LỜI CHỈ DẠY VÔ GIÁ
CỦA HT. THÍCH MINH CHÂU
VỀ CHÁNH TÍN
Tâm Thuận
Kính thưa quý đạo hữu!
Trong Ngũ lực, gồm Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định
lực và Tuệ lực thì Tín lực là hàng đầu, là cửa ngõ để đạt được các lực theo
sau. Tín lực không phải là sự tin tưởng vào những giáo điều, giáo pháp một cách
mù quáng, ồ ạt và thiếu xét đoán mà dẫn đến việc làm khổ mình, khổ người, khổ tất
cả chúng sanh. Tín lực là lòng tin sâu sắc và mạnh mẽ đối với Chánh Pháp của đức
Phật Thích Ca, là lòng tin chân chánh, chớ có vội tin mà hãy đến để mà thấy và
tự mình chứng nghiệm, như đức Phật từng dạy: “Nhưng này các Kàlàmà! Khi
nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này bất thiện, Các pháp này là có tội lỗi,
Các pháp này bị người có trí chỉ trích, Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận
đưa đến bất hạnh khổ đau. Thời này, Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng không nên tin
theo”.
Chính vì thế, từng ngày giờ chúng ta hành động, nói
năng hay suy nghĩ những điều mà không làm khổ mình, không làm khổ người, không
làm khổ tất cả chúng sanh thì ngay đó đã cảm nhận được sự thanh thản, an lạc,
đã có Chánh Tín và cũng chính là đang hành đúng theo nền đạo đức nhân bản –
nhân quả do đức Như Lai là người đầu tiên tuyên thuyết.
Nói
không làm khổ mình, khổ người không có nghĩa là chúng ta cứ làm ngơ trước những
điều sai trái của người khác. Chính trong thời xưa đức Phật Thích Ca đã không
ít lần đập mạnh, chỉ thẳng cái sai của 62 luận thuyết tà kiến ngoại đạo (trong
Kinh Phạm Võng, Trường Bộ Kinh). Quả là ” bậc A La Hán ra đời như cánh
chim trời, tung bay khắp mọi nơi khiến cho vũ trụ rung chuyển, những tư tưởng
mê tín, dị đoan, lạc hậu của loài người bị đảo lộn, không còn đứng vững, rơi rụng
như những chiếc lá vàng mùa thu”.
Có vị Thầy mạnh dạn chỉ ra những việc được hành sai
trong Phật Giáo hơn 2500 năm nay kể từ khi đức Phật và cuối cùng là ngài Ananda
nhập diệt để giúp biết bao người tránh lầm đường lạc lối trên con đường tu tập
của mình. Nếu chúng ta nghĩ rằng vị ấy làm khổ người, nói xấu người khác, không
có ái ngữ thì đó chưa phải là cách hiểu đúng, do mình còn kiến thủ. Đức Phật có
dạy trong Kinh Pháp Cú, phần VI – Phẩm Hiền Trí:
“Nếu gặp bậc hiền trí
Chỉ lỗi và khiển trách
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy kết thân người trí
Kết thân với vị ấy
Chỉ có lợi không hại”
Biết nương theo những lời chỉ dạy của bậc hiền trí,
bậc thiện hữu tri thức thì mọi người sẽ không còn chấp thủ vào cái sai của
mình, tự mình cởi trói cho bản thân khỏi cái kiến giải, tưởng giải được truyền
thừa từ bao đời nay. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy về lòng tin chân
chánh:
“Này
các Kàlàmà! Chớ vội tin vì nghe truyền thuyết, Chớ vội tin vì nghe truyền thống,
Chớ vội tin vì nghe người ta nói đồn, Chớ vội tin vì được Kinh Tạng truyền tụng,
Chớ vội tin vì nhân lý luận siêu hình, Chớ vội tin vì đúng theo một lập trường,
Chớ vội tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện, Chớ vội tin vì phù hợp với định
kiến của mình, Chớ vội tin nơi xuất phát có uy quyền, Chớ vội tin vì bậc Sa Môn
là đạo sư của mình v.v..
Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết
rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, Các pháp này là có tội lỗi, Các pháp này bị
người có trí chỉ trích, Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh
khổ đau”.
Thời này, Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng không nên
tin theo”.
Trên con đường tìm cầu đạo giải thoát thì cũng có
lúc chúng ta đứng giữa ngã ba ngã bảy trong khi lối đi đến tiếp cận chân lý thì
chỉ có một: đó chính là Bát Chánh Đạo. Cái ngã ba ngã bảy ấy tượng trưng cho một
số lượng lớn Kinh sách được cho là của Phật thuyết mà sự thực thời còn tại thế đi
hóa độ chúng sanh, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dù có thuyết pháp rất nhiều nhưng Ngài
thường chú trọng vào Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo,
pháp Như Lý Tác Ý và Thân Hành Niệm…
Sau đây, Tâm Thuận xin trích dẫn những lời chỉ dạy
vô giá của Hòa Thượng Thích Minh Châu về Chánh tín dành cho tất cả những ai đã,
đang và sẽ tìm đến với Phật pháp. Phần trích dẫn này nằm trong sách “Chánh Pháp
Và Hạnh Phúc” và Lời giới thiệu Kinh Trung Bộ bản in năm 1986:
1) Sách
Chánh Pháp và Hạnh Phúc, Nhà Xuất Bản
Tôn Giáo (2001), trang 238-246:
“Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng
tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các học giả, các sinh viên được đọc
thẳng vào kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và sự tự mình
tìm hiểu những lời dạy thật sự của Đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của
các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những học giả và những phật
tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình.
Muốn
chạy theo dục vọng thì giải thích kinh điển một cách dễ hiểu rằng đạo Phật chấp
nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn bênh vực kẻ giết người, đạo
Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy
theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi
tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết!
Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là
phổ biến những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để Phật
tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào. Đạo Phật cần
những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu rồi xác nhận
sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật
Không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo
một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến
dục vọng của mình.
Chính kinh Đại Bát Niết Bàn, trang 124- 126,
tập III có ghi rằng, dù chúng ta có nghe vị Tỳ-kheo nào nói tự thân nghe Đức Phật,
tự thân nghe các vị Thượng Tọa, Thủ chúng v.v… nói như vậy là pháp, như vậy
là luật, Đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp thuận hay từ bỏ
ngay, mà phải so sánh với kinh, đối chiếu với luật, có phù hợp mới được chấp nhận,
không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu suy tư cá
nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu suy tư. Khi chúng
ta được đọc những lời dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của Đức Phật.
Chúng tôi dịch kinh Pàli, không vì mục đích
muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục
đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển có thể được xem là
nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân
chính của Đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù Ấn Độ, Trung
Hoa, hay Việt Nam.
Chúng
tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy,
đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình
tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân,
mới có thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm
tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người
dịch, vì đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy
hộ, đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của
người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là đạo của người không
thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy,
tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.
Thật sự chúng tôi chỉ mong rằng quý vị đọc
thật kỹ và suy tư thật chín chắn những đoạn mà chúng tôi phiên dịch rồi quý vị
hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là những đoạn “Tiểu thừa” dành riêng cho những
vị có tiểu tâm, chỉ tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác không biết giác
tha. Như chúng tôi đã phân tích trong lời giới thiệu bản dịch tập “Đại Thừa Và
Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa.” Chúng ta đừng có mắc bẫy các vị Bà La Môn Ấn Độ giáo
tìm cách gán cho chữ “Tiểu Thừa” để loại ra ngoài những lời Phật dạy căn bản,
như một số phật tử Đại thừa đã bị mê hoặc, không dám đọc những lời Phật vì bị
gán nhãn hiệu Tiểu Thừa.
Bên phái Nam tông, tuy tôn thờ Tam Tạng
Pàli, nhưng một số phật tử cũng rơi vào nạn tương tự, là chỉ học luật tạng và A
Ty Đàm tạng, bỏ rơi Kinh tạng Pàli, vì xem A Ty Đàm tạng mới đề cập đến Đệ Nhất
Nghĩa Đế, còn kinh tạng chỉ bàn đến Tục Đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạc hết
sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A Ty Đàm phát xuất từ kinh tạng, và bỏ để tìm ngọn
thì không khác gì kẻ đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá.
Thật
sự đạo Phật đâu có phân biệt Tiểu Thừa và Đại Thừa, đâu có chia đôi Chân đế, Tục
đế. Những sự phân chia này chỉ là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà La Môn mang
danh phật tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật không cho phật tử
học và tu, hay của một số đệ tử Phật muốn làm Tổ sư một giáo phái nên đề xướng
các chủ thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm tìm
đọc và tìm hiểu những lời dạy thật sự là những lời dạy của Đức Phật, và vì
trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắng phiên dịch kinh tạng Pàli ra Việt ngữ.
Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chín chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu
là những lời dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.
Đây
là sự đóng góp của Viện Đại Học Vạn Hạnh vào nền văn hóa Phật giáo bằng cách giới
thiệu một cách đầy đủ và trung thực những tài liệu tiếng Việt quý báu nhất về
kinh tạng Pàli, vừa cho các phật tử tìm hiểu, thực hành và thực chứng, vừa giúp
các học giả Phật giáo có những tài liệu tham khảo khá đầy đủ và trung thực.
Viện Đại Học Vạn Hạnh là môi trường đầu tiên
nếu không phải là độc nhất, đã cố gắng giới thiệu kinh tạng Pàli cho phật tử Việt
Nam, học giả Việt Nam, dân chúng Việt Nam.
Viện Đại Học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở
đường cho một cao trào nghiên cứu đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của Đức Phật,
khỏi bị những lệch lạc của học phái hay của Bà La Môn giáo. Điều quan trọng hơn
nữa, Viện Đại Học Vạn Hạnh khuyến khích các học giả và các phật tử tự mình mở mắt
tìm hiểu, suy tư đối chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp
nhận, trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, để làm sáng tỏ những lời dạy nguyên
thủy của Đức Phật.”…
2) Lời Giới Thiệu Kinh Trung Bộ (Trong Bản
In Năm 1986):
“Gần chúng ta hơn, Kinh Trung Bộ này đã nằm
trong chương trình học của Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, và Tăng Ni Sinh cần
có Kinh sách để học hỏi nghiên cứu, cho nên cho in lại Kinh Trung Bộ là đáp ứng
nhu cầu cấp bách này. Ngoài ra Kinh Trung Bộ đang được nhiều nhà học giả, nhiều
Phật tử nghiên cứu và tìm hiểu, vì chúng ta có thể nói Kinh Trung Bộ không những
là cốt lõi trong Kinh Tạng Pàli mà còn diễn đạt rất súc tích và đầy đủ những định
nghĩa căn bản các danh từ đạo Phật và còn diễn đạt rất phong phú và đa dạng những
pháp môn tu tập đưa đến Niết bàn. Chưa học Kinh Trung Bộ là chưa nắm được tinh
hoa của Đạo Phật nguyên thủy. Chưa
nghiên cứu Kinh Trung Bộ rất có thể rơi vào những lệch lạc định nghĩa các danh
từ chuyên môn trong đạo Phật mà Đức Phật đã dày công định nghĩa, mỗi khi Ngài
thuyết giảng giáo lý của Ngài.
Chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt là
Kinh Trung Bộ đặt nặng về phần Chánh Tri Kiến và các phương pháp tu hành, nhất
là những tiến trình tu chứng đi từ Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri
kiến. Còn Kinh Trường Bộ đặt nặng phần lịch sử, có tánh cách đối ngoại đối với
Bà La Môn, du sĩ ngoại đạo, Kỳ na giáo… Tăng Chi Bộ đặt nặng phần phân tích
giáo lý theo pháp số từ số 1 đến số 11. Tương Ưng Bộ đặt nặng phần phân tích
giáo lý theo đề tài. Còn đọc Kinh Trung Bộ chúng ta đi sâu vào phần giáo lý và
phần hành trì, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt
đến những quả vị tối cao.
Công trình phiên dịch của tôi, một mặt đáp ứng
sở nguyện xuất dương tu học của tôi, một mặt xây dựng những tài liệu nghiên cứu
đạo Phật cho các Học giả và Phật tử Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên trong trách nhiệm hiện
tại của tôi, sự phiên dịch đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều dụng công kiên trì và
liên tục, nhưng chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng những
Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp Lạc này ẩn chứa trong
từng chữ từng câu, tiềm tàng trong từng câu văn giọng nói, và chính Pháp Lạc đã
nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịch này.
Càng
dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa
để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật
tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch,
càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo
Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng
nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không
được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân
lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc
đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh
đi vào con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng
rực rỡ của chân lý quét sạch.
Có người than kinh Pàli quá dài và có nhiều
đoạn trùng điệp. Khi dịch Kinh, bao giờ tôi cũng phải kính trọng nguyên bản, và
vì vậy chúng tôi không có thể tự ý lược bỏ những đoạn trùng điệp, dầu rằng
nguyên bản Pàli chúng tôi phiên dịch cũng đã lược bỏ khá nhiều. Điều chúng ta
nên nhớ là phần lớn Kinh điển được kiết tập trong các Đại hội Kiết tập và đều
do chư Tăng tụng đọc lại những đoạn các vị ấy đã ghi nhớ, và lẽ dĩ nhiên khi tụng
đọc không bao giờ có chuyện lược bỏ. Lại nữa đức Phật trong khi đi truyền giáo,
mỗi Kinh đều được giảng trọn vẹn trong mỗi hoàn cảnh đặc biệt và chư Tăng ghi
nhớ lại không bao giờ dám lược bỏ các đoạn đã được nghe. Do đó, có nhiều đoạn
trùng điệp, khó lòng lược bỏ cho được. Dầu thế nào, các đoạn trùng điệp vẫn có
sự tác dụng cho người đọc, vì không gì tốt đẹp hơn là được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần những giáo lý quan trọng và những pháp tu căn bản.
Chúng tôi nay chỉ chú trọng phiên dịch, và
mong dịch cho được chu toàn và đầy đủ, để làm tài liệu nghiên cứu và tu học cho
các Phật tử và Học giả, chưa có một nhận xét, phê bình, so sánh đối chiếu gì. Mỗi
bộ Kinh được dịch xong là những nguồn tài liệu văn hóa hết sức phong phú và quý
giá cho các Học giả và các Phật tử, và hiện tại sự cố gắng duy nhất của chúng
tôi là cung cấp những tài liệu văn hóa ấy. Cho
nên, với 5 bộ Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tăng Chi, Kinh Tương Ưng,
Kinh Tiểu Bộ, chúng tôi nghĩ là giới thiệu được những tài liệu khá chính xác và
đầy đủ để các nhà Học giả, Tăng Ni Phật tử, Sinh viên đi sâu được vào những
Giáo lý và Giáo pháp căn bản, thật sự là nguyên thủy của Đạo Phật.” (http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75_4-4895_5-50_6-2_17-445_14-1_15-1/)
Kính thưa quý phật tử! Khi đọc xong tiếng nói
của Hoà Thượng Thích Minh Châu, một trong những vị Hoà Thượng danh tiếng của
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và thế giới, ngài đã dám chỉ thẳng, nói cái sai của
Phật giáo hiện giờ để cảnh giác mọi người thì quý phật tử hãy tự suy ngẫm rồi
chọn cho mình một con đường đúng chánh pháp của Phật, để xây dựng cho mình một
đời sống đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình khổ người.
Cuối cùng,
để thay cho lời kết, Tâm Thuận xin trích dẫn lời di chúc của Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni đã ban bố trước khi ngài diệt độ, và lời di chúc vô giá này sẽ còn sống
động mãi cho đến khi con người hết khổ:
“Này Ananda, nếu trong các ngươi có người
nghĩ rằng: “Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo sư
(giáo chủ)”. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật,
Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo
Sư của các Ngươi.” “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác,
dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa
vào một pháp gì khác, những vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng
Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” (Kinh Trường Bộ, bài Kinh Đại Niết Bàn).
Xin Kính Chúc Quý Đạo Hữu Thân Tâm Thường Thanh Thản,
An Lạc!
*** HẾT ***
Discussion about this post