tọa
sám chủ thỉnh chuông, niệm chú triệu vong rồi thả 7
chiếc đèn phao trôi trên mặt biển… quí thầy tiếp
tục niệm Phật, niệm chú trong khi chỉ thị cho chiếc
tàu chạy tới lui bảy lần, rồi bắt đầu vớt từng
chiếc đèn lên tàu, rồi từ tàu 7 chiếc đèn lần
lượt chuyển qua chiếc bàn đặt tại nơi xăm xắp nước,
đây là bàn vong đặc biệt có bài vị nạn nhân đắm
thuyền 27 người, trong đó có 16 vị không rõ tên họ.
Quí thầy lên bờ, tiếp tục chuông khánh và tụng chú
hướng dẫn cho khiêng chiếc bàn vong dưới nước đưa
vào vị trí chung với các bàn vong cô hồn khác. Sau đó
nghi thức trai đàn chánh thức khai diễn với đầy đủ
tiết mục trong bầu không khí trang nghiêm và tràn đầy
bi mẫn. Nghi lễ tụng niệm bằng Việt ngữ, nhóm Phật
tử người Hoa tuy thiệt thòi không hiểu được lời
kinh ảo diệu, nhưng khi nghe đọc sớ tên thân nhân bằng
tiếng Quan thoại, họ cũng ra chiều hớn hở, đặc biệt
ngoài việc thí thực trên bờ, họ còn chứng kiến
cảnh thả bè thí thực ra biển khiến nhiều kẻ hiếu
kỳ thêm phần ngạc nhiên kỳ thú.
Đàn
Tràng hoàn tất mỹ mãn vào lúc 5.00 giờ, quý thầy
đã có nhóm Phật tử người Hoa phụ trách, nhưng Thanh
phải lăng xăng sắp xếp kiểm tra dọn dẹp vệ sinh bãi
biển, thanh toán đủ mọi chi phí, và sau cùng đến mục
khoản đãi giới chức địa phương do Ted móc nối nhằm
yểm trợ và an ninh cho Đàn Tràng… Do đó, phải đến
hơn 11.00 giờ đêm Thanh mới trở về khách sạn, mệt
nhoài nhưng cũng thoải mái nhẹ nhàng, chàng đặt lưng
xuống giường thì ngủ ngay không còn bận tâm điều
gì cả. Bỗng Thanh thấy Yến nhìn chàng mỉm cười thỏ
thẻ:
– Cảm
tạ Thanh đã lo lắng cho mẹ em, và nhứt là đã tận
tình cứu vớt em khỏi cái khổ tối tăm hóa đá dưới
đáy biển nầy. Anh có biết không? đêm đó em thề với
anh là sẽ không bao giờ đi đâu hết, vì em chặt lòng
chặt dạ nên mới kẹt cứng ở đây, may mà anh đã đến
hóa giải cho em lời thề, thoát khỏi số kiếp làm con
ma hóa đá nầy. Hà! hà! Em làm ma nữ si tình kể cũng
xứng đáng với tấm lòng chung thủy của anh phải không?
– Thương
em quá! khổ thân em quá!
– Anh
yên tâm đi, giờ em được chuyển sang cảnh giới an nhàn
rồi, em rất thoải mái tự do… có thể thanh thản rong
chơi theo ngày tháng, nhưng em dự định theo chư đạo sư
học đạo để phát triển tâm linh.
– Thỉnh
thoảng em nhớ về thăm anh, em nhé!
Yến
lắc đầu:
– Em
rất cảm động về mối chân tình của anh! Nhưng anh ơi,
giờ đây mỗi người mỗi cõi khác nhau. Mình không còn
duyên nợ, thì còn ràng buộc chi nhau cho thêm phiền muộn.
Anh tập quên em đi và phải lập gia đình chớ!
– Từ
bao năm nay, trong lòng anh chỉ có bóng hình em. Anh có quen
biết ai mà nghĩ đến việc nầy!
– Có
chứ! Con bé Mỹ Lan đó coi cũng được chứ!
– Bậy
nà! Nó là đứa con nít, còn anh thì già quá mà! Anh
đâu hề có tình ý gì với nó!
– Em
là ma mà sao em không hiểu rõ suy tư của anh. Em biết anh
vô tư nhưng con bé thì nó mê mệt anh lắm, nó chả chê
anh già tí nào đâu! Thôi em đi nhé!
Nàng
khoát tay từ giã, mà còn ngoái đầu lại, tinh nghịch
ghẹo:
– Con
“cá vàng ngơ ngác” đó coi bộ dễ thương đấy! Đừng
để vuột uổng lắm!
Thanh
vùng vẫy ú ớ gọi Yến, bỗng giật mình thức dậy,
mà vẫn bàng hoàng ngơ ngẩn như vẫn còn chìm đắm
trong giấc chiêm bao. Thình lình có tiếng đập cửa khẩn
trương, Thanh vừa hé mở thì Mỹ Lan đã tràn vào, ôm
chầm chàng khóc như mưa:
– Anh
ơi! Em vừa chiêm bao thấy má, má nói nhờ anh mà mẹ
con có cơ hội đoàn tụ, và má mới giải thoát khỏi
cảnh đọa đầy. Má cám ơn anh nhiều lắm! Má khen anh
là người nhân hậu… và còn dặn…
– Bà
còn nói gì nữa vậy Mỹ Lan?
Mỹ
Lan bỗng trở nên ngây thơ ngơ ngác lạ thường, chu mỏ
đớt đát:
– Bà
nói không đầu đuôi em chẳng hiểu chi cả. Hình như là
“nhớ lưới cá đừng hơ hỏng cho sẩy nha!
– Ơ!
Có lẽ bao năm bị ám ảnh bởi biển nên những vong linh
ở đây ưa đề cập đến cá vậy mà!
Rồi
Thanh bỗng cười xòa nhìn con cá vàng ngơ ngác, thầm
nghĩ “Kể ra, con cá vàng nầy hơi quậy, nhưng có nó
phùng xòe thì cũng vui!”
Tháng
05.2010
Lời
cuối truyện:
Truyệ̣n
ngắn nầy được gợi ý từ một chuyện ma có thật
xảy ra tại một bờ biển thuộc miền Đông Hoa Kỳ, theo
đó, trong một vụ đắm thuyền, đứa con gái bé nhỏ
được sống sót nhưng bà mẹ thì chết. Bà mẹ trở
thành con ma mỗi đêm đi dài trên bãi biển tìm con, khiến
cho các tu sĩ công giáo nhiều phen ra tay cầu nguyện làm
phép thánh giá trong mấy mươi năm trời vẫn không kết
quả. Cuối cùng, có người truy tầm được cô con gái,
giờ nầy đã có chồng con, đưa đến tận bãi biển…
để chứng minh cho người mẹ biết rằng đứa con vẫn
còn sống, và từ đó con ma không còn xuất hiện nữa.
Ghi
chú:
1.
Chư cổ đức thường nhắc nhở
rằng nếu thành tâm tu tập hồi hướng cho thân nhân
thì dù thân nhân từ trần lâu xa hay đang ở cõi nào
cũng đều ích lợi:
– Ngài
Hư Vân hòa thượng vào năm 56 tuổi, khi dừng chân tại
chùa A Dục Vương, đã phát nguyện lễ Xá Lợi Phật
từ sáng sớm canh ba cho đến chiều tối, trung bình 3000
lạy mỗi ngày để hồi hướng công đức cho mẹ đã
từ trần ngay khi hòa thượng vừa chào đời. Thành
tâm lễ bái trong một năm thì mẹ Ngài được sanh về
cõi Cực Lạc phương Tây.
– Sogyal
Rinpoche, trong Tạng thư Sống chết (Ni sư Trí Hải dịch):
Sự giúp đỡ người chết không chỉ giới hạn trong 49 ngày
sau khi chết, vì dù họ chết 100 năm về trước, nhưng nếu
ta tu tập cho họ, họ vẫn được lợi lạc.
– Kinh
Tirokudda sutta (Khudaka Patha) có dạy rằng ngay các chủng loại
quỉ tức đã chuyển kiếp rồi, vẫn có thể hưởng
được phước báu mà thân quyến họ đã tạo nên và hồi
hướng đến họ. (Đức Phật và Phật Pháp, ĐĐ Narada
Maha Thera)
– Kinh
Ưu-bà-tắc có nói: “Nếu người cha chết rồi bị đọa vào
kiếp Ngạ quỉ, mà người con vì cha làm những phúc đức,
nên biết người cha liền được hưởng thọ” (Theo Phương
Pháp Liễu sanh thoát tử).
2.
Thân trung ấm: Sau khi chết người cực thiện vãng sanh
ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo
về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần
đông còn lại phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, là
giai đoạn tạm thời chờ đợi để chiêu cảm thêm nghiệp
lực quyết định cho nẻo tái sanh cho cuộc sống kế
tiếp. Thân trung ấm nầy sau bảy ngày nếu chưa tái sinh
thì phải trải qua một kinh nghiệm chết rồi sống
trở lại, nhưng thời gian tạm thời nầy cũng chỉ kéo
dài tối đa là 7 tuần tức 49 ngày. Sau 49 ngày chưa đầu
thai, thì đương nhiên chuyển sang kiếp quỷ thần, và
do đó, không còn gọi là thân trung ấm và cũng không
còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy
ngày nữa.
3.
Cõi Quỷ Thần: tức Quỷ thú là một trong lục thú là:
Thiên, Nhân, A tu La, Quỉ, Địa Ngục và Súc sinh. Do cách
dịch không rõ ràng nên chúng ta dễ tưởng lầm rằng
cảnh giới Quỷ Thần chỉ có loại Ngạ Quỷ, kỳ thật
chủng loại quỷ thú rất nhiều, không thể kể xiết được.
Tuy vậy, ta có thể đại khái chia làm hai loại là:. loại
có uy phước và loại không uy phước. Loại quỷ thần uy phước
cũng có cung điện, thân tướng trang nghiêm, nhiều kẻ tùy
thuộc, hoặc thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được
người thờ cúng. Loại này lại chia ra làm hai hạng: chánh
thần và tà thần. Bậc chánh thần thì giữ lòng chân chánh
hay giúp đỡ nhơn gian; hạng tà thần tâm niệm quỉ quyệt
không chân thật, hoặc đa dâm đa sát, thường làm tổn hại
cho người. (Thí dụ như các bậc Đại Phạm Thiên Vương,
Tam thập thiên vương, Tứ thiên vương, Diêm Ma vương, Nan
đà long vương, Bạt đà long vương… đều là thiện quỷ
thần; La sát: ác quỷ thần; Dạ Xoa: vừa thiện vừa
ác.) Loại quỷ không uy phước thì vất vả, ở chỗ âm u,
thường đói khát, hoặc ăn những đồ bất tịnh.
Theo
Tử thư Tây Tạng thì sau 49 ngày mà chưa đầu thai thì
thần thức từ dạng thân trung ấm sẽ chuyển sang cõi
quỷ thần chịu khổ nhiều ít tùy theo phước báo của
họ.
4.
Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất
thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong
kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không
thể tiến đến giai đoạn tái sanh, rồi trở thành ma quỉ
(trích Tạng thư Sống chết).
5.
Trong Kinh Quán Đảnh, quyển thứ sáu có nói: “Những kẻ trong
lúc bình sanh không làm lành, cũng không làm dữ; thì sau khi
chết rồi không có quả báo gì xuất hiện, cho nên sẽ làm
loài quỷ và được tự do”. (Theo Phương Pháp Liễu sanh
thoát tử)
6.
Thập loại cô hồn: chủng loại cô hồn đa dạng vô số
kể không thể hạn định một con số chính xác, con số
10 loại là số tượng trưng theo như Văn tế Thập loại
cô hồn của đại thi hào Nguyễn Du, có nhiều pháp sư
chủ trương là 12, 24 hoặc 36 loại cô hồn.
Discussion about this post