KHUYÊN
NGƯỜI
NIỆM
PHẬT
TẬP 1
Phát Nguyện Vãng Sanh
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung.
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô-Sanh.
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Phát Nguyện Vãng Sanh
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung.
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu. Hoa khai kiến Phật ngộ Vơ-Sanh.
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Văn Hồi Hướng
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ.
Thượng báo tứ trọng ân,
Hạ tế tam đồ khổ.
Nhược hữu kiến văn giả,
Tức phát Bồ-đề tâm.
Tận thử nhất báo thân,
Đồng sanh Cực-lạc quốc.
Lời khai thị của Đại sư Ấn Quang.
Bất
luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều
mà người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được; thay người
làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường
nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người.
Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng chỉ niệm Phật
hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.
Ngoài
việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm phải tức thời
bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là
công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương. Chỉ nên
chăm sóc việc nhà mình, đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những
hình dạng tốt đẹp, đừng để mắt tới những hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi
người như Bồ-tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.
Nếu quả có thể tu hành được như vậy thì nhất định
được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế-giới
Mục lục:
*) Quy tắc tu học . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11. *) Mục lục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6 *) Lời giới thiệu
. . . . . . . . . . . . . . . . . . 11 *) Thay lời tựa . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . 12
(1) Quyết lòng niệm
Phật! Trang . . . 17
Mỗi
pháp môn trị một căn bệnh phiền não. Tám mươi bốn ngàn pháp môn trị tám mươi bốn
ngàn thứ phiền não trong tâm. Kinh tạng ví như nhà thuốc tây, pháp môn là vị
thuốc. Cứ vào nhà thuốc tây thấy thuốc nào cũng uống đại thì chết ráng chịu chứ
không thể đổ thừa cho thuốc dở được. Tu hành giống như vậy, tu đúng pháp môn thì
mình giải thoát trong một đời. Tu pháp môn không hợp căn cơ mình sẽ lăn lộn
trong cõi ác trược này vô lượng kiếp mà chưa chắc sẽ thoát khỏi khổ nạn….
(2) Niệm Phật để thành
Phật! Trang 24
Phàm hễ mình thân với ai thì
nợ với người đó, nợ với họ thì phải theo họ để trả nợ, thành ra thân cận với Phật
thì theo Phật để thành Phật, không thân cận với Phật thì làm sao được về với Phật
mà viên mãn đạo quả, cho nên đành phải trôi lăn mãi trong lục đạo luân hồi hàng
ngàn hàng vạn kiếp!…
(3) Niệm Phật cầu phải
đạt đến đỉnh cao! Trang . . . .29
….tất cả mọi tôn giáo đều
nhằm cứu độ chúng sanh. Tôn giáo nào cũng tốt cả, nhưng mỗi một tôn giáo có một
cảnh giới nhất định để cứu người…. Tu để làm người, vẫn trở lại thành người,
thì làm sao quý bằng tu hành trở thành Phật, một đời giải thoát tất cả trầm luân!
(4) Tu Tịnh nghiệp chứ
không phải Thiện nghiệp! Trang . . .
. 35
….. làm lành thì tốt, nhưng làm lành để cầu hưởng cái phước
hữu lậu thì lại triệu triệu kiếp không làm sao thoát khỏi sinh tử luân hồi, không
bao giờ được bén mảng đến cảnh Tây-phương Thế-giới Cực-lạc được. Vì sao? Vì làm
lành có một chút không bằng người ta làm ráng, mà đã tìm cách thâu lợi rồi thì
làm lành đó là vì lòng tham chứ không phải là làm lành đâu….
(5) Chết không phải là
hết! Trang . . 42
…
Người không hiểu đạo họ cứ lo công danh, điạ vị, tiền bạc, cứ lo ăn nhậu rồi buông
lời hủy báng pháp Phật. Người hiểu đạo rồi họ âm thầm tu niệm mặc cho người đời
nói gì thì nói. Cái hơn thua hãy chờ mà coi, 70-80 năm trong đời đâu có nghĩa lý
gì so với ngàn vạn ức triệu năm sau đó. Đó là cảnh giới mình sẽ sống….
(6) Khuyên người niệm Phật!
Trang . . 47
…thành
tâm khuyên tất cả anh chị em hãy mau mau giác ngộ, đừng đứng đó dùng cái trí hạn
hẹp của mình mà suy lường cái vi diệu siêu tuyệt của chư Phật mà mang tội khó gỡ
nổi. Còn tu thì phải biết minh mẫn, phải biết giựt mình, phải biết thấy rõ giữa
liễu và bất liễu giáo, chứ không thì dễ bị mê trong cái kiến chấp sai lầm mà mất
đường giải thoát….
(7) Niệm Phật khai mở
trí huệ! Trang. . 53
…càng
niệm Phật con càng thấm sâu vào lời Phật dạy. Ngủ một đêm sáng ra con hiểu sâu
vào một cảnh giới…. Lạ thật! Càng ngày con càng thấy vi diệu, càng lúc hình
như con càng rõ hơn cái cực kỳ vi linh của âm thanh “Nam-mô A-di-đà Phật”.
(8) Đới Nghiệp vãng sanh.
Trang . . . . 60
… Nghĩa là nghiệp chướng vẫn còn nhưng nhờ
gia lực của Phật mà được vãng sanh. Đây là một điều kiện di dân vô cùng thù thắng,
mà đức Phật A-di-đà đã phát nguyện ra. Đây là phương tiện độ sanh cực kỳ vi diệu,
cực kỳ rốt ráo, nên tất cả chư Phật mười phương đã đồng thanh hộ niệm. Chính vì
thế mà câu Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật” đã trở thành một siêu lực lượng, không
thể nghĩ bàn, có thể cứu độ tất cả mọi chúng sanh trong cửu pháp giới, từ đẳng
giác Bồ-tát cho đến địa ngục ngạ quỷ súc sanh, một đời bình đẳng thành Phật….
(9) Nhìn cho thấu, buông
cho trót! Trang. 67
Tuổi
già chờ từng ngày để chết mà họ còn lo cho cháu, cho con chưa thành danh, sợ người
ta chê điều này, mất được khen điều nọ. Họ còn ham cái tiếng tăm danh vọng hão
huyền, lo mình chết sau này ai sẽ cúng giỗ, cái vườn chưa cày, tiền chưa đòi hết,
nợ chưa trả xong… những thứ tơ vò đó quyện chặt lấy thân tâm thì làm sao thoát
ly được. Tất cả những điều đó là những sợi dây cáp bằng thép trói chặt mình lại
trong sinh tử luân hồi….
(10) Ta-bà khổ Ta-bà khổ!
Trang . . 74
… Khổ kinh khủng lắm chứ có
sướng gì đâu! Sống lên trong một thế giới hận thù nhiều hơn tình thương, giành
giựt thay cho lòng bác ái. Từng người từng người qua mấy chục năm bù đầu kiếm ăn,
sau cùng chui xuống mồ hoang, sự nghiệp tự phủi sạch, một cắc cũng không mang
theo được, lại còn âm thầm theo nghiệp thọ báo. Thật là quá khổ! Ấy vậy mà ít
ai chú ý tới….
(11) Buông Xả thì Tự
Tại! Trang. . 81
…
Nhứt thiết duy tâm tạo. Tâm đã buông xả thì tự nhiên hoàn cảnh sinh hoạt cũng
phải chuyển biến theo. Tất cả đều do tâm mình định đoạt, mình quyết tâm thì tâm
mình chuyển đổi hoàn cảnh, mình không quyết tâm thì hoàn cảnh nó quay mình như
chong chóng, không bao giờ thoát ly được đâu….
(12) Cụ
Triệu Vinh Phương vãng sanh! Trang 88
Vãng
sanh về với Phật là chuyện có thật một trăm phần trăm. Kinh Phật nói ra đúng thật
một trăm phần trăm. Tu hành đúng cách đúng pháp môn trong một đời này được về sống
trong thế giới của Phật là chuyện thực tế một trăm phần trăm, nhất thiết không
phải hão huyền viển vông. “Niệm Phật thành Phật” thực sự đã có bằng chứng
rõ ràng cụ thể, từng việc từng việc đều đúng y như Phật nói trong kinh, không
sai chút nào cả.
(13) Hộ niệm! Trang
. . . . . . . 95
…
giây phút trước và sau khi tắt thở là giai đoạn vô cùng căng thẳng. Người ra đi
đang đối đầu với những trạng huống rất lạ và kinh khủng nào là oan gia trái chủ,
thù oán nhiều đời nhiều kiếp nhào vô giựt phần đòi nợ, nào là những cảnh giới vừa
thiện vừa ác hiện ra. Là lúc cả một cuộn phim từ nhiều đời nhiều kiếp đang quay
lại làm điên đầu người ra đi. Trong trạng thái đó nếu thân nhân hiểu Phật pháp
một chút, họ có thể xoay trở tình thế, cứu được người thân thoát khỏi nơi hiểm ác,
sanh vào cảnh giới tốt bằng cách một lòng thành tâm niêïm Phật phụ trợ người đi…
(14) Tự chọn cảnh giới tương
lai! Trang. 102
…. người
nguyện sanh về Tây-phương Cực-lạc thì nhờ lực gia trì của Phật A-di-đà, chỉ
trong đời này thôi họ có thể được đức Phật A-di-đà tiếp dẫn về Tây-phương, họ sẽ
là Bồ-tát, không còn lo sợ tử sanh, không còn lo bị rơi vào ba đường ác, không
sợ bị thối chuyển nữa. Cứ thế họ an nhiên tự tại, hưởng thụ sự sung sướng “Cực-lạc”,
thần thông biến hoá, bao trùm pháp giới….
(15) Cần cẩn thận lúc
lâm chung! Trang . . 112
…. muốn vãng sanh thì
phải quyết chí giải trừ những cái nạn mê man, bất tỉnh, nạn oan gia trái chủ, nếu
không thì khó bề thành tựu! Nên nhớ, cái hiểm nạn này nó đến một cách bất ngờ
không báo trước. Mình không biết các thế lực đó nó đến lúc nào, nó bất chợt hành
động để lôi mình trở về trong lục đạo hoặc ba đường ác….
(16) Sân giận, đường về địa
ngục! Trang . . 122
Tu hành
phải lấy ngay cái chỗ tối nguy kịch của mình mà hạ thủ thì mới mong cứu mạng mình
trong đời, còn lo tu sửa những lỗi nho nhỏ vụn vặt chỉ là hành động bòn mót phước
báu bình thường, không được lợi ích lớn đâu. Ví dụ, như ở đời có người cứ lo chấp
những lỗi lầm li ti mà lại đi phạm tội tử hình thì những cái tốt nho nhỏ có cứu
mạng mình được chăng?
(17) Địa ngục ở đâu?
Trang. . . 131
…. Nó
là sự chiêu cảm hằng ngày bằng cách sống, cách suy nghĩ, cách ăn ở, cách tiếp vật
đối người… của mình chứ không đâu xa cả. Khi không biết mình cứ tưởng nó là
chuyện huyền hoặc, xa vời, phi thực… đâu ngờ nó là một thực thể núp sẵn sát bên
cạnh mình, ở sâu trong tâm mình, ở ngay trước mặt mình mà mình không hay. Đó chính
là đâu? Sân giận!
(18) Tu hành ví như thi
cư û! Trang . 141
….muốn
vượt qua biển khổ hãy tìm chọn chiếc bè nào vững chắc nhứt để đi, đừng nên tham
lam đèo bồng, đứng trên một bè còn đề phòng kéo theo thêm năm bảy bè khác. Mới
nhìn thì thấy dường như chắc ăn, nhưng kết quả thì chính những chiếc bè kia nó
lôi mình trở lại không thể vượt đi được, dù ráng sức thì giữa giòng cũng phải
ngã quỵ….
(19) Thiện căn, Phúc đức,
Nhân duyên! Trang . . . . . 153
….nhiều
người cứ nghĩ rằng mình không đủ phước báu thì làm sao đây? Hãy nói với họ đừng
suy nghĩ nữa, cứ phát tâm niệm Phật cho nhiều đi, phát nguyện mỗi ngày niệm năm
ngàn câu, rồi mười ngàn câu Phật hiệu, nếu cũng chưa thấy thì niệm hai mươi ngàn,
ba chục ngàn… cứ làm đi rồi họ sẽ tự thấy cái phước của họ lớn tới cỡ nào, có
đủ tiêu chuẩn hay không sẽ biết liền.
(20) Hiểm họïa của tiền
bạc! Trang . . 163
Tài, sắc,
danh, thực, thùy là cái rễ của địa ngục. Người nào cứ tham đắm những thứ đó,
sau khi chết khó có thể tái sanh làm người.
(21) Niệm Phật có mười
đại thiện lợi! Trang . . . . . . 173
Thanh tịnh niệm Phật thì
tự nhiên hưởng được mười điều lợi này… Niệm Phật chỉ để cầu nguyện vãng sanh
Tây-phương Tịnh-độ. Nguyện vãng sanh Tịnh-độ không phải là lòng tham mà là cái
tâm nguyện Bồ-đề, cái nguyện Vô-Thượng Bồ-đề để thành Phật cứu độ chúng sanh.
(22) Cần thanh tịnh, không
vọng cầu! Trang . . . . . . . 182
… Phật
Ma, Ma Phật ở tại tâm. Cha thường dạy, tâm chánh là Phật, tâm tà là Ma. Như vậy
Phật là đâu? Phật là tâm. Ma là đâu? Ma cũng là tâm. Tâm là đâu? Tâm là ta đây
chứ còn đâu nữa. Như vậy, rõ ràng chính ta vừa là Phật vừa là Ma. Giác thành Phật,
mê thành Ma. Phật dạy, bất cứ lúc nào ta biết quay đầu thì thành Phật liền, đạo
lý chính là ở chỗ này…………
(23) Định
mệnh, Nhân quả, Danh vọng! Trang . . . . . . . . 192
… “định
mệnh” là nhân quả, mà “đổi định mệnh” cũng là nhân quả. Người xuôi theo định mệnh
thì sống trọn vẹn trong cái quả báo của đời trước, người không xuôi theo định mệnh
thì có thể tự cải tạo được định mệnh của mình bằng sự giúp người, làm thiện…..
Cái danh hiện tại nó xác định cái nhân phẩm của mình trong quá khứ. Vậy thì, cứ
làm thiện làm lành, lo tu bồi tài đức thì dù có chạy trốn cái danh thơm nó cũng
tìm tới, chứ đâu cần phải khổ nhọc đổ mồ hôi, sôi nước mắt để mua cái tiếng hão
huyền hư vọng làm chi?………
24) Phật ở trong nhà, có
cầu có ứng! Trang . . . . . . . 202
…. Phật
ở ngay trong nhà, có cầu các Ngài có ứng. Người thành tâm cầu nguyện thì cầu gì
cũng được, người thành kính tu hành thì khổ nạn nào cũng được cứu thoát. Sở dĩ
cầu không được cảm ứng là vì cầu không như lý như pháp, khổ nạn mà không được cứu
là vì ta quay lưng lại với Phật để tự mình rước lấy khổ đau….
(25) Sự gia trì!
Trang . . . . . . 211
Người chân thành niệm Phật thì tự nhiên
hưởng được một đại phước báu, và cái đại lợi sau cùng là sự vãng sanh. Sự gia
trì của chư Phật, chư Bồ-tát vô hình nhưng có thực, đa dạng nhưng cụ thể. Chỉ cần
có lòng tin, có thành tâm, thanh tịnh, thì sự gia trì hiện ra trong từng hơi thở,
nâng đỡ từng bước chân đi.
Lời giới thiệu
Tôi
hân hạnh nhận được một xấp thư của Phật tử Diệu Âm viết, những lá thư gửi cho
gia đình, bà con, bạn bè…Tôi đã đọc và phát hiện ra những điều hay; sau cùng
tôi vô cùng hoan hỉ nhận xét rằng đây không phải là những lá thư thường tình mà
là nhữûng lời pháp rất hay, thích hợp, linh động, thực tế !…
Theo tôi thì những “lời
thư pháp”này có thể giúp cho người phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh.
Tôi
xin trang trọng giới thiệu cùng quý vị và mong tất cả quý vị hãy đọc kỹ những lời
thư, đọc từng bài một,rất lợi ích cho chính mình, cho cha mẹ, cho gia đình …
Hy vọng những lời thư đượm nhuần pháp Phật này
có thể giúp cho quý vị thấy được phương cách để trở thành người con chí hiếu
khi cha mẹ còn tại tiền; nếu song thân đã quá vãng, quý vị sẽ là đại hiếu như Đại
Mục-Kiền-Liên; gia đình của quý vị sẽ trở thành gương mẫu của đạo đức và hiếu hạnh,
góp phần xây dựng xã hội an lạc, thái bình, thịnh vượng …
Niệm
Phật vãng sanh Tây-phương Cực-lạc là con đường cứu cánh viên mãn, thành toàn hạnh
nguyện cứu độ chúng sanh của chư Phật vậy.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Thích Thiện Huệ.
Phật Pháp
thị nhân sinh tối cao đích hưởng thụ.
(Phương Đông Mỹ)
Thay lời tựa
Pháp
môn niệm Phật tối vi diệu! Bất khả tư nghị!
Ngài
Quán-Thế-Âm Bồ-tát dạy: “Pháp môn Tịnh-độ hơn hết tất cả các hạnh khác”. Ngài Đại-Thế-Chí
Bồ-tát dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật, thì đời này hoặc đời sau nhất
định thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần đến pháp phương tiện nào khác mà
cũng khai ngộ được tâm của mình”. Đức Bổn-Sư Thích-ca-Mâu-ni Phật dạy: “Thiện
nam, tín nữ nào chấp trì niệm danh hiệu A-di-đà Phật từ một ngày cho đến bảy ngày,
nhất tâm bất loạn, thì người đó khi mạng chung sẽ được đức Phật A-di-đà và chư
vị Thánh Chúng hiện thân tiếp dẫn. Người đó khi lâm chung, tâm trí không điên đảo
và quyết định được vãng sanh về thế giới Cực-lạc của Phật A-di-đà”. Đức Phật
A-di-đà phát nguyện: “…chúng sanh nào trong mười phương nghe đến danh hiệu của
Ta, chí tâm tin kính, ai có căn lành, thành tâm hồi hướng, nguyện sanh về nước
Ta, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh Ta thề không thành Phật. Duy trừ
kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp”.
Pháp
môn niệm Phật tối vi diệu! Bất khả tư nghị!
Tôi
ngộ nhập vào Phật đạo bằng câu “A-di-đà Phật”. Đây là một duyên lành, thật tình
cờ, giúp tôi thấy rõ chân lý giải thoát. Tôi bắt đầu tu học Phật từ đó và bắt đầu
khuyên người niệm Phật cũng từ đó.
Gặp
người, tôi khuyên người niệm Phật. Cách xa, tôi viết thư khuyên người niệm Phật.
Những lời khuyên đầu tiên tôi viết cho cha mẹ tôi, vô tình những lời này cảm hóa
được song thân, anh chị em, bà con trong dòng họ, rồi truyền ra đến đại chúng…
May mắn hơn, có người nghe những lời khuyên, tin tưởng thực hiện theo một thời
gian ngắn, và theo tin cho biết đã vãng sanh với thoại tướng rất tốt.
Thấy
vậy, có người phát tâm muốn ấn tống những lời thư này. Tôi thu thập những lời
khuyên song thân, sửa chữa vài điểm sơ suất, cho in vào tập I, phần còn lại, chúng
tôi sẽ cho in vào tập 2, 3 …
Đây là những lời thư thực
tế, tôi viết cho song thân, anh chị em, bà con, bạn bè… cho nên có một số
chuyện có nét đặc thù cá nhân. Những tựa đề của những lời khuyên có tính tóm lược
nội dung và để tiện cho việc sắp xếp mục lục hơn là đề tài diễn thuyết. Vì là
những lá thư thực, cho nên không thể tránh được một số tên cũng đã xuất hiện
song song, tất cả chỉ cùng một mục đích “Khuyên người niệm Phật”. Danh tánh mông
mênh trong vòng chúng sanh vô lượng vô biên, thành tâm cầu xin quý vị hoan hỷ để
cho công đức này được tròn đầy viên mãn.
Còn
duyên, tôi còn tiếp tục khuyên người niệm Phật, tôi chân thành làm như vậy. Nếu
hết duyên, tôi niệm Phật nhiều hơn, cố công lão thật niệm Phật để cầu sanh Tịnh-độ.
Hy vọng
những lời khuyên chí tâm thành ý này có thể giúp ích được cho những vị hữu duyên
thức ngộ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, sớm khởi phát Tâm Đại-Bồ-đề, nhất hướng
chuyên niệm Nam-mô A-di-đà Phật…
Diệu Âm.
Giác nhi bất Mê,
Chánh nhi bất Tà,
Tịnh nhi bất Nhiễm
Vài lời thật ngắn:
(Lời
giới thiệu của cư sĩ Tịnh Hải ở đợt ấn tống tại Hoa Kỳ năm 2003).
Chúng
tôi đang cố gắng hoàn thành hai cuốn sách cuối cùng của mình, nhưng buộc lòng
chúng tôi phải tạm ngưng để liên danh ấn tống ba cuốn sách khác. Đây là:
. • Khuyên Người Niệm Phật 1 và
2 của Diệu Âm (Úc).
. • Làm Thế Nào Cứu Vãn Phong Hóa Xã Hội?
(Do H.T. Tịnh Không giảng trên TV).
Chúng
tôi vẫn biết, làm một con người một khi đã thất hứa thì khó làm cho người ta
tin mình nữa. Nhưng trường hợp của chúng tôi, khả dĩ có thể phân giải với chư vị.
Lý do thứ nhất:
Xin đọc Thông báo riêng sẽ rõ hơn.
Lý
do thứ hai:
Liên
hữu Quảng Thiện từng đi dự Phật thất một tháng ở Úc về, mang đến tặng chúng tôi
ba cuốn sách nói trên, với ý kiến: “Xin bác đọc, thấy có thể ấn tống được thì
xin bác lo giùm. Về tịnh tài chúng con không có nhiều, nhưng có thể tạm in vài
ngàn cuốn. Sau đó có chư liên hữu nào phát tâm hùn phước thì mình in thêm”
Đọc xong, chúng tôi thấy sách “Làm
Thế Nào Cứu Vãn Phong Hóa Xã Hội” của
H.T. Tịnh Không thật quá
hay. Chỉ có vài trăm trang mà H.T. Tịnh Không đã tóm gọn hầu hết các bài giảng
của Ngài. Ưu tiên, sách này phải được liên danh ấn tống.
Cuốn
sách thứ hai: “Khuyên Người Niệm Phật”. Tác giả đồng pháp danh Diệu Âm,
là người đối với chúng tôi hoàn toàn xa lạ. Đọc xong chúng tôi tự nói: “Nên in.
Vì đây là một cuốn sách giá trị. Đọc xong chắc chắn chư vị đều đồng ý với chúng
tôi như vậy”.
Chúng
tôi phải dành ra ba tuần lễ để đọc cẩn thận ba cuốn sách nầy. Liên lạc qua Úc để
tìm nơi đã in ra ba cuốn sách, yêu cầu gởi đĩa CD qua đây để chúng tôi nhờ người
sửa đổi kỷ thuật, vì sách in chữ nhỏ quá. Chúng tôi đã từng bị nhiều liên hữu rầy
rà rằng sách chúng tôi in chữ nhỏ. Chúng tôi bàn với liên hữu Quảng Thiện, nếu
cần ấn tống lại, thì nên tốn kém thêm một chút để chư vị lớn tuổi dễ đọc.
Nếu chúng tôi ích kỷ chỉ lo riêng
cho sách mình, chúng tôi chẳng đáng là con của Phật A-di-đà. Ngài muốn tất cả
chúng sanh đều được phải cứu độ thì đây là những cuốn sách góp duyên cho các vị
đọc nó. Sau đó chư vị tăng thêm niềm tin và niệm Phật đúng mức để được Phật
A-di-đà tiếp dẫn.
Đây
cũng là hạnh của Phổ Hiền Bồ-tát. Nếu chúng ta niệm Phật suốt ngày mà thiếu lo
cho chúng sanh cũng khó vãng sanh.
Ngoài
việc đọc sách này, xin chư vị hãy hùn phước ấn tống thêm thật nhiều sách này và
các sách khác để liên hữu Quảng Thiện in thêm thật nhiều, gởi về Việt Nam và gởi
cùng khắp thế giới để có nhiều người sẽ vãng sanh thì công đức của chư vị càng
nhiều.
Mong thay!
Cư sĩ Tịnh Hải.
(Độ sanh vô sở trụ tâm
nhi hành bố thí)
1 –Lời khuyên song thân
Cha má
kính,
….
Con qua Pháp hai tháng về, nhận được thư cha la rầy về việc tu hành. Đọc thư
cha mà con buồn đến rơi nước mắt, con muốn ngồi xuống viết thư nhưng không biết
sao nước mắt con cứ trào ra, ……
Thưa
cha má, vì thương cha má mà con cố gắng khuyên cha má tu hành, con tưởng cha má
nghe được sẽ mừng lắm. Không ngờ, cha chưa đọc kỹ thư xem con nói những gì, lời
thư của con có điều gì trái với đạo lý không, mà lại mạnh lời nói con bị tà ma
dụ dỗ, theo tà ma ngoại đạo. Con khóc không phải vì giận hờn gì cả, nhưng con
khóc vì thực sự nếu cha không thèm nghe lời con, cứ để tâm nóng giận thì chắc rồi
đây con cũng chỉ đành thương cha má mà rơi lệ thôi chứ biết làm sao hơn, vì con
không thể cứu cha má được. Dù thương cha má đến đâu con cũng chỉ có khóc mà tiếc
thương thôi chứ không thể làm gì khác hơn, ví dụ như bây giờ cha có thương bà nội,
ông nội, thì cha cũng chỉ có khóc thôi chứ đâu có thể cứu ông bà được. Thương
cha mẹ, không phải đợi lúc chết khóc cho nhiều là có hiếu, không phải chỉ lo một
vài bữa ăn ngon là đủ đâu. Huệ mạng con người đâu ngắn ngủi trong vòng bảy mươi,
tám mươi năm đâu cha má?
Thưa
cha má, nếu cha má đóng cửûa lòng không chịu nghe lời khuyên của con thì chắc
sau một vài lá thư nữa, nếu cha má không đổi, lúc đó cha má có muốn con viết thư
nói thêm một lời nữa con cũng không viết. Nhưng dù sao trước khi quyết định dứt
khoát không đá động gì đến chuyện tu hành nữa, con cũng vì trọn lòng hiếu thảo,
nói cho hết lời. Nếu có sự may mắn, có được thiện căn, cha má và con cùng nhau
hội về Tây-phương Cực-lạc một nhà, đời đời gần nhau. Còn như duyên nợ của cha má
và con chỉ có đời này thôi thì chắc không trước thì sau cũng đành chia tay, đường
ai nấy đi. Lúc đó có nhớ thương nhau cũng chỉ mượn tấm hình làm kỷ niệm rồi cũng
sẽ tan biến theo thời gian thôi. Chứ biết làm sao bây giờ! Ví dụ như cha má có
biết ông bà nội bây giờ đang ở đâu không?!!…
Thưa
cha má, lá thư này con nói thật cái căn bản về sự tu hành của con, rồi tự cha má
nghĩ sao thì nghĩ. Con đang theo tà đạo hay chính đạo, tùy ý cha má! Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni thị hiện thế gian để lại tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn vi
diệu để đối trị với vô lượng phiền não nghiệp chướng của chúng sanh. Trong kinh
Phật nói rõ ràng rằng, Phật pháp trụ lại thế gian một vạn hai ngàn năm (12.000)
và chia làm ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp, sau kỳ mạt pháp thì
Phật pháp diệt tận. Thời kỳ chánh pháp một ngàn năm sau khi Phật nhập diệt, thời
tượng pháp một ngàn năm, còn lại mười ngàn năm là thời kỳ mạt pháp. Như vậy chúng
ta đang ở vào ngàn năm thứ ba sau khi Phật nhập Niết bàn, nghĩa là ngàn năm đầu
của thời kỳ mạt pháp. Phật pháp còn trụ lại thế gian hơn chín ngàn năm nữa. Sau
chín ngàn năm, Phật pháp hoàn toàn không còn trên thế gian, cho đến khi đức Phật
Di Lặc xuống trần thị hiện thành Phật dưới cây Long Thọ, mở hội Long Hoa xây lại
Phật pháp, (gần sáu trăm triệu năm nữa mới xuống). Đây là kinh của Phật để lại
nói như vậy.
Trong
tám mươi bốn ngàn pháp môn của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tựu trung lại cũng chỉ
là Thiền-tông, Mật-tông và Tịnh-độ tông.
Thiền-tông
là pháp môn “Trực chỉ nhân tâm, Minh tâm kiến tánh, Kiến tánh thành Phật”,
chỉ hợp với hạng thượng căn, chư Bồ-tát, chư vị Tổ sư trong thời chánh pháp và
nửa thời tượng pháp mà thôi.
Mật-tông
được truyền qua vùng Tây-Tạng, và những quốc gia có những địa lý thiên nhiên đặc
biệt, họ dùng đến mật chú để phá trừ phiền não, trị ma oán, tịnh thân khẩu ý để
tu hành.
Còn
Tịnh-độ-tông là pháp môn tối vi diệu! Bốn mươi chín năm thuyết pháp giảng kinh,
Phật Thích-ca Mâu-ni quy tụ chúng sanh về với pháp môn này để cứu độ tất cả chúng
sanh, không phân biệt đẳng cấp, cảnh giới, ứng hợp với cả chánh pháp, tượng pháp
và mạt pháp. Nhất là thời kỳ mạt pháp, chư Phật đều khuyên chúng sanh nên một lòng
theo Tịnh-độ tông mà tu thì sẽ đạt được kết quả.
Tịnh-độ
tông là gì? Là pháp môn NIỆM
PHẬT cầu vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Niệm Phật là đi thẳng về cõi Phật,
làm cho tâm mình thời thời, khắc khắc là Phật. Lấy thẳng nhân địa Phật để tu thành
Phật. Vì là pháp môn rất dễ tu cho nên không ai chịu tin. Vì thế, Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni phải đợi sau cùng, khi thấy căn duyên thành Phật của chúng sanh thành thục
rồi, Ngài mới thuyết trong những bộ kinh A-di-đà, Vô-Lượng-Thọ, Quán-Vô-Lượng-Thọ…
Pháp
môn Niệm Phật vi diệu không thể tưởng tượng được, trong kinh gọi là “bất
khả tư nghì”. Cho nên, hầu hết chùa chiền Phật giáo ngày nay tại Việt-nam,
Trung-Hoa, và các nơi đều lấy sự niệm Phật làm căn bản tu hành. Dù là Thiền-tông,
hình thức thọ trì có khác nhau nhưng nội dung không khác. Nơi nào có phép thực
hành triệt để thì nơi đó cứu độ nhiều người, nơi nào áp dụng hời hợt thì khó thấy
được kết quả, thậm chí có nhiều nơi áp dụng sai nữa là khác, từ đó làm cho lòng
người hoang mang, mất lòng tin nơi Phật pháp!
Cha
tu theo đạo Cao-Đài, tốt lắm, con có nói đụng chạm gì tới đâu. Cha đã tụng thuộc
kinh Cao-Đài rồi, thì chắc chắn cha còn nhớ câu: “Một lòng Niệm Phật ăn
chay làm lành“. Niệm Phật là pháp môn Tịnh-độ. Kinh đã dạy mình rằng:
ngày ngày, ngày này sang ngày khác, thời thời, khắc khắc, phải niệm câu Phật hiệu
“Nam-mô A-di-đà-Phật”, vì đây chính là cứu cánh cuối cùng để tu hành được
giải thoát. Chỉ vì mình lơ là không chú ý đến, chỉ vì nhiều nơi cho đó là thứ yếu
thành ra chỉ chạy theo cái ngọn, không chịu bắt cái gốc. Cho nên, con mới nói,
không biết tu chỉ uổng phí công phu tu hành, để rồi cuối cùng đọa lạc vẫn hoàn đọa
lạc là như vậy, chứ con có nói gì sai với kinh điển đâu!
Niệm
Phật, ăn chay, làm lành, ba vấn
đề trong kinh Cao-Đài, ở đây con chỉ nhấn mạnh đến niệm Phật mà thôi vì hai thứ
kia là phụ thuộc, vì ăn chay được thì tốt, không ăn được vẫn tu được như thường.
Còn làm lành thì hôm nay khỏi bàn, vì nếu đã biết niệm Phật thì dù có đem tiền
mướn mình làm ác mình cũng không làm, cho nên bàn tới để làm gì? Như vậy, xin hỏi
tại sao lại nói con bị tà ma gạt, dụ dỗ?!!!
Thưa
cha má, trong việc tu hành có câu rằng, “Tu suốt kiếp, ngộ nhất thời”,
tu hành trọn kiếp nhiều người không thấy gì hết, không biết mình sẽ đi về đâu?
Nhưng khi đã ngộ, thì một tích tắc thời gian người ta đã ngộ rồi. Như vậy, ngộ
hay không, không hẳn tu lâu hay mới tu, mà tùy thuộc rất nhiều vào căn cơ và
duyên phận. Ví dụ, như có người cứ muốn bơi qua một biển rộng mênh mà cứ tự cố
sức bơi hoài, bơi mãi, nhưng bơi làm sao tới bờ! Sức người quá yếu đuối, bơi đến
chết chìm luôn mà cũng còn ráng bơi, trong khi đó trên một chiếc thuyền có người
đưa tay xuống cứu mình lên, mà nhiều khi mình còn nghi ngờ là họ gạt mình không
chịu lên thuyền. Bên cạnh có người thành tâm cầu cứu, họ đưa tay lên, họ được cứu,
nhờ chiếc thuyền đó họ qua bờ bên kia dễ dàng như chơi! Chiếc thuyền đó là gì
chắc cha má đã rõ hơn con! Xin cha má xem kỹ trong kinh Phật sẽ thấy rõ ràng.
Chính là Đức Phật A-di-đà!
Việc
tu hành nhiều đường nhiều nẻo, chứng hay không còn coi lại thiện căn phước đức
của mình và có cơ duyên hay không. Thế gian này thiếu gì người đệ tử đắc đạo trước
sư phụ rồi phải trở về độ lại cho thầy mình. Có nhiều người chỉ tu một thời
gian rất ngắn mà được ngộ đạo. Lục Tổ Huệ Năng không tu hành nhiều, không biết
chữ, không biết đọc, suốt đời làm nghề đốn củi rồi về nhà giã gạo, nhưng vừa
thoáng nghe pháp Ngài ngộ đạo tức thì, được truyền y bát làm Tổ. Tất cả lời giảng
của Ngài đã trở thành kinh gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh, trong khi đó pháp sư Thần
Tú, là một vị giáo thọ, hàng ngày thuyết kinh, giảng pháp cho hơn năm trăm chư
Tăng Ni tu hành, ở sát bên sư phụ mà không được truyền y-bát. Cho nên, nếu có đủ
thiện căn kết tập từ nhiều đời nhiều kiếp rồi, thì khi duyên đến, một câu cũng đủ
cho người ta ngộ đạo. Niệm Phật để thành Phật, một pháp môn vi diệu, có thể giải
thoát chỉ trong một đời này, nhưng dễ gì cho người ta tin tưởng! Cho nên, tùy
theo thiện căn của mỗi người. Hễ phước đức thiện căn có, vừa nghe là ngộ liền,
còn không đành chịu thua.
Thưa
cha má, về thế gian pháp thì đời này con là con của cha má. Nhưng về kiếp trước,
vô lượng kiếp về trước, ai biết được? Còn vô lượng kiếp về sau thì sao? Phải chăng,
thưa cha má, đường ai nấy đi! Cha tu cha đắc, má tu má đắc, con tu con đắc. Hễ
khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Vì thương cha má, lòng hiếu thảo của con chỉ
muốn cha má được hưởng cái phước báu vô cùng to lớn mà con đã thấy được trong đời,
nên mới mau mau khuyên giải, chứ chậm trễ sợ không kịp, thế thôi. Thương cha má
đâu phải chờ khóc cho nhiều để cho người ta thấy mình thương. Đâu phải chỉ lo cấp
dưỡng cha má cho nhiều để hưởng thụ một vài năm, rồi sau đó mặc cha má đi đâu
thì đi!
….
Hơn mười năm qua con đến khắp hết các chùa, nhưng con không muốn quy y Tam Bảo,
vì thực sự chưa có duyên?! Đến khi con theo phái đoàn Tăng Ni và Phật tử chùa
Phật Đà (của người Việt Nam) đến thăm chùa của người Hoa, khi bước vào đại điện,
vừa nghe tiếng niệm Phật, con có cảm ứng rất mạnh, con đã thấy ngay đường đi lập
tức. Con quy y ngay đêm đó, sau đó hằng ngày đều tới chùa niệm Phật, dù rằng họ
nói tiếng Hoa con không hiểu gì cả, nhưng thật sự con đã tìm được nơi của chính
tâm con mong muốn. Sau một thời gian ngắn, chúng con đều phát tâm ăn chay trường
và quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-lạc.
Đây
là đường giải thoát con đã lựa chọn và phải đi. Trong thư này con sẽ nói một vài
sự nhiệm mầu cho cha má nghe. Nếu cha má tin, con sẽ lần lượt kể cho cha má
nghe thêm sau này, còn không tin thì đành thôi vậy. Con xin nói thực rằng, huệ
mạng mình chỉ có Phật mới cứu được, ngoài Phật ra khó tìm đâu có chỗ nương tựa.
Sau đây là một vài chuyện nho nhỏ:
1)
Ngay trong gia đình của Ngọc, bà nội suốt đời niệm Phật A-di-đà. Bà chỉ thờ tượng
Phật A-di-đà, đến lúc lâm chung bà biết được ngày giờ ra đi. Một bữa nọ, bà không
ăn cơm, con cháu mời đi ăn, bà nói: không thèm ăn nữa. Suốt một đêm bà nằm niệm
Phật không ngủ. Sáng hôm sau bà tắm rửa sạch sẽ rồi kêu tất cả con cháu tới, bà
nhìn từng người, khuyên nhủ tu hành niệm Phật. Khuyên xong bà an nhiên tự tại vãng
sanh. Khi đi hương thơm bay ra cả nhà nhiều cũng đều ngửi thấy. Hồi đó, con cháu
cứ tưởng bà ở hiền nên chết lành. Sau này nghe giảng kinh chúng con mới biết, vì
bà đã niệm Phật mà được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Bà đã thoát được sanh
tử luân hồi chỉ trong một đời tu hành! Còn có gì quí hơn!
2)
Chuyện đó qua rồi, còn đây là chuyện hiện tại của Ngọc. Vợ con có chứng đau đầu
kinh niên không sao cứu được, vì hồi giờ con không muốn cho cha má hay đó thôi.
Nhưng khi bị bệnh mà bác sĩ đã bó tay làm con cũng buồn không tưởng được. Đầu của
vợ con hễ cứ đụng tay tới là đau không chịu nổi. Nhiều lúc rờ tới tóc cũng đau.
Mỗi đêm tốn cả nửa chai dầu để xoa cho dịu bớt, (chứ không còn cách nào khác!).
Đi bác sĩ, họ không tìm ra được căn nguyên. Họ cứ cho thuốc giảm đau, hễ khi đau
thì uống cho dịu lại thôi chứ biết sao bây giờ. Uống một thời gian, không bớt nên
cũng liệng luôn.
Đến khi đến được Niệm Phật Đường này,
thầy Ngộ Thông dạy rằng đó là nghiệp của mình nó phát ra như vậy. Thầy khuyên,
chí tâm niệm Phât thì có thể hết. Thế là nàng thành tâm niệm Phật, niệm khoảng
ba tháng tự nhiên chứng bệnh nan y biến mất luôn hồi nào không hay, tới bây giờ
hoàn toàn không còn đau gì nữa cả. Ngọc liền phát tâm tu hành và đi đâu cũng
khuyên người ta niệm Phật.
3) Ở
bên Pháp có một bác sĩ người Việt-Nam, du học hơn bốn mươi năm trước, làm nghề
bác sĩ gần bốn mươi năm. Ngài đã thọ giáo với Hòa thượng Thích Huyền Vi tu hơn
tám năm, nay pháp hiệu là Thích Trí Tu. Đi đâu thầy cũng chỉ khuyên Phật tử niệm
Phật. Hai tháng tu học, tuần nào con cũng nghe thầy giảng về niệm Phật. Thầy nói,
“là một bác sĩ lão thành trong
nghề, tôi nói rằng chỉ có Phật A-di-đà mới cứu được chúng ta. Những người bị bệnh
ung thư nếu thành tâm niệm Phật đều được cứu, còn đi theo bác sĩ tức là chờ chết…“.
Bà ngoại của bé Tùng vừa mới chết vì ung thư. Ung thư bác sĩ đành chịu bó tay.
4)
Con biết có người hẹn lại ngày lâm chung, có người xin đi sớm hơn thời hạn, có
người Việt Nam ngồi xếp bằng ra đi sáu tháng sau thân vẫn mềm mại tự nhiên như đang
thiền định. Phật tử xin chính phủ giữ thân lại để thờ mà không được, có người để
lại hàng trăm viên ngọc xá lợi, có người ra đi còn dặn đừng đem chôn, và đứng
chắp tay hướng về hướng sư phụ mà thoát hóa rồi đứng im như vậy chờ sư phụ về
lo hậu sự… Họ coi cái thân này như một chiếc áo cũ, còn mình không biết tu nên
sợ chết đến hết hồn hết vía! Nhưng sau cùng có trốn được không? Họ không phải
chết mà là tự tại đi về Tây-phương với Phật. Họ biết rõ về đâu, họ đã đắc đạo
trong một đời này chứ không phải nhiều đời nhiều kiếp. Con có thể kể cha má
nghe hàng loạt sự nhiệm mầu nho nhỏ như vậy nhưng thư có hạn, nếu cha má muốn,
con sẽ kể tiếp sau này. Tất cả đều là sự thực.
Như
vậy, con tu là tu đạo Phật chứ không phải tu tà đạo. Cha má cứ lục tất cả thư
con viết, đọc lại thử coi có thư nào con nói tu theo tà ma quỷ quái không, mà
cha cho con là bị dụ dỗ.
Còn
về Khổng học, Tứ-Thư, Ngũ-Kinh… con học đã thuộc lòng từ lúc còn ở trường đại
học Văn khoa Sài gòn. Vì phải hiểu và học thuộc lòng để thi làm sao con không
biết, nhưng cha má nên biết đâu là phép tu rốt ráo để giải thoát, đâu là cách sống
làm người để rồi vẫn phải lăn lộn trong vòng sinh tử luân hồi, khổ bất khả ngôn.
Con có bao giờ chống đối cách sống làm người đâu?
Còn
cha nói, “Con người là vật chí linh”, thì linh lợi hơn con vật mà thôi, chứ đâu
phải đối với Phật Bồ-tát, với chư Thánh Thần. Làm được người chứng tỏ đời trước
có tu. Nhưng làm được người rồi mà không khéo tu, vô ý tạo nghiệp, thì liệu đời
sau có còn trở lại làm vật “chí linh” đối với loài vật nữa hay không?
Vì lý luận rằng con người là vật chí
linh cho nên họ mặc sức làm ác, mặc sức giết hại chúng sanh, mặc sức tạo nghiệp.
Cha má nhìn quanh coi biết bao nhiêu người làm ác: trộm cướp, giết người, gian
lận, sân si, thị phi, hơn thua… liệu tương lai họ tránh được địa ngục không?
Họ có trốn thoát khỏi lạc vào loài súc sanh, ngạ quỷ không? Lúc đó họ còn dám vỗ
ngực tự xưng là hàng chí linh của vạn vật nữa không? Đã gọi là vật chí linh tại
sao họ lại còn làm như vậy?!!
Cho
nên, nói rằng căn tánh con người có tánh chí linh thì đúng, nhưng nói người nào
cũng thành chí linh thì không đúng! Sáng suốt mới linh, không sáng suốt thì mê ám.
Phật
dạy, tất cả ai ai cũng có Phật tánh, nhưng tỉnh ngộ mới thành Phật, còn mê thì
vẫn là chúng sanh triền miên vô lượng kiếp. Như vậy, muốn thành Phật phải học
Phật. Tu hành, phải học kỹ kinh pháp và thực hành đúng theo kinh Phật và chọn lựa
pháp môn thích hợp với mình, vì có tới tám mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng không
phải pháp môn nào cũng dễ dàng đưa mình tới chỗ giải thoát đâu.
Vì
sao vậy? Mỗi pháp môn trị một căn bệnh phiền não. Tám mươi bốn ngàn pháp môn trị
tám mươi bốn ngàn thứ phiền não trong tâm. Kinh tạng, ví như nhà thuốc tây, pháp
môn là vị thuốc. Cứ vào nhà thuốc tây thấy thuốc nào cũng uống, thì trở ngại ráng
chịu chứ không thể đổ thừa cho thuốc dở được. Tu hành giống như vậy, tu đúng pháp
môn thì mình giải thoát trong một đời. Tu pháp môn không hợp căn cơ mình sẽ lăn
lộn trong cõi ác trược này vô lượng kiếp mà chưa chắc sẽ thoát khỏi khổ nạn.
Về
thế gian, muốn biết mình có bệnh gì hãy hỏi bác sĩ. Muốn biết bệnh giải thoát của
mình là đâu phải cầu tới Phật. Trong kinh Phật dạy, đời mạt pháp căn bệnh về
nghiệp chướng của chúng sanh quá nặng không thể giải được nữa, chỉ có niệm Phật,
nhờ Phật A-di-đà, với bốn mươi tám lời đại nguyện, mới cứu tất cả chúng sanh.
Thập phương chư Phật đều đồng thanh lấy pháp môn này để cứu độ và đều hộ niệm
cho ta. Một câu chí thành niệm Phật tiêu được tám mươi ức kiếp nghiệp chướng.
Chính vì thế mà nghiệp chướng tiêu trừ. Nghiệp chướng tiêu, thì bệnh nghiệp tự
tiêu. Cho nên, có người thoát khỏi bệnh nan y là lý do này đó! Tin thì được cứu,
không tin không được cứu! Xin cha má suy nghĩ cho kỹ kẻo lỡ cơ hội thì “bá
thiên vạn kiếp nan tao ngộ”!
…
Phải niệm Phật, con đang làm như vậy. Đường con tu hành chỉ có niệm Phật mà thôi.
Mỗi sáng con nguyện “Nguyện sinh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm liên
hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ“,
rồi niệm Phật hoặc sáu chữ (Nam-mô A-di-đà Phật), hoặc niệm bốn chữ (A-di-đà Phật)
suốt ngày, đi đâu cũng niệm trong tâm cả. Chiều về trước khi ngủ, con hồi hướng
tất cả công đức tu hành về Tây Phuơng, “Nguyện đem công đức này, Trang
nghiêm Phật Tịnh-độ, Trên đền bốn ơn nặng, Dưới cứu khổ tam đồ, Nếu có kẻ thấy
nghe, Đều phát lòng Bồ-đề, Hết một báo thân này, Đồng sanh Cực-lạc Quốc“.
Khi nằm ngủ con thầm niệm Phật cho đến thiếp ngủ luôn.
Thưa
cha má, bắt đầu từ nay ai nói gì nói, ai bàn gì bàn, con một lòng một dạ đi
theo con đường niệm Phật. Ai chê, con “A-di-đà Phật”. Ai khen, con “A-di-đà Phật”.
Ai chửi, con “A-di-đà Phật”. Ai ghét, con “A-di-đà Phật”. Ai thương, con “A-di-đà
Phật”. Làm có tiền, con “A-di-đà Phật”. Không có tiền, con “A-di-đà Phật”… Bất
kỳ thời thời, khắc khắc, bất cứ mọi điều kiện, mọi trường hợp con chỉ niệm Phật
để trả lời mà thôi. Đây là quyết định không còn thay đổi nữa. Cha má có theo
hay không tùy ý cha má. Vì lòng hiếu thảo con đã nói tận tình. Từ sau lá thư này,
nếu cha má tin tưởng con nguyện giúp đỡ tối đa về phương tiện tu hành, con sẽ tìm
cách gởi về tận nhà cho cha má tu niệm. Còn cha má không tin, thì con cũng vô
phương. Nếu có gì bàn tới con xin niệm A-di-đà Phật để trả lời.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Kính thư
(Viết xong, Úc châu
28/9/00).
Thời mạt pháp muôn ức người tu hành,
khó có một người nào được chứng đắc,
chỉ nương vào pháp niệm Phật
mà thoát khỏi luân hồi.(Lời Phật).
(Đô nhiếp lục căn,tịnh niệm tương kế)
02 –Lời khuyên song thân
Kính cha má thương,………………………………………………………………………..
Việc tu
hành của cha má là quan trọng nhất. Hơn nữa hãy đưa thư của con cho anh chị
Hai, anh chị Ba, anh chị Bốn, bà con, cô bác coi, nhiều khi họ phát tâm tu hành
thì cha má được phước lắm đó. Phàm hễ có đi thì mới tới, có thấy mới biết. Con
có cơ duyên đi đây đi đó, gặp nhiều duyên tốt về Phật pháp cho nên con trực thấy
được con đường giải thoát mới vội vã cho cha má biết hầu khuyên cha má ngay tức
thời hạ thủ công phu NIỆM PHẬT kẻo trễ mất uổng lắm! Hằng ngày, con đều đọc
kinh niệm Phật, đi chùa. Ngoài giờ đi làm, con ngày ngày lo đọc giảng ký của Hòa
Thượng Tịnh Không, một vị pháp sư vĩ đại trên thế giới chuyên tu về pháp môn Tịnh-độ.
Giảng ký của Ngài dài hàng ngàn ngàn trang giấy, được dịch từ tiếng Tàu sang tiếng
Việt. Người ta dịch xong con lo chỉnh văn lại cho đúng câu đúng nghĩa. Vô tình
con học được Phật pháp vi diệu.
Hòa Thượng
Tịnh Không là một cao tăng đức độ, nổi tiếng đến nỗi các vị Hòa Thượng, Thượng
Tọa, Đại đức khác phải cúi đầu đảnh lễ Ngài. Khắp nơi trên thế giới cung thỉnh
Ngài, và Ngài đi vòng quanh thế giới thuyết pháp độ sanh. Mỗi lần Ngài giảng kinh,
tăng chúng và Phật tử tề tựu nghe pháp trên cả ngàn người. Cách đây khoảng một
tháng, tại Mã-Lai, mười sáu ngàn người tề tựu lại để nghe Ngài giảng kinh. Người
nghe theo Ngài tu hành vãng sanh nhiều lắm.
Hòa Thượng
Tịnh Không phát đại nguyện giảng kinh, thuyết pháp tường tận cho tất cả chúng
sanh trong pháp giới nghe và hướng dẫn vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Trong hơn
bốn mươi năm qua, ngày nào Ngài cũng thuyết pháp hơn hai tiếng đồng hồ, ba trăm
sáu mươi lăm ngày một năm, không nghỉ một ngày nào cả. Năm nay, Ngài vừa tăng
thời gian lên hai tiếng rưỡi hoặc ba-bốn tiếng một ngày. Ngài cỡ tuổi cha, mà
giọng nói khỏe, mắt không cần đeo kiếng, giảng không cần soạn bài. Hàng ngày, hàng
triệu người khắp nơi trên thế giới dùng mạng lưới thông tin điện toán
(Internet) để trực tiếp nghe Ngài dạy pháp. Cha thử nghĩ, nếu là người bình thường
thì dễ gì có năng lực vĩ đại như vậy. Có nhiều ngày, do nhu cầu, Ngài giảng đạo
suốt tám tiếng đồng hồ, không mệt, không khan cổ. Phật tử khắp nơi quy y đông đến
nỗi không đếm được nữa.
“Một lòng Niệm Phật, ăn chay, làm lành”,
kinh Đại Đạo Cao-Đài nói như vậy. Nhưng rất ít người hiểu được cái nào là quan
trọng, cái nào là thứ yếu, tu hành riết thành ra mê tín dị đoan, cầu xin đủ thứ
để suốt cuộc đời tu hành rồi không biết mình sẽ được gì? Sẽ đi về đâu? Có được
cứu rỗi không? Có tránh khỏi được tam đồ ác đạo không?…
Thưa
cha má, cái khổ của người Việt-Nam là suốt năm tháng quanh quẩn bên miếng ruộng,
khoảnh vườn, cày sâu, cuốc bẩm… với cảnh đầu tắt mặt tối như vậy còn tinh thần
nào để nghĩ đến tu hành! Mà có tu hành thì lấy ai giảng giải đường tu cho mình.
Kinh điển thì thậm thâm vi diệu, pháp môn thì vô lượng vô biên, hoàn cảnh thì
khó khăn, làm sao có cơ duyên nghe được chánh pháp, nghe được đạo giải thoát?
Cho nên có nhiều người muốn tu mà tu không được, không biết làm sao tu! Từ đó mới
dễ bị lạc đường. Phàm hễ mình thân với ai thì nợ với người đó, nợ với họ thì phải
theo họ để trả nợ. Thành ra thân cận với Phật thì theo Phật để thành Phật, không
thân cận với Phật thì làm sao được về với Phật mà viên mãn đạo quả, cho nên đành
phải trôi lăn mãi trong lục đạo luân hồi hàng ngàn, hàng vạn kiếp!…
Trong
thơ nghe nói cha má cũng thường niệm Phật, như vậy con yên tâm phần nào. Nhưng
niệm Phật phải hiểu cái Lý Đạo, cái Sự Đạo mới được cha má ạ. Niệm
Phật, như cha nói “niệm Phật nào cũng được”, Phật nào cũng như nhau,
thì cũng đúng. Nhưng xem lại kinh điển, nghe quý pháp sư giảng, hiểu được pháp,
thì câu nói này có chỗ đúng, cũng có chỗ không đúng lắm! Ví dụ, như Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni có bốn nguyện gọi là Tứ Hoằng Thệ Nguyện:
Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng
thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Trong đó,
lời nguyện thứ nhất thề độ tận chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi, nhưng phương
pháp của Ngài là khuyên chúng sanh phải niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Chính vì
thế mà tất cả Tăng Ni, Phật tử khi gặp nhau lúc nào họ cũng chắp tay
“A-di-đà Phật”. Trong kinh A-di-đà nói rất rõ, nếu chí thành niệm Phật,
chỉ cần một tiếng cũng có thể vượt qua tam giới. Nhưng phải nhứt tâm mới được.
Cái này đâu phải dễ! Nhưng khi tu hành, ngày ngày thành tâm niệm Phật thì ta có
thể đi đến chỗ nhứt tâm đó. Trong nhà Phật thường có kệ rằng: “Nhứt cú Di Đà
Vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-phương”, chỉ cần niệm một câu Nam-mô
A-di-đà Phật mà nhứt tâm, thì tới thẳng Tây-phương Cực-lạc dễ dàng là như vậy.
Trong
những pháp tu hành, có pháp niệm Lương-Hoàng Sám, để sám hối nghiệp chướng, sám
hối tội lỗi của mình. Đây là pháp có từ thời vua Lương-Võ-Đế đời nhà Đường. Niệm
Lương-Hoàng Sám thì niệm nhiều vị Phật, có lúc niệm cả ngàn vị Phật để mong cầu
tiêu bớt nghiệp chướng của ta. Nhưng đây cũng chỉ là pháp làm nhẹ bớt tội chướng
mà thôi chứ không phải pháp đắc quả vị, không phải pháp giải thoát huệ mạng.
Nghĩa là, khi thân này mất đi, thần thức vẫn phải theo nghiệp báo thọ sanh, chưa
biết đâu sẽ đi về cả, chưa cứu được linh hồn của ta!?…
Tu Niệm
Phật là tu trì danh niệm A-di-đà Phật, vì chính đức Phật A-di-đà phát ra bốn mươi
tám lời đại nguyện để cứu độ tất cả chúng sanh, nhất là trong thời mạt pháp này,
vãng sanh về thế giới Tây-phương. Khi vãng sanh về đó rồi, ta vĩnh viễn không còn
rơi vào tam ác đạo nữa, không còn sanh tử luân hồi, không còn thối tâm nữa, gọi
là bất thối chuyển. Không bao giờ bị tuột xuống, thì chắc chắn chỉ còn một đường
là thẳng tới quả vị Phật thôi. Rất nhiều người vì phát lòng tin vững chắc, họ đã
vãng sanh thật sự, họ báo trước ngày nào họ đi, họ biết rõ đi về với Phật.
Ôi! Phước
báu của họ sao mà lớn quá! Trong khi nhìn lại trong dòng họ mình chưa ai chắc
chắn thoát được cả. Chết thì đau đớn trong khủng bố, trong lúc thần thức hôn mê.
Theo kinh điển nói, mạng chung như vậy khó có thể siêu thoát được!
Thưa
cha má, cha má bình tâm nghĩ kỹ thử coi, tuổi đời đã cao, con người sanh-lão-bệnh-tử
ai tránh được đâu? Tuổi trẻ còn non dại, còn háo thắng, không thèm tin Trời-Phật,
không thèm nghe đến chuyện huệ mạng gì cả thì còn tha thứ được, chúng còn có thời
gian để hối lỗi, chứ còn như cha má đã tới tuổi bát tuần rồi mà còn chần chờ,
chưa nghĩ đến con đường giải thoát thì đợi đến bao giờ đây?
Thưa thực
với cha má, con thầm nghĩ cha má thực sự có cái thiện căn phúc đức lớn lắm, nên
đến tuổi xế chiều gặp được người khuyên giải tu hành. Theo kinh điển nói, người
có phúc đức về cuối đời tự nhiên có dịp gặp được thiện tri thức khuyên tu. Chỉ
cần có thiện căn một chút họ thoát khỏi luân hồi liền. Còn Thiện tri thức là
ai? Người nào khuyên cha má tu hành là thiện tri thức. Cha má tin con đi, niệm
Phật được vãng sanh đó. Con đọc kinh sách, xem giảng ký, nghe thuyết pháp hàng
tuần, có nhiều khi hàng ngày, hiện tượng vãng sanh… từng lời, từng ý, từng câu
kinh, từng sự việc làm con hiểu thấu rồi. Bây giờ từng phần, từng phần, lần lượt
con nói lại cho cha má nghe. Nếu có gì không đồng ý hoặc có thắc mắc cứ việc hỏi
để con từng lá thư giải thích thêm. Con tin chắc một ngày rất gần cha má sẽ đột
nhiên ngộ đạo, ngộ rồi thì đắc đạo. Lúc đóù, con đã hoàn thành tâm nguyện cứu độ
song thân, trả tròn chữ hiếu.
Tại sao
được đắc đạo dễ dàng như vậy? Vì được Phật gia trì. Mục đích tu hành là khỏi sa
vào tam ác đạo (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh) đó là thấp. Cao hơn chút nữa là
thoát khỏi lục đạo luân hồi để tiến vào hàng Thánh trong cửu pháp giới. Nếu tu
hành dựa theo từng bực, từng bực mà đi thì một chúng sanh phải trải qua vô lượng
A tăng kỳ kiếp (một A tăng kỳ = 1 với… 47 số 0) mới mong đạt được. Ví dụ, từ
hàng Sơ Tín Bồ-tát muốn lên Sơ Địa Bồ-tát cũng tu hành cả A tăng kỳ kiếp rồi.
Nghĩa là, đã là Bồ-tát mà còn vậy, đừng nói chi từ phàm phu mà muốn nhập vào hàng
Thánh A-la-hán!
Vì thư đã
dài cho nên con không thể giải thích thêm được. Cha má cứ hiểu rằng, nếu tu hành
mong cho được thành người hiền, được người hiền rồi tu thêm chút nữa để thành ông
thầy tu… khi trở thành thầy tu đâu có nghĩa là đắc đạo! Vậy thì bao giờ mới
giải thoát? Nghĩ lại thời gian mà phát sợ!
Một điểm
nữa cần phải chú ý là ma oán phá hoại. Đời mạt pháp này ma chướng nhiều lắm. Cách
đây hai mươi năm, chưa có nhiều đạo lạ, mới mười năm trở lại đây nhiều đạo lạ xuất
hiện. Mười năm, hai mươi năm nữa lại có nhiều đạo lạ xuất hiện tiếp. Mỗi đạo đều
tự xưng là Phật, là Thánh cả. Nhưng thực tế là gì? Có ai dám xác nhận chăng? Mỗi
thứ sẽ có hàng triệu người đi theo. Nếu mình không quyết tâm về Tây-phương với
Phật thì dễ gì mình thoát khỏi ảnh hưởng đó. Khi đã rơi vào đó rồi thì ai có thể
cứu mình được đây?
Tất cả
sự thực này trong kinh Phật đều nói rõ ràng. Chư Phật trong mười phương đều đồng
thanh dùng pháp môn Niệm Phật do Phật A-di-đà đề xướng làm pháp môn chính để cứu
độ chúng sanh. Pháp môn này hễ ai tín, thọ, phụng, hành thì được cứu chứ không đòi
hỏi khả năng, trình độ, đẳng cấp gì cả. Có như vậy mới mong cứu độ rộng khắp,
chứ không thì vô lượng chúng sanh cứ tiếp tục sa vào ác đạo, cứu sao cho hết. Mà
sa vào rồi làm sao cứu ra được? Pháp môn này là gì? Làm sao chỉ cần trước
giờ phút lâm chung, người đó thành tâm niệm được mười câu Phật hiệu thì được Phật
A-di-đà đến tiếp dẫn về Tây-phương. Bắt đầu từ đó, họ không còn là phàm phu nữa,
họ đã trở thành bậc bất thối, vĩnh viễn thoát ly luân hồi, nhập vào cảnh giới của
Phật, rồi chắc chắn sẽ thành Phật.
Pháp môn
này thù thắng vì được chư Phật mười phương hộ niệm. Được một vị thần hộ trì mình
buôn bán đã quá tốt rồi huống chi một vị Phật. Một vị Phật hộ trì là cả một chuyện
phước báu vô lượng, huống chi chư Phật mười phương. Vì thế, năng lực vô cùng to
lớn, không cách nào tưởng tượng được!
Ở bên
Singapore, có người bị tội tử hình, ba ngày trước khi bị xử tử, may mắn được người
nhà (thiện tri thức) khuyên niệm Phật cầu sanh Tây-phương. Đường cùng không thể
chọn lựa, thành tâm ăn năn hối lỗi, niệm Phật suốt ba ngày, một lòng cầu về Tây-phương.
Khi đưa lên vòng dây thắt cổ, người đó tươi cười, mềm mại, chết mà thất khứu không
ra một giọt máu. Chết xong thân thể vẫn cứ mềm mại luôn, trong khi người tử tội
bên cạnh sợ hãi, la hét, khi thắt cổ máu me tùm lum, lưỡi thè cả tấc..
Thưa
cha má, cái lý của nó con hiểu, chẳng biết cha má có tin hay không mà thôi. Tại
sao người có tội vẫn được cứu? Tại sao chỉ tu có ba ngày mà đắc vãng sanh? Tại
sao dễ dàng như trò giỡn vậy? Tại sao lại khó tin quá vậy? Tại sao có người tu
cả đời vẫn không được vãng sanh? Tại sao có người tu hành hết kiếp này sang kiếp
khác vẫn không trốn thoát được sáu nẻo luân hồi, trong khi đó, một tên tử tội
thành tâm niệm Phật ba ngày đã thoát khỏi tam giới? Thật vi diệu quá! Ai có thiện
căn phúc đức lớn mới tin được, mới thấy được con đường giải thoát tối ư vi diệäu
này. Mong cha má mau mau nắm lấy cơ hội này, chứ khi đã sút khỏi tầm tay rồi biết
bao giờ mới gặp lại!…
Nó là một bài toán khó giải đối với người
chưa có lòng tin, còn có lòng tin thì có thể hiểu. Nếu cha má tin thì có thể cảm
nhận được. Nếu tin mà chưa hiểu tại sao thì con sẽ giải Thích-cặn kẽ cho cha má
sau. Còn nếu không tin thì dù có giải thích cha má cũng tìm cách chống cãi thì
giải thích làm chi. Hơn nữa, nếu con sơ ý, để cho cha má mắc tội hủy báng chánh
pháp thì lớn chuyện vô cùng!
Niệm Phật để thành Phật, đó
là sự thật! Niệm Phật cần nhất là phải nhớ rõ ba điều: TÍN-NGUYỆN-HẠNH.
Tín, thì tin cho vững chắc, không hoài nghi. Nếu cha má
thật sự tin thì cho con hay, con sẽ viết thư giảng rõ cho cha má hiểu sâu hơn để
phát lòng tin vững chắc, từ đó mới khởi tu được. Còn tin không vững, còn hồ
nghi, tin nửa vời thì con không dám nói đâu.
Nguyện
là gì? Một lòng cầu nguyện được vãng
sanh về Tây-phương Cực-lạc khi mãn báo thân này. Sáng nào cũng nguyện. Khi đau
thì nguyện, khỏe cũng nguyện, một hướng nguyện sinh Tây-phương Cực-lạc. Nhất định
không nguyện về cõi nào khác cả, ngay cả cõi Trời, cõi Thần (A-Tu-la), hoặc trở
lại cõi người. Không nguyện trở thành người hiền, trở thành thầy tu, trở thành
bậc vua quan quyền tước gì cả. Nên nhớ thật rõ rằng là lời thề nguyện nó có mãnh
lực rất lớn, đừng nên nóng giận rồi buông lời thề ẩu mà mang họa về sau.
Có Tín,
có Nguyện thì có phần vãng sanh. Nếu
tin chút chút, thử tin để dò xét thì vô phương được cứu. Có tin mà không cầu
nguyện, hoặc nguyện sai đường thì sai một ly đi một dặm đó cha má ạ.
Hạnh
là gì? Là trì danh hiệu A-di-đà Phật
mà niệm, sáng, chiều, đi, đứng, nằm, ngồi, đang cuốc đất, đang đi đường… lúc
nào cũng giữ một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” trong tâm. Có thể niệm “A-di-đà Phật”
cũng được vì dễ nhiếp tâm hơn. Có niệm như vậy thì tự nhiên phiền não, khổ đau,
sầu muộn, tất cả đều tự tiêu tan hết.
Người
niệm Phật không bao giờ sợ chết, sợ ma, sợ khổ, sợ nghèo… Khi niệm thành thục
rồi thì tự nhiên thông hiểu đạo lý, thông suốt căn cơ, biết rõ lý nhân quả, biết
được sắc thân giả hợp này là gì. Lúc đó ta an nhiên tự tại trước sự sống chết,
nhiều người còn hẹn được ngày giờ ra đi, vui vẻ ra đi. Họ bỏ thân xác mà đi chứ
không phải chết. Họ còn sống nhưng họ bỏ cái thân như bỏ cái áo cũ để về với Phật,
mặc cho con cháu muốn khóc than, cúng kiếng gì đối với cái thân đó thì tự ý mà
làm.
Đó hoàn
toàn là sự thực, xin cha má tin chắc vào lời con để quyết tâm tu tập. Nhất định
cuộc đời này cha má thành tựu đạo giải thoát, thành Phật!
Nam-mô A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc Châu, 21/10/00)
“Bất cứ chúng sanh nào thường xuyên xưng niệm Nam-mô A-di-đà
Phật, thiết tha, hân ngưỡng, dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng chẳng thối chí, thì chiêu
cảm những hạnh lành bất khả tư nghị”. (Quán Thế Âm Bồ-tát).
03 –Lời khuyên song thân
Cha
má kính thương,
Không phải tự nhiên con
cứ nói mãi với cha má về việc tu hành. Ít có người ra nước ngoài rồi viết thư về
khuyên tu hành, giảng giải như vậy đâu. Vì, thật sự thế gian này sáu tỉ người có
mấy ai nghĩ đến chuyện tu hành. Sáu tỉ người có đến 5 tỉ 9 chỉ lo làm sao có tiền,
có địa vị, có danh vọng, có nhà cao cửa rộng, lo ăn nhậu, lo tranh đoạt đủ thứ…
cho nở mày, nở mặt với bà con cô bác! Thậm chí có nhiều người trước khi nhắm mắt
trong tay vẫn còn nắm gói tiền, vẫn còn hãnh diện cái quá khứ giàu sang vinh hiển
của mình.
Nghĩ
cho kỹ cũng khá buồn cười! Không biết họ giữ cái danh đó được bao lâu? Không biết
sau khi nhắm mắt họ đi về đâu? Sẽ cười hay sẽ khóc? Có đem theo được những cái
vinh dự hão huyền mà họ suốt đời cặm cụi truy tầm không? Những thứ danh vọng phù
phiếm đó có còn lưu mãi trong đời không? Hay chỉ vừa nhắm mắt thì tất cả cái hão
huyền đều tan theo huyền hão!…
Con
hằng ngày đọc giảng ký của Hòa Thượng Tịnh Không, lời giảng của Ngài hiện nay đi
khắp thế giới, không còn dùng đến sách vở lưu trữ được nữa, mà người ta phải dùng
đến dụng cụ, phương tiện khoa học tối tân để gìn giữ, để phổ biến. Vì Việt-Nam
không đủ phương tiện để thấy được cho nên con cố gắng chỉnh sang tiếng Việt để
may ra giúp người Việt-Nam học đạo. Nếu cha má thật sự giác ngộ sự đời là vô thường,
là mộng huyễn, mà phát tâm Tín-Nguyện-Hạnh vững vàng làm theo, thì con sẽ lần lượt
trích dẫn lần lần cho cha má và anh chị em biết.
Kinh Phật thuyết A-di-đà nói, “Bất
khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc“, thiện căn
ít không thể sanh về thế giới Tây-phương Cực-lạc được. Tuy nhiên Ngài giảng rõ,
“… Cho dù căn lành trong kiếp
trước của chúng ta kém một chút, kém ở chỗ nào? Tâm ta hiện nay vẫn không tha
thiết cầu vãng sanh, đối với thế gian này vẫn còn lưu luyến, tức là căn lành của
quý vị còn kém một chút. Kém một chút mà đời này muốn vãng sanh cũng không phải
là không làm được. Đời này cố gắng thì có thể được trợ cứu! Dũng mãnh tinh tiến
thì có thể bổ túc căn lành, phước đức không đủ ở trong kiếp quá khứ có thể bổ túc
được. Chỉ sợ là lòng tin của quý vị không thanh tịnh! …“.
Căn
lành là gì? Là người đã tu hành
nhiều đời nhiều kiếp rồi, đã làm thiện rất nhiều, cúng dường hằng hà chư Phật
trong quá khứ, cho nên đời này chỉ cần nghe danh hiệu Phật là họ phát tâm tu hành
liền, phát tâm niệm Phật liền, không cần suy nghĩ, không cần thắc mắc. Người đã
có căn lành như vậy thì tự nhiên một đời này họ sẽ vãng sanh về Tây-phương thế
giới của Phật, vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo luân hồi. Chỉ còn một đời này nữa
thôi họ sẽ thành tựu Phật quả.
Người
chưa có căn lành là gì? Là người
trong kiếp quá khứ ít tu. Có tu thì có chút căn lành còn khuyên được, nếu không
tu thì đời này họ không tin, có mướn họ cũng không tu. Cứ nhìn chung quanh là
thấy ngay, những người luôn luôn phỉ báng Phật pháp, chính là do thiện căn phước
đức không có, ác nghiệp đã tích tụ từ vô lượng kiếp rồi không gỡ nổi! Chắc họ
chỉ còn một đường để đi, đó là tam đồ khó tránh. Thảm thương vô cùng!
Cũng
có thể trắc nghiệm thiện căn của mình thử coi có chín mùi chưa, bằng cách tự hỏi
lại chính mình có tin tưởng vững chắc pháp môn của Phật cứu độ chúng sanh không?
Ví dụ, niệm Phật để thành Phật, là pháp cứu cánh giúp chúng sanh thoát ly luân
hồi trong một đời, mình có tin không? Có nguời khuyên mình niệm Phật, mà mình
tin dễ dàng thì thiện căn đã tới, nếu chống đối thì thiện căn không có, nếu mình
tin một ít thì thiện căn phúc đức chưa đủ.
Những
người tin chút ít thì còn cố gắng khích tấn khuyên nhủ để tạo cơ hội trưởng dưỡng
thiện căn cho họ, để may mắn tự họ được cứu thoát trong một đời này. Còn người
chống đối thì thường ta khi chỉ gieo duyên cho họ mà thôi, nhiều khi không dám
khuyên họ nữa, vì vô ích mà không khéo tạo tội cho người, vì họ dễ buông lời phỉ
báng pháp Phật.
Chính
con đã thấy rất nhiều người có thiện căn phúc đức như vậy. Quý hóa vô cùng! Con
cũng thấy nhiều người luôn luôn chống đối Phật. Thật tội cho họ! Muốn cứu họ mà
đành chịu thua, họ tìm mọi lý luận để bài bác, để phá bỏ. Thế thì làm sao hơn!…
Nhìn
lại trong thân nhân mình, con thấy cha má có thiện căn. Chắc chắn có! Cho nên,
con nghĩ sau những lần khuyến tấn, cha má sẽ nghe theo mà hạ quyết tâm tu hành.
Thiện căn của cha má ở đâu? Chính là cha tu theo đạo Cao-Đàøi lâu năm, có ăn
chay, có tụng kinh, có làm lành… còn má thì hiền thục tin tưởng Trời, Phật.
Chỉ còn chờ đợi một dịp may thì cha má được thoát nạn ngay trong một đời này thôi.
Bây giờ dịp may đã tới, cơ hội này mà không tin thì còn đợi khi nào nữa? Hãy nhìn
chung quanh coi có ai được như vậy không? Khi thiện căn thành tựu thì tự nhiên
có người khuyến sách.
Cha
má nên biết là tất cả mọi tôn giáo đều nhằm cứu độ chúng sanh. Tôn giáo nào cũng
tốt cả, nhưng mỗi một tôn giáo có một cảnh giới nhất định để cứu người. Đây là điều
cha má nên hiểu thật rõ mới mong liễu giải vấn đề. Ngay trong một tôn giáo, như
Phật giáo chẳng hạn, cũng có nhiều pháp môn, mỗi pháp môn thích ứng đến một cảnh
giới. Vì chúng sanh nghiệp chướng quá nặng, căn cơ sai biệt, cho nên Phật mới đem
phương tiện gần gũi nhất để cứu vớt chúng sanh… Có nhiều tôn giáo cứu người
khỏi rơi vào tam ác đạo: Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sanh. Nghĩa là, tu hành tinh tấn
thật nhiều cũng chỉ nhằm không rớt xuống hố ác, để trở lại làm người. Nếu tu không
tinh tấn thì chắc phải rớt. Còn sau đó thì sao? Đâu biết được! Vì trở lại làm
người có được sanh ở Việt-Nam hay Cam-bốt? Ở Mỹ hay các nước Châu-Phi đói khát,
hằng ngày không có cơm ăn? Rồi đời kiếp sau đó có ai chỉ cho mình tu hành nữa
không? Có ai ngăn cấm mình làm ác không?…
Cha
má tu Cao-Đài nhiều năm, cái đó có lợi cho cha má về con đường nhân đạo. Nhờ làm
lành lánh dữ để tạo phước báu cho đời sau. Đây chính là cái phước tích tụ được
trong những năm, tháng tu hành. Nhưng phước báu đó, nếu có cũng chỉ giúp được làm
người mà thôi. Nếu tu hành thật tốt thì được vậy, còn như tu không tốt thì biết
đâu mà nói! Cha má hãy nhìn mấy đứa nhỏ mới sinh thử coi, chúng nó kiếp trước có
tu nhiều lắm mới trở lại làm người, nhưng liệu đời này chúng có ngoan không? Lớn
lên, có không đi ăn trộm, ăn cướp không? Thậm chí có người bị tử hình, tù đày…
đủ tội hết. Cái tu ở đời kiếp trước để được tái sanh làm lại thân người đâu cứu
được đời này, thì tu ở đời này mà không thoát được nhơn đạo thì ai cứu mình
trong đời kiếp sau?
Có
nhiều giáo lý rất tốt, nhưng sở dĩ người tu chỉ thành đạt cõi thiện thấp nhứt là
làm người mà thôi, vì thật ra chưa có ai khai thác cái điểm cao tột của đạo giáo.
Như đạo cha đang tu tập chẳng hạn, họ hành đạo rất hay, lấy tam cương ngũ thường
của Khổng Giáo làm căn bản, lấy thiện lành làm tông. Đây là điều tốt của đạo làm
người, nhưng hầu hết đều nhắm thẳng vào đường nhân đạo, khỏi bị đọa địa ngục để
được dự vào Hội Long-Hoa. Nhưng có điều, Long-Hoa Hải-Hội tới gần sáu trăm triệu
năm nữa mới có. Gần sáu trăm triệu năm nữa Di-Lặc Tôn Phật mới thị hiện thành
Phật ở thế gian dưới cội cây Long-Thọ mà lập Hội Long-Hoa. Di-Lặc Bồ-tát đang
tu ở cõi trời Đâu-Suất bốn ngàn năm, sau đó mới xuống thế giới Ta-bà khai lại
pháp Phật. Một ngày ở cõi Trời Đâu-Suất bằng bốn trăm năm ở thế gian, mỗi năm có
ba trăm sáu mươi lăm ngày. Cha má tính thử là bao nhiêu năm, (400năm x 365 x
4,000 = 584,000,000; 584 triệu năm).
Gần sáu trăm triệu năm nữa mới đến kỳ
Long-Hoa-Hải-Hội. Cha má thử nghĩ, liệu mình có thoát khỏi nạn trong khoảng thời
gian dài đăng đẳng đó không? Cứ tính trung bình một đời cỡ tám mươi năm, thì mình
tu bao nhiêu triệu đời người để chờ hội Long-Hoa. Có chắc những đời sau đó mình
hiền lành hoài không? Ngay đời này đây mình có tu hành, mà liệu có tu đủ tiêu
chuẩn là hiền nhân quân tử chưa chứ đừng nói chi tới đời sau, thì sao dám bảo đảm
hàng triệu đời mình tiếp tục tu cho được? Nếu sơ ý rơi vào đường địa-ngục, ngạ-quỷ
hay súc-sanh, thì “Vạn kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn“. Vì
một ngày dưới địa ngục bằng hai ngàn bảy trăm năm (2.700) trên dương gian, mà ở
dưới đó vạn kiếp!!!… Không biết thì thôi, khi biết rồi giựt mình sợ đến toát
mồ hôi cha má ạ!
Có một
điều thật đáng tiếc là cũng từ trong kinh Phật ra, mà người ta không chịu khai
thác đỉnh cao của lý đạo, mà cứ dạy con người tu theo mức chứng thấp nhất. Như
vậy biết bao giờ mới giải cứu được một chúng sanh đây!? Lên một nấc cảnh giới là
trải qua hàng triệu triệu năm chứ đâu phải đơn giản.!…
Cha
má ơi! Nên tỉnh ngộ liền. Lợi dụng ngay phúc đức tu nhơn lâu nay làm bổn, cộng
với thiện căn phước đức kiếp trước, tiến mạnh mẽ thêm chút nữa, ứng dụng ngay điểm
cao tột của kinh Cao-Đài thì có hy vọng vượt thẳng lên cõi Phật luôn, một đời về
với Phật trở thành bất thối chuyển. Thực sự được như vậy, chứ không phải con nói
ngoa đâu. Nếu được vậy thì cha má có cái đại phúc báu, đại thiện căn, trong đời
này khó có ai có được chứ không phải thường! Sung sướng biết mấy!
Điểm
cao đó là gì? Đó là: NIỆM
PHẬT cầu sanh Tịnh-độ, ứng dụng ngay câu kinh của Cao-Đài, “một lòng
NIỆM PHẬT, ăn chay, làm lành”. Ăn chay, làm lành là trợ hạnh, Niệm Phật
là đỉnh cao của pháp môn giải thoát.
Như
vậy niệm Phật không chống trái với kinh giáo Cao-Đài. Nhưng vì người ta sơ ý không
thấy, thường hay lấy cái phụ làm chính, lấy chính làm phụ, cho nên cứ thấy lâu
lâu mình làm chút việc lành, mỗi tháng ăn chay vài bữa, tưởng là tu hành ngon lành.
Đâu có ngờ, con bò ăn chay trường có thành Phật không? Con chim bồ câu một đời
hiền lành có thành Phật không? Con cù lần vừa ăn chay trường vừa hiền như cục đất
có thành Phật bao giờ đâu?!
Lần
sau, con sẽ thưa với cha má tại sao “ăn chay làm lành” chưa phải là
chính yếu. Lần này con nói thẳng đến Niệm Phật trước đã. Con thành tâm muốn cha
má tin lời con, cha má hạ quyết tâm niệm Phật trước đã. Tuổi già, thời gian không
chờ đợi, thế sự thì vô thường, làm sao hẹn ngày hẹn tháng. Nguyện sanh về Tây-phương
Cực-lạc để khỏi luống một đời tu hành trước, rồi mới tính chuyện khác sau. Cha
má hãy nghe lời con đi, đừng chần chờ nữa. Ở xa quá con không biết cách nào nói
với cha má nhiều lâu được. Nhưng những lá thư này là lời vàng, lời ngọc cho cha
má thoát khổ hải trầm luân đó!
Pháp
môn niệm Phật này đơn giản lắm, chỉ thành tâm tin tưởng Phật, phát tâm nguyện hết
báo thân này được sanh về Tây-phương Cực-lạc, và liên tục niệm Phật hiệu A-di-đà,
thế thôi. Nếu cha má thực hành được thì linh nghiệm thù thắng bất khả tư nghị,
là cả một phước báu to lớn bất khả tư nghì. Con sẽ từng thư một giảng rõ thêm
chi tiết cho cha má tu.
Tu
để làm người, vẫn trở lại thành người, thì làm sao quý bằng tu hành trở thành
Phật, một đời giải thoát tất cả trầm luân!
Nếu
có ý kiến gì chưa đồng ý cứ việc gạn hỏi thẳng với con. Pháp môn vi diệu đang lưu
thông khắp thế giới, cứu độ hàng triệu người, mà chúng ta chưa hay biết. Trong
khi đó con được nhân duyên đọc hàng ngày, coi từng câu, nghiệm từng ý, con được
nghe thuyết pháp hàng tuần, làm sao con không hiểu, làm sao con không thấy. Khi
thấy rồi mà để cha má mất phần lợi lạc thì lòng con sao nỡ đành. Cho nên, con
tha thiết muốn cha má bắt đầu niệm Phật ngay đi kẻo trễ là vậy. Khi quyết tâm
niệm Phật rồi, nghĩa là đã tin rồi, thì con mới có thể thố lộ thêm những chân lý
mà con đã học được, đã thấy được, lúc đó cha má mới hiểu sâu vào cảnh giới. Khi
đã hiểu sâu rồi, con tin tưởng cha má tìm được nguồn hạnh phúc vô biên, nguồn
an lạc vô tận, và nhiều khi ngộ đạo rồi cha má còn phát tâm độ đời nữa là khác.
Hãy
thành tâm tu hành, hãy chuyển thư con cho tất cả anh chị em, bà con đọc nhất là
chị Hai đang bệnh. Nhiều khi họ ngộ được thì công đức của cha má cũng lớn vô cùng.
Nếu có ai muốn hỏi cứ nói viết thư cho con…. Con tìm mọi cách để giúp cho họ
tu. Tu được người nào mừng cho người đó. Làm phước đức cho nhiều thì tư lương của
mình mới nhiều, tạo thêm cơ hội để được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Thế-giới.
Hòa-Thượng
Tịnh-Không giảng: “Nếu tâm thanh tịnh không một mảy may nghi ngờ, thì quả
nhiên cõi Tây-phương Tịnh-độ trong một đời này không khó đạt được. Do đó, nghiên
cứu kinh, giảng giải, thảo luận, mục đích là giúp chúng ta có lòng tin thanh tịnh,
sau đó mới phát sanh nguyện lực chân thật, nguyện vọng mạnh mẽ cầu sanh. Thế là
quý vị vừa nghe hiệu Phật tự nhiên sẽ không bị dứt. Vì sao? Nguyện lực đang thúc
đẩy quý vị. Đời này ta chỉ có một mục tiêu, muốn thấy Phật A-di-đà, muốn đến Tây-phương
Thế-giới Cực-lạc. Đi cách nào? Trong kinh dạy chúng ta, chấp trì danh hiệu thì
có thể đi”.
Cha
má thấy rõ ràng, Niệm Phật để thành Phật. Chỉ cần chấp trì danh hiệu
“Nam-mô A-di-đà Phật” hoặc “A-di-đà Phật”. Hằng ngày, hằng
giờ, hằng phút, bất cứ chỗ nào, ở đâu, tình trạng nào, lúc đau, lúc khỏe… đừng
rời khỏi niệm Phật thì cơ hội về với Phật trong đời này đang ở trong tay của
cha má. Chỗ nghiêm trang thì niệm thành tiếng, chỗ đông người thì niệm thầm. Câu
này liền câu khác, liên tục như trường lưu thủy trong tâm. Bớt nói chuyện lại,
bớt bàn chuyện đời, bỏ nói chuyện thị phi, không lo lắng về tiền bạc, bớt nghĩ đến
chuyện tương lai… bỏ hết tất cả mọi duyên để tranh thủ niệm Phật.
Nếu
thành tâm niệm Phật thì tự nhiên tất cả mọi chuyện đều được giải quyết êm xuôi
tốt đẹp. Nghĩa là, cha má khỏi cần lo tiền cũng có tiền, khỏi cần lo ăn cũng có
ăn, khỏi cần lo ân nghĩa ân nghĩa cũng dứt… Con bảo đảm với cha má như vậy. Còn
nếu không tin, cha má cứ việc chạy theo cái khổ não triền miên của thế sự nhân
tình, kết quả như thế nào chắc chắn cha má tự biết lấy, không cách nào thoát được
đâu!
Nếu cơ duyên cha má đã thành thục thì
lời của con trở thành quý báu vô giá. Không dễ gì có ai khuyên cha má chân thành
như con, không người con nào thương cha má như con, không người con nào trả được
chữ hiếu trọn vẹn như con! Còn như, có đại phúc báu trong tay mà không biết thì
cũng đành chịu thua! Đừng tự bỏ mất, khó tìm lại lắm đó cha má ạ!…
Thôi
con xin ngừng. Cái thân này có gìn giữ tới đâu thì nó cũng mất. Sanh tử sự đại,
mau mau hồi đầu đừng hẹn nữa. Có sanh, chắc chắn phải có tử có gì đâu mà sợ. Chỉ
sợ là tử rồi mình đi đâu đây? Cơ hội siêu thoát đã đến tay cúi xin cha má đừng để
vụt mất!
Nam-mô A-di-đà Phật
Kính thư.
(Viết xong, Brisbane
7/11/00).
Tin rằng bản nguyện của Phật A‐di‐đà là chân thật,rốt ráo và tối thắng. Ngài không bao giờ bỏ sót một chúng sanh nào, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch,thập ác.(PS Tịnh‐Không).
(Giác nhi bất Mê
Chánh nhi bất Tà
Tịnh nhi bất Nhiễm)
Cha má kính,………………………………………………………
Trong
thư này con sẽ nói với cha má một chuyện sắp sửa xảy ra ở đây. Hay vô cùng!
Chuyện một người cho biết sắp được vãng sanh. Chuyện này ở các nơi thì cho là lạ
lùng, còn ở đây với pháp tu tối thắng vi diệu, hễ người nào chí thành tu hành đều
được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà cả. Quý hóa quá đi mà mãi
đến nay, qua bao nhiêu thư của con cha cũng mới có mở một lời khen nhẹ thôi chứ
chính cha má chưa hạ quyết tâm tu hành. Thật uổng quá. “Triêu tồn tịch
vong sát na dị thế” mà chờ sao được? Đã có đường cho mình giải thoát mà
không chịu đi, cứ ngồi đây lý luận, nghi ngờ thì ai có thể cứu mình đây? Vô thường
tấn tốc, ngưỡng mong cha má quyết chí thành tâm đồng niệm Phật.
Con kể
cho cha má nghe, chuyện là ngày hôm nay ở Tịnh-tông-Học-Hội (tức hội niệm Phật)
tại Brisbane đang dọn dẹp để đón Hòa Thượng Tịnh Không từ Singapore qua vào ngày
thứ Bảy 25/11 và cũng chuẩn bị cho ba tuần lễ kiết thất niệm Phật bắt đầu từ
26/11. Ngọc qua chùa để dọn, con thì ở nhà lo chuyện giảng ký, khi về nàng nói
với con là bà Bảy sắp sửa vãng sanh. Chuyện này chắc cha má nghe giống như chuyện
phim ảnh, nhưng ở đây người ta coi là chuyện thường. Riêng con, hồi giờ thường
nghe nói vãng sanh qua sách vở, tin tức, hình ảnh… chứ thấy tận mắt thì rất là
hiếm, vì lâu lắm mới có một người “chết” chứ đâu có hoài. Bà Bảy này
thường gặp tụi con hàng tuần ở chỗ niệm Phật, nay bà báo cho biết rằng bà sắp sửa
về với Phật. Con kể cho cha má nghe, nếu thiện căn có thì đây là cơ hội tăng thêm
niềm tin tu hành. Hy hữu lắm mới thấy, nghe được chuyện này đó!
Bà này
tuổi trên tám mươi, con không hỏi rõ, pháp danh là Tịnh Bửu, trước đây thỉnh
thoảng có đi chùa lạy Phật. Khi cơ may đến bà gặp pháp môn niệm Phật, bà phát tâm
tin tưởng, quyết chí niệm Phật. Lúc nào bà cũng cầm xâu chuỗi trong tay và niệm
thầm A-di-đà Phật, bà cầu được vãng sanh về Tây-phương. Vì hồi trước buôn bán có
nhiều lúc nói xạo, cho nên, bây giờ hầu như ngày nào bà cũng thành tâm sám hối
tội lỗi của mình. Khi gặp tụi con bà thường than rằng: “ước gì Minh
con của bà, gặp được các con, để con khuyên nó một tiếng cho nó niệm Phật”.
Bà thường nói con là người thiện tri thức, vợ chồng đều tu hành, thật quý quá.
Hơn tám
mươi tuổi mà bà rất tỉnh táo, ăn nói chững chạc, không lẫn gì cả. Khi đi nhiễu
Phật, (tức là sắp hàng nhau đi vòng quanh bàn thờ Phật A-di-đà vừa đi vừa niệm
“A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”) bà đi không nổi, bà chỉ đi chập chững,
cho nên cứ lẽo đẽo theo rồi rơi lại phía sau. Khi hàng người tiến gần tới thì bà
lại nép sát vào tường chờ họ đi qua rồi chập chững theo tiếp.
Trong
niệm Phật đường thì ráng theo người ta niệm Phật. Khi ra khỏi đại điện thì bà cứ
lâm râm niệm Phật liên tục, không bao giờ ngừng. Sáng nào, bà cũng quỳ trước Phật
khấn nguyện vãng sanh. Chiều lại, bà quỳ lạy Phật và hồi hướng tất cả công đức
về Tây-phương. Bà làm đúng như lời Hòa Thượng và quý thầy dạy. Ai nhìn bà cũng
thương, và ai cũng tin tưởng bà sẽ được vãng sanh. Thời gian tu như vậy chỉ hơn
một năm thôi, thế mà bây giờ bà đã cho mọi người hay cái tin sắp được về Tây-phương.
Bà nói
vậy cách đây mấy tuần rồi mà con không hay, hôm nay, vợ con vào chùa dọn dẹp
chung thì mới nghe người ta nói lại, và về cho con biết liền. Con vội vã viết
thư cho cha má hay. Vài bữa nữa con hỏi tiếp rồi viết tiếp. Đây là chuyện khó lắm
mới chính mắt chứng kiến. Có thể vài bữa nữa con chụp chung với bà vài tấm hình
rồi gởi về cha má xem. Hơn nữa, khi bà thông báo ra đi thế nào con cũng tình nguyện
tới hộ niệm cho bà. Hộ niệm cho một người vãng sanh công đức rất lớn.
Hộ
niệm là gì? Là khi có người sắp ra đi,
mình tới thành tâm niệm Phật, giữ chánh niệm cho họ để họ an nhiên theo Phật.
Trường hợp của bà Bảy này đã được ứng mộng trước thì khá hay! Nếu người ra đi còn
khoẻ thì họ ngồi, nếu yếu quá thì nằm, còn người hộ niệm thì đứng hoặc ngồi gần
đó cứ việc niệm “A-di-đà Phật” liên tục hai mươi bốn trên hai mươi bốn
giờ để giữ chánh niệm cho họ. Nếu ít người thì chia phiên nhau, mỗi lần hai người
hoặc một người. Mỗi lần có thể một, hai, hoặc ba giờ tùy ý. Thay phiên nhau niệm
hai mươi bốn giờ không được gián đoạn. Chuyện này nếu cha má muốn tìm hiểu con
sẽ nói sau. Bây giờ trở lại chuyện bà Bảy đã.
Tin bà
Bảy Tịnh Bửu sắp vãng sanh được bà cho biết cách đây mấy tuần rồi mà con không
biết. Bà nằm mộng thấy Phật A-di-đà tới thọ ký bảo bà rằng, bà được Phật cho về
Tây-phương và dặn bà tìm một tấm vải vàng. Phật đưa tấm vải vàng cho bà coi và
bảo bà tìm cho được miếng vải đó để vãng sanh. Bà không biết miếng vải đó ở đâu,
cho nên buồn, theo Ngọc nói, nhiều lúc bà muốn khóc mà không biết hỏi ai hết. Đến
kỳ Phật thất, nghĩa là cách đây hơn một tuần, bà tâm sự với ông phó hội trưởng
của Tịnh-tông-Học-Hội, ông ta chạy vô tủ lấy ra một tấm vải vàng đưa cho bà xem
và hỏi có phải giống như vầy không? Bà coi xong thấy giống y như tấm vải của Phật
A-di-đà đưa cho bà xem trong giấc chiêm bao. Bà mừng quá. Điều kiện của Phật đưa
ra là có tấm vải vàng để được vãng sanh, bây giờ đã tìm được tấm vải, có lẽ bà được
vãng sanh một ngày gần đây. Lòng phát nguyện của bà đã được thành tựu. Ông Phó
hội trưởng, (người Trung-Hoa) khuyên bà, ngày vãng sanh nên vào chùa vãng sanh để
có nhiều người hộ niệm, ở nhà lỡ con cái không biết, khóc kể tùm lum thì bị náo
loạn có thể mất vãng sanh, uổng lắm. Bà đồng ý.
Khi nào
bà thông báo, thì chắc chắn con phải nghỉ làm một vài hôm để tham gia hộ niệm
cho bà. Con sẽ thu thập tất cả tin tức kể cho cha má nghe sau. Nếu họ cho phép
chụp hình con sẽ gởi hình về, nhưng thường thường lúc đó họ cấm vì sợ làm loạn
tâm người đi. Nhưng nếu người vãng sanh vui vẻ, không ngại, hoặc yêu cầu thì họ
quay phim, chụp hình, có người còn mời tới dự tiệc vãng sanh nữa là khác. Linh
diệu vô cùng, tả không được bằng bút mực đâu!
Có một điều mà bà phải thu xếp từ đây cho đến
ngày vãng sanh, chưa biết sớm hay muộn là cảnh tỉnh mấy người con cháu. Anh M.
là con trai trưởng, sáu mươi lăm tuổi, đang là chủ một cửa tiệm. Bà khuyên anh
niệm Phật mà anh không tin. Nhiều lần bà Bảy nhờ con khuyên giùm cho bà, nhưng
con không gặp được. Chỉ đành nhờ vào thiện căn của chính cá nhân của anh mà thôi.
Nếu giờ phút chót mà ảnh vẫn không tin, không cho bà tới chùa để người ta hộ niệm,
giữ bà ở nhà và không đồng ý cho người tới hộ niệm, thì ai dám tự động vào được
nhà ông ta? Lúc đó cũng đành tùy duyên mà thôi. Nhưng theo con nghĩ với lòng chân
thành và quyết tâm của bà Bảy, bà sẽ cứng rắn ngăn cấm con cái để họ khỏi phá rầy
ngày ra đi. Cầu xin cho bà được thuận buồn xuôi gió, ngày cuối đời tránh được
những chướng ngại đáng tiếc. Trong mộng bà được bảo tìm miếng vải vàng là đã hàm
ý khuyên bà nên dặn con cháu cho vào đạo tràng để vãng sanh, vì chỉ có chùa này
mới có miếng vải này. Người đã được đức Phật A-di-đà ứng mộng điềm chỉ mà con
cháu không tin trưởng thì cũng đành tùy duyên thôi! Cũng xin nói thêm là
“Chùa” ở đây hơi khác với chùa theo kiểu bình thường, đây chỉ là một đạo
tràng niệm Phật, Phật tử tự nguyện dựng nên để mọi người tới niệm Phật.
Thưa
cha má, nhiều người tu hành trọn đời chưa chắc đã được tái sinh làm người. Ở đây,
bà chỉ tu hành một thời gian ngắn mà được về Tây-phương với Phật thì còn có hồng
phúc nào lớn hơn? Có phước báu gì so sánh được? Chuyện vãng sanh, nếu cha má có
đọc thì trước giờ nhiều lắm chứ không phải ít. Hầu hết đều là người niệm Phật mà
thôi. Người không biết tu, trải qua hàng triệu kiếp chưa chắc đã đủ cơ duyên tới
“vùng biên địa” của Tây-phương Cực-lạc chứ đừng nói chi đến chính đức Phật hiện
ra báo tin vãng sanh. Cái nguyện vọng của tất cả chúng sanh, những người học Phật
đều cầu mong một ngày được về đến Thế-Giới Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà.
Nhưng đâu phải dễ. Nếu chỉ cần sơ ý một chút, vụng dại một chút, sai một ly thì
ân hận ngàn đời ngàn kiếp!
Pháp môn
có nhiều, tu hành vạn nẻo, suy đi xét lại chỉ có “niệm Phật thành Phật” là con đường
thẳng tắp khó thể bị lạc đường. Không cần người giỏi, dở, khôn, ngu, cao, hạ…
gì cả, chỉ cần ai có thành tâm Tin Phật, phát nguyện cầu sanh Tây-phương Cực-lạc,
và trì danh hiệu Phật mà niệm, gọi tắt là TÍN-HẠNH-NGUYỆN là được.
Có nhiều
cách tu hành đang dẫn con người vào con đường vô cùng vô tận của luân hồi tử
sanh mà họ không biết. Đây là sự thật nhưng mình không chịu tìm hiểu kỹ. Một
khi đã lún vào trong đó, trí huệ đã bị che lấp, huệ mạng của mình đã bị trói chặt
trong đó rồi khó mà gỡ ra lắm. Muốn ra được phải có cơ duyên, phải gặp được thiện
tri thức thức tỉnh mình, phải có thiện căn phúc đức lớn từ trong nhiều đời nhiều
kiếp, và chính mình phải dũng mãnh, sáng suốt nhìn thấy vấn đề thì may ra mới có
thể cứu vãn. Cái khó là ở chỗ thuyết nào cũng nói thiện mỹ cả, nói toàn là tốt
hết. Ví dụ, như làm lành, làm thiện sao lại không tốt, thành thử ai cũng nghĩ,
tu thì làm lành là được, đừng làm ác là xong. Thực tế không phải đơn giản như vậy
đâu cha má ạ.
Trong thư cha viết cho con có câu, “con cũng
nên tạo cho được tâm Phật chân chánh để được hưởng phước lâu dài…”. Con
hiểu thâm sâu vào câu nói đó. Người ta thường so sánh với bao nhiêu người có tiền
bạc, con cái khá giả… cho nên họ cứ nghĩ tu hành để được bù đắp bằng những thứ
đó. Nhưng thưa cha má, hưởng cái phước cũng tốt, nhưng tốt được bao lâu? Có người
gia tài bạc tỷ mà khi ngộ đạo họ bỏ hết, thì tại sao lại có người lặn lội suốt đời
chạy tìm tiền bạc, đến ngày gần đất xa trời vẫn một lòng nghĩ đến tạo sự nghiệp
tiền tài là sao?
Thưa
cha má, hãy nghĩ cho kỹ, làm lành thì tốt, nhưng làm lành để cầu hưởng cái phước
hữu lậu thì lại triệu triệu kiếp không làm sao thoát khỏi sinh tử luân hồi, không
bao giờ tới được cảnh giới Tây-phương Cực-lạc Thế-giới được. Người làm lành để
cầu mong hưởng phước báu, thì tương lai không xa, khó tránh khỏi bị đọa lạc. Vì
sao? Vì làm lành có một chút không bằng người ta làm ráng mà đã tìm cách thâu lợi
rồi, thì lành đó là vì lòng tham chứ không phải lành đâu! Ở đó bon chen, ganh tị,
đấu tranh, tham, sân, si… đầy dẫy. Cái nào nhiều hơn?
Làm được chút việc lành để mong hưởng
phước, thì phước đó là phước hữu lậu của thế gian. Càng có nhiều phước của thế
gian càng dễ làm ông chủ tịch, quan tòa, nhà giàu, thế lực… thì càng tạo nhiều
nghiệp ác, thì càng dễ bị đọa vào những đường ác khó có ngày thoát ra. Người
nghèo, vậy mà ít tạo nghiệp, ít ngạo mạn, ít sân giận, ít sát sanh. Họ nhiều nhẫn
nhục, khiêm nhường, ít rượu thịt… cho nên ác nghiệp họ nhẹ, họ có nhiều hy vọng
tốt ở đời sau. Còn người giàu có thì hách dịch, tự phụ, thì mỗi ngày ăn một con
gà, vài bữa làm một con bò để ăn, vài ngày làm bữa tiệc nhậu nhẹt. Một bữa ăn của
họ hại không biết bao nhiêu sanh mạng trong đó. Hỏi thử nghiệp sát, nghiệp
tham, nghiệp sân… ác nghiệp của họ lớn biết chừng nào! Quả báo trả vay tơ hào
không sót, làm sao họ thoát khỏi cho được luật trả vay của tạo hóa đây!?
Có lần con nói với cha má, tu hành chứ không
phải làm thiện. Đây không có nghĩa là khuyến khích làm ác đâu. Mà con muốn nói:
1) Không
làm điều gì ác;
2) Làm tất cả điều thiện, nhưng đừng cầu hưởng phước báu điều mình làm ra;
3) Thành tâm niệm Phật, hồi hướng công đứùc về Tây-phương Cực-lạc và mong cho
mọi người
hưởng cái công đức tu hành của mình.
Đó là đại khái ý nghĩa câu “Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý“. Đó chính là tu
Tịnh-nghiệp vậy.
Có những cái mình cho là thiện nhưng chưa chắc
là thiện đâu. Con ví dụ thẳng trong dòng họ mình trước đây giàu có, ngày ông Cố
chết, nghe nói gia đình làm đám ma dài hàng tháng, bò, heo, gà, vịt giết liên tục
để đãi. Cả làng đều khen: “Ôi! Nhà giàu sang, danh tiếng, thế lực, tốt phước…”.
Nhà mình là từ đường, hàng năm mấy mươi đám giỗ, mỗi đám giỗ giết heo, giết gà,
giết vịt… đễ đãi bà con (chứ không thì khó coi!), lại còn đem thịt, cá đểù lên
bàn thờ cúng ông bà nữa. Đây là ví dụ thôi, còn nhiều thứ nữa lắm. Cha má thử tự
nghĩ coi, mình làm vậy đúng hay sai? Là thiện hay ác? Là hiếu hay bất hiếu?
Ông bà
mình chết chưa kịp chôn cho yên mồ mả. Ngưu -Đầu, Mã-Diện đang còng cổ xuống âm
ty xử phạt, làm con cháu không van cầu tha mạng cho ông bà, lại còn ra tay sát
sanh để đãi đằng tạo thêm tội sát cho vong linh nữa! Trả hiếu sao lại cứ lợi dụng
ngày giỗ, ngày ông bà, cha mẹ chết mà giết hại heo, gà, rượu thịt ê hề để
“trước cúng sau nhậu” cho đã? Lợi dụng ngày chết của người thân để say sưa
trả chuyện nghĩa nhơn, danh vọng cho chính mình? Tội nghiệp của ông bà đã chịu
quá thảm thương nơi địa ngục, ngày đêm bị tra tấn, đang mong con cháu cầu siêu
không ai làm. Ngược lại, mình chịu tội phạt mới lơi lơi một chút, ngáp ngáp một
chút thì bị con cháu lại đè ra nhét thịt nhét máu vào miệng để kết thêm tội sát
sanh! Ông bà vụng tu hành thì tự ông bà trả nợ đã đành, không ai cứu giúp được
thì đành đi, đàng này chịu cực hình đủ cỡ để trả nợ, mới được một phần, đang tìm
cách ngoi lên thì bị đàn con cháu nện một đạp chìm xuống địa ngục trở lại! Như
vậy, mà thế gian vẫn cứ cho đó là hiếu! Báo hiếu gì kỳ vậy?
Thưa
cha má, không biết cách tu, triệu triệu kiếp mãi mãi đọa lạc, hết địa ngục rồi
tới ngã quỷ, hết ngã quỷ rồi sanh làm súc sanh, hết súc sanh rồi làm người. Làm
người được rồi thì mê muội, điên đảo, mặc sức tạo ác nghiệp để lại rơi xuống hố
trở lại!
Trở lại
việc làm thiện, nếu muốn một đời này về được với Phật thì không được tạo ác
nghiệp, không tu thiện-nghiệp mà phải tu Tịnh-nghiệp. Ta nên phân biệt rõ ràng
giữa tịnh-nghiệp và thiện-nghiệp.
Tu
thiện-nghiệp là sao? Là người thích làm
lành để cầu mong phước báu. Làm được việc tốt nhỏ nào cũng ghi nhớ trong lòng và
chấp vào đó là tốt. Họ thường cầu xin được tài lộc, được sức khỏe, được sự nghiệp…
Rồi sau cùng, cầu xin đời sau sướng hơn đời này để hưởng. Cũng được đó! Nhưng
trong nhà Phật gọi đây chính là cái duyên đọa lạc vô cùng vô tận. Vì sao? Vì càng
hưởng lạc thì càng tạo ác, tạo ác thì chui vào tam ác đạo. Người chân tu họ trốn
tránh cái phước báu này.
Tu Tịnh-nghiệp
là sao? Là làm thiện mà nhất định không
cầu hưởng phước hữu lậu thế gian. Hãy làm tất cả việc thiện nào mình có thể làm
được nhưng đừng để ý tới là mình đã làm, mà tâm tâm luôn luôn hồi hướng công đức
về Tây-phương Cực-lạc. Nhất thiết ngày ngày van cầu với Phật rằng, “đừng
cho con hưởng chút phước báu nào của thế gian cả, con muốn gởi tất cả công tu hành
về với Tây-phương Tịnh-độ và nguyện cho tất cả chúng sanh hưởng được cái phước
báu của con làm ra”. Nhất là thành tâm niệm Phật cầu được sanh về Tây-phương.
Đó là tu Tịnh-Nghiệp.
Trong lòng
con thiết tha được cứu thoát cha má, con muốn độ cha má. Mỗi người trên thế
gian này đều có định số cả. Tuổi thọ, tài sản, trí huệ, con cái, sự nghiệp,
danh vị… tất cả đều định sẵn, có nhân duyên từ trước. Người tuổi thọ bốn mươi
muốn thêm một năm nữa cũng khó được. Người tuổi thọ chín mươi muốn chết sớm cho
khoẻ cũng khó chết. Chỉ có làm sao trong một báo thân này kết thúc sanh tử để về
với Phật, thành Phật là viên mãn kiếp tu hành. Vấn đề này chỉ có tu đúng cách
thì được, không tu đúng thì không bao giờ có phần giải thoát!
Trong thư cha lý luận rất hay, “…con
nên biết tà chánh do tâm tạo ra cả…”. Lời nói này chính là lời của
chư Phật Bồ-tát nói. Nhưng thường người ta nói thì hay nhưng thực hành thì lạc
mất. Nói thì dễ quá, nhưng làm cho đúng thì khó lắm đó! Vì chánh là như thế nào?
Tà là sao? Tâm chánh là tâm Phật, cho nên cứ nói đại Phật là tâm, cho nên tự
cho mình là Phật. Có tội lắm đó! Không chịu tu thì biết ngày nào mới dám nói lời
đó đây! Tâm chánh là tâm Phật. Ta có tâm chánh là Phật rồi?! Tâm chánh mà sao còn
tham tiền, sao còn tham danh vọng, sao còn tham uống rượu, sao còn thích ăn thịt,
sao còn tham thị phi, sao còn tham đắm thế gian? Đã gọi là tâm Phật, sao một tiếng
Phật hiệu không dám niệm, mà lại thích niệm tiếng tăm, niệm được địa vị, niệm được
giàu có…? Niệm là gì? Là muốn, là nghĩ, là tưởng, là nhớ. Tâm Phật, thì nghĩ
tưởng nhớ Phật chứ! Niệm tham sân si của thế gian thì giỏi, còn niệm Phật lại
ngại ngùng, tính tới tính lui, thì gọi là tâm Phật được sao!?
Thưa
cha má, không phải con ám chỉ cha má đâu, nhưng nhiều người như vậy. Cha má vì
quá dè dặt, cha má cứ sợ con theo tà ma nào đâu cho nên không dám tin lời con.
Chứ, nếu để ý một chút cha má thấy ngay con đi thật đúng chánh pháp. Tới năm mươi
tuổi đầu, lặn lội khắp nơi con mới tìm được chỗ vi diệu tu hành một đời thành
Phật. Tất cả từ trước tới giờ, con chỉ khẩn thiết xin cha má phát tâm tin tưởng,
chứ đừng nên tìm lời biện minh mà mất phần lợi lạc. Cái tâm phàm phu của chúng
ta với những giáo nghĩa thế gian chưa đủ sức lý luận đâu.
Ở các hội niệm Phật, cứ mỗi lần mở Phật
thất, chư Tăng Ni khắp nơi tựu về niệm Phật đông đảo, Phật tử tu đông đảo, lòng
thành dâng lên tới chín tầng mây, tiếng niệm Phật vang đến khắp pháp giới, cảm ứng
cả đến vũ trụ hư không, làm cho chư Phật mười phương đành xuống đây hộ niệm cho
họ. Trong khi đó mình cứ nằm dài đây rượu thịt, mà còn lý luận tà với chánh,
thiên cơ với địa cơ, lậu với bất khả lậu… để làm gì? Lỡ mai kia rơi vào điạ
phủ rồi, thì muốn lậu ra cũng đâu có ra được để mà lậu! Con chỉ chờ cha má báo
cho con biết rằng tin tưởng và hứa niệm Phật thì con có thể dùng phương pháp này
cứu được cha má trong đời này, con có thể chỉ dẫn thẳng vào cách tu hành. Nghĩa
là khi mãn phần thì cha má được về với Phật. Người nào mãn phần trước về Tây-phương
trước, người mãn sau đi sau. Con có cách cứu. Còn bây giờ cứ lý luận mãi, loanh
quanh những kiến thức thế gian thì không đi tới đâu cả! Thời gian không kịp nữa
đâu.
Khi đã
về tới Tây-phương Cực-lạc rồi, cha má có thể quán chiếu thập phương để biết bà
nội, ông nội, ông cố… ở đâu và tìm cách cứu họ siêu thoát để làm tròn chữ hiếu.
Má thì lo cứu bên ngoại. Chứ bây giờ, cha má cứ nói báo hiếu thì làm sao báo hiếu
đây? Còn về con cái, cha má cứ việc trở về hiển linh ứng mộng, chỉ bảo tu hành,
chắc chắn như vậy. Người nào cứng đầu không nghe, cha chỉ cần quất cho một cây
thì họ giựt mình tỉnh dậy, thất kinh hồn vía, sợ toát mồ hôi hột, làm sao mà dám
không vâng lời?! Chứ bây giờ chính cha cũng mờ mịt không biết sẽ đi đâu, thăng
hay trầm, thì làm sao dạy ai cho được, báo hiếu làm sao đây?
Thư dài
quá rồi, con xin ngừng, nguyện cầu cha má tỉnh ngộ sớm, ngày đêm niệm Phật. Khi
nào phát tâm niệm thì cho con biết liền, con xin hướng dẫn cụ thể. Tất cả anh
chị em, người nào có thiện căn niệm Phật hãy trực tiếp biên thư cho con. Chỉ cần
một vài hàng là con cảm hiểu được ngay và giúp cụ thể liền. Vì nghiệp thì có cộng
nghiệp, biệt nghiệp, tu cũng có cộng tu, biệt tu, nghĩa là tùy tâm mà khai thị
vậy. Nghe nói chị Ba đã bắt đầu niệm Phật. Tốt! Nói chị viết thư cho con liền đi.
Khổ ải
vô biên, hồi đầu thị ngạn. Xin đừng lý luận mà càng xa chánh giác. Cứ thành tâm
sám hối tội lỗi, chí tâm niệm Phật cầu về Cực-lạc, thì thành Phật chỉ trong một
đời này mà mình không hay. Vô thường tấn tốc, kính xin cha má xả bỏ thế tình,
quyết chí thành tâm đồng niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Brisbane ngày 19/11/00).
Bất cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh hiệu Nam‐mô A‐di‐đà Phật, thì sẽ đắc những năng lực giải thoát không thể nghĩ bàn.(Quán‐Thế‐Âm Bồ‐tát).
05 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Hội
Niệm Phật vừa kết thúc một khóa niệm Phật ba tuần vào ngày 17/12/00. Nhìn thấy
người ta tu mà con cảm thấy thương hại, tội nghiệp cho cha má, anh chị em, bà
con, con cháu của mình. Vì nghiệp báo của cuộc đời quá nặng mà mãi mãi trầm luân
trong bể khổ, hết lo chuyện này rồi chuyện khác, hết kiếm tiền lại nghĩa ơn, hết
lo nhà rồi lo nợ đời. Hì hục suốt cuộc đời, rồi đến khi gần già trực nhìn lại
không được một cái gì hết, chỉ còn một khối nghiệp vĩ đại mang theo, chỉ còn một
cảnh giới hãi hùng phải chịu trong hàng vạn kiếp. Ôi! Thật tội nghiệp! Thật đáng
thương! Mấy tấm hình này có tấm con chụp Bà Bảy Tịnh-Bửu, người mà con nói
trong thơ trước, còn mấy tấm kia người ta chụp còn sót lại trong tháng trước,
con gởi về luôn để cha má hình dung phần nào cảnh tu Niệm Phật.
Mình
sống trên đời để làm gì? Tranh danh đoạt lợi? Có lợi được hay không, khi chính
bản thân mình bị dìm vào ngục tối ngàn năm. Có tiền, có sung sướng không nếu
sau khi hết thân này ta đầu thai vào hàng súc sanh ngu muội, bị người ta bắt cày
bừa rồi sau cùng họ mổ để ăn thịt?… Không phải ta chết đi là hết đâu cha má.
Chắc chắn ta vẫn còn sống, mà còn sống rất lâu rất lâu. Đó là sự thực. Tu hành đừng
nên bừa bãi, đừng nghĩ rằng chết là hết mà cứ làm ào nói ốn để sau cùng dở khóc,
dở cười, lỡ sụp hố rồi muốn thoát ra đâu còn được nữa!
Cha
má nên biết rằng, cái cảnh giới của người sắp chết và sau khi chết trong bốn mươi
chín ngày của Thân-Trung-Ấm rất đáng sợ. Ngay trong giờ phút sắp lâm chung, con
người có thể bị rơi vào những cảnh giới thật hãi hùng ghê rợn không thể tả được.
Có lúc thấy lửa cháy bừng thiêu đốt, có lúc bị dìm vào băng tuyết lạnh thấu xương,
có lúc bị ma quỷ rượt cắn xé thân thể, cọp, beo, đầâu trâu, mặt ngựa, ba đầu, sáu
tay… nhào tới vồ chụp lấy. Nói chung rất nhiều cảnh giới hãi hùng ùn ùn kéo đến,
nào là ánh sáng thay đổi đủ màu đủ sắc, sấm chớp, ma quái, quỷ dữ thay phiên
nhau chụp giựt lấy ta để lôi ta vào cảnh giới của chúng… không sao diễn tả được.
Nghiên cứu trong kinh sách Mật-tông, cha má sẽ thấy rõ hơn, ở đây con không cách
nào kể chi tiết được. Chính vì thấy những cảnh quá hãi hùng cho nên người sắp
chết thường la hét, trợn mắt, tay chân cứng đơ, giãy giụa, đau đớn, v.v… trước
khi nằm ngay đơ buông xuôi theo định mệnh đi theo nghiệp thọ báo. Hễ tu hành tốt
thì trở lại làm người, lên trời, còn tu không xong thì theo vào địa-ngục, ngạ-quỷ,
súc-sanh, những đường hung hiểm.
Thưa cha má, người không
hiểu đạo họ không tin, người hiểu đạo họ lo tu hành từng chút, từng chút. Người
không hiểu đạo họ cứ lo công danh, điạ vị, tiền bạc, cứ lo ăn nhậu cho đã rồi
buông lời hủy báng pháp Phật. Người hiểu đạo rồi họ âm thầm tu niệm mặc cho người
đời nói gì thì nói. Cái hơn, thua hãy chờ mà coi, bảy mươi, tám mươi năm trong đời
đâu có nghĩa lý gì so với ngàn vạn ức triệu năm sau đó. Đó là cảnh giới mình sẽ
sống.
Cảnh
giới hãi hùng kia là giả hay thật? Thưa cha má, có thể cho là giả cũng được, nhưng
trong cái giả đó chính ta thụ hưởng, chính ta có sướng, có khổ, có sợ, có vui.
Cái thụ hưởng này lại có thực rõ ràng không trốn thoát được! Nếu trong đời cha
má đã từng nằm thấy ác mộng thì lấy đó làm ví dụ. Ác mộng là giả hay thực? Là
giả. Nhưng khi trực giấc thì sợ toát mồ hôi, nhiều lúc sợ đến hét thành tiếùng,
sợ đến ngủ không được, sợ muốn điên luôn. Có nhiều người nằm mộng mà sinh ra giết
người, nhảy lầu, tự tử… tất cả cái đó đều là sự thật, một sự thật hiển nhiên
mà chỉ có một mình người đó thấy, người nằm sát bên cạnh không hề hay biết. Cảnh
giới ghê gớm như vậy đó! Cảnh giới trong mộng đến với ta chỉ một vài giây thôi
mà dễ sợ như vậy.
Bây
giờ con xin hỏi, giả sử ác mộng đó kéo dài một ngày mình chịu nổi không? Cha má
có dám nằm ngủ nữa không? Có dám ở nhà một mình không? Hơn nữa, nếu như cảnh giới
đó diễn ra một tháng, liệu sẽ như thế nào? Mình có còn bình tĩnh nữa không? Có
còn là người bình thường nữa không? Có phải, nếu không tiêu mạng thì cũng điên
khùng, loạn tâm, trở thành người gỗ, người ma, người trong nhà thương điên không
hở thưa cha má?
Hãy
vào bệnh viện tâm thần nhìn cảnh tượng những người ở đó thì hiểu liền. Mỗi khi
lên cơn là họ la hét, kêu gào, họ nhào lộn, nhảy lầu, họ trợn mắt, cắn xé… hàng
chục nhân viên trực sẵn nhào vào quật họ xuống, trói tay, đè cổ, rồi người khác
tới chích một mũi thuốc mê… làm cho cơ bắp tê liệt nằm xuội lơ. Ai cũng tưởng
vậy là xong, nhưng thực ra, chính người đó vẫn còn tiếp tục sống trong cảnh hãi
hùng đau khổ của chính họ mà đâu có ai hay, ai thấy?!!!
Cái
cảnh giới của người tạo nghiệp lúc chết giông giống như vậy. Gần tới giờ phút lâm
chung là họ đã bắt đầu thọ lấy rồi. Sau đó trải suốt trong bốn mươi chín ngày lăn
lộn hết cảnh này sang cảnh khác vô cùng đau khổ, hãi kinh! Tùy theo nghiệp báo,
mà đương sự chịu nhiều hay ít và sau cùng bị lôi theo quả báo lớn nhất của nghiệp
chướng, muôn đời khó thoát ra. Những người sống bừa bãi, làm điều bất thiện, không
tin quả báo luân hồi, nếu cơ may nào đó bị rơi vào cảnh giới đó một ngày thôi,
con tin chắc họ sẽ quỳ lạy cho đến lỗ đầu xước trán để xin tu hành, cầu Phật cứu
độ, chứ đừng nói chi đến việc đợi mời, đợi nhắc.
Cái
cảnh giới này từ đâu mà có? Chính
là quả báo của nghiệp chướng do chính người đó tạo ra trong lúc còn sống trong đời
này và nhiều đời trước lưu lại. “Nhân duyên quả báo tơ hào không sai”. Khi còn
khoẻ mạnh, năng lực còn dồi dào, ma chướng nghiệp báo chưa làm gì mình được. Lúc
sắp sửa lìa đời, khí lực khô kiệt là lúc tất cả oan gia, trái chủ nhào vào đòi
nợ, nhào vào xâu xé mảnh hình hài của thần thức. Trong từng phút giây bao nhiêu
cảnh tượng đổ tới dồn dập, lúc trắng, lúc xanh, lúc tối om mờ mịt, lúc chói sáng
muốn nổ tròng mắt, lúc lửa cháy bừng bừng, lúc nước dâng cuồn cuộn lôi tuột thần
thức vào cảnh hãi hùng… tất cả đều là quả báo do chính họ đã tạo ra.
Niệm
Phật là để xoá tan tất cả cảnh giới đó chỉ còn lại cảnh giới Phật, cảnh giới Tây-phương
Cực-lạc an vui thanh tịnh cho thần thức chúng ta nương theo đó mà đi. Cho nên,
nếùu người nào còn chút minh mẫn, may mắn, ngay giờ phút quan trọng đó trực nhớ
đến Phật, mở lời niệm Nam-mô A-di-đà Phật thì tức khắc, tất cả cảnh giới kia đều
tan biến. Trong Kinh Vô-Lượng-Thọ, lời nguyện của Phật A-di-đà nói, nếu trước
phút lâm chung “người nào nghe được danh hiệu Ta, chí tâm tin kính, ai
có căn lành tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước Ta, cho đến mười niệm không được
sanh, Ta thề không thành bậc Chánh-Giác”. Đức Phật A-di-đà đã thề như
vậy thì chắc chắn Ngài giữ lời, nếu Ngài không giữ lời thì Ngài không thành Phật
được. Mà Ngài đã thành Phật rồi thì đó là sự thật, ta không được quyền nghi ngờ
nữa.
Vì
thế, xin cha má phải thành tâm kính trọng câu Phật hiệu này. Nó vô cùng vi diệu,
cái oai lực vô cùng dũng mãnh, bao nhiêu tội ác trùng trùng, thì một câu nhứt tâm
niệm Phật có thể tẩy xóa sạch trơn tám mươi ức kiếp nghiệp chướng. Nếu cha má
không tin thì có thể thử thì biết liền. Ví dụ, nếu có dịp gặp cơn ác mộng, đang
lúc sợ hãi ráng cố gắng niệm “A-di-đà Phật”, chắc chắn nhất định cơn ác mộng sẽ
biến mất ngay. Nếu người nào thường gặp ma quỉ, hãy mách với họ, đừng sợ, cứ bình
tĩnh niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”, chắc chắn ma quỉ tan biến ngay lập tức. Một tiếng
không tan thì hai tiếng tan, hai tiếng chưa tan, ba tiếng bắt buộc nó phải chạy
ngay. Nhưng có điều cần phải nhớ là phải vững tâm tin tưởng, không sợ, chứ còn
sợ quá hồn vía lên mây thì làm sao nhớ Phật mà niệm. Cho nên, chỉ cần mười tiếng
Phật hiệu là được giải thoát. Nhưng khổ nỗi, lúc đó thần thức tán loạn, tâm hồn
hãi kinh, thân thể đau nhức, con cái khóc than, còn bị ma quỷ nhào vào xâu xé,
trăm thứ trăm điều chi phối làm sao mà cất được tiếng niệm Phật. Cho nên phải tập
niệm Phật ngay tức thì là như vậy.
Cha
má còn nhớ trong một thư trước con có nói, hễ quen với ai thì nợ người đó, nợ họ
thì chắc chắn phải theo họ trả nợ. Con khuyên cha má hãy quen với Phật để theo
Phật giải thoát cuộc đời, sống an vui, tự tại nơi nước Phật, đừng tham lam ba
thứ thần thông, phước báu tầm thường mà mang hại cho huệ mạng của mình. Tất cả
thứ bùa ngải, tất cả những phép tiên, đình miễu… xin đừng tham luyến tới. Nếu
gặp dịp thì lễ bái để tỏ lòng cung kính rồi về, tuyệt đối đừng cầu xin gì ở họ
cả. Mình sống kính trọng họ, không được hỗn hào với họ là đủ rồi, đừng vì một cái
phước lợi nhỏ như được tiền, được mua mau bán đắc… mà cầu xin họ hộ trì. Vì
như vậy mình đã mắc nợ họ rồi, nợ họ thì khó lắm đó. Nếu lỡ đã nợ rồi thì bây
giờ xin thành tâm tạ ơn họ rồi thôi, xin đừng bao giờ cầu xin bảo hộ nữa mới được.
Hãy
dành hết thì giờ để niệm Phật. Thân lạy Phật, tâm nhớ Phật, miệng niêïm Phật,
Thân-Khẩu-Ý đều hướng về Phật thì chắc chắn cha má sẽ về với cảnh Phật, sẽ thành
Phật. Tất cả mọi cảnh giới hung hiểm khác sẽ không bao giờ dám đến gần cha má được.
Phật đã nói rõ ràng trong kinh rằng, người nào thành tâm niệm Phật thì chư Phật
mười phương hộ niệm cho người đó, Long-Thiên, Hộ-Pháp và hai mươi lăm vị Bồ-tát
ngày đêm bảo vệ cho người đó. Chính vì lý do này mà tiếng niệm A-di-đà Phật có
một uy lực kinh thiên động địa, cứu mình qua khỏi cửu pháp giới, liễu thoát
sanh tử luân hồi, đi thẳng về nước Phật chỉ trong một đời tu hành này mà thôi.
Một pháp môn quá ư vi diệu, quá ư thù thắng mà nói ra không ai tin cả. Ở đây, từng
người tu hành, từng người vãng sanh về Tây-phương. Mỗi khi có người vãng sanh họ
đều ghi vào sách chi tiết, tên, tuổi, họ hàng, quê chốn, và ra đi làm sao. Thậm
chí có người còn hẹn lại đi trễ vài ngày, hoặc đi sớm vài ngày nữa là khác. Họ
về với Phật một cách rõ ràng không còn nghi ngờ chút nào nữa cả.
Pháp
môn này chỉ cần ba thứ: Tín-Nguyện-Hạnh. Nghĩa là:
Một
là tin tưởng chắc chắn Phật cứu
được mình, chắc chắn có Tây-phương Thế-giới Cực-lạc, bốn mươi tám đại nguyện của
Phật A-di-đà đưa ra để cứu tất cả chúng sanh;
Hai
là mỗi ngày đều phát tâm cầu
nguyện sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A-di-đà, thành tâm cầu, chí thiết nguyện
sanh về đó sau khi hết báo thân này;
Ba
là trì danh hiệu Phật mà niệm
liên tục ngày đêm, nhớ đâu niệm đó, đi đứng nằm ngồi, tranh thủ từng chút thời
gian để niệm Phật, khi đi ngủ cứ việc “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”
cho đến khi thiếp ngủ thì thôi.
Chỉ
có thế mà thôi, chắc chắn cha má sẽ về với Phật. Chỉ có thế là giải thoát mà đến
nay không biết bao nhiêu thư từ con gởi về mà dòng họ ta chưa người nào tin tưởng
để làm. Chính vì thế mà con thương hại, tội nghiệp cho cha má, cho anh chị em,
cho con cháu mình không có thiện căn phước báu để tin Phật, không đủ phước lành
cất tiếng niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Thật là tiếc quá đi! Hãy nhớ, Bồ-tát Đại-Thế-Chí
dạy: “Nhớ Phật, Niệm Phật, hiện tại tương lai chắc chắn thấy Phật”.
Cứ một đường “nhất hướng chuyên niệm” chắc chắn cha má sẽ thành công.
Lời nói này đúng y kinh sách của Phật dạy, không bao giờ sai.
Thưa
cha má, khi nghiên cứu đến kinh điển của Phật, con mới thấy tất cả những cái mà
người ta gọi là bí mật, cái mà người ta gọi là thiên cơ, huyền bí… thật ra đã
được đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói rõ ràng trong kinh từ mấy ngàn năm trước rồi
mà mình không hay. Tại vì kinh điển nguyên thủy bằng tiếng Phạn, Ấn-Độ nên mình
đọc không được. Sau này, một phần được dịch sang tiếng Hoa, chứa trong Tam Tạng
kinh điển, là cả một rừng sách tiếng Tàu, làm sao mình đọc, làm sao thế gian này
đọc cho được. Vì thế, con người vẫn cứ mãi đi vào con đường cụt dẫn tới đọa đày.
Đời mạt pháp này mặc sức cho ngoại đạo mệnh danh này, mệnh danh nọ lộng hành, lôi
chúng sanh vào con đường đọa lạc. Thấy mà sợ. Con xin nói chắc với cha má rằng,
cứ khoảng chừng vài chục năm thì lại có thêm cái gọi là “tôn giáo” nổi
lên, cứ tự xưng là Tiên, Phật, Thánh… xuống phàm cứu độ, lôi số người nhẹ dạ,
hiếu kỳ vào đường tu hành lạ lùng nguy hiểm. Thấy vậy mà sợ, mà ghê! Thấy vậy mà
con ngày đêm luôn nguyện cầu chư Phật gia hộ cho cha má tỉnh ngộ quay về với Phật,
ngày đêm niệm Phật A-di-đà, cầu vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế-giới, để hết
báo thân này đừng trở lại thế giới Ta-bà này nữa. Nếu không, không cách nào thoát
khỏi cạm bẫy cảû.
Ở quê
mình, cha má không thấy người ta tu hành. Ở đây, con hằng ngày tu chung với họ.
Họ tranh thủ từng giờ, từng phút để niệm Phật. Hằng ngày họ nghe Hòa Thượng giảng
kinh. Các Ngài có thể là chư Phật, Bồ-tát xuống phàm để nói lên chánh pháp của
Phật để cứu người đang quằn quại của thời mạt pháp này, cứu chúng sanh đang bị
cạm bẫy giăng bủa khắp nơi, bẫy con người vào con đường mê lầm đọa lạc, sanh tử
vô cùng vô tận.
Cha
má suy nghĩ đi, con đành tùy duyên mà thôi, cha má muốn được cứu độ hãy niệm Phật
A-di-đà. Hễ ngày nào phát tâm tin tưởng niệm Nam-mô A-di-đà Phật, thì bắt đầu từ
đó cha má có cơ hội được cứu. Nếu không, thì không ai có thể cứu được huệ mạng
của cha má cả. Nếu chần chừ, cứ việc dùng cái kiến thức thế gian mà phân với giải,
đến lúc đã quá trễ rồi, thì thôi đành buông tay, trôi theo nghiệp báo. Lúc đó cảnh
giới của cha cha thọ, cảnh giới của má má thọ, không ai thọ giùm ai, không ai cứu
được ai cả.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Brisbane 19/12/2000).
Làm lợi cho mình một cách
chân chính là làm lợi cho người. Chư vị có thể làm lợi cho chúng sanh càng nhiều
thì tư lợi của chính quí vị càng lớn.
(Pháp Sư Tịnh-Không).
(Độ sanh vô sở trụ tâm nhi hành bố thí)
46
06 –Lời khuyên song thân
Cha má
kính thương,
Thời
gian như tên bắn, mạng người vô thường biết còn mất lúc nào mà chờ, mà đợi. Khi
con đã quyết định nghỉ làm thì con không còn tiền bạc nữa, con chỉ đủ để ăn hàng
ngày là được. Về việc phụng dưỡng cha má, con cũng xin đóng góp cùng với anh chị
em, việc này không ai được quyền từ chối. Cái phước đó lớn hay nhỏ tùy theo tâm
tu hành của cha má. Con thường nói, hễ người có tu thì tự nhiên được hưởng phước,
còn người cứ chạy cầu phước thì phước sẽ tận và rồi sẽ lận đận trong trong cảnh
khó khăn, thoát không được nghiệp báo!
Cái lo
chính là, tuổi già cha má đã có quyết định rõ đường đi chưa? Trong lá thư cha ký
tên, còn nét chữ là người nào viết (em Thứ phải không?), chứng tỏ cha đã yếu
hay đang bị bệnh, sao không nói cho con biết lý do? Cuộc đời quá vô thường, cha
má không hay biết sao!
Cái nhà
hư sập thì không tốt, nhưng cha má lo buồn làm chi? Hồi trước mình tới hai căn
nhà thật to. Căn kia đâu rồi? Ngày bà nội còn sống, bà lo từng chút, tằn tiện từng
đồng để làm vốn. Vốn đó đâu rồi? Bà đâu rồi? Ông đâu rồi? Nhà mình ruộng đất
nhiều, hương quả từ đường lớn lắm… bây giờ đâu rồi? Nhìn chung quanh, ông bà
Dư đâu rồi? Ông Hai Thuận, một đời lặn lội với việc nước, bây giờ đâu rồi? Con được
tin ông Mười bị nạn nước, mấy năm trước chú Năm bị nạn xe, v.v… Tất cả đều đâu
rồi? Thời gian như một giấc mơ, rõ ràng là một giấc mơ thôi cha má ạ. Đến giờ
phút này con nghĩ cha má phải thấm thía cuộc sống vô thường, cái hão huyền của
danh vọng, cái sự nghiệp phù du…
Thưa
cha má, con viết đến giòng chữ này mà muốn rơi nước mắt. Con muốn rơi nước mắt
hay thực sự con đang khóc đây? Nếu không thương cha má làm sao con rơi được nước
mắt? Nếu cha má chưa hạ quyết tâm tu hành thì con cảm nhận rõ được đường nào
cha má sẽ tới… làm sao con không nghẹn ngào cho được! Con thấy đau đến đứt ruột,
đứt gan mà không biết làm sao nói thấu, làm sao cứu. Con trút tất cả tâm gan ra
để khuyên cha má, nhưng khi nhận được thư thì chỉ thấy nhấn mạnh đến căn nhà “Từ
Đường” mà thôi, chứ chưa có một ý định cho ngày mai mình sẽ đi đâu. Ngày mai lỡ
sa lầy rồi liệu có đứng lên nổi hay không đây? Lúc mãn cái thân giả tạo này rồi,
liệu có còn cái phước bước lại vào căn nhà đó để ngồi được trên bàn thờ mà hưởng
mấy đồ cúng của con cháu hay không? Thưa cha má, hãy suy nghĩ cho kỹ lời con nói
đi, chứ đừng nghe người khác bàn ra tán vào bừa bãi mà sau cùng, chính cha má
không còn cứu vãn được nữa. Ngày nào con chưa nhận được lời hứa phát tâm niệm
Phật của cha má, ngày đó con vẫn chưa an tâm, vẫn còn thấy thương tâm. Chắc rằng
cái gì cũng tùy duyên, nhưng còn nước con còn cố gắng tát, còn nói tiếng nói,
con còn tha thiết khuyên cha má niệm Phật. Con đã thấy được con đường giải thoát
vô cùng quý giá, con không đành để cha má mất phần. Mong sao sự thành tâm của
con cảm hoá được cha má. Thật quá thương hại cho chúng sanh sao cứ vẫn mê mê, mờ
mờ đâm đầu vào con đường khổ lụy, không có một chút giác ngộ gì cả trước bao
nhiêu sự phũ phàng trắng trợn xảy ra hằng ngày trước mắt!
Việc sửa
chữa nhà “Từ-Đường” thì tốt, chứ không sao. Hiện giờ con chưa có khả năng lắm,
nhưng con cũng cố gắng tiếp thêm sau…. Nhưng điều quan trọng nhất hiện giờ không
phải là căn nhà từ đường, mà chính là cha má có hiểu thấu đường đi chưa? Nếu hiểu
được, thì con xin đề nghị là cha má hãy giao việc sửa nhà cho anh chị Hai, anh
chị Ba, hay anh chị Bốn gì đó trực tiếp làm. Con cháu giúp tiền để sửa thì hãy
giao cho họ, sửa sao cũng được. Riêng cha má hãy buông xả tất cả đi, an nhàn ngồi
niệm Phật. Tìm chỗ mát mẻ, treo cái võng đong đưa mà niệm Phật. Cơm nước, nói
em Mười, em Thứ nấu giùm đem tới. Bỏ chuyện thăm nom bà con, bỏ chuyện lễ nghĩa
phải chẳng đi. Hãy dũng mãnh, cứng rắn lo cho huệ mạng của mình. Trăm ngàn lần
khuyên cha má hiểu thấu, đừng chạy theo cái tập tục thường tình của thế đời mà
quên chuyện khổđau ngàn vạn năm sau đó! Nếu sơ ý, không ai tới đó để thăm cha má,
không ai tới cứu mình được đâu. Cái nhà dù muốn dù không nó cũng chỉ là một vật
chúng duyên sanh, là cột kèo đất đá kết thành, nó sẽ phải “Thành-Trụ-Hoại-Không”
mà thôi.
Thư này,
con xin nói thẳng một điều, lấy kinh của chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra ấn
chứng, thì hầu hết ông bà mình không tìm ra một người có hy vọng vãng sanh nơi
tốt đẹp. Đây là một sự thực đau lòng! Cái “Từ-Đường” thì cứ việc thờ cái hình,
còn người chết thì vẫn khổ đau, vẫn quằn quại than khóc ngày đêm mà mình không
hay biết gì hết! Giỗ cúng ông bà chỉ là sự thương tưởng, là gương giáo dục lòng
người, để giữ cho người sau biết gia phả, chứ thực tế, có ông bà nào về hưởng được
đâu? Vì có được siêu thoát mới về thăm nhà, chứ bị đoạ rồi làm sao có khả năng
trở lại được! Quả thật là quá oái oăm! Thật là đau buốt cả tim gan. Quặn thắt,
quặn thắt đó cha má ạ!
Trong
khi đó, ở đây con hằng ngày biết được từng người, từng người họ vãng sanh về với
Phật. Trong kinh nói, những người có hiện tượng như vậy, họ đã trở thành Bồ-tát,
hưởng phước lạc vui sướng nơi cõi Tây-phương, họ không còn bị chết nữa, họ không
còn đọa lạc, họ được thần thông tự tại, du hí khắp cả mười phương, dạo chơi thoải
mái. Về tới thế giới Cực-lạc rồi, đó mới chính là chỗ gặp được bà con giòng họ
nhiều đời nhiều kiếp. Còn lỡ sa đọa chỉ còn một mình khổ đau thọ nghiệp báo thì
làm sao về hưởng giỗ? Cho nên người ở Tây-phương Cực-lạc họ nhìn cảnh chúng
sanh mà vô cùng thương hại. Họ muốn cứu giúp mà giúp không được, vì chúng sanh
ngu muội không vâng lời, không chịu tin lời Phật dạy, cứ tỉnh bơ dắt nhau đâm đầu
vào hầm lửa. Nghĩ như vậy mà con thật sự rơi nước mắt khi ngồi đây viết thư cho
cha má.
Cha má
có biết không? Vì con đường giải thoát ởù ngay trước mặt của cha má, con đem đến
tận tay mà cha má cứ hững hờ. Với người bình thường, Phật nói: “môït người
không làm được việc công đức, nếu phát tâm Bồ-đề một lòng chuyên niệm danh hiệu
A-di-đà Phật, vui vẻ tin tưởng, không sanh tâm nghi hoặc, chí thành nguyện sanh
về nước Cực-lạc. Thì người đó khi lâm chung sẽ chiêm bao thấy Phật A-di-đà và cũng
được vãng sanh”. (hạ bối vãng sanh, phẩm 24, kinh Vô-Lượng-Thọ). Chỉ cần
chuyên cần , thật thà niệm Nam-mô A-di-đà Phật và cầu về Tây-phương Tịnh-độ thì
được về với Phật. Phật không đòi hỏi gì cả, chỉ cần chí thành, không nghi, rồi
phát nguyện vãng sanh là đủ. Đơn giản, dễ dàng, rốt ráo, tối thù thắng, chỉ cần
một thời gian ngắn trong một đời này thôi con người có thể thực hiện một cuộc hành
trình vượt qua hơn mười vạn ức cõi Phật để trở thành vị Bồ-tát Bất-thối, nghĩa
là chỉ còn một đời thành Phật, sống tại thế giới Phật. Đoạn kinh trên là nói người
tu dở, chưa có công đức gì cả vẫn về với Phật. Còn ta chuyên tâm niệm Phật làm
sao không được đi! Chắc chắn như vậy. Thế mà sao không chịu tu?
Thưa
cha má, lúc đầu con cũng đâu có tin. Nhưng khi biết được nhiều người họ về với
Phật, họ vãng sanh tự nhiên, thoải mái, vui vẻ y hệt như những điều trong kinh
Phật nói. Thật là một duyên lành kỳ lạ cho con gặp được Phật đạo và thấy được
pháp nhiệm mầu.
Con vừa
mới nhận được một quyển sách ở Mỹ gởi tặng, con sẽ gởi về cha má coi. Ở đây, những
việc vãng sanh như trong sách viết con đã biết quá nhiều. Con đã hiểu tường tận
cái lý của nó rồi, cho nên con gởi về cha má, anh chị em, bà con coi. Quyển sách
này là ở bên Mỹ họ chụp hình, sưu tập được một số người vừa mới vãng sanh về Tây-phương
Cực-lạc Thế-giới với Phật A-di-đà trong khoảng thời gian 1995-2000. Cha má chờ
khoảng một tháng nữa sẽ nhận được. Đây là quyển sách của một người Việt ở Mỹ sưu
tập được một số người vãng sanh, chứ thực ra số người thành tâm niệm Phật cầu về
Tây-phương được vãng sanh vô số. Con ở đây đang có hai quyển kể chuyện những người
vãng sanh, con không đếm được bao nhiêu người trong đó. Nhiều quá không thể nào
ghi chép cho hết. Thậm chí, có người chỉ thành tâm niệm Phật có ba ngày thôi cũng
có kết quả.
Ví dụ,
như cách đây không xa, có một người Hoa ở Mỹ, không phải đạo Phật, bị bệnh ung
thư hết chữa được. Nhà rất giàu, gia đình tìm khắp nơi hỏi hễ người nào chữa được
thì ông thù lao không cần điều kiện. May mắn gặp được Hội-Tịnh-tông (tức hội niệm
Phật), họ khuyên ông ta rằng, giữ cái thân nát bét đó thêm vài ba năm nữa làm gì
cho khổ, sao không buông bỏ hết đi, nguyện sanh về Tây-phương với Phật hưởng vô
tận vô biên sung sướng có hơn không. Nếu mạng đã tận thì về Cực-lạc, nếu chưa tận
tự nhiên hết bệnh.
Ông tin tưởng làm theo, nhờ hội tới hộ
niệm giùm luôn hai ngày đêm, ông thấy có Phật tới. Lần đầu tiên ông tả người giống
đức Địa-Tạng-Vương Bồ-tát. Họ bảo ông đừng đi, cứ thành tâm tiếp tục niệm Phật.
Ngày thứ ba, đức Phật A-di-đà cùng Bồ-tát Quán-Thế-Âm, Thế Chí tới tiếp dẫn. Ông
chắp tay cảm ơn và ra đi một cách tự nhiên. Theo kinh Phật mà nói, thì ông đã vãng
sanh thành bậc Bồ-tát bất-thối chuyển, và sẽ viên mãn quả Phật tại thế giới Cực-lạc
của Phật. Chuyện kể giống hệt như huyền thọai, ai không hiểu đạo nghe thì mắc cười.
Nhưng, thưa cha má đó là sự thực. Một sự thật không thể tưởng tượng được. Khoa
học một tỉ năm nữa cũng không giải thích được đâu!
Thưa
cha má, cơ hội thoát ly khỏi lục đạo luân hồi đang ở trong tầm tay của cha má,
của anh chị em, của các con cháu, của tất cả mọi người, bà con, cô bác ở xứ Đông-Lâm,
xin đừng để vụt mất. Nếu ai nghe lời con, quyết định phát tâm tin Phật, niệm Phật
cầu về Tây-phương. Một đời này, khi lâm chung khỏi phải trở lại làm trâu làm bò,
làm người kiếm ăn từng bữa, khỏi phải sợ căn nhà bị mối ăn, khỏi phải ngày đêm
lo sầu khổ cực. Đó là sự thực, con không nói ngoa chút nào hết.
Nếu ngộ
được đạo, cha má cũng nên khuyên con cháu tin Phật. Nên la rầy người nào còn tự
cao ngã mạn, coi thường pháp Phật. Dù họ không tin nhưng cha cũng nói, ít ra một
lần, rồi tùy theo duyên lành của họ. Con xin nói thẳng thắn rằng, trí huệ của họ
có ai đã đạt được đến tiến sĩ, thạc sĩ gì đâu, thì kiến thức của họ cũng chưa tới
đâu mà sao lại dám vỗ ngực xưng tên, lỗ mãng… Trên thế giới nhiều người khoa
học gia, tiến sĩ, bác sĩ chức vụ của họ đến chỗ chinh phục thế giới, mà khi ngộ
đạo họ bỏ một cái rụp, quyết chí tìm đường vãng sanh thay, huống chi là con cháu
mình, một đời loanh quanh trong một chỗ như cái ốc đảo, sự hiểu biết tới đâu, cái
thấy tới đâu mà dám cao ngạo? Cái kiến thức cỏn con như ếch ngồi đáy giếng mà dám
trịch thượng coi trời như cái vung à?
Cho nên,
con thành tâm khuyên tất cả anh chị em hãy mau mau giác ngộ, đừng đứng đó dùng
cái trí hạn hẹp của mình mà suy lường cái vi diệu siêu tuyệt của chư Phật mà
mang tội khó gỡ nổi! Còn tu thì phải biết minh mẫn, phải biết giựt mình, phải
biết thấy rõ giữa liễu-giáo và bất-liễu-giáo, chứ không, thì dễ bị
mê trong cái kiến chấp sai lầm mà mất đường giải thoát. Trong kinh Lăng-Nghiêm,
Phật nói rằng, trong buổi mạt pháp này, Ma-Vương lộng hành dưới trần thế. Họ tìm
mọi cách hay ho, tự xưng là Phật, Thánh, Tiên tùm lum để dụ hoặc cho chúng sanh
mất phần về Tây-phương với Phật. Vì con đã hiểu, đã thấy cho nên con rất sợ. Ngày
đêm con cầu nguyện chư Phật gia trì cho cha má mau mau thức tỉnh để vững tiến
con đường giải thoát.
Con đường
đó là niệm Phật, trong bất cứ tình huống nào, bất cứ sự nguy hiểm nào, gặp bất
cứ sự cố kinh khủng như thế nào đi nữa, nhất thiết không sợ, cứ một lòng một dạ
niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Con xin nói chắc chắn rằng tất cả mọi cảnh giới hung
hiểm phải tan biến ngay lập tức. Vững tâm an lành. Trong các kinh A-di-đà, kinh
Vô-Lượng-Thọ, kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ… Phật nói rằng người nào thành tâm niệm
danh hiệu A-di-đà Phật thì được A-di-đà phóng quang nhiếp thọ, được tất cả chư
Phật mười phương đồng hộâ niệm gia trì. Vì thế, âm thanh A-di-đà Phật đã trở
thành một cái siêu thần chú, có sức mạnh có thể đưa một người phàm vượt lên hàng
Phật, Thánh. Nếu không nhờ đến câu Phật hiệu, thì thời đại này không cách nào
thoát được cái lưới mê đạo đang bủa khắp nơi trên dương trần này đâu. Đó là điều
con thấy rõ như ban ngày.
Cho nên,
con xin mạnh dạn nói rằng, tu hành mà cứ lý luận rằng, tu là làm hiền, kiếm chút
phước báu để đời sau tu tiếp, sống lần lần cho đến kỳ Long-Hoa, thì xin nói thực
rằng coi chừng chỉ hết đời này thôi, đời sau nếu không rơi vào ba đường ác, thì
cũng khó mà thoát khỏi ma chướng. Xin đọc thư con thật kỹ, đọc cho thực nhiều,
kêu gọi anh chị em trong nhà cùng đọc, để giác ngộ người nào hay người đó.
Sẵn dịp
con cũng xin mách một điều, là muốn biết cụ thể, người chết thần thức của họ đi
về đâu, cha má có thể thử nghiệïm liền, coi trong bà con, làng xóm mình có được
phước báu hay không, họ chết đi đâu, bằng cách nhớ câu thơ này:
Đảnh Thánh, Nhãn sanh Thiên.
Tâm Nhơn, Phúc Ngã Quỷ.
Bàng sanh Túc hạ hành.
Địa
ngục Cước để xuất.
Nóng tại
đỉnh đầu là vãng sanh về cõi Phật-Thánh: tuyệt vời, viên mãn Phật đạo; nóng chỗ
con mắt thì sanh về cõi Trời: tốt; nóng tại ngực thì sanh làm người: tạm được;
nóng tại bụng thì thành Ngã-quỷ: quá xấu; nóng tại đầu gối thành Súc-vật: xấu;
nóng tại bàn chân xuống Địa-ngục: xấu tàn tệ.
Viết tới
đây thì con vừa nhận được thư em Thứ gởi tới, cho hay tin ông Bảy Long qua đời.
Tội nghiệp quá. Cuộc đời thật sự như giấc chiêm bao. Ôi! “Đản niệm vô thường,
thận vô phóng dật!” cha má ơi! Ông Bảy tu hành, một đời ăn chay nhưng
cuối đời ăn mặn. Em Thứ nó hỏi, như vậy là sao? Sẵn đây con nói sơ một chút, việc
ăn chay, ăn mặn không đến nỗi gì lắm. Ông khổ quá, yếu sức thì vậy cũng được. Còn
chuyện tu hành, dù rằng ngày con còn ở nhà chưa hiểu đạo Phật, con rất khâm phục
ông, tướng mạo như tiên. Khi con biết đạo rồi, giờ suy nghĩ lại cách tu, thì ông
tiếng là tu đạo Phật nhưng thực tế ông tu theo pháp Thần Tiên hơn là tu theo Phật,
dù rằng ông có thờ Phật. Không biết sau này ông có thay đổi gì không? Con chỉ nói
theo những gì còn nhớ lại cách đây mấy chục năm về trước mà thôi. Ông rất thân
với ông thầy Bốn ở Chánh-Thạnh là người thờ Thần Tướng.
Theo lời
Pháp của Hòa Thượng Tịnh Không, lấy kinh Phật-Đảnh-Thủ-Lăng-Nghiêm ấn chứng, thì
đó là Quỷ-Thần-Đạo. Đã liên hệ với Quỷ Thần thì đành chịu vậy thôi! Còn tu Tiên
là tu Nhân chứ không có gì khác. Tiên và Nhân cùng một cảnh giới, nhưng tiên thì
sống thọ hơn một chút với một ít phép hữu lậu, thế thôi. Trong kinh Phật, thường
chỉ có sáu đường luân hồi là: Thiên, Nhơn, A-Tu-La (Quỷ Thần), Súc-sanh, Ngạ-quỷ,
Địa-ngục. Riêng trong Kinh Phật-Đảnh-Thủ-Lăng-Nghiêm, vì để cho chúng sanh đời
sau phân biệt đâu là chánh, đâu là tà, Phật mới nói đến cảnh giới Tiên, thành
ra có bảy đường là: Thiên, Tiên, Nhơn, A-tu-la, Súc-Sanh, Ngạ-Quỷ, Địa-ngục.
Cho nên
học Phật mà ít học pháp thì dù có tu suốt một đời, lý đạo chưa chắc đã thông! Nói
với Thứ, con sẽ viết thư cho em sau. Thứ giỏi lắm đó, đáng khen!
Như vậy, tu theo đạo Tiên Hiền, nghĩa là để làm Tiên,
làm người Hiền, thì dù tu có giỏi cho mấy cũng chỉ nóng ở ngực mà thôi, còn tu
không giỏi thì hầu hết nóng bụng, nóng đầu gối, nóng bàn chân. Rất khó có người
nóng ở mắt, thì còn gì mơ đến đỉnh đầu. Thảm thương quá!
Cũng xin nhắc nhở rằng, nếu thâm hiểu đạo thì chỉ nhìn
cũng biết. Tốt nhất là thành tâm niệm Phật hộ niệm chứ đừng nên thử, vì trong vòng
tám tiếng đồng hồ, thần thức vẫn còn cảm nhận. Nếu họ đang ứng cảm cảnh giới tốt,
mình làm họ đau, tâm họ sân nộ, trong nháy mắt có thể bị đọa liền. Tội nghiệp lắm!.
Thôi, con xin ngừng. Qua nhiều thư từ, chắc cha má hiểu
được lòng con. Mong cha má hiểu thấu lẽ đạo, xa lánh lối đời, nhất hướng chuyên
niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Bí quyết thành Phật đang ở trong tay, chỉ cần nắm giữ,
bước là tới. Khoảng cách giữa cha má với chư Phật chỉ cách nhau có một niệm
“Nam-mô A-di-đà Phật” mà thôi. Đừng nên chần chờ, lỡ vụt mất rồi “bá thiên vạn
kiếp nan tao ngộ”.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Úc Châu ngày 27/3/2001).
(Tam Tâm bất khả đắc,
Vạn pháp nhân duyên sanh)
Cái giá trị tu hành phong phú nhất để đạt đến sự viên mãn chân
chánh là nhất định phải niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực-lạc. Đây là lời tâm
huyết của hết thảy chư Phật, chân thành, khẩn thiết nhất, khuyến khích dẫn dắt
chúng ta.
(Pháp Sư Tịnh Không).
07 –Lời khuyên song thân
Cha má
kính thương,
Sao
con cứ muốn viết thư cho cha má hoài, không viết chịu không được. Nếu ngừng vài
ngày thì con thấy cái điều con muốn nói với cha sao nó tràn ngập lên. Vì thực tế,
nếu có viết hoài thì cũng viết không hết. Bên cạnh đó, không biết cha má có thâu
lượm được tất cả ý của con không? Con vẫn cứ sợ cha má lơ là, rồi nghe người này
nói vào, người kia nói ra, rốt cuộc bao nhiêu thư con gửi về thành ra vô dụng.
Thưa
cha má, vào giữa thời đại này, tìm một người hiểu lý đạo không dễ đâu, thì những
người hằng ngày đến với cha má, tìm đâu ra một người biết khuyến tấn tu hành, làm
thiện, nhất là ủng hộ chuyện niệm Phật cầu sanh Cực-lạc Thế-Giới, là chuyện giống
như huyền thoại, như trên trời rơi xuống, khó cho một người bình thường hiểu tới.
Dù ngay trong bà con, anh em, chú bác của mình chưa chắc đã có người thức tỉnh
chứ đừng nói chi đến người bên ngoài. Ấy thế, đem chuyện giải thoát này mà bàn
với người không biết đạo thì tốt hơn đừng bàn. Cái bệnh nặng nhất của chúng
sanh trong thời này làø nghiệp chướng, đã kết tập lâu đời nhiều kiếp, nó kết thành
một khối vô minh kiên cố, muốn phá nó đâu phải dễ. Vô minh lôi kéo theo vô
minh. Đã là vô minh thì làm sao họ dễ dàng chấp nhận giác ngộ! Mình hồi giờ
chung sống trong cái vô minh bất giác đó, mình nhậu lai rai với họ, mình ơn nghĩa
thị phi với họ, mình đánh cờ tướng với họ… bỗng nhiên mình muốn thoát ra làm
sao tránh khỏi sự dị nghị dèm pha. Cho nên, nếu tâm mình không vững sẽ không đi
được. Niềm tin vừa mới lóe lên có thể bị dập tắt liền. Hậu quả đọa lạc vẫn hoàn
đọa lạc.
Chính
vì thế mà con muốn viết thư cho cha má, viết hoài là muốn nhắc nhở cha má rằng,
đời mình phải tự lo lấy, tự mình phải cứu lấy mình. Phải bình lặng lấy chơn tánh
ra để phán xét thực hư, tự quyết định lý tưởng tương lai, đừng nên để tâm xao lãng
mà bị lung lay bởi những lời mê vọng.
Ở đây càng niệm Phật con càng thấm sâu
vào lời Phật dạy. Ngủ một đêm sáng ra con hiểu thêm vào một cảnh giới. Hôm qua
ngồi niệm Phật trong Niệm Phật Đường mấy tiếng đồng hồ ra, bỗng nhiên con lại có
sự bừng ngộ thêm về câu Phật hiệu “A-di-đà-Phật”. Lạ thật! Càng ngày con càng
thấy vi diệu, càng lúc hình như con càng rõ hơn cái cực kỳ vi linh của âm thanh
“Nam-mô A-di-đà Phật”. Con không biết làm sao để diễn tả được sự thấy của con
trong những giờ phút bừng tỉnh này. Cứ mỗi lần bộc phát ra một tia sáng con lại
mở kinh ra, lại thấy thêm một điều vi diệu nữa. Lạ quá! Cũng là dòng kinh đó, mình
đọc hoài, tưởng là hiểu, đâu ngờ từng giây phút, mình lại thấy nó khác, cao hơn,
thâm hơn, ý nghĩa rõ hơn.
Trong lúc ngồi niệm Phật, con chợt thấy sao giữa
mình với Phật không còn khoảng cách nữa. Muốn về với Phật sao dễ quá đi. Như trước
đây, nghĩ ra nước ngoài khó lắm. Cô Ba (Trung Ái) xem chỉ tay, đoán tử vi nói
con “Sao Tuần bị triệt”, không thể đi được(!). Nhưng con đã đi được, có gì đâu
mà khó! Tại tự mình không muốn đó thôi. Bây giờ, đi tới Tây-phương Cực-lạc, thế
giới của Đức Phật A-di-đà, cũng giống như vậy thôi. Đi vượt biển còn bị nguy hiểm,
còn bị sóng đánh chìm tàu, chứ đi về Tây-phương thì được khuyến khích, được giúp
đỡ, được tiền hô hậu ủng, thì làm sao khó được. Hơn thế nữa, người ủng hộ mình
không phải là người thường, mà là một đấng chí tôn vô thượng, là “Phật trung
chi vương”, là đức Phật A-di-đà. Cộng thêm nữa, chư Phật mười phương đều
gia hộ, Long-Thiên Hộ-Pháp, chư đại Bồ-tát ngày đêm bảo vệ cho mình. Cha má nghĩ
thử trong điều kiện tuyệt đối an toàn đó mình đi khó hay dễ?
Con
chợt nghĩ đến điều này tự nhiên tâm thần phấn khởi lạ thường. Rõ ràng con vừa
ngộ thêm một điều nữa, một cảnh giới sung sướng khó tả được. Phật A-di-đà có lời
nguyện này: “Khi Ta thành Phật, mạng sống lâu vô lượng, trong nước vô số hàng
Thinh-Văn, Trời, Người, mạng sống của họ cũng lâu vô lượng, (Nguyện 15). Giả
sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, đều thành bậc Duyên-Giác, ở
trong trăm ngàn kiếp, đều cùng nhau đếm tính, nếu biết được số lượng kia, Ta thề
không thành bậc Chánh-Giác”. (Nguyện 16, kinh Vô-Lượng-Thọ).
Lạ
không! Số lượng người ở cõi Tây-phương Tịnh-độ như vậy là quá đông, quá nhiều,
nhiều đến nỗi không thể đếm được nữa. Dưới địa cầu chúng ta, người đông, nên người
ta đang lo nạn nhân mãn! Đông, nhưng dù sao cũng còn đếm được là hiện nay cỡ hơn
sáu tỉ người, còn ở cõi Cực-lạc thì chư Thượng-Thiện-Nhơn đông đến nỗi trăm ngàn
kiếp đếm không xuể, thì thử hỏi cái số lượng ấy nhiều đến mức độ nào? Điều này
trong kinh Phật nói cách đây mấy ngàn năm rồi, chứ mới đây đâu.
Nhớ
lại một câu kinh, bừng tỉnh thêm một điều, là điều kiện để về đến cõi Cực-lạc
quá dễ dàng, mà hồi giờ mình không biết. Điều kiện chỉ cần người nào, “nguyện
sanh về nước Ta, niệm đến mười niệm, nếu không được sanh, Ta thề không thành bậc
Chánh-Giác. Duy trừ tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp”. (Nguyện 18). Mười
niệm này là niệm trước khi lâm chung. Như vậy bất cứ ai trước khi lâm chung, muốn
sanh về Cực-lạc, mở lời niệm được muời câu “A-di-đà-Phật” thì được Phật A-di-đà
đến tiếp dẫn về Tây-phương, vĩnh viễn an nhàn tự tại, bất sanh bất tử.
Vì
quá dễ dàng cho nên hồi giờ rất nhiều người, từ khắp mọi quốc độ vãng sanh về đó,
từ nhiều kiếp đến nay, biết bao nhiêu mà kể. (Nên nhớ một kiếp không phải là một
đời). Hơn nữa, hễ về đó rồi thì sống hoài không bao giờ chết, thì làm sao số luợng
không cao cho được!
Ấy
thế mà vẫn còn vô lượng chúng sanh bị triền miên đọa đày trong sáu đường khổ não.
Tại sao vậy? Thưa cha má, tại họ không chịu tin. Người có tu hành nhưng lại coi
kinh Phật giống như một thứ “quyền thuyết” đưa ra để khuyến khích mà thôi, dụ
khị cho con người sợ mà tránh làm điều sai trái thôi, chứ trong thâm tâm họ không
tin như vậy. Hễ không tin thì không đi, không đi thì không bao giờ tới được!
Trong khi đó, khi con phát hiện có người vãng sanh thật sự, mở kinh ra ấn chứng
rõ ràng như hai cộng hai là bốn, con giựt mình tỉnh ngộ.
Lời
Phật dạy trong kinh điển đúng sự thật chứ không phải là quyền thuyết. Ngài muốn
độ tận chúng sanh, Ngài nói toàn sự thật mà con người không chịu nghe theo, lại
cứ khai thác theo kiến thức của thế gian, vô tình họ biến kinh Phật trở thành một
thứ triết lý phi thực. Thật oan uổng! Chứ thực ra Phật pháp vừa cao siêu vừa thực
tế. Cao siêu vì nói những cảnh giới mà loài người chúng ta không thể hiểu nổi,
ví dụ như cảnh thế giới Tây-phương Cực-lạc. Thực tế là vì những cảnh giới đó có
thực. Một số người Việt-Nam niệm Phật vãng sanh trong khoảng vài năm trở lại đây
đã xác định rõ ràng. Năm ngoái con qua bên Pháp cũng nghe có vài người vãng
sanh. Như vậy số lượng người vãng sanh về nước Phật khá nhiều chứ không ít. Nội
người Việt-Nam mình thôi, trong vòng mấy năm, cũng đếm đến mấy chục người. Người
Tàu họ vãng sanh nhiều hơn vì họ tin tưởng nhiều hơn, tu hành nghiêm chỉnh hơn.
Còn các dân tộc khác nữa thì sao? Điều này chứng minh được rằng số người vãng
sanh về nước Cực-lạc, trở thành bậc bất thối Bồ-tát nhiều không thể đếm hết.
Trong
kinh Phật nói, “Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh, tất thành
Duyên-Giác, ư bá thiên kiếp tất cộng kế giáo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất
thụ Chánh-Giác” (Vô-Lượng-Thọ/Phẩm 6/ N:16)”. (Nghĩa là, giả như trong một
tỉ thế giới, tất cả chúng sanh đều trở thành bậc Duyên-Giác, trong trăm ngàn kiếp
cùng nhau đếm số Bồ-tát trên cõi Tây-phương, mà đếm được số lượng thì Đức Phật
A-di-đà thề không thành Phật). Một lời nói của một vị Phật đã thành Phật rồi đâu
phải để nói chơi. Chắc chắn đúng như vậy.
Thưa
cha má, cha và má đều là người có tu đạo, chắc phải hiểu cái kiếp người lận đận
lao đao, vài chục năm vô thường khổ não, chạy đôn, chạy đáo rốt cuộc cũng hoàn
về bàn tay trắng. Nếu mà sơ ý ta cứ bơi mãi trong biển khổ trầm luân, ta bơi
bao giờ cho tới bờ bến Giác. Bên cạnh đó có chiếc thuyền Bát-Nhã, đức Phật đứng
trên thuyền đưa tay xuống cứu ta lên, ta không chịu “đưa tay”. Mình đang bị đọa
đày trong sáu đường khổ cực, Phật tới, bảo hãy niệm Phật đi, để ta cứu cho. Thế
thôi, mà ta không chịu?! Đi được hay không chỉ cần một cái đưa tay lên, giữa Phật
và ta rõ ràng cách nhau chỉ có một niệm. Một niệm Phật thôi để thành Phật, như
vậy mà người ta không chịu niệm. Uổng biết chừng nào! Tội nghiệp thực! Cha má hãy
nghe lời con đi, viết thư cho con, con cần biết cha má đã thực sự bắt đầu niệm
A-di-đà Phật hay chưa?
Khi biết được sự vãng sanh của người niệm Phật,
họ ra đi trước phút lâm chung, nghĩa là họ còn đang sống mà niệm Nam-mô A-di-đà
Phật và từ giã đi theo Phật. Họ sống mà đi chứ không phải chết mới đi, họ từ từ
ra đi nhẹ nhàng thoải mái giống y hệt như kinh Phật dạy, hễ ai: “kiên cố bất
thối, phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh Ngã quốc, nhất tâm niệm Ngã, trú
dạ bất đoạn, lâm thọ chung thời, Ngã dữ chư Bồ-tát chúng, nghinh hiện kỳ tiền,
kinh tu du gian, tức sanh Ngã quốc”. (Phẩm 6, N/20, kinh Vô-Lượng-Thọ). Nghĩa
là, hễ người nào tâm cương quyết không thối chuyển, đem căn lành hồi hướng,
nguyện sanh về nước Ta, một lòng niệm Ta, ngày đêm không gián đoạn, khi lâm
chung Ta cùng chư Bồ-tát hiện ở trước mặt, trong khoảng giây phút liền sanh về
nước Ta).
Họ biểu diễn sự vãng
sanh giống y hệt như lời Phật dạy. Rất nhiều người như vậy chứ không phải ít, vì
mình không có duyên nhìn thấy, mình không đủ phương tiện thông tin, đi đến để
thăm tận mặt. Vì mình cứ lo làm ăn từ sáng tới chiều, không còn giờ để chứng kiến
cảnh người ta niệm Phật vãng sanh về với Phật chứ không phải không có. Ví dụ,
như năm 1996, bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết, ở Mỹ, niệm Phật được vãng sanh, trước khi vãng
sanh, con gái bà gọi điện thoại hỏi Hòa Thượng Tịnh Không, vị thượng thủ Tịnh-tông
thế giới, (người làm lễ quy y cho con). Trong điện thoại Ngài nói rằng: “Tam Thánh
Tây-phương cùng chư Thượng-Nhơn đang chờ trước cửa muốn đi lúc nào cứ đi”. Từ
xa trong điện thoại Ngài cũng biết được Tam Thánh: Di-Đà, Quán-Âm, Thế-Chí đang
chờ trước cửa, trong khi con cháu ở đầy nhà không hay biết gì hết. Khi vãng
sanh quang minh của Phật chiếu tới thân thể bà làm sáng cả gian phòng. (Căn phòng
đó thấp nhỏ nấp sau dãy nhà lầu cao chọc trời, quanh năm không có chút ánh sáng
lọt vào). Khi vãng sanh mùi thơm xông ra khắp nhà, lan ra tới bên ngoài cả hàng
mấy tiếng đồng hồ. Theo như Ngài Tịnh Không giải thích đó là chư Thiên tới chiêm
ngưỡng một vị đang về Tây-phương. (Chuyện niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi, con đang
nhờ người đem về cho cha má, nhớ đọc và xem hình). Cho nên có tu mới có chứng,
có đắc mới thấy, sự vi diệu không thể giải thích được.
Cha má ơi, sở dĩ con viết thư về cha má liên tục
cứ nói chuyện niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực-lạc là vì con thật sự thành tâm
muốn cứu cha má trong một đời này. Thọ mạng mỗi người đã định sẵn rồi. Cầu giữ
cái xác thịt này trường thọ là vọng tưởng, thiếu thực tế, mê muội, hão huyền! Vì
con người mê muội, quá sợ chết cho nên thường tạo nên những tư tưởng sai lầm,
những hành động oan uổng cho người thân! Họ cứ mơ chuyện hão huyền người thân sống
mãi, cho nên việc sanh ly tử biệt trở thành nỗi bi thương thống thiết! Chứ không
ngờ rằng cuộc đời của mỗi người không bao giờ chết cả. Chúng ta vẫn tiếp tục sống,
nhưng sống ở cảnh giới khác mà thôi.
Chính
con đã chứng thật được một sự thật mà trí óc bình thường của con người không thể
tưởng tượng được. Bao nhiêu người cho đó là hoang đường huyền thoại, chứ còn
con, con dứt khoát khẳng định nó sự thực không còn chối cãi được nữa. Thực sự có
thế giới Cực-lạc thật là siêu tuyệt, vì quá siêu tuyệt, vượt khỏi sự suy tưởng
của con người, cho nên không thể nào dùng lý lẽ bình thường để hiểu. Trong kinh
Phật nói đúng, thẳng thắn, ngay thật, có chứng minh cụ thể. Trên thế giới này
chưa có tôn giáo nào dám đưa ra sự chứng minh rõ rệt, hùng hồn như vậy cả!
Cha má hãy niệm Phật đi. Ngày nào
cha má chưa viết thư cho con hứa niệm Phật, con còn nhắc hoài. Nếu lỡ mất cơ hội
này ngàn kiếp sau chưa chắc sẽ gặp lại đâu cha má ạ.
Cuộc đời này trước sau
ai mà không ra đi. Cha má nghĩ thử coi, “Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế”,
(nghĩa là sáng còn tối mất, một tích tắc đã qua thế giới khác rồi), còn đâu mà
tham với tiếc cái thân xác này. Chỉ cần sơ ý, một tích tắc thôi con muốn tìm
cha, tìm đâu cho ra! Con muốn tìm má tìm đâu cho thấy! Mà dù có thấy đi nữa cũng
không cách nào cứu được nữa rồi. Ván đã đóng thuyền, trôi theo dòng sanh tử vô
biên, ai theo nghiệp đó làm sao cứu được? Khi mình ra đi, mình trôi theo dòng
nghiệp báo vô tận, vô cùng, vô phương, trong đó mình dễ gì làm chủ được!
Khi
trời mưa lụt, nước dâng tràn bờ, đứng trên cầu nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn
chảy, cha má thả một mảnh cây, rồi sau đó thả thêm mảnh cây nữa, và nhìn thử
coi, hai mảnh cây ấy có gặp nhau được hay không? Mỗi mảnh trôi dạt mỗi phương.
Cho dù có thả cùng một lúc, nó cũng tách xa, dễ gì gặp lại. Dòng nước cuồn cuộn
là dòng nghiệp lực, hai mảnh gỗ là nghiệp chướng, là thần thức của chúng ta. Dòng
nghiệp lực nó dày vò thần thức chúng ta giống như vậy đó. “Khéo tu thì nổi, vụng
tu thì chìm”. Dù có nổi nó cũng bị trôi tuột tới một phương trời vô định, kẻ
nam người bắc chứ chắc gì gặp lại. Đâu dễ gì ta trở lại căn nhà từ đường để thọ
hưởng. Còn không, “Vụng tu thì chìm”, nó dìm mình xuống tận chín lớp bùn đen, âm
u mù mịt biết ngày nào lên. Thọ lãnh quả báo này chỉ có đơn độc một mình mình
chịu mà thôi, không ai đến thăm nom, han hỏi mình được.
(Viết
đến đây con chợt nghĩ đến Thím Năm. Chú Năm mất, Thím chung tình xây nấm mộ bên
cạnh để chờ ngày xuống âm ty gặp lại chú! Thật đáng thương! Với cái nhìn
thế tục thì thấy có nghĩa tình. Còn khi đã hiểu đạo, thì đây là việc làm điên rồ,
tự mình dẫn mình vào con đường cùng đoạ lạc mà không cứu vãn được gì cả. Cha má
nên vì lòng từ bi ai mẫn mà đánh tiếng cảnh cáo Thím, chứ không thì tội nghiệp
lắm!)
Thưa
cha má, con thương cha má con khuyên cha má niệm Phật. Má thương cha, má nên
khuyên cha Niệm Phật. Cha thương Má, cha nên nhắc nhở má niệm Phật. Cha má thương
con cái, cha má hãy dạy các anh chị em, con cháu đều niệm Phật. Thương nhau phải
cùng nhau niệm Phật, cùng cầu về một nơi, đó là con đường tuyệt diệu nhất mới gặp
nhau được thôi. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật nói, “Chư Thiên Nhân Dân cùng với
những lọai côn trùng nhỏ nhít, khi đã sanh về nước Ta, đều trở thành Bồ-tát”
(phẩm số 5). Sanh về đó tất cả chúng ta đều trở thành “chư Thượng-Thiện-Nhơn,
câu hội nhứt xứ” (kinh A-di-đà)”. Thượng-Thiện-Nhơn đây không phải là người,
mà đều là Bồ-tát cả. Con sẽ gởi về quyển sách “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi”
của chú Tịnh Hải ở Mỹ vừa mới thu thập mấy năm nay thôi. Cha má hãy đọc kỹ đi,
sự thật đó. Những bộ óc, trái tim… bằng máu huyết, bằng thịt xương, mà dưới sức
nóng lò thiêu tới hai, ba ngàn độ, có thể làm chảy nhão sắt thép, nhưng không
cháy nổi nhục thân của người khi đã đắc đạo, nó đã trở thành “kimcang
Na-la-diên thân” (Nguyện 32/phẩm 6/Vô Lượng Thọ).
Ngài
Thích-Thiền-Tâm (người viết quyển “Niệm Phật thập yếu”). Ngài để lại cái răng xá
lợi mà người ta dùng máy cắt, khoan, đục chỉ có nẹt lửa chứ không trầy trụa gì
cả. Cái răng trong miệng Ngài nó nghe tiếng niệm Phật đã trở thành kim cương bất
hoại. Sự linh diệu của tiếng niệm Phật không thể nào nghĩ bàn được. Khoa học nào
dám đứng ra giải thích! Có nhà bác học nào dám mở lời biện bạch! Khắp nơi trên
thế giới, nhiều nhà tu hành vãng sanh lưu lại luôn cả nhục thân hàng ngàn năm,
hai ba trăm năm. Ở Thái-lan, có vị Sư lưu lại nhục thân hai ba năm nay rồi, không
ướp thuốc thang gì cả…
Cha
má ơi, con thương cha má nhiều lắm. Nhưng cái thương khi hiểu được đạo khác lúc
còn đang mê mờ thế tục. Khoảng thời gian lưu lại trên thế gian này thực ra không
đáng gì cả so với thời gian vô thỉ vô chung. Người chết đi rõ ràng không mất.
Trong thư cho Mười Phương, con kể chuyện người bạn kỹ sư của con bị con ma nữ
chạy theo vào nhà, đeo theo sát bên mình mấy ngày, làm cho hắn kêu cầu cứu thất
thanh, càng chứng tỏ mạng người không phải chỉ thấy vào cái xác thịt mà thôi đâu.
Có người chết làm quỷ, có người làm ma, có người làm trâu bò chó mèo, có người
xuống địa-ngục, lên thiên đàng, có người thành Bồ-tát, Phật. Ta tu đúng cách,
theo đúng chánh pháp, ta trở thành Bồ-tát, Phật chỉ trong một đời này thôi. “Nhớ
Phật niệm Phật, hiện tiền, tương lai chắc chắn thấy Phật” và sẽ về với Phật,
viên mãn một đời thành Phật, vĩnh viễn thoát khỏi kiếp luân-hồi đọa đày.
Thưa
cha má, con muốn nhắc lại lời này, là có thể chính cha má là người có đại phúc đại
thiện nhất trong dòng tộc gia phả của mình, từ cổ thủy đến nay chưa ai bì được.
Ngay như bà nội, ông Bảy, suốt đời tu hành nhưng chưa chắc đã thoát, trong khi
cha má có được những đứa con tha thiết khuyến tu. Nếu thiện căn đã phát lộ, thì
chính cha má sẽ ghi vào lịch sử của dòng tộc mình, người đầu tiên đắc đạo vãng
sanh thành Phật.
Nhớ
ngày bà nội lâm chung, bà đau quằn quại tháng này qua tháng khác, những ngày cuối
cùng, bà chống đối kịch liệt việc chích thuốc, truyền nước biển. Nhưng các chú,
các cô, nguời nhà cứ đè tay, đè chân không cho bà giãy giụa, để người y tá truyền
bình nước biển. Còn những người con khác thì kêu réo khóc than: “Mẹ! Cố gắng sống
thêm mẹ ơi!”. Họ thật sự tỏ được lòng thương bà Nội. Nhưng kết quả thì sao? Bà
lúc đó đã cấm khẩu, đã đuối sức. Đầu óc bà đã quay cuồng, đau khổ trong những cảnh
giới hãi hùng! Bà thèm một giây phút yên lặng, con cháu lại không cho. Bà giận đến
nỗi mắt bà trợn lên chống đối, nhưng con cháu không chịu vâng lời, cứ việc làm
theo cái suy nghĩ nông cạn của mình!
Cha
má nên biết, người sắp lâm chung, thân thể của họ đau nhức “như con rùa đang
bị lột cái mai”, lúc đó bất cứ một động tác nào động đến thân thể sẽ làm
cho người bệnh đau đớn không thể chịu nổi được. Tội nghiệp cho bà Nội. Bà sinh
ra nhiều người con, người thì theo Tiên, người theo Thần, người theo Vô-Thần,
không một người nào theo Phật, niệm Phật chân chính cả, cho nên mới xảy ra cảnh
tượng bi thương đó! Giờ phút quan trọng nhất cuộc đời, bà cần một tiếng niệm
“Nam-mô A-di-đà Phật”, để bà nương theo quang minh của Phật mà siêu sanh nhưng
không được! Trong khi con cháu cứ nhào vô gây sự đau đớn, tạo cho tâm bà sân nộ,
gây cái nhân đọa lạc vào cảnh tối tăm!
Thưa cha má, vì không hiểu đạo, con
cháu cứ việc làm những chuyện ĐẠI NGHỊCH BẤT HIẾU một cách tự nhiên. Thật
thương tâm, thương tâm quá!
Thưa
cha má, con đã nói đến cùng lý lẽ, con tha thiết tỏ bày đến rơi nước mắt. Con
thương cha má, con nguyện cứu cho được cha má. Đến giờ phút này mà cha má không
nghe theo thì con cũng không còn biết làm sao được nữa. Còn như cha má đã ngộ được,
hãy thành tâm làm ngay việc này: Thân thờ A-di-đà Phật, Tâm nghĩ A-di-đà Phật,
miệng luôn niệm A-di-đà Phật, một lòng nguyện cầu sanh về Cực-lạc Thế-Giới, chắc
chắn sẽ được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, một đời thành Phật. Chính cha má
sẽ chứng minh cho mọi người cùng thấy việc này.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu, ngày 10/4/2001).
Vạn pháp giai không, nhân quả bất không.
(Lời Phật dạy).
08 –Lời khuyên song thân
Kính
Cha Má,
Sắp sửa
có người về Việt-Nam, con gửi thư về thăm cha má cộng với mấy băng thuyết pháp,
và mấy món quà nhỏ cho em Thứ niệm Phật. Trong anh chị em nhà mình đã có người
nghe theo lời con khuyên vậy cũng là đại phước rồi. Em Thứ niệm Phật, em Thứ được
hưởng thiện lợi, cha má niệm Phật cha má được hưởng thiện lợi. Ai tu nấy đắc,
không ai tu giùm cho ai được cả. Cái lo lắng lớn nhất của con hiện giờ là cha má
tuổi già sức yếu, viêïc tu hành giải thoát trở thành vấn đề tối cấp bách và
quan trọng. Khi cha má nhận được một số băng thuyết pháp thì cố gắng nương theo
đó tu tập, những thư này chỉ là cái mối đầu cho cha má tiếp nhận lời pháp thôi.
Trong
suốt thời gian qua con liên tục viết thư về cha má, cũng chỉ nhắm tới một chuyện
là cố gắng khơi cho được cái đầu mối đó, để từ đó cha má đi vào con đường Phật đạo,
pháp môn giải thoát. Khả năng của con nhiều lắm cũng chỉ giúp cha má thấy rõ cái
đầu mối đó thôi, còn có ngộ nhập vào sự giải thoát hay không hoàn toàn tùy theo
quyết tâm của cha má, chứ con không thể nào đi giùm cho cha má được.
Nhận thư,
con không biết cha má có giờ đọc không? Có thích thú không? Có nhận thấy được cái
tầm quan trọng của nó không? Nếu càng đọc mà cha má càng cảm thấy vui, cảm thấy
phấn khởi thì con mừng lắm, một ngày rất gần cha má sẽ thấy được sự an lạc vì tìm
được nguồn sáng để đi. Còn nếu ngược lại, thì đó là do căn phần của cha má. Cha
má cứ bình tĩnh, thoải mái, rồi suy nghĩ lại. Dù sao đi nữa con cũng moi đến tận
đáy lòng chí thành chí hiếu để nói. Biết như vậy cha má cũng nên có lần giựt mình
nghĩ lại, mỗi lần giựt mình hãy bảo em Thứ, hay em Mười đọc lại thư của con. Đọc
đi đọc lại nhiều lần, biết chừng đâu, một ngày nào đó cha má sẽ liễu ngộ. Ở đây,
con vẫn hằng cầu chư Phật gia trì cho cha má.
Ngày hôm kia, tức là ngày 17/4/2001, Thầy
Ngộ Thông đi giảng pháp ở Sydney về, thầy nói với tụi con rằng, “Phật tử Sydney
họ tu rất tinh tấn. Họ niệm Phật không còn lấy số ngàn nữa, mà đơn vị là vạn.
Nghĩa là mỗi ngày họ tự đặt tiêu chuẩn một vạn, hai vạn, ba vạn, có người niệm đến
năm vạn câu Phật hiệu một ngày”. Càng ngày họ càng quyết tâm tu hành, họ quyết
tâm đi cho đến Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà mới thôi. Ở Việt-Nam, mình
khó thấy, khó nghe, khó hiểu chuyện này. Nhưng, khi đi ra ngoài dạo khắp nơi,
con bừng tỉnh, ngỡ ngàng trước những tâm hồn cương quyết, chí thành, chí thiết.
Thì ra,
trong kinh Phật nói, con số nhân thiên vãng sanh về Tây-phương vô lượng vô số,
không thể nào đếm hết, đó là sự thưc. Có một quyển sách tựa đề là “Niệm Phật
Vãng Sanh Lưu Xá lợi”, con sẽ chuyển vềø cho cha má đọc, trong đó có những
người Việt-Nam vừa mới vãng sanh mấy năm nay. Số người ghi trong sách là thu thập
được, còn biết bao nhiêu người vãng sanh khác mà chưa thu thập. Khi sách ấy tới
Úc-châu, người đọc được họ phát tâm tu hành rất nhiều. Con người là vậy đó, Phật
dạy rõ ràng trong kinh không chịu tin, phải chờ cho có bằng chứng rồi mới phát
nguyện Niệm Phật. Đó cũng còn may, có người vẫn không tin, tìm đủ lý lẽ để từ
khước. Sự thật là gì? Là chính nghiệp chướng quá nặng, che lấp mất cả tánh giác
ngộ, vì vậy họ vẫn chưa chịu cúi đầu lạy Phật, chưa chịu gội rửa tội chướng của
mình. Tội nghiệp thay, biết bao giờ họ mới thoát nạn đây?
Thấy cái
tác dụng của quyển sách khá cao, quý Sư ở Sydney mới kêu gọi cho ấn tống tiếp.
Quý Thầy muốn bổ túc thêm mấy người nữa cũng vừa vãng sanh, trong đó có một bà
cụ vãng sanh cách đây cỡ một năm, bà cụ này con đã từng gặp. Bà là người Việt gốc
Hoa. Cách đây cỡ năm năm, bà bị ung thư đến thời kỳ chót, bệnh viện cho về nhà
chờ chết trong vòng hai, ba tháng. Bà may mắn gặp người ta khuyên: buông xả cái
thân rã thối này đi cho rồi, niệm Phật cầu sanh về Tịnh-độ để một đời này về với
Phật, thành Phật, thì hay hơn không! Bà tin tưởng, không thèm dùng đến thuốc
thang nữa, một lòng niệm Phật cầu sanh Tây-phương. Bà niệm Phật ngày đêm cầu
cho chết sớm. Thế nhưng hai tháng, ba tháng, một năm, hai năm, ba năm trôi qua,
bà chờ chết mà không chết, ngược lại sức khỏe bà càng ngày càng tốt.
Năm
1999, bà lên Brisbane dự khóa niệm Phật mười tuần tại niệm Phật Đường ở
Brisbane. Con gặp được bà trong dịp này. Năm 2000, bà vãng sanh, lưu lại rất
nhiều xá lợi. Ngày vãng sanh con cũng có nghe, nhưng Sydney và Brisbane cách xa
cả ngàn cây số cho nên con không tận mắt chứng kiến. Xá lợi của bà hiện phân phát
thờ ở các chùa ở Sydney. Tính ra thời gian bà niệm Phật khoảng hơn bốn năm.
Thưa
cha má, sự vi diệu của pháp niệm Phật khó diễn tả được! Bà Bác đó niệm Phật cầu
cho chết, vô tình bà thoát cái chết từ ba tháng trở thành bốn năm rưỡi. Bà thoát
khỏi tử thần bệnh ung thư, để hưởng trọn tuổi dương tám mươi lăm tuổi rồi về với
Phật. Rõ ràng “Nhất cú Di-Đà vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-phương”.
Niệm một câu “A-di-đà Phật” cứu mình vượt khỏi lục-đạo luân-hồi, vượt ra ngoài
Tam-giới (dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới), đi thẳng về Tây-phương với Phật.
Chuyện này còn nghi ngờ nữa sao!
Ngài Ngẫu-Ích Đại sư, Tổ sư đời thứ chín Tịnh-độ
Tông, khai thị rằng: “được vãng sanh là nhờ TÍN và NGUYỆN. Phẩm vị cao hay
thấp nhờ công phu niệm Phật sâu hay cạn”. Như vậy, một người chỉ cần có lòng
TIN vững chắc và chí NGUYỆN tha thiết thì được vãng sanh. Còn niệm Phật là để
cho phẩm vị cao hay thấp mà thôi. Đây là sự thật. Có người nghe vậy mới nói, bây
giờ mình chỉ “Tin” Phật rồi “Nguyện” vãng sanh thôi, đâu cần gì niệm Phật, mình
cũng về Tây-phương vậy! Xin thưa thẳng rằng, không thể! Tại sao? Vì khi đã có tư
tưởng như vậy thì cái TIN đó là giả chứ không phải thật. “Tin” một vài bữa và
sau đó thì bỏ luôn. Tin giả thì không bao giờ siêu sanh được cả. Vì người tin
Phật chắc chắn không bao giờ dám quên Phật.
TÍN thì
phải tìm mọi cách giữ vững lòng tin, củng cố nhắc nhở lòng tin. Trong tâm không
bao giờ ly xa Phật, nghĩa là phải niệm Phật. Niệm Phật để nhớ Phật, niệm Phật để
làm Phật, niệm Phật để tâm thanh tịnh, niệm Phật để khống chế phiền não… Niệm
Phật để tâm mình chỉ còn có Phật, ngoài Phật ra không còn thứ gì khác lọt vào tâm
cả. Đó mới là TIN PHẬT. Phật tức Tâm, Tâm tức Phật chính là chỗ này đây. Đạt đến
cảnh giới này mới chắc chắn về tới Tây-phương thành Phật. Còn người chỉ nói TIN
suông mà không niệm Phật, thì Tin đó là miệng tin chứ không phải tâm tin, dù họ
có nhớ Phật, chắc chắn cũng chỉ nội trong một vài ngày, thậm chí vài phút thôi,
sau đó tâm họ đã bắt đầu điên đảo, thị phi, bắt đầu hơn thua xả láng rồi. Hễ không
niệm Phật thì sẽ niệm tiền bạc, niệm cuốc đất, niệm vườn rau, niệm yêu thương,
niệm ganh tị, niệm buôn bán… lúc đó Phật đâu còn nữa! TIN như vậy, dù lúc mới
phát khởi có cao như núi, nó cũng sụp đổ tan tành theo nghiệp chướng phiền não
thế gian. Lòng TIN sụp đổ rồi thì NGUYỆN kia làm sao còn tồn tại?
Ấy thế,
Ngài Ngẫu-Ích nói TÍN là Thành tín, là Thâm tín, là Thực tín… chứ không phải
là sơ tín, tùy hứng tín. Có thực tâm TIN mới có thiết tha phát NGUYỆN. Đã thiết
tha về Tây-phương rồi thì ai dám lơ là việc niệm Phật. Vì thế TÍN-NGUYỆN-HẠNH
tuy ba mà một, một mà ba. Được một điều thì tất cả ba điều đều đầy đủ vậy.
Niệm Phật
tới “Nhất tâm bất loạn” thì vãng sanh Thượng Phẩm. Nhưng thực ra dễ gì đạt
được cảnh giới đó. Như vậy làm sao vãng sanh dễ dàng được? Thưa cha má, Đới-Nghiệp
vãng sanh. Nghĩa là nghiệp chướng vẫn còn, nhưng nhờ gia lực của Phật mà được
vãng sanh. Đây là một điều kiện di dân vô cùng thù thắng, mà đức Phật A-di-đà đã
phát nguyện để cứu độ chúng sanh. Đây là phương tiện độ sanh cực kỳ vi diệu, cực
kỳ rốt ráo, nên tất cả chư Phật mười phương đã đồng thanh hộ niệm. Chính vì thế
mà câu Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật” đã trở thành một siêu lực lượng, không
thể nghĩ bàn, có thể cứu độ tất cả chúng sanh trong cửu pháp giới, từ Đẳng-Giác
Bồ-tát cho đến địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, một đời bình đẳng thành Phật.
Cho nên,
một người chỉ cần có lòng TÍN Tâm nơi Phật vững chắc, phát NGUYỆN vãng sanh thiết
tha chân thực, thì tự họ thấy rõ con đường đi, tự họ ngày đêm không rời câu Phật
hiệu. Bao nhiêu người vãng sanh một cách tự nhiên, trước sự ngỡ ngàng của khoa
học. Cái năng lực này chỉ có Phật mới làm nổi thôi. Sự việc này đã vượt xa tri
thức của nhân loại, muốn giải thích cũng giải thích không được! Muốn tìm hiểu
không thể hiểu nổi! Phật nói, đây là pháp môn “nan tín chi pháp”, dù cho hàng Bồ-tát
cũng không thể hiểu được, chỉ có Phật với Phật mới hiểu thôi, Bồ-tát cũng chỉ có
thể dùng lòng TIN mà vào đất Phật.
Trong giảng ký của Hòa Thượng Tịnh Không,
có một đoạn Ngài nói: “Phát tâm Bồ-đề tức là phát đại nguyện cầu vãng sanh. Tâm
nguyện cầu vãng sanh này tức là tâm Bồ-đề Vô-Thượng. Một mực chuyên niệm, nhất
tâm về một phương hướng chuyên niệm Phật A-di-đà.
Người như thế chính là “Đương-Cơ”.
Chỉ cần phù hợp tiêu chuẩn này không có một người nào không vãng sanh. Do đó Đại
sư Thiện-Đạo nói, “Một trăm người tu một trăm người vãng sanh, một ngàn
người tu một ngàn người vãng sanh, gọi là muôn người tu muôn người chứng”. Đại
sư Thiện-Đạo là đệ nhị Tổ-Sư Tông Tịnh-độ, người đời Đường, Ngài chuyên Niệm Phật,
có lần Ngài niệm Phật cứ mỗi câu Phật hiệu từ trong miệng phát ra một đạo hào
quang dài, câu này tiếp câu khác hào quang tiếp tục kéo dài như vậy. Thật không
thể tưởng tượng được!.
“Trăm
người tu trăm người chứng, ngàn người tu ngàn người chứng”. Câu nói giống như trò đùa, nhưng đó là sự thực. Ngài
Vĩnh-Minh Diên-Thọ, là Phật A-di-đà tái lai, cho nên trong nhà Phật lấy ngày vía
Ngài làm ngày vía đức A-di-đà. Ngài là một thiền sư, nhưng khi ngộ đạo lại ngộ
từ câu Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Khi thấy hàng đệ tử so đo giữa Thiền và
Tịnh, Ngài cảnh cáo rằng: “Hữõu Thiền vô Tịnh-độ, thập nhơn cửu tha lộ, Vô
Thiền hữu Tịnh-độ, vạn nhơn đắc vạn nhơn”. Những người niệm Phật cầu sanh Cực-lạc
Thế-Giới, nếu cứ một lòng trung thành niêïm Phật, không một người nào không đắc
đạo. Thế gian chưa có pháp môn nào vi diệu, kỳ lạ như vậy được!
Khi đã
hiểu được lý đạo nhiệm mầu rồi, cha má mới thấy người niệm Phật là người có thiện
căn phúc đức sâu dày nhất trong tất cả mọi giai cấp chúng sanh. Những người dù
có giỏi tới đâu, có danh vọng địa vị cao tới đâu, có tu hành lâu tới đâu, có chức
sắc lớn tới cỡ nào, nếu không niêïm Phật, theo như Ngài Tịnh-Không nói, “đó cũng
chỉ là người tầm thường mà thôi!”. Chức quyền càng lớn càng tạo nhiều ác nghiệp,
quả báo chắc sẽ là tam ác đạo. Người mà say sưa làm giàu, đến khi mạng chung, vì
họ tiếc của, nên rất dễ dàng đầu thai thành những con vật giữ của, như con chó
chẳng hạn, hằng ngày cứ lảng vảng trước nhà để giữ của. Oái oăm thay, giả như họ
sinh ra những đứa con vô đạo, thích ăn thịt chó, thì hậu quả còn thê lương biết
chừng nào!… Như vậy họ làm sao sánh bằng với bà bác bị bệnh ung thư, tám mươi
lăm tuổi, niệm Phật vãng sanh ở Sydney.
Thưa
cha má, cuộc đời như áng phù vân, thì sao còn chấp vào đấy để ngàn đời mê muội
sầu đau! Thư trước con có gởi về cha má hình của Hòa-Thượng Tịnh-Không, con chụp
Ngài trước di ảnh của bà Hán làm quản tràng của Hội-Tịnh-tông. Bà Hán là một đại
triệu phú ở Đài-loan và Tân-Gia-Ba. Tài sản của Bà nghe nói phải giựt mình. Thế
mà khi ngộ đạo, bà đem hầu hết tài sản ra cúng dường cho người niệm Phật. Bà xây
dựng nhiều đạo tràng, bà nuôi hàng trăm Tăng Ni, nuôi tất cả những người đến đạo
tràng niệm Phật, không nhận một đồng phí tổn. Bà đem tài sản tính bằng đơn vị bạc
triệu đô-la, mà bà đã khổ công kiếm được suốt đời ra chỉ để mua cho được một tấm
vé về Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà. Ở Mãlai, có những người ngộ đạo, họ
dốc hết tài sản cả mười triệu đô la để xây đạo tràng, để in kinh, in tượng Phật,
cúng dường cho mọi người niệm Phật. Một khi đã liễu ngộ đường giải thoát rồi,
thì tất cả tiền tài, danh lợi, ơn nghĩa của thế gian trở thành cái chướng ngại đáng
kể, trói buộc con người trong luân hồi lục đạo, cho nên họ tìm cách xả bỏ cho hết
để tạo phước đức, lót đường về tới cảnh giới Tây-phương. Nhìn thấy những tâm Bồ-tát
đó, nghĩ lại những người đi cuốc từng lát đất, làm thuê từng ngày để kiếm từng
bữa cơm, mà tâm vẫn cứ hách dịch, vẫn cứ cho cuộc đời này là sướng, là sang, không
thèm nghĩ đến cơ giải thoát. Đây không phải là điều đáng thương sao?!
Thưa
cha má, tới ngày hôm nay tất cả thư con gởi về chỉ nhắm tới một điều là để củng
cố niềm tin vững chắc cho cha má mà thôi. Có được niềm tin vững rồi thì con từ
từ gởi dần tài liệu Phật pháp về để cha má nghe, theo đó mà tu tiến. Thường thường,
từ trước tới giờ mình sống chung hòa với bà con hàng xóm, ít người hiểu đạo. Họ
đều mơ hồ trong sự giải thoát, nên khi nghe nói đến Tây-phương Cực-lạc, thì ai
cũng nghĩ đến chuyện chết, họ sợ đến hồn vía. Hễ không biết Phật, không hiểu đạo,
họ thường bàn chuyện tầm phào, làm lung lay chí nguyện vãng sanh của mình. Nếu
cha má không vững lòng tin, không quyết tâm đi thì tiếc cho một đời làm lành, đọa
lạc vẫn hoàn đọa lạc. Bao nhiêu lời tha thiết khẩn cầu của con hướng về cha má
sẽ tan theo mây gió. Nên nhớ, ăn chay, làm lành không phải là chánh yếu của tu
hành. Làm lành mà không có trí tuệ vẫn dễ tiếp tay cho tội ác, tạo nghiêïp đọa
lạc trong sinh tử luân hồi. Còn khi niệm Phật thì tự nhiên làm thiện, nhưng
thiện này được soi sáng bởi quang minh của Phật, không thể sai lạc được.
Cha má ơi!
Đời vô thường sáng còn tối mất, lỡ một dịp rồi, thời gian phải tính bằng KIẾP,
(nghĩa là hàng triệu triệu đời) luân-hồi chứ không phải đơn giản. Lúc đó dù con
có thương cha má tới đâu, có thành khẩn tới đâu, có moi luôn quả tim này bầm
nhuyễn, đắp thành chữ A-DI-ĐÀ PHẬT để cầu cho cha má siêu sanh cũng khó mà cầu được,
cha má có hiểu không?
Trở lại
chuyệïn niệm Phật, Phật dạy chỉ cần mười niệm trước khi lâm chung thì chắc chắn
được vãng sanh. Xin cha má hãy lập thệ đi, quyết thề rằng sẽ niệm cho được mười
câu “A-di-đà Phật” trước khi rời bỏ thân xác này. Chỉ thế mà thôi, đủ rồi.
Ở đây chính con cũng vậy, con quyết thề dứt khoát phải niệm cho được mười tiếng
Phật hiệu A-di-đà Phật trước lúc con lâm chung. Phật A-di-đà đã phát nguyện rằng,
người nào “phát nguyện sanh về nước ta, dẫu đến niệm được mười niệm, nếu không
được vãng sanh, Ta thề không thành bậc Chánh-Giác”. Như vậy, mình niệm mười
niệm trước khi lâm chung, thì chắc chắn được vãng sanh. Phật đã nói ra một lời
không thể nào Ngài quên được. Tuyệt đối Phật không bao giờ vọng ngữ, thì mình còn
ngồi đây đặt vấn đề làm chi?
Tuy nhiên,có điều đừng nghĩ rằng niệm mười
niệm là dễ dàng. Người mà bình thời không niệm Phật, thì đến thời điểm quan trọng
nhất không thể nào niệm được đâu, dù một niệm, dù một phần mười niệm. Vì thế,người
tu niệm Phật họ thường chuẩn bị rất chu đáo. Họ tranh thủ từng chút thời gian để
niệm Phật, niệm càng nhiều càng tốt, niệm thành thói quen, niệm thành một thứ
phản xạ tự nhiên, họ trói tâm họ với danh hiệu A-di-đà Phật. Lúc nằm xuống giường,
họ cứ thầm niêïm Phật cho đến khi thiếp luôn. Khi thức giấc, niệm Phật liền. Người
biết niệm Phật không sợ mất ngủ, càng mất ngủ họ càng thích vì họ có thêm giờ để
niệm Phật. Đến một lúc nào đó ngay trong giấc ngủ họ vẫn niệm Phật như thường.
Ở
Sydney, có người tự nguyện niệm năm mươi ngàn câu Phật hiệu mỗi ngày, có người
hứa còn thở, còn niệm Phật. Chính con đây, nếu ngày nào không đi làm con niệm đến
hai ba chục ngàn câu là chuyện dễ dàng. Còn đi làm thì khi có giờ rảnh con niệm,
cứ niệm liên tục, không cần đếm, một hơi thở ít nhất là một niệm. Mình phải tập
sự niệm Phật để cho câu Phật hiệu xuất hiện trong tâm liên tục, tự nhiên như cái
máy niệm Phật con gởi cha má vậy, dù mình có liệng nó xuống dưới nước, trước
khi nước tràn vào làm tắt nghẽn tất cả mạch điện, thì nó cũng niệm được ít ra mười
tiếng “A-Di-Đà Phật” trước khi nó chết.
Cha má ơi!
Xin hãy quyết chí đi và đừng chần chờ nữa. Cha má có biết không, muốn thành Phật
mà còn hẹn thì con ma “Vô-thường” nó thích biết dường nào! Hôm trước nói chuyện
điện thoại với chị Ba, con hay được ông Mười Tịnh bị nạn nước lụt. Tội nghiệp!
Ví dụ, như trong lúc bị dòng nước cuốn trôi, ông chỉ thốt lên mười câu Phật hiệu
để cầu về Tây-phương, con tin tưởng chắc chắn rằng ông sẽ được cứu, hoăïc là
thoát nạn, hoặc là được vãng sanh. Nếu được vãng sanh thì ông Mười sẽ về báo mộng
cho vợ con hay liền là mình đã được về với Phật. Khi tìm được xác, xác thân sẽ
vẫn còn mềm mại, còn tươi như thường, dù ngâm dưới nước nhiều ngày.
Tiếc
thay, một đời không tin Phật, làm gì biết đến câu A-di-đà Phật để mà niệm, mà dù
có biết Phật đi nữa, nhưng bình thời không niệm Phật, thì lúc đó hồn vía đã thất
kinh rồi, làm sao còn niệm được nữa. Cho nên phải tập niệm Phật là vậy.
Tu hành
muốn thành được đạo quả, mình phải đặt tiêu chuẩn cao thì mới khỏi uổng phí tâm
sức. Tiêu chuẩn cao thì mới tinh tấn công phu, có tinh tấn công phu mới đạt phẩm
vị cao được. Hòøøa-Thượng Tịnh-Không dạy, phải cầu cho được thượng phẩm mà tu,
nếu lỡ có rớt cũng còn được trung phẩm, tệ quá thì cũng đạt hạ phẩm là giá chót,
nghĩa là cũng còn được về tới Tây-phương. Nếu tu tà tà cầu hạ phẩm lỡ rớt đài
thì còn gì nữa mà nói! Cha má tuổi đã lớn rồi, tranh thủ thời gian mà niệm Phật.
Niệm càng nhiều càng tốt. Nếu sức khỏe yếu thì con đề nghị cứ niệm nhẹ nhàng,
niệm theo hơi thở. Thở bình thường, hít vào rồi theo hơi thở ra niệm một câu
“Nam-mô A-di-đà Phật”. Sau vài ba tháng quen rồi, thì niệm nhanh dần. Niệm bốn
chữ cho nhanh, thở vào: “A-di-đà Phật”, thở ra: “A-di-đà Phật”. Hễ còn thở còn
niệm. Khi công phu thành khối thì chắc chắn thành tựu viên mãn. Bà bảy Tịnh Bửu
mới niệm Phật hơn một năm thôi mà bà đã niệm được rất nhanh và đã thành khối.
Một điều phải nhớ là: Niệm Phật để cầu
vãng sanh, đừng vì cái lợi nhỏ mà dùng câu Phật hiệu để luyện khí, luyện thần,
như đạo Tiên mà sau này khó trốn khỏi tai họa. Nên lập thệ nguyện vãng sanh
hằng ngày. TUYỆT ĐỐI KHÔNG nguyện sinh lại làm người dù là Tiên, là Hiền,
là phú quý… Hồi hướng tất cả công đức tu hành về Tây-phương. Nên hồi hướng
sau mỗi lần tu hành, hoặc sau khi làm một điều thiện lành. Nguyện vãng sanh và
hồi hướng phải thật thành tâm, thành ý. Một thời gian ngắn thôi, cha má sẽ thấy
được sự cảm ứng rõ rệt!
Thôi con ngừng để cha má niệm Phật. Bồ-tát Đại-Thế-Chí
nói, “Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật”. Xin
cha má hãy một lòng tin chắc như vậy.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu, ngày 19/4/2001).
Khéo giữ gìn cái nghiệp của miệng đừng nghị bàn lỗi của người khác, khéo giữ gìn cái nghiệp của thân đừng để
mất luật nghi, khéo giữ gìn cái nghiệp của ý để được thanh tịnh không ô nhiễm.
(LờiPhật).
CHÂN THÀNH
THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG
CHÁNH GIÁC
TỪ BI
KHÁN PHÁ
PHÓNG
HẠ
TỰ TẠI
TÙY DUYÊN
NIỆM
PHẬT
09 –Lời khuyên song thân
Cha
má kính thương,
Tuổi
già không có gì cần thiết hơn là cố gắng tinh tấn tu hành để tìm phương giải
thoát. Nhà cửa chắc đã khởi công, tiền bạc chắc cũng đã tạm ổn. Nơi thờ phụng ông
bà chắc cũng sẽ được khang trang. Đây là cơ hội cho cha má yên tâm rũ sạch mọi
sự bận bịu để lo niệm Phật tu hành. Cha hãy giao cho anh chị em nào đó trông
coi, chăm sóc việc nhà, chứ cha má không nghe theo lời con, cứ lăng xăng vào mấy
thứ vặt vãnh thì rốt cuộc không làm được gì cả, mà cuộc đời của cha với má cũng
không ai cứu nổi nữa đâu. Trăm ngàn lần con tha thiết xin cha má hãy nghe lời
con, mau mau phát tâm niệm A-di-đà Phật, đừng chần chờ nữa. Ngày cha má ra đi,
cha má không thể nào mang theo cái nhà Từ-Đường gì đó đâu. Tiếng khen chê của hàng
xóm không cứu được mình ra khỏi địa ngục, không ai tới nhà lao chịu khổ giùm
cho mình, chịu đau giùm cho mình, chịu rên siết giùm cho mình đâu cha má ạ.
Nếu
cha má không chịu tu hành, thì coi như lòng hiếu thảo của con xưa nay đã tràn, đã
đủ rồi! Bây giờ có cấp dưỡng cho cha má ăn uống no say cũng chỉ tạo thêm nghiệp
khổ cho cha má chứ không ích gì. Con quyết chí, đường con vạch ra con sẽ đi. Lúc
đó cha má khó có thể liên lạc được với con nữa. Nếu cha má trách con bất hiếu
con chấp nhận bất hiếu: Cái bất hiếu của người con muốn cứu cha mẹ nhưng cha mẹ
không chịu nghe theo, cứ muốn đua nhau đi vào hầm lửa, thì con đành chịu thua.
Ngày cha má bỏ xác thân hãy để cho anh chị em khác khóc than, con không khóc.
Con đã thấy trước rồi, đã hiểu được rồi. Con đã thấy được một sự thật nên không
những đã khóc cho người thân còn sống, mà khóc luôn cho ông bà trong dòng họ mình
rồi. Tình thực con khóc không còn ra nước mắt nữa, mà chảy đến cả máu trong tim
ra. Con vắt từng giọt máu đau buồn đó ra mà khuyên Song-Thân tỉnh ngộ, mà không
chịu nghe thì thôi, chứ bây giờ còn bảo con khóc làm gì nữa? Con thấy rõ ràng
tiếng khóc than đó không ích lợi gì? Đâu có cứu vớt được ai?
Thưa
cha má, trước giờ mình không biết, vì bất tri bất giác mình tạo nghiệp đã quá
nhiều thì cũng đành đi. Nay đã biết, đã thấy, thì hãy quay đầu lại. Con ngày đêm
nguyện cầu chư Phật gia trì cho cha má, hằng mong cha má xa lìa nẻo trần tục để
trở về bến giác. Chỉ thế thôi mà con viết không biết bao nhiêu thư từ, nói không
biết bao nhiêu lời tha thiết, nhưng đến hôm nay thực sự con vẫn buồn không thể
tả được, vì cha má chưa chú trọng đến sự giải thoát. Cha má hãy tự hỏi đi, còn
sống bao năm nữa để lo nhân nghĩa, để lo tròn tiếng khen chê? Nếu cha má thấy có
đủ sức lo tròn cho hết con rồi tới cháu, hết cháu rồi tới chắt, hết ơn rồi tới
nghĩa, hết danh rồi tới vọng, hết từ đường rồi tới đống tro tàn… thì cha má cứ
việc lo đi. Ôi, đây cũng là căn phần phước đức của cha với má. Con không biết nói
gì thêm, lời khuyên của con dù sao cũng chỉ để nhắc nhở, lòng chân thành của
con dù sao cũng chỉ mở đầu, sự quyết tâm của con dù sao cũng giới hạn! Con không
có một năng lực nào để cứu cha má, chính cha má phải tự cứu lấy. Xin cha má suy
nghĩ kỹ.
Trong
giảng ký của Hòa-Thượng Tịnh-Không (quyển 21->31) có đoạn Ngài nói như vầy:
“Bảy
ngày trì danh nhất tâm bất loạn” để lấy đó làm pháp môn tu. Pháp môn này là
phương pháp tu hành Trì Danh Niệm Phật. Cần bao lâu? Bảy ngày thì được rồi. Nhưng
niệm bảy ngày, quí vị niệm thử xem có vãng sanh hay không? (Thực ra nếu bảy ngày
niệm vãng sanh, có lẽ pháp môn này không có ai dám học, vì chỉ còn có bảy ngày
nữa là chết rồi, ai mà dám học pháp môn này?). Quí vị niệm bảy ngày sao vẫn chưa
vãng sanh. Đừng nói bảy ngày, niệm bảy năm cũng không vãng sanh. Nguyên nhân ở đâu?
Thật ra không phải pháp môn có vấn đề, mà là tâm của quý vị niệm Phật có vấn đề.
Vấn đề ở chỗ nào? Không muốn đi! Niệm, là tưởng mà niệm chứ không muốn đi.
Quý vị đọc
đại kinh rất nhiều và đều biết thế giới Tây-phương Phật A-di-đà, Quán-Âm, Thế-Chí,
chư Thượng-Thiện-Nhân, thiên nhãn của các Ngài rỗng suốt, thiên nhĩ nghe thấu cả,
tha tâm thông biết khắp, do đó các Ngài đã thấu suốt quý vị. Quý vị niệm bảy năm
các Ngài cũng không đến tiếp dẫn quý vị là vì sao? Vì quý vị miệng niệm mà tâm
thì không! Quý vị không thật sự muốn đi. Nếu thật sự muốn đi, thì lời này rất
linh nghiệm, xác thật trì danh bảy ngày nhất tâm bất loạn thì có thể vãng sanh.
Từ xưa đến nay trong những vị Đại đức vãng sanh chúng ta xác thật đã thấy qua.
Gần đây nhất là ở Washington DC, tiên sinh Châu-Quảng-Đại niệm ba ngày ba đêm vãng
sanh, đó không phải là giả. Ông ta vẫn chưa niệm đến bảy ngày, mới có ba ngày
ba đêm mà đức Phật A-di-đà đã đến tiếp dẫn ông vãng sanh.
Cho nên
vấn đề là ở chúng ta tâm có thật hay không. Nếu thật tâm thì phải thiết nguyện,
đây là một nhân tố”.
Thưa
cha má, trong đoạn này có nhắc đến một người ở Mỹ niệm Phật chỉ ba ngày được vãng
sanh về thế giới Tây-phương. Mở kinh A-di-đà ra ấn chứng, đức Phật Thích-ca Mâu-ni
nói: “Này ông Xá-Lợi-Phất, nếu có một người thiện nam, thiện nữ nào nghe ta
thuyết về Phật A-di-đà, chấp trì niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất
tâm không loạn, thì người đó đến lúc lâm chung, có Phật A-di-đà cùng các Thánh
chúng hiện ra trước mặt. Người đó lúc ra đi tâm không điên đảo, chắc chắn được
vãng sanh về thế giới Cực-lạc của Phật A-di-đà”. Đây là lời của chính kim
khẩu của Phật Thích-ca Mâu-ni nói ra.
Ông
Châu-Quảng-Đại đã được vãng sanh trong điều kiện này. Trong thư nào trước con có
nhắc đến một người ở Mỹ bị ung thư đến chỗ không còn chữa được nữa, bác sĩ cho
về nhà để chờ vài tháng sau chết. Nhà ông ta rất giàu, họ tung tin khắp nơi tìm
người cứu chữa và họ chịu trả tiền rất hậu. Ông ta may mắn gặp người khuyên ông
hãy bỏ xác thân này đi, thành tâm niệm Phật cầu về Tây-phương có hơn không. Ông
là người không hề biết gì về đạo Phật, nhưng nghe hiểu lý, cùng gia đình quyết
chí làm theo và nhờ người niệm Phật đến hộ niệm. Ông quyết tâm một lòng về với
Phật, niệm được hai ngày ông thấy có người đến tiếp dẫn. Ông diễn tả hình dáng
cho mọi người nghe, thì ra đó là Địa-Tạng-Vương Bồ-tát. Mọi người bảo ông đừng đi,
cứ việc tiếp tục niệm A-di-đà Phật. Đến ngày thứ ba, Phật A-di-đà đến, ông xin
cáo biệt mọi người và an nhàn ra đi trong ánh quang minh của A-di-đà Phật.
Trong giảng ký quyển 21-31 này có nói tên là Châu-Quảng-Đại, còn người nói
trong giảng ký khác con vừa kể trên thì không nói tên. Nhưng có lẽ hai người này
là một vì cùng ở Hoa-Kỳ, Washington DC.
Thưa
cha má, nếu kém phước đức thiện căn, ông Đại cứ theo thói tục thường tình, bỏ bạc
triệu đô-la ra mua thêm vài năm sống, thì nay mạng ông cũng không còn, nhưng vài
năm sống đó có sướng ích gì đâu với căn bệnh ung thư tàn tệ! Với bịnh này nó hành
đau nhức kinh khủng, có người nhức đến nỗi phải chết giấc luôn. Đem tiền bạc
triệu để mua lấy những ngày tháng nhức nhối, khổ đau, xỉu lên xỉu xuống, rồi rốt
cuộc đau nhức quá chịu không nổi cũng phải chết trong đau đớn. Như vậy có khôn
gì đâu! Còn mạnh dạn hủy bỏ cái túi da rã mục này, an nhiên về với Phật, trở thành
bậc Bồ-tát bất-thối, an lạc tự tại, thần thông bao trùm cả vũ trụ, đây mới là đại
thông minh, trí tuệ chứ.
Ngài
giảng tiếp: “Còn nhân tố thứ hai? Tức
là ở đây nói Nhất-tâm-bất-loạn, đây là một nhân tố quan trọng nhất. Vừa niệm Phật
vừa vọng tưởng thì không được, bảy ngày bảy đêm không thể vãng sanh. Quý vị niệm
một ngày một đêm cũng tốt, hai ngày hai đêm cũng tốt, trong một câu Phật hiệu
chắc chắn không thể xen tạp vọng tưởng thì mới gọi là nhất tâm hệ niệm. Cho nên
công phu niệm Phật cần phải không gián đoạn, không hoài nghi và không xen tạp.
Nếu vẫn có hoài nghi cũng có thể sanh đến biên địa, đó là trong kinh nói. Nếu
không hoài nghi, không gián đoạn nhưng còn xen tạp thì chắc chắn không thể vãng
sanh, biên địa cũng không có phần luôn. Các vị đồng tu pháp môn niệm Phật nên
biết điều này.
Do đó,
sự xen tạp đối với niệm Phật có thương hại rất lớn, không phải pháp môn không
linh nghiệm mà là tự chúng ta đi sai đường. Pháp môn tu hành này so với pháp môn
khác đơn giản hơn nhiều, dễ dàng thỏa đáng nhanh chóng.
Đến khi
lâm chung liền được vãng sanh đến bực bất thối. Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn
người tu hành ắt biết đến giờ mất. Quý vị thấy một vị đệ tử của pháp sư Đàm-Hư
là cư sĩ Trịnh-Tích-Tân, ông này người Sơn-Đông. Trước khi học Phật ông đã từng
là một nhà kinh doanh. Sau khi học Phật mấy năm ông không đi làm ăn nữa, ông đi
học giảng kinh A-di-đà. Đại khái giảng cũng hay. Đi đến đâu cũng giảng kinh
A-di-đà và khuyên người niệm Phật, không màng đến việc làm ăn. Anh em trong nhà
không hiểu ông, cho rằng ông học Phật thành mê, nên đã đối với ông không được tốt.
Có lần ông
giảng kinh xong rồi, mọi người đều ra về, chỉ còn một vài người bạn thân, ông nói
với những người ấy rằng: “Tôi muốn đi, các anh em có quen biết ở nơi này
thì thuê dùm tôi một căn nhà”. Mấy người bạn này nghe lấy làm lạ:
“Anh muốn đi thuê nhà để làm gì?”. Ông nói: “Không phải tôi đi đến
nơi khác, tôi muốn vãng sanh đến Tây-phương Thế-giới Cực-lạc đó mà, sợ chết ở
trong nhà thì người ta sợ, họ kỵ nên muốn thuê nhà”. Những vị đồng tu nghe
rồi nói: “Anh vãng sanh thế giới Cực-lạc, tôi không kiêng kỵ gì cả, hãy đến
nhà tôi đi. Đến nhà tôi thì mọi người đều vui mừng đồng ý”. Đó là biết trước
ngày giờ vãng sanh.
Sau khi
ông đến nhà người bạn, các vị đồng tu nói với ông: “Anh vãng sanh là việc
tốt”. Người xưa vãng sanh thường hay nói bài kệ hoặc làm mấy vần thơ cho
chúng tôi làm kỷ niệm. Ông nói: “Không cần đâu! Hãy trông tôi làm kỷ niệm
là hay lắm rồi”. Ông khuyên mọi người niệm Phật giúp ông. Niệm chưa đầy một
phút ông tréo hai chân ngồi kiết già trên giường đi luôn! Sạch sẽ gọn gàng!
Ở nhà
người cư sĩ đó sau này anh em trong nhà thấy bạn của anh mình vãng sanh liền
tin tưởng. Người em cũng một lòng niệm Phật, hai năm sau người em trai cũng được
vãng sanh. Câu chuyện này có thật sự!”
Đoạn
này kể chuyện ông Trịnh-Tích-Tân, vãng sanh tự tại như người đi chợ. Ông muốn đi
thì đi, muốn ở thì ở. Rõ ràng, vãng sanh không phải là chết, mà còn sống nhưng
họ không lưu luyến thế gian này nữa. Họ muốn về với Phật sớm sướng hơn.
Thưa
cha má, con thường nói con người chúng ta không bao giờ chết. Ta chỉ bỏ lại cái
xác thân này rồi tìm một chỗ nào đó tiếp tục sống. Người khôn tìm chỗ tốt, người
mê muội thì vào ngục tù vạn kiếp để khóc than. Nếu hiểu được đạo thì mình thấy
rõ ràng “Ta” không phải là cái thân thể này đâu, mà cái thân thể giống
như một vật ta lượm trong tứ đại về để núp bóng mấy chục năm, sau cùng nó mục mình
phải bỏ lại để tìm cái thân khác để núp. Thế thôi! Như cái áo để mặc vài năm, cái
nhà để nằm ngủ đôi khi lâu hơn cái thân một chút, cái chiếc xe đạp để cỡi đi đây
đi đó… mỗi vật có một sở dụng của nó. Khi nó mất, mỗi cái cho ta cảm giác đau
buồn riêng.
Như
vậy cái thân còm cõi của cha má đang mang là cái cục thịt, xương, nước tiểu, phẩn…
mình sử dụng nó để núp trong thời gian này thôi. Nó mục thì mình phải liệng, nếu
tiếc không liệng thì nó rách te tua ra, nó mang đủ thứ bệnh họan, nó hành cho đến
khi mình phải liệng nó đi mới thôi. Nếu liễu ngộ được điều này rồi, thì còn gì
nữa mà không nhanh chóng niệm Phật, cầu về cho được miền Cực-lạc, thưa cha má?
Trong
đoạn giảng ký này, có nói tại sao có người niệm Phật nhiều năm mà không được vãng
sanh, còn có người thì muốn đi thì đi, muốn ở thì ở, có người ba bữa đã về với
Phật ngon lành. Cái lý do chính là vì chưa hiểu thấu “Hai mươi chữ trên tượng
Phật A-di-đà”. Ngài Tịnh-Không khi ngộ đạo, Ngài tổng nạp Phật pháp thành hai câu
này:
“Chân-Thành Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Chánh-Giác Từ-Bi. Khán-Phá
Phóng-Hạ Tự-Tại Tùy-Duyên Niệm Phật”.
Đại khái của vế thứ nhất là tu hành
cần ở lòng Chân-Thành, chí thành chí thiết, đừng nên tu vì tiếng khen chê, vì lòng
mến mộ, vì phước báu… Tu để quyết định con đường giải thoát, quyết lòng cầu đạo.
Lòng chân thành đó là đầu mối tất cả những thành quả phía sau.
Hễ
Chân-Thành thì tâm được Thanh-Tịnh, an lạc, mọi sầu khổ tự nhiên biến mất. Mình
ở cái nhà tốt xấu cũng không lo. Ai khen cũng tốt, ai chê cũng tốt. Con đường
ta đi là về với Phật để hưởng tận mọi cảnh vui sướng. Cha má cứ nghĩ vài năm nữa
ta về với Phật, không thèm ở đây nữa. Thế thì lo lắng, mưu đồ, danh vọng hão
huyềøn, được vài người khen tặng để làm gì? Tất cả những thứ đó nó có giúp được
gì cho mình trong ngục tối không? Tuổi về già là thời điểm dễ hiểu đạo nhứt, là
cơ hội tốt giúp ta mạnh dạn buông xả hết mọi trần lao, để có trạng thái An-Lạc,
Thanh-Tịnh. Sướng-Khổ tại Tâm, Thiên-đàng hay Địa-ngục cũng tại Tâm là như vậy.
Tâm
có Thanh-Tịnh thì mới có Bình-Đẳng, thì mới biết trọng người, mới bỏ thói khinh
mạn tự cao. Có Bình-Đẳng mới thoát nạn giai cấp quan-dân, giàu-nghèo, thượng-hạ.
Được Bình-Đẳng thì mới Chánh-Giác, nghĩa là cái thấy, cái biết, cái nghĩ, cái đối
người tiếp vật mới đúng đắn, mới nghiêm chỉnh. Cái tệ nạn chiến tranh xảy ra trên
thế giới đều bắt nguồn từ cái nhìn cái nghĩ thiên lệch, từ tà tri, tà kiến. Bảo
thủ, cố chấp là đầu mối xảy ra xung đột. Sự chém giết nhau không thương tiếc chỉ
vì sự hiểu biết của con người đã quá hạn hẹp, vì lòng thương đã khô cạn mà thôi.
Cho nên có Bình-Đẳng, Chánh-Giác mới có Từ-Bi. Lòng Từ-Bi giúp ta bớt hại đến
sanh vật, biết sám hối tội lỗi của mình, vì từ trước đến giờ ta đã vô tâm giết
hại không biết bao nhiêu mạng sống của chúng sanh một cách tội nghiệp.
Chân-Thành, Thanh-Tịnh, Bình-Đẳng, Chánh-Giác,
Từ- Bi là cái THỂ tu hành, là cái hướng để tiến, là ngọn đuốc soi đường.
Còn Khán-Phá, Phóng-Hạ, Tự-Tại, Tùy-Duyên, Niệm-Phật là cái DỤNG của sự
tu. Một bên là Thể một bên là Dụng. “Thể” là chủ đích, cứu cánh, mục tiêu. “Dụng”
là thực hành, phương pháp, cách thức tu hành, công phu huân tập. Thể và Dụng của
hai mươi chữ này đạo lý rất là cao, một dịp nào đó con xin trở lại. Bây giờ thư
đã dài, cho con xoáy vào trọng tâm của đoạn giảng ký trên và nói những gì phù hợp
với điều cha má đang bị lấn cấn hiện nay. Đó là bốn chữ: KHÁN-PHÁ, PHÓNG-HẠ.
“Khán-Phá” là thấy rõ sự thật, hiểu thấu cái kiếp nhân sinh, biết
rốt ráo cái chân tướng của vũ trụ. “Phóng-Hạ” là buông xuống, là bỏ đi,
là không đèo bồng, không dính mắc, không luyến tiếc. Tất cả phải biết buông xuống
sạch trơn mới trở về với Phật được. Đó là tinh thần buông xả, tối quan trọng để
thành tựu đạo nghiệp trong đời này. Hai người vãng sanh ở trên đều thuộc người
buông xả trọn vẹn.
Ông Châu-Quảng-Đại, nhờ bệnh hoạn đã
làm cho ông ta tỉnh ngộ. Do thiện căn phước đức trong những đời trước của ông
ta bất chợt thành tựu, đã giúp ông chợt hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân
sinh. Đó là sự “Khán-Phá” vĩ đại đầy may mắn. Vì hiểu thấu được chân tướng sự
thực, tất cả chỉ là số không, cho nên ông quyết tâm buông bỏ tất cả, không cần
cầu mong một thứ gì ngoài việc tha thiết cầu nguyện về Tây-phương, đó là sự “Phóng-Hạ”.
Cái nghiệp ông mang lên
từ hồi giờ đã tích tụ thành bệnh ung thư hành hạ thân thể, bây giờ ông biết rồi,
ông dứt khoát liệng nó xuống. Ông đã về với Phật dễ dàng. Đây là cái đại phước
báu quý vô giá, có người trải qua hàng vô số kiếp, muốn đem bạc tỉ đô-la ra chưa
chắc đã mua được.
Còn Ông
Trịnh-Tích-Tân thì ngoài cái “Khán-Phá”, “Phóng-Hạ” ra ông còn được thêm sự “Tự-Tại”,
“Tùy-Duyên” và “Niệm-Phật” nữa. Đó là người đã hoàn toàn buông bỏ sạch sành
sanh, cho nên đã đạt được trạng thái an nhiên tự tại. Còn duyên thì ở lại đi giảng
kinh cứu người, hết duyên thì về với Phật để hưởng an lạc, không giảng kinh nữa.
Theo như trong kinh Phật nói, thì ông Trịnh-Tích-Tân có thể được sanh đến Thượng
Phẩm ở cõi Tây-phương chứ không phải tầm thường. Nghĩa là, trong tích tắc Ngài
trở thành vị đại Bồ-tát bất-thối chuyển ở cõi Phật. Nếu tu bình thường, một người
muốn tới cõi Tây-phương phải trải qua hàng tỉ tỉ đời tu hành tinh tấn mới mong được
tới chỗ Hạ phẩm, còn Ngài đã đi tới Thượng Phẩm thành Phật như chuyện cuốc đất,
trồng rau!
Thấy
vậy mới biết không thể nghĩ bàn được cái uy đức vô cùng tận của tiếng Niệm
A-di-đà Phật. Cách đây không lâu, cụ Hạ-Liên-Cư, là một cư sĩ thôi, Ngài chuyên
niệm A-di-đà Phật, sau khi kiết tập hoàn chỉnh bộ kinh Vô-Lượng-Thọ xong, Ngài
mời bạn bè tới nhà uống trà và tuyên bố hôm nay tôi về với Phật. Nói xong, Ngài
đứng chắp tay niệm Phật mà vãng sanh. Con còn giữ tấm hình chụp Ngài khi còn
sinh tiền, đôi giày vải dưới chân phát ra hào quang, bức phong sau lưng hiện ra
hình Phật. Đây là chuyện có thực, con nói không thêm không bớt.
Thưa
cha má, có người niệm Phật mà không về với Phật được là tại vì họ không hiểu sự
thật phũ phàng của thế giới Ta-bà này. Họ tu cho lấy lệ chứ không tin, không thành
tín, họ không muốn về thế giới Cực-lạc. Họ còn nghĩ muốn trở lại làm người để hưởng
phước hữu lậu, muốn làm giàu chứ không muốn đi. Chính vì vậy mà họ không buông
xả được. Tuổi già chờ từng ngày để chết mà họ còn lo cho cháu con chưa thành
danh, sợ người ta chê điều này, mất được khen điều nọ. Họ còn ham cái tiếng tăm
danh vọng hão huyền, lo mình chết sau này ai sẽ cúng giỗ, cái vườn chưa cày, tiền
chưa đòi hết, nợ chưa trả xong… những thứ tơ vò đó quyện chặt lấy thân tâm thì
làm sao thoát ly được. Tất cả những điều đó là những sợi dây cáp bằng thép trói
chặt mình lại trong sinh-tử luân-hồi. Nó dìm mình xuống tận đáy vực thẳm thương
đau, vạn vạn kiếp không trồi đầu lên nổi. Ở đó chỉ âm thầm một thân một mình chịu
đọa đày, không ai tới thăm viếng được. Đây là một sự thật vô cùng kinh hãi, ghê
sợ! Ngàn lần xin cha má chớ nên lơ là. Con đang xin Thầy Ngộ-Thông cho dịch giảng
ký của Hòa-Thượng Tịnh-Không về kinh Địa-Tạng cho người Việt-Nam. Nghe được giảng
ký này ai cũng phải thất đởm kinh hồn. Dù kẻ ngỗ nghịch tới đâu cũng phải quay đầu
lạy Phật, niệm Phật mà cầu sanh Tịnh-độ. Cầu xin duyên lành đến sớm với người
Việt Nam để cứu được người nào hay người đó. (Thư chưa hết nhưng đã dài, xin tạm
ngừng ở đây, thư sau con nói tiếp).
Phật
pháp mênh mông, nhưng nắm được đầu mối ta nhập vào đạo không khó. Hãy đọc hoài
thư con thì tự nhiên hiểu. Mong cha má mau mắn một lòng trung thành niệm A-di-đà
Phật, để được về với Phật. Đừng tham luyến cảnh “mộng huyễn bào ảnh” nữa. Cái
thân này mình cũng sẽ liệng nó thôi. Nhưng liệng rồi, mình phải về với Phật, đừng
lạc vào nẻo khác mà thương đau vô tận đó cha má ạ.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu, ngày 5/6/2001).
CHÂN THÀNH
THANH TỊNH
BÌNH ĐẲNG
CHÁNH GIÁC
TỪ BI
KHÁN PHÁ
PHÓNG
HẠ
TỰ TẠI
TÙY
DUYÊN
NIỆM PHẬT
10 –Lời khuyên song thân
Cha Má
kính thương, (thư này tiếp theo thư ngày 5/6/2001)
Vì khai
triển về ý nghĩa hai mươi chữ trên tượng đức Phật A-di-đà quá rộng, ở đây con cố
gắng thâu tóm lại ngắn gọn. Một người tu Phật nếu hiểu được hai mươi chữ này thôi
cũng đủ đắc đạo vãng sanhï. Một đời tu hành của Hòa-Thượng Tịnh-Không, đến nay đã
bốn mươi hai năm thuyết kinh giảng đạo, tóm lược trong hai mươi chữ này với câu
Phật hiệu A-di-đà. Hàng triệu người khắp nơi trên thế giới ngày đêm tinh tấn tu
hành và từng người từng người giải thoát khỏi tam giới, khỏi lục đạo luân hồi,
vãng sanh Tây-phương cũng từ pháp tu Niệm Phật đó cha má ạ.
Chân-Thành, Thanh-Tịnh,
Bình-Đẳng, Chánh-Giác, Từ-Bi. Khán-Phá, Phóng-Hạ, Tự-Tại, Tùy-Duyên, Niệm-Phật.
Khởi đầu
là “Chân-Thành”, kết thúc là “Niệm-Phật”. “Chân Thành Niệm Phật” là pháp môn thành
Phật. “Niệm-Phật” thật “Chân-Thành” thì chỉ trong một đời này thôi ta sẽ vĩnh
viễn thoát ly bể khổ sinh tử, luân hồi, nghiệp báo. Không niệm Phật không thể
thành Phật được! Chữ đầu và chữ cuối đã thâu tóm cả một pháp môn thành Phật tối
vi diệu, bằng một sự hành trì rất đơn giản, dễ dàng, ai ai cũng có thể tu trì được,
ai ai cũng thoát khỏi tam giới vô an này được. Đó là, chỉ cần Thành Tâm Niệm
A-di-đà Phật là đầy đủ tất cả.
Còn nếu
ta xét về chữ đối chữ thì ý nghĩa cũng hay vô cùng. Hễ có lòng Chân-Thành thì tương
ưng với Phật quang, giúp trí huệ phát sinh làm cho ta nhận thức rõ ràng chân tướng
vũ trụ nhân sinh, không còn mù mờ như trước đây nữa. Cho nên “Chân-Thành” thì được
“Khán-Phá” (tức là hiểu biết), mà đã hiểu biết rồi thì chắc chắn ai cũng cần Chân-Thành
niệm Phật để được thành Phật. Rõ ràng, ai hiểu thấu lý đạo thì phải niệm Phật.
Niệm Phật là niệm Giác, Giác là trí huệ, trí huệ thì hiểu thấu rõ chân lý của
nhân sinh vũ trụ.
Còn “Thanh-Tịnh” nhờ đâu? Nhờ biết “Phóng-Hạ”,
tức là buông xả tất cả. Hễ buông xả càng nhiều càng bớt lo lắng, mọi sự coi như
không thì tự nhiên được Thanh-Tịnh. Tâm càng Thanh-Tịnh thì thúc đẩy ta tiếp tục
buông xả hơn nữa. Đường thành Phật càng ngày càng gần. Muốn được về với Phật hưởng
cuộc đời vô sanh vô tử, vĩnh viễn an vui, không có sự khổ mà bây giờ còn quyến
luyến đủ thứ, nào là: nhà cửa, vợ chồng, con cái, từ đường, tiếng tăm, ruộng vườn,
v.v… thì làm sao mà đi cho được, thì niệm Phật sao cho “ChânThành”! Cho nên
có “Buông-Xả” thì được “Thanh-Tịnh”. Thanh-Tịnh được là nhờ Buông-Xả. Đọc xuôi đọc
ngược, đọc ngang, đọc dọc… nó đều bổ nghĩa cho nhau. Thật là hay! Thật là kỳ diệu!
Thật là lý thú! Hai mươi chữ trên đây nếu hiểu cho thấu, “Khán-Phá” cho cùng lý
thì cũng đủ ngộ được đạo lý rồi.
Thế nhưng
đâu dễ gì mà hiểu thấu! Có lúc vì bận bịu, vì mê muội, không đủ trí tuệ! Cũng có
lúc con người không muốn hiểu, vì hiểu thì họ sẽ mất cái quyền lợi ở thế gian này
đi?!… Chính vì thế mà hàng chục lá thư con gởi về cha má cũng chỉ cầu xin sao
cha má hiểu cho thấu cái lý đạo xuất thế. Vì không dễ cho nên thế gian này hàng
sáu tỉ người, mà đếm được mấy ai chân chính tu hành. Đường thành Phật do chính đức
Thích-ca Mâu-ni nói ra cách đây gần ba ngàn năm rồi, mà mấy ai được phần giải
thoát.
Tu hành
lòng vòng biết bao nhiêu kiếp rồi mới sinh được làm người, như vậy được thân người
là khó. Được thân người mà gặp được Phật pháp lại càng khó hơn. Gặp được Phật
pháp mà biết pháp môn Niệm-Phật thì vô cùng hy hữu! Chỉ có những người đại thiện-căn,
phúc-đức, nhân-duyên may ra mới gặp được! Cha má thử nghĩ, có người suốt đời thờ
Phật, trường trai gần suốt cuộc đời, mà cũng chưa chắc có dịp niệm được tiếng
Phật hiệu để ra đi. Cả cái làng Đông-Lâm, cả cái xã Nhơn-lộc, nói luôn đến cả nước
Việt-Nam, cho đến cả quả địa cầu này, đếm thử mấy người nghe được tiếng Phật hiệu
và tin tưởng làm theo? Cho nên người cất tiếng niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” thật
sự không phải là chuyện thường đâu! Trong khi đó chính cha má lại được con nhắc
nhở, thiết tha từng lời từng câu, giải nói, vạch rõ từng chi tiết một. Rõ ràng
cha má đã có cái thiện-căn phước-đức và duyên lành rất lớn mà không hay. Nếu
cha má vô ý để nó rơi mất đi rồi biết bao giờ mới gặp lại?
Cho nên,
trăm ngàn lần xin cha má phải hiểu cho thấu, hiểu cho tận đáy tâm linh. Nếu không,
khó mà buông xả được, mà không buông xả được là tự mình trói buộc huệ mạng của mình
vào cảnh cùng khổ, bi thảm từ kiếp này qua kiếp khác khó cứu nổi. Đời này hay
hoặc dở là nhờ cái phước những đời trước. Tương lai mạng của mình tốt hay xấu là
nhờ vào sự hiểu biết chân đế của đạo xuất thế gian. Hễ ngộ được lý đạo rồi thì
buông xả dễ dàng để thành Phật. Sự “Buông-Xả” có lẽ cũng chính là điều cha má đang
lưỡng lự, lấn cấn nhứt, cho nên tuổi đời đã xế chiều mà còn chần chừ chưa chịu
hạ thủ công phu niệm Phật. Thấy vậy nên con vừa viết, vừa khuyên, vừa cầu Phật
gia hộ cho cha má sớm thức tỉnh, vì chỉ có thức tỉnh mới phát tâm tìm đường giải
thoát, thì sự giải thoát mới có phần. Thế gian này có mấy ai hưởng được cái phước
báu vĩ đại này, thưa cha má?!
Điều khó thứ nhất là chưa hiểu được cái
khổ của thế giới Ta-bà, cái sướng của thế giới Cực-lạc. Thế giới Ta-bà này quá
khổ, cái gì cũng khổ, tứ khổ, bát khổ, bao nhiêu nghiệp khổ nó quay ta muốn điên
đầu, loạn óc. Cha má nghĩ thử coi, từ nhỏ đến tuổi già xét lại đã có gì thực sự
sung sướng chưa? Sống trong cảnh nhà quê, chiến tranh, giặc giã liên miên, đêm
nằm lang thang khắp chốn, ruộng vườn lo lắng từng bữa nắng, bữa mưa… Có gì
sung sướng đâu? Gia đình mình tương đối giàu có mà còn vậy, huống chi biết bao
người hiện giờ tìm từng miếng cháo lót lòng không có. Tới các xứ Châu-Phi mà
xem, con người nằm chết đói đầy đường. Bên cạnh xác của người thân chết là thân
nhân của họ đang nhìn xác người thân mà đành nằm chờ chết theo!
Khổ ghê
lắm cha má ơi! Khổ kinh khủng lắm chứ có sướng gì đâu! Sống lên trong một thế
giới hận thù nhiều hơn tình thương, giành giựt thay cho lòng bác ái. Từng người,
từng người qua mấy chục năm bù đầu kiếm ăn, sau cùng chui xuống mồ hoang, sự
nghiệp tự phủi sạch sành sanh, một cắc cũng không mang theo được, lại còn âm thầm
theo nghiệp thọ báo.
Thật là
quá khổ! Ấy vậy mà ít ai chú ý tới. Người giàu có, quyền quý, tiền bạc nhiều,
thế lực nhiều, họ không tin điều này thì kệ họ đi, đó chỉ là cái phước báu lưu
lại từ đời kiếp trước thì họ được quyền hưởng! Còn người nghèo xác xơ, tìm ăn từng
ngày, từng bữa chảy mồ hôi hột, mà cũng không tin thế giới này khổ ải thì quả
thật là tội nghiệp! Ở thế gian này người ta vừa mới có cái nhà lớn một chút là
tưởng mình sướng, ngồi lên máy bay được tưởng là mình ngon lành. Thực tế những
thứ này so với cảnh giới Tây-phương đâu có nghĩa lý gì!
Thế giới
Tây-phương Cực-lạc cách đây hơn mười vạn ức cõi Phật độ, (mười vạn ức cỡ mười tỉ
thế giới Phật). Nếu tính theo khoa học ngày nay, từ quả đất này mà bay tới Tây-phương
Cực-lạc theo tốc độ của ánh sáng (ba trăm ngàn cây số một giây), thì phải mất cả
hàng trăm kiếp mới tới, (kiếp chứ không phải đời). Một khoảng cách xa kinh khủng
như vậy mà với một niệm, người trên thế giới Cực-lạc họ tới quả đất trong một
nháy mắt, họ trở lại Tây-phương cũng trong nháy mắt. Nghĩ thử coi cái máy bay của
người thế tục chúng ta bay được vài ngàn cây số trong một giờ có nghĩa lý gì!
Nói về
nhà cửa, ở Tây-phương mọi người đều sinh từ trong hoa sen ở ao Thất-Bảo. Hoa
sen đó là nhà của ta luôn. Hoa sen lớn hay nhỏ tùy theo công phu tu tập của ta.
Trên hoa sen ta muốn lập thành nhà lầu, cung điện, vườn hoa, kiểng cảnh gì đó tùy
theo ý muốn. Hễ muốn như thế nào nó hiện ra đúng như vậy, khỏi cần xây cất gì cả.
Trong kinh nói, khi một người ở thế giới khác bắt đầu phát tâm niệm Phật thì
ngay lúc đó ở ao thất bảo mọc lên một hoa Sen. Nếu mình tinh tấn niệm Phật thì
hoa sen lớn dần. Nếu mình không niêïm nữa thì hoa sen đó héo lần và có thể tàn
luôn. Như vậy tất cả mọi người, hễ ai có niệm Phật đều có phần về Tây-phương. Có
người niệm Phật nhưng không chịu xin về đó, thì hoa sen cứ đứng khơi khơi, nếu
một mai mình sa đọa thì hoa sen tàn luôn, mình mất phần giải thoát.
Có người nghĩ, ở thế gian này mình có nhà cửa hẳn hoi,
ấm cúng, lên Tây-phương ngồi chóc ngóc trong hoa sen nhỏ xíu làm sao chịu được?
Không phải vậy đâu. Kinh A-di-đà, Phật nói, “Trì trung liên hoa đại như xa
luân”, (liên hoa trong ao lớn như bánh xe), đường kính của nó tối thiểu cũng
bốn mươi dặm. Đây là hoa sen cho phẩm hạ sanh. Một dặm lý là chiều dài mút tầm
mắt, nếu tính theo cách đo lường ngày nay thì dài một ngàn năm trăm sáu mươi
hai (1562) mét, như vậy hoa sen nhỏ nhất ở cõi Cực-lạc cũng có đường kính trên
sáu mươi cây số, nghĩa là cỡ bằng hai tỉnh Bình-Định và Gia-lai cộng lại. Hoa
sen của hàng trung phẩm lớn cỡ tám trăm đến chín trăm dặm, tức là cỡ một ngàn bốn
trăm (1.400) cây số. Lên đến thượng phẩm, có hoa sen nó lớn không còn tính được
đường kính. Hãy tưởng tượng nước Việt-Nam từ Nam chí Bắc dài một ngàn hai trăm
cây số. Như vậy một hoa sen hàng trung phẩm thôi nó đã bao trùm cả nước Việt-Nam
rồi. Còn hoa sen của chư vị thượng phẩm thì nước Việt-Nam chỉ bằng một điểm nhỏ
trong hoa sen mà thôi. Cái hoa sen lớn như vậy thì con người ở đó cũng lớn vô cùng
mới tương xứng, mới ở được trên hoa sen. Thân thể con người thế gian này đem so
sánh với thân Phật, có khác gì như con kiến hôi so với con người đâu. Trong nhà
Phật có bài tán thán Phật trước thời công phu như vầy:
A-di-đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang trung hoá Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên.
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu Phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ
đại-bi A-di-đà Phật.
Nghĩa là thân của Phật A-di-đà có sắc vàng kim, tướng
Phật đẹp và phát quang minh không gì có thể sánh bằng. Sợi lông trắng giữa hai
chân mày của Phật uốn cong như năm ngọn núi Tu-Di. Ánh mắt xanh biếc của Phật lớn
bằng bốn biển lớn… Đây là kinh Phật nói, nếu không có như vậy Phật nào nói chơi.
Hãy tưởng tượng sợi lông của Phật A-di-đà đã to bằng năm ngọn núi Tu-Di, ánh mắt
của Ngài lớn như bốn cái biển lớn thì thân thể của Phật sẽ tính làm sao cho xuể.
Cho nên Ngài Khoan-Tịnh đứng dưới ngón chân cái của Phật chỉ thấy một vách núi
cao sừng sững thì có gì gọi là lạ đâu!
Rất nhiều người tu Phật, họ tụng kinh thuộc lòng nhưng
không để ý, nhiều khi hiểu đại khái, thậm chí có người tưởng rằng đây là lời phóng
đại cho oai chứ không có. Chính vì lòng tin không vững mà công phu tu hành khổ
cực cũng chỉ để kết chút duyên thôi, chứ cơ giải thoát vẫn còn xa tít mù
xa.
Giới luật của Phật đưa ra là cấm vọng ngữ, chẳng lẽ Phật
lại nói lời vọng ngữ sao? Chỉ vì cái cảnh giới chư Phật quá thù thắng, quá siêu
tuyệt, quá trang nghiêm, vượt ngoài sự suy tư bình thường của người thế gian, làm
cho con người ta không thể nào hiểu tới. Nếu bây giờ ta cứ đem cái kiến thức
khoa học thế gian quá nhỏ bé này ra để lý luận, thì vô lượng kiếp vẫn không bao
giờ hiểu được Phật. Cái dại của chúng ta là sự cố chấp, tự cao, ngã mạn một cách
khờ khạo, cho nên ngàn đời vạn kiếp không thoát nổi trần lao.
Cái thấy
cái biết của chúng ta so với Phật có khác gì cái nhìn của loài kiến so với con
người. Cái tầm mắt của con kiến hôi chỉ giới hạn trong vòng một phân, xa hơn nữa
nó không thấy gì cả. Ấy thế mà chúng vẫn chấp rằng mình là ngon lành nhất, oai
vệ nhất, không ai bằng. Giả sử có người tới nói với chúng rằng một ngàn cái thân
kiến của tụi bay cũng không bằng cái đầu ngón tay út của ta, chắc chắn chúng không
tin, không bao giờ lãnh hội. Chỉ vì cái chấp trước quá lớn mà ngàn đời vạn kiếp
con kiến vẫn là con kiến, không chuyển hóa được. Kiến thức con người so với Phật
có khác gì hơn!
Về Thọ
mạng, thì con người ở Tây-phương thọ mạng vô lượng, nghĩa là một sanh không còn
bị chết nữa. Kinh Phật nói, “Ngã tác Phật thời thọ mạng vô lượng, quốc trung
Thanh-Văn, Thiên, Nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng” (Vô-Lượng-Thọ,
Phẩm 6, Ng.15). Trong tất cả các cõi Phật, đâu có mấy thế giới mà con người thọ
mạng vô cùng vô tận như Cực-lạc Thế-giới? Chính vì thế mà A-di-đà Phật còn được
gọi là Vô-lượng-thọ Phật. Con người vãng sanh về đó chỉ có an lạc đến vô chung để
tu hành thành Phật, cho nên một người vãng sanh về đó thì là “một đời thành Phật”.
Đứng trên thời gian vô lượng nhìn xuống kiếp người thế gian này, bảy mươi, tám
mươi năm đâu có nghĩa lý gì!
Con người
ở thế gian này chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc so với thế giới Tây-phương Cực-lạc
mà thôi, vậy mà tranh giành, lo lắng, giết chóc, đấu tranh, sầu khổ, ương ngạnh,
hỗn hào, không chịu nghe lời Phật để về với Phật. Vì không tin Phật cho nên đời
này qua đời khác, ông bà, cha mẹ, con cháu cứ kéo nhau đâm đầu vào hầm lửa. Dưới
Phật nhãn, đúng là hành động như loài thiêu thân! Con thiêu thân ngu si cũng có
khác gì con kiến! Con người không tin thọ mạng vô lượng ở Tây-phương Cực-lạc thì
có khác gì hơn loài thiêu thân! Mạng sống của chúng, chỉ kéo dài vài tiếng đồng
hồ, so với con người thì như một giấc ngủ trưa? Ấy thế mà mình nói với nó rằng,
cái thọ mạng phù du của các ngươi chỉ bằng một giờ ta sống mà thôi, làm sao chúng
nó tin!…
Vài chứng
minh khác, trong kinh Phật nói cõi Tây-phương, “Hựu kỳ đạo tràng, hữu Bồ-đềø
thụ, cao tứ bá vạn lý, kỳ bổn chu vi ngũ thiên do tuần” (Vô-Lượng-Thọ, Phẩm
15). “Quốc trung vô lượng sắc thụ cao hoặc bá thiên do tuần. Đạo tràng thụ
cao tứ bá vạn lý”, (Vô-Lượng-Thọ, Phẩm 6, N.40). Một do tuần dài cỡ ba mươi
dặm. Một cái cây trên thế giới Cực-lạc cao bốn trăm vạn dặm. Hãy tưởng tượng nếu
cây đó mọc ở quả đất này thì ngọn của nó cao hơn mặt trăng. Chu vi năm ngàn do
tuần, nghĩa là cỡ hai trăm hai mươi lăm ngàn cây số. Chu vi của quả địa cầu cỡ
bốn mươi ngàn cây số. Như vậy, gốc cây trên thế giới Cực-lạc lớn hơn trái đất cỡ
năm lần. Hiểu được như vậy ta mới thấy sự hùng vĩ, trang nghiêm của Cực-lạc đến
mức không thể tưởng tượng được. Đúng là bất khả tư nghị!
Thưa cha má, nhìn ngay vào cái thế giới
này, nếu suy nghĩ một chút mình cũng thấy những cảnh giới trái ngược lạ lùng, đầy
ngạc nhiên chứ cần chi nói đến Cực-lạc của Phật A-di-đà. Có những thứ bẩn thỉu
con người bỏ ra không dám nhìn tới, thì loài heo nó lại thích, nó sẵn sàng sống
chết với nhau để giành cho được. Những thứ ở đời này con người ham thích, tranh
đấu sống chết để giành giựt phải chăng là những đồ mà chư Phật xa lánh không dám
gần. Con kiến, nếu không chịu xếp cái càng lại, cứ việc tự kiêu, ngã mạn thì ngàn
đời vạn kiếp vẫn là loài kiến. Con heo, vì không lo chuyện trí huệ cứ việc đi
tranh mấy thứ phế thải cho nên ngàn kiếp khó có ngày thoát hóa kiếp heo. Con người
nếu còn chấp trước, tự cho mình là thông minh trí huệ, là chí linh của vũ trụ vạn
loài, dám vỗ ngực tự xưng ngang hàng với trời đất, còn tham luyến trần gian, thì
hầm lửa đang chờ phía trước, làm sao mơ được ngày giải thoát!…
Như vậy,
muốn tu thành Phật mà những trói buộc của thế gian cứ đeo đẳng bên lòng, thì làm
sao có ngày thấy Phật. Tất cả những vinh hoa phú quý, tiếng tăm xưng tụng, môn đăng
hộ đối, giai cấp trên đời này nó đang làm mờ cái chơn tâm của mình, nó bịt kín đường
về cõi Tịnh, nó dẫn dắt mình xuống cái hầm nhơ tội lỗi và khổ đau của ác đạo.
Cho nên,
càng tham luyến trần tục, càng xa lìa bờ Giác. Còn mong mỏi sự nghiệp thế gian,
còn lưu luyến thế thái nhân tình… là tự mình lập nguyện ở lại trong lục đạo
luân hồi để chịu khổ, dứt khoát không thể thoát nạn. Chư Phật thấy vậy chỉ buông
tiếng thở dài chứ làm sao cứu được mình đây?!
Trong bài giảng “Thành-Phật-chi-đạo”, Hòa-Thượng
Tịnh-Không cho biết trong năm 2001, cách đây mấy tháng ở Singapore có cụ Trần-Quang-Việt
vừa mới vãng sanh. Cụ thọ tám mươi sáu tuổi, niệm Phật bốn năm đã được “nhất tâm
bất loạn!”. Năm tám mươi ba, cụ bị già yếu đi không nổi, người ta khuyên niệm
Phật cầu sanh Tịnh-độ. Cụ tin theo và quyết chí tu hành. Hai năm sau đức Phật
Di-Đà hiện ra thọ ký. Cụ năn nỉ Phật cho được vãng sanh sớm, Phật bảo cụ hãy ở
lại thêm hai năm nữa để hỗ trợ cho đạo tràng của cư sĩ Lâm tại Singapore. Ba tháng
trước khi vãng sanh cụ đã biết rõ ngày giờ ra đi và thông báo cho mọi người biết.
Trước ngày vãng sanh, cụ còn ngồi trên xe lăn đến đạo tràng để tham dự phiên họp
tổ chức ban trị sự. Họp xong, vài tháng sau cụ vãng sanh. Công phu tu tập bốn năm,
ngày tám tiếng nghe băng giảng kinh của Hòa-Thượng rồi niệm Phật. Một thời gian
rất ngắn viên thành Phật đạo.
Thưa
cha má, có đạo nào cao hơn Phật đạo? Có pháp môn nào vi diệu hơn pháp Niệm Phật?
Cụ Trần-Quang-Việt viên thành Phật đạo là nhờ cái duyên được người ta khuyên lúc
tuổi già. Cha má đã có cái duyên được con khuyên nhắc, đâu có thua gì cụ đó, ấy
là phước đức rất lớn của cha má mà cha má không hay!
Hãy niệm
Phật liền đi cha má. Hãy buông bỏ tất cả để về với Phật. Từ hồi giờ mình không
biết nên mang cái nghiệp lên vai, bây giờ phải buông xuống, phải bỏ đi, phải biết
liệng cái nhà đi cho con nó làm gì làm, liệng cái chức thân hào nhân sĩ, liệng
cái tiếng thị phi đi. Phải liệng hết để niệm Phật cứu đời mình. Đi, đứng, nằm,
ngồi… không rời tiếng A-di-đà Phật trong tâm. Dùng cái “máy bấm số” con gởi về
để lập công cứ, quyết tâm không để sụt xuống. Đêm nằm còn thức còn niệm. Hít vào:
“A-di-đà Phật”; thở ra: “A-di-đà Phật”. Một lòng xin về Tây-phương, bảo đảm chắc
chắc cha má sẽ được vãng sanh.
Cha Má ơi, hãy quyết tâm lập nguyện đi:
còn một hơi thở còn niệm câu: “A-di-đà Phật”.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu ngày 15/6/2001).
Niệm Phật là pháp môn đệ
nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh trong thời mạt pháp phải siêng năng thọ trì.(Quán‐Thế‐Âm Bồ‐tát).
Phật pháp thị nhân sinh tối cao đích hưởng thụ!(Phương Đông Mỹ)
11 –Lời khuyên song thân
Thưa
cha má,
Tuổi
trẻ mà khuyên họ buông xả thì khó lắm, vì tình trần còn đang lừng lẫy, tương
lai còn đầy tham vọng thì làm sao buông xả được. Còn người khi tuổi đã về chiều,
nhìn lại cuộc đời mới thấy như trò huyễn hóa, nên dễ đi về với đạo, dễ ngộ đạo
hơn tuổi trẻ. Thế nhưng, trong gia đình mình mấy đứa em đã biến chuyển làm con
mừng lắm. Em Thứ đã phát tâm niệm Phật, em An cũng đã bắt đầu phát tâm tu tập. Đây
là hiện tượng cảm ứng rất tốt.
Riêng
gia đình cô Sáu có mấy người ăn chay trường, tu hành khá tốt. Cháu Ngọc-Hiền,
con của Ngọc đi xuất gia, đây là duyên lành khó kiếm và đáng quý. Huy-Hồng cũng
đã phát tâm tu hành rất tinh tấn. Hôm trước ở đây có sư cô Diệu-Anh về Việt-Nam,
con kêu tụi nó tới gặp Sư Cô, khi qua lại Úc, Sư Cô cho con biết là tất cả đều
tinh tấn niệm Phật, An lúc nào cũng thầm niệm Phật, Hồng thì quyết tâm cầu về Tây-phương.
Nghe nói như vậy, con sung sướng không còn gì hơn. Tất cả đều là duyên lành thiện
căn phúc đức từ nhiều kiếp. Trong gia đình mình, nếu ai đọc được những thư này
mà trực nhận thấy được con đường đi thì không còn gì quý hơn. Các em tuổi trẻ mà
còn ngộ đạo như vậy huống chi là cha má, còn chần chờ so đo gì nữa? Cha má hãy
nhanh chóng buông xuống tất cả để lo phần tu tịnh. Sự phát tâm tu hành của cha
má là cái gương cho tất cả con cháu, và là chuyện gấp rút cho chính cha với má,
cần thiết như cứu lửa cháy đầu. Nếu còn trì hoãn, còn chần chờ thì mạng sẽ tiêu,
lúc đó không ai có thể bươi tro nặn lại mình được đâu cha má ạ.
Hôm
nay con xin tiếp tục khuyên cha má buông xảû. Cha má ơi! Lý thường con người luôn
ưu tư về cuộc sống, càng gần ngày mãn phần càng lo âu, có người còn sợ sệt chạy
đầu này đầu nọ để cầu cho sống thọ hơn. Cầu đâu được? Mà để làm chi? Họ chỉ tạo
thêm khổ ải cuộc đời! Đây chỉ là thường tình của người thế gian, của người trần
tục, của những người không hiểu đạo lý giải thoát của Phật. Còn người đã ngộ Phật
pháp thì họ an nhiên tự tại, họ tùy thuận theo tự nhiên, họ coi sự ra đi như một
lần vứt bỏ chiếc áo cũ. Trong một lần giảng Pháp nào đó, Ngài Tịnh-Không nói rằng
người khác thì cần tới vài phút chứ còn Ngài, nếu duyên độ sanh không còn, chỉ
cần một giây thôi Ngài vãng sanh liền. Lời này chính con không nghe nhưng những
người Hoa đã nghe và nói lại, có nghĩa là Ngài đã đạt đến chỗ sanh tử tự tại.
Có lần
thuyết pháp, Thầy Ngộ-Thông nói, “Nếu bây giờ mà đức Phật Di-Đà hú một tiếng, tôi
nhảy phóc lên tay Ngài đi liền, không cần chờ một giây để chào biệt bà con”. Còn
Ngọc, có lần nàng nói, “Nếu niệm Phật mà được Phật cho vãng sanh em đi theo Phật
liền, không đợi anh đâu”. Còn con, giả sử nếu Phật A-di-đà thọ ký cho con hai năm
nữa vãng sanh, con sẽ năn nỉ Ngài cho con một năm thôi, một tháng thôi, hoặc ngắn
hơn nữa càng tốt. Thưa cha má, đó là tình thực chứ không phải đùa vui đâu. “Dương-gian
là cảnh, Tịnh-độ là quê. Sống thì ta ở, Vãng sanh ta về”, có gì đâu mà lo với lắng!
Đây
không phải là sự bi quan yếm thế, mà chính là tinh thần TỰ-TẠI của người
niệm Phật. TỰ-TẠI để vui sống, TỰ-TẠI trước hoàn cảnh, TỰ-TẠI
ngay trong giờ phút lâm chung. Có như vậy mới đáp ứng đúng theo yêu cầu của Phật:
“Thị nhơn chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A-di-đà Phật Cực-lạc
quốc độ”, (Kinh A-di-đà). Có người tu hành cả đời mà ngày ra đi vẫn còn đau khổ
mê muội, mù mù mịt mịt, chẳng biết đi về đâu, trong khi nếu mình được Phật thọ
ký thì dại gì chần chờ, do dự, dại gì còn muốn lăn lộn thêm trong cảnh trần lao
này làm chi cho khổ! Đường đời đầy cay nghiệt ta lỡ sơ ý một chút cũng có thể
sa hố, thì bá thiên vạn kiếp dễ gì gặp lại Phật đây!?
Một
trong những chất độc nguy hiểm nhất của chúng sanh là LÒNG THAM. Sự lo âu
cũng chính vì lòng tham mà sinh ra. Tham tiền tài, tham danh sắc, tham sự nghiệp,
tham luyến ái, tham hưởng thụ… đưa đến tham sống sợ chết. Tất cả những cái
tham đó quay tâm hồn con người điên đảo đảo điên, tối tăm mù mịt. Càng lo càng
sợ, càng bị dồn vào ngõ cụt, bị khốn đốn không lối thoát, làm cho cuộc sống đã
khổ lại càng thêm khổ, có ích gì đâu!? Đã biết như vậy thì sao còn khổ tâm bám
lấy nó!…
Hãy
quyết tâm buông xả đi cha má, vì có cố tình gìn giữ thì cũng không giữ được,
sau cùng rồi cũng vẫn là con số “0” to tướng, chớ chẳng có lấy được cái
gì cả ở cõi trần này đâu. BUÔNG-XẢ cũng đi đến ngày tàn cuộc, BÁM-LẤY
cũng đi đến ngày tàn cuộc, cũng chỉ sống bấy nhiêu năm đó thôi, nhưng buông xả
mình sẽ được tất cả; không buông xả mình sẽ mất tất cả. Được gì? Được Vãng sanh
về với Phật. Mất gì? Mất huệ mạng trong ba đường ác. Hồi giờ mình mang lên nhiều
quá rồi, bây giờ trực tỉnh được sự thật của chân tướng thì phải nghỉ ngơi, phải
biết liệng gánh nặng trên vai xuống đất để mình bước đi thong dong “Tự-Tại”.
TỰ-TẠI! Theo sau “Phóng-Hạ”
là “Tự-Tại”. Hễ buông-xả thì tự-tại. Nếu cha má nghe lời con, mạnh dạn buông xuống,
tất cả mọi duyên đều không cần nữa. Nên hư mặc kệ, sự đời bất cầu, bất cần. Con
cái ai lo được thì lo, không lo thì thôi!… thì sự TỰ-TẠI tức khắc sẽ đến ngay
với cha má. An nhiên, nhàn hạ để sống những tháng ngày còn lại thật ý nghĩa, và
sau cùng cha má hưởng được một phước báu vĩ đại mà hàng tỉ người trên thế gian
này không mơ tới được, đó là vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, vĩnh viễn xa lìa
sanh tử luân hồi. Hết báo thân này nếu mình về sống trong thế giới của Phật, mình
sẽ là một vị Bồ-tát, ngày ngày thần thông biến hóa thiên bá ức hóa thân, đi khắp
mười phương để cúng dường chư Phật. Có sự vui thú khoái lạc nào sánh bằng với cảnh
Tây-phương Cực-lạc? Có cái pháp tu nào có khả năng đưa một chúng sanh từ địa vị
phàm phu tội lỗi nhảy thẳng lên đến bậc Bất-Thối như pháp niệm Phật đâu! Được vậy
là nhờ sự gia trì của Phật A-di-đà, ngoài ra không có một năng lực nào mơ tới sự
cứu độ quý hóa này cả.
Thế
nhưng, nếu tinh thần không vững, chỉ cần lưỡng lự một tích tắc là có thể mất phần.
Cha má nên nhớ kỹ điều này, ta có về với Phật được hay không cũng chỉ xảy ra
trong tích tắc thời gian mà thôi. Quyết đi thì ý chí phải kiên định, tâm thái
phải tự tại, tinh thần phải trong sáng, phải niệm được câu “A-di-đà Phật” trước
giờ phút lâm chung thì “A-di-đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền” tiếp
dẫn về Tây-phương. Lưỡng lự thì tâm hồn lo lắng, tinh thần hoảng hốt, ý chí
chao đảo, tâm trí rối bời, Phật quang tan biến, oan gia trái chủ trùng trùng điệp
điệp bủa vây, thì không thể nào thoát khỏi cảnh giới xấu ác.
Trước giờ mình chưa hiểu hoặc hiểu
sai đạo Phật, mình làm lung tung. Nay đã hiểu đuợc sự vi diệu thù thắng thì hãy
ráng hết sức bám lấy cơ hội giải thoát này. Trăm ngàn vạn kiếp khó mong gặp lại
chứ không phải dễ dàng đâu cha má ạ! Đừng bao giờ hy vọng rằng đời sau mình sẽ
tu tiếp, đừng nghĩ bây giờ tu “tà-tà” để hưởng phước thế gian rồi trước sau cũng
sẽ tới! Đừng coi chuyện này là đơn giản! Đừng nên tu theo kiểu Nhân-Thiên, cầu
mong trở thành “Hiền-Nhân Quân-Tử” hết đời này qua đời khác để chờ dự Hội-Long-Hoa
của đức Phật Di-Lặc. Năm sáu trăm triệu năm nữa không phải là thời gian cho mình
thử thách bừa bãi đâu! Trong kinh Phật dạy rõ ràng, một thần thức trải qua một
cuộc cách ấm là tất cả công phu tu hành dang dở đều bị xoá sạch. Qua một đời khác
phải làm lại từ đầu. Thiện căn phước đức dù có nhiều đi nữa, nhưng không gặp cơ
duyên cũng đành tan tành theo mây khói!
Cha
má cứ nhìn quanh thì thấy ngay hiện tượng này, những người giàu có, thế lực, thông
minh… đều là những người kiếp trước có tu hành, có tạo phước. Đời này được hưởng
phước có mấy ai chịu tu hành. Sẵn có tiền ngày ngày nhậu nhẹt, trác táng, phóng
đãng… họ đang tạo ác nghiệp trùng trùng, thì mình cũng đoán được tương lai họ sẽ
đi về đâu? Tu hành mà chỉ cầu cho được làm người thì ngày gặp Phật có lẽ là
chuyện xa vời vô thực! Một khi chuyển thân cách ấm thì thần thức mê loạn mù mịt,
tất cả chuyện dĩ vãng tiền kiếp quên hết. Thời mạt pháp, cái cơ duyên gặp chánh
pháp phiêu phỏng như hoa ưu đàm, bên cạnh đó cơ hội tháp tùng theo tà thuyết
ngoại đạo thì tràng giang đại hải. Đó là chưa kể đến chuyện oan gia, trái chủ,
nghiệp chướng, ma oán chúng không bao giờ để mình yên thân thọ hưởng ở ba đường
thiện lành (Trời-Người-A tu la) đâu cha má ạ.
Cho nên
có được gặp Phật, về với Phật hay không nằm ngay trong tự tâm thanh tịnh, ở lòng
chí thành chí thiết, ở ý chí kiên cường dũng mãnh, quyết định dứt khoát theo Phật
không lay chuyển của mỗi chúng ta ngay bây giờ, trong đời này, chứ không ở đâu
xa vời cả. Quyết đi thì buông xuống mọi ơn nghĩa ràng buộc của thế giới Ta-bà này
đi, né tránh càng nhiều càng tốt những liên hệ thế gian, thì tự nhiên ta thấy
ngay sự tự-tại. Tự-tại ngay trong cuộc sống, tự-tại trong mọi hoàn cảnh, tự-tại
về với Phật. Người tu hành chân chính chắc chắn sẽ hưởng được cái phước báu này.
Người tu hành không chính pháp thường bị những triết lý hoa mỹ phủ dụ hay đi tìm
sự hưởng lạc tạm bợ thế gian, hoặc bị chóa mắt bởi những tư tưởng tự tôn, làm tăng
thêm tham-sân-si-mạn, tạo thêm cái nhân đọa lạc khổ đau về sau.
Tu hành,
nhất định ta phải vạch mục đích cho đúng, nhất định phải biết xa lìa cái danh hão
huyền của trần tục, phải tránh những triết lý phiêu lưu vô chứng cớ, phải biết
bỏ những quyền lợi nhỏ nhặt thế gian, phải đoạn trừ những sự cầu tài cầu lộc, cầu
giàu, cầu phước, v.v… vì những lời cầu nguyện đó chính là sự tự nguyện ở lại
trong sinh tử luân hồi, tự nguyện chịu đọa lạc mất phần giải thoát đó.
Hẳn
nhiên, con cũng hiểu được rằng hồi giờ cha má sống với láng giềng, ân nghĩa, nợ
nần, tình cảm… quá nhiều, khó mà dứt đoạn được. Tuy nhiên, không dứt được mình
cũng phải dứt, vì đây là điều kiện rất quan trọng. Dứt đâu có nghĩa là trốn chạy,
cách ly họ đâu, mà là đừng cầu vọng, tham đắm đến nữa. Hình thức sinh hoạt thì
bình thường nhưng trong tâm mình phải buông xả. Nhứt thiết duy tâm tạo. Tâm đã
buông xả thì tự nhiên hoàn cảnh sinh hoạt cũng phải chuyển biến theo. Tất cả đều
do tâm mình định đoạt, mình quyết tâm thì tâm mình chuyển đổi hoàn cảnh, mình
không quyết tâm thì hoàn cảnh nó quay mình như chong chóng, không bao giờ thoát
ly được đâu. Hàng trăm, ngàn, vạn, người đã chuyển được rồi chứ không phải mình
là người đầu tiên thì không có lý do đổ thừa cho hoàn cảnh được.
Thưa
cha má, phàm con người thường cứ chạy theo thói tục, dựa theo tập lệ, thói quen
mà sống. Hễ “ông bà làm sao thì ta làm vậy”. Nhưng xét cho kỹ thì ông bà ta có
liễu ngộ được sanh tử luân hồi chưa? Đây là vấn đề rất nghiêm chỉnh, là sự tự tỉnh
thức của mỗi cá nhân để tìm phương giải thoát. Cha má cứ xét coi, có phải là hầu
hết những hành động của con người đều nhằm gây thêm ác nghiệp, đều mang ý nghĩa
muốn chui vào chỗ tăm tối chứ không muốn tìm nơi sáng sủa để đi phải không! Ví
dụ như đi chùa lạy Phật thì để cầu trúng số, cúng dường để xin phước, làm thịt
heo, bò đem tới các miễu đình cúng để cầu buôn mau bán đắt, đem thịt cá cúng vái
ông bà, đốt giấy vàng bạc để gởi xuống âm phủ cho người thân, tích lũy âm tiền
trong cõi u minh, nguyện gặp người thân yêu nơi “suối vàng”, v.v… tất cả những
việc làm đó có phải là những sự tạo ác không? Có phải là cầu cho ông bà xuống âm
phủ mà sống không? Có phải là mình cũng tự nguyện xin chui vào địa ngục để thọ
khổ đau không?
Trong một thư nào trước con có nói về
lời nguyện. Lời nguyện vô cùng quan trọng, nó có sức mạnh rất lớn có thể đánh bạt
nghiệp chướng khác để dẫn dắt mình đi theo cái nguyện lực đó. Vì cái sai lầm của
tư tưởng và lối sống, vô tình con người cuối cùng thường bị lạc vào chỗ tăm tối
nhất trong lục đạo pháp giới mà không hay, để chịu đựng suốt những chuỗi kiếp số
lao đao lận đận trong sinh-tử luân-hồi, trong ba đường ác đạo khổ đau như theo
kinh Phật nói “nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn”! Khi không biết ta cứ tự
nhiên dựa theo thế tục mà mặc tình tạo nghiệp! Đây là lối sống theo hiện tượng,
hoàn toàn dựa theo sự thịnh suy thế gian. Thấy giàu thì tham, thấy mạnh thì
theo, thấy hơn thì đắc ý, thấy thắng thì cao ngạo, thấy giỏi thì ỷ thị… Tất cả
những hiện tượng đó tạo ra biết bao nhiêu sự tranh đấu, ganh tị, thị phi, tạo
biết bao nhiêu nghiệp ác trên đời. Cho nên càng sống càng tạo nghiệp chướng,
nghiệp chướng càng cao càng nhiều nhân xấu, chắc chắn phải chịu quả xấu. Biết
bao giờ mới trả cho hết nợ đây? Hiểu được vậy mới thấy sợ hãi mà mau mau tỉnh
ngộ đường tu hành cha má ạ.
Có
nhiều nơi chủ trương chuyên cầu xin được bổ báo phước lành. Cầu ở đâu? Quỷ Thần.
Phước lành gì? Phước hữu lậu. Một lòng nguyện theo Quỷ Thần, một dạ xin ở lại làm
người hưởng phước, tự nguyện tiếp tục lăn lộn trong lục đạo khổ não, chấp nhận
sanh tử triền miên để tạo thêm nghiệp báo, thì làm sao mà giải thoát được đây!?
Có rất nhiều cách tu hành chủ trương như vậy, bây giờ cha má đã nghe được Phật
pháp rồi thì nghĩ sao về chuyện này!? Tu đó có giải thoát được không? Sao bằng
ta cứ y cứ theo đại nguyện của Phật A-di-đà một lòng một dạ niệm “A-di-đà Phật”,
nguyện sanh về Thế-Giới Cực-lạc với Phật, để một đời thành Phật có hơn không?…
Thưa
cha má, chúng ta sống phải biết giựt mình tỉnh ngộ, vạch rõ cái gì đúng, cái gì
sai. Phải mạnh dạn làm cách mạng tự thân để giải thoát cho chính mình. Chỉ có mình
mới cứu được đời mình. Mình chịu quay đầu thì được cứu. Mình cứ bướng bỉnh lao
theo thế tục thì mặc dù Phật có vạn đức vạn năng cũng cứu không được. Cuộc đời
này, càng về sau càng rơi vào cảnh khốn nguy cho huệ mạng. Con thường nói, thời
mạt pháp này càng ngày càng dễ sợ lắm, chỉ cần sơ ý một chút là bị hại liền.
Ngoại đạo đã bủa lưới khắp nơi. Một chúng sanh nếu không có lập trường vững, không
có đường đi rõ ràng, không chịu nương theo lực gia trì của Phật thì khó mà thoát
khỏi tầm ảnh hưởng đó đâu.
Hiện
tượng này càng ngày càng rõ rệt, trên thế giới liên tục nẩy sinh ra những hiện
tượng quá lạ lùng, thu hút hàng triệu người cuồng tín, ác có, thiện có, không
biết con người rồi đây sẽ đi vào đâu! Từ mấy ngàn năm trước trong kinh Thủ-Lăng-Nghiêm
đức Phật Thíchca đã nói rất rõ chuyện này, trong thời mạt pháp của Phật thì tà
giáo ngoại đạo nổi lên rất nhiều, họ cũng tự xưng là Phật, là Vô-Thượng-Sư, là
Tiên Thánh tái thế. Thà họ làm ác đi cho mình dễ thấy, nhưng có nhiều lúc họ cũng
khuyên làm lành lánh dữ, vạch ra những chân lý sáng láng làm ta khó biết được
chân tướng, thành thử con người non dạ cứ đâm đầu chạy theo. Một khi đã theo rồi
thì tinh thần tư tưởng bị khống chế, bị mê muội, không còn phân biệt được trắng
đen nữa. Nhất là những người háo thắng, ưa thần thông, thích phép lạ, ưa tin đàn
cơ, thích huyền bí, v.v… khó mà thoát khỏi cảnh trầm-luân. Tu hành ai cũng muốn
giải thoát, nhưng vô ý đã bị lạc đường xa lắc mà không hay. Vạn lần xin cha má
mau mau tỉnh ngộ chuyện này, ngay lập tức trở về với Phật, một lòng niệm Phật,
nhờ lực gia trì của Phật A-di-đà mới tránh được nghiệp chướng, hầu cầu thoát khỏi
cạm bẫy nguy hiểm.
Trong
thư trước con có nói sẽ kể cho cha má nghe câu chuyện một người niệm Phật sáu
trăm ngày không ngồi, không ngủ, không nằm. Chuyện này Hòa-Thượng Tịnh-Không giảng
bằng tiếng Tàu khoảng cuối năm ngoái, con chưa kiểm chứng rõ được. Người đó là đàn
ông chứ không phải đàn bà. Lúc đó Ngài nói bốn trăm ngày, tính đến nay thêm sáu
bảy tháng nữa, như vậy cũng khoảng sáu trăm ngày. Người đó vẫn còn sống ở bên Tàu,
tỉnh gì con quên rồi. Hòa-Thượng muốn mời ông ta qua đạo tràng bên Singapore để
tu, vì đạo tràng này mở cửa hai mươi bốn trên hai mươi bốn và họ phục vụ ăn uống
đầy đủ, khỏi cần lo chuyện nấu nướng gì cả. Ngài dặn người tu ở Singapore hãy
thay phiên nhau tu chung với ông ta để coi thử ông ta có “lén” ngủ không! Riêng
chính con chưa thấy ông ta vì con ở Úc, nhưng con tin viêïc đó có thể là thực.
Trong sách vở Phật giáo thấy có nhiều vị Sư hai mươi, ba mươi năm không ngủ. Mới
nghe qua khó ai tin được, nhưng bây giờ ngay trong thực tế đã có người đang thực
hiện, ta mới biết những công phu kia không phải viển vông! (Con cũng vừa coi một
bà chín mươi bốn tuổi vãng sanh, họ quay phim được trọn vẹn từ đầu tới cuối, lần
tới con sẽ kể tường tận.)
Thưa
cha má, trong kinh Phật nói chỉ cần mười câu Phật hiệu thôi cũng đủ vãng sanh
thì tại sao người đó phải khổ nhọc công phu như vậy? Đây chính là sự quyết tâm
kiên dũng của người niệm Phật. Thường người niêïm Phật họ chỉ có một đường đi, đó
là về cho được thế giới Tây-phương Cực-lạc. Hễ về tới Tây-phương rồi thì chắc
chắn một đời sẽ thành Phật. Nếu người niệm Phật đến “Nhất-Tâm-Bất-Loạn” thì không
cần nói, nhưng lỡ không đạt đến cảnh giới này thì cái giá chót cũng phải niệm được
mười câu để “Đới-Nghiệp-Vãng-Sanh”. Nhưng khi lâm chung ta thường đau đớn, chóng
mặt, ồn ào, rối ren, con cháu khóc than… nhiều khi mình quên mất.
Cho
nên, người niệm Phật thường phải sắp xếp người hộ niệm khi lâm chung. Hộ niệm là
người còn khoẻ niêïm Phật hộ cho người ra đi. Phải rót vào tai người lâm chung
tiếng Phật hiệu để giúp cho người ra đi giữ được chánh niệm. Phải hộ niệm liên
tục trước giờ đi và tiếp tục niệm thêm tám tiếng đồng hồ nữa sau khi tắt thở mới
chắc chắn được. Hẳn nhiên, đây là sự cẩn thận tối đa, chứ thực ra nếu đã được vãng
sanh thì chỉ chớp mắt là họ đã đi về tới Tây-phương rồi. (Chuyện này trong thư
sau, khi kể lại chuyện bà lão chín mươi bốn tuổi vãng sanh, con sẽ xin nói rõ
thêm).
Nếu
gia đình tất cả con cháu hiểu đạo thì đỡ lo. Gặp gia đình con cháu không tin Phật
thì có thể bị khó. Trường hợp này người niệm Phật phải khôn khéo tìm phương giải
quyết, như cố gắng khuyên con cháu tu hành, giảng giải Phật pháp cho nhiều để họ
hiểu, xét coi những đứa con có ngỗ nghịch cãi lời không, v.v… nhưng dù sao chính
mình phải hạ thủ công phu cho đắc lực, nếu không được “Nhất-Tâm-Bất-Loạn” thì cũng
phải “Niệm-Phật-Thành-Thục”. Nghĩa là phải niệm liên tục ngày đêm, niệm cho tiếng
Phật hiệu nhập vào tâm. Đi, đùứng, nằm, ngồi, ăn ngủ đều trong tiếng niệm Phật.
Đừng để tâm mình xen tạp những việc khác, cố gắng buông xả vạn duyên. Tập một
thời gian thì ngay trong giấc ngủ mình vẫn niệm Phật được, lúc đó sẽ an tâm hơn.
Khi chung thời nếu con cháu quá ngỗ nghịch, bất hiếu, hay ngu si cứng đầu thì mình
vẫn còn tỉnh táo tìm chỗ thanh vắng, yên tịnh để vãng sanh. Ví dụ như tới chùa,
hoặc tìm cách cho mấy người ngỗ nghịch đi chơi xa, ngay những người quá thương
mình mà không hiểu đạo cũng là một trở ngại rất lớn!
Khoảng
năm 1999, ở Hoa-Kỳ có một vị Sư khi vãng sanh Thầy chỉ nói bóng gió vài câu với
đệ tử rồi lén vào nhà kho quét sạch sẽ, mở thùng giấy ngồi kiết già mà viên-tịch,
sáu tháng sau người ta mới phát hiện mà thân xác vẫn còn nguyên vẹn. Phật tử muốn
xin giữ nhục thân để thờ nhưng chính phủ không cho phép. Tại sao thầy đó phải
trốn? Nhiều Sư Ni giải thích là Thầy làm như vậy để người ta thấy sự vi diệu của
pháp Phật, nhưng riêng con nghĩ cũng có thể Ngài sợ những đệ tử chưa hiểu đạo,
khi thầy vãng sanh họ thương mà khóc la thì hư chuyện, cho nên thà âm thầm đi
trước rồi để nhục thân lại ai làm gì làm thì hay hơn!
Hơn
nữa, dù đã thành thục, nhưng có người vẫn thấy chưa chắc vì lỡ gặp xui xẻo bất
ngờ thì sao? Đây chỉ là chuyện xui xẻo có ai ngờ được, thì người niệm Phật cũng
phải cố gắng để tâm. Hãy thực tập, hễ gặp bất cứ chuyện gì xảy ra, dù bất ngờ,
nhỏ lớn, buồn vui… thay vì la hét, than thở, nói lọng liệu… thì hãy “A-di-đà
Phật”. Tất cả mọi sự mọi điều đều lấy câu A-di-đà Phật ra giải quyết, cách tập
này cũng có thể đáp ứng một phần nào sự cố bất khả kháng vậy….
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con Kính thư.
(Viết xong,19/7/2001 (tiếp
theo thư trước 15/6)).
Lục Hòa Kính:
- 1.
Kiến Hòa đồng giải; - 2.
Giới Hòa đồng tu; - 3.
Thân Hòa đồng trụ; - 4.
Khẩu Hòa vô tranh; - 5.
Ý Hòa đồng duyệt; - 6.
Lợi Hòa đồng quân.
Giáo, Lý, Hành, Quả. Tín, Giải, Hành, Chứng.
87
Cha má
kính thương,
Trong
thư này, như đã hứa từ thư trước, con sẽ kể cha má nghe chuyện một bà cụ chín mươi
bốn tuổi vãng sanh lưu lại ngọc xá lợi. Vãng sanh là chuyện thường tình như những
chuyện khác, giống như những cuộn băng và sách con gởi về cho cha má về niệm Phật
vãng sanh lưu xá-lợi. Nhưng đặc biệt chuyện vãng sanh này đã được họ quay phim
tại chỗ từ đầu tới cuối. Bà cụ không những lưu lại xá-lợi mà còn lưu lại cả đến
“XÁ LỢI HÌNH PHẬT”, một hiện tượng rất hiếm có. Bà cụ ấy tên là Triệu-Vinh-Phương,
người Trung-Hoa, bà bình tĩnh niệm Phật đến hơi thở cuối cùng, đến giây phút cuối
cùng bà vẫn còn mở mắt nhìn tượng Phật A-di-đà trước khi từ từ nhắm lại ra đi.
Hồi giờ nghe nói thì nhiều, ít khi nhìn thấy, khi đã nhìn thấy rõ ràng trước mắt,
từng chi tiết một con không tránh khỏi ngạc nhiên về sự vi diệu của tiếng niệm
Phật. Chính con đã từng nghe qua, từng niệm Phật, đã từng nhìn thấy rất nhiều hình
chụp lại. Nhưng nhìn hình ảnh, đọc sách chỉ có cảm giác bình thường, còn thấy được
hiện tượng đang diễn biến thật là cảm kích.
Bà cụ
Triệu-Vinh-Phương được cái phước đức to lớn là nguyên cả một đại gia đình đều
tu Phật, hiểu Phật, đều niệm Phật, cho nên họ đã làm đúng theo như kinh Phật chỉ
dạy. Bà biết được ngày giờ ra đi, ba ngày trước ngày vãng sanh con cháu đều tề
tựu về cùng nhau hộ-niệm cho bà. Cuộc vãng sanh này được quay phim để lưu lại làm
kỷ niệm. Vô tình cuộn phim đó được phổ biến rộng ra ngoài, Hội-Tịnh-tông họ làm
thành VCD để phổ biến, nhờ thế mà con được coi. Tụi con đề nghị chuyển qua tiếng
Việt và sang qua video cho người Việt-Nam, khi nào có con sẽ tìm cách gởi về
cho cha má coi. Đây là chuyện thực sự mới vừa xảy ra. Vì hoàn toàn là tiếng Tàu
cho nên con chỉ xem hình thôi, không hiểu được nhiều chi tiết. Con xin kể lại được
tới đâu hay tới đó, khi nào dịch được ra tiếng Việt sẽ hay.
Cuốn
phim quay bắt đầu từ lúc hộ-niệm. Bà cụ vẫn tỉnh táo trên giường với tấm trải màu
trắng(?), bà đắp cái mền hơi có bông màu vàng nhợt(?). Ban đầu bà ngồi, người
ta chêm mấy cái gối sau lưng và bà cụ ngồi dựa vào thành giường niệm Phật. Phía
sau đầu giường có đặt một bàn thờ nhỏ với hình Tây-phương tam Thánh (tức là Di-Đà
– Quán-Âm – Thế-Chí). Bà cụ cầm xâu chuỗi 108 hột màu nâu sậm vừa lần hạt vừa niệm
theo mọi người. Chung quanh bà có khoảng hơn mười người hộ-niệm, có lẽ đều là
người trong gia đình(?). Một người đàn bà, có lẽ là con gái của cụ, tuổi cỡ bốn
mươi ngồi bên trái giường để giúp bà cụ trở vai, sửa mền gối. Một người đàn ông
tuổi cỡ năm mươi, có lẽ là con trai của cụ, ngồi bên phải giường cầm tấm hình
Phật A-di-đà để trước mặt bà cụ cách cỡ gần một thước, để cho bà cụ nhìn. Nếu bà
cụ có xoay mặt thì ông cũng di chuyển bức tượng theo cho bà thấy. Tấm hình Phật
A-di-đà không phải là bức tượng hẳn hoi mà là tấm hình in trên trang bìa của một
quyển kinh nào đó. Tất cả mọi người đều bình tĩnh, thành tâm niệm Phật. Họ chỉ
niệm bốn chữ “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”, họ niệm hơi nhanh, hai giây đồng
hồ cỡ ba tiếng Phật hiệu. Bà cụ cũng điềm nhiên niệm Phật với mọi người. Mới nhìn
vào ai cũng cứ tưởng đó chỉ là buổi niệm Phật bình thường, và giả như chưa biết
trước sự việc thì không ai biết đây là buổi hộ niệm để đưa bà cụ về Tây-phương
với Phật.
Buổi hộ-niệm
hình như trải qua ba ngày, nhưng hai ngày đầu họ chỉ quay sơ qua cảnh trí thôi.
Đến giờ gần lâm chung họ quay rất kỹ. Từ đầu tới lúc lâm chung nhìn nét mặt bà
cụ không thấy gì là người bệnh cả, vẫn còn khỏe vì ánh mắt bà cụ vẫn tươi tỉnh,
trong sáng. Nét mặt hồng hào, an nhiên, không có một chút nào tỏ vẻ đau đớn, hoảng
hốt, châu mày hay mất bình tĩnh. Lúc bà còn ngồi dựa gối thì hai tay lần chuỗi
niệm A-di-đà Phật. Sau đó ít lâu bà xoay người nằm bên phải, bà nhẹ nhàng để xâu
chuỗi xuống nệm và chắp hai tay niệm Phật. Khoảng một phút trước lúc ra đi bà cầm
xâu chuỗi lên tròng vào cổ tay phải bốn vòng để khỏi rớt, rồi chắp tay tiếp tục
niệm Phật theo mọi nguời. Một giây trước khi ra đi mắt bà vẫn còn mở nhìn vào tấm
hình Phật A-di-đà trước mặt. Ngay tới thời điểm ra đi bà từ từ nhắm lại, hai
tay từ từ lỏng ra đặt xuống nệm, nằm theo tư thế kiết tường, môi bà cụ vẫn mấp
máy niệm Phật chậm dần rồi ngưng luôn. Người ta để yên bà tư thếđó, nhẹ nhàng đắp
tấm vải vàng lên đến vai rồi tiếp tục niệm Phật luôn tám tiếng đồng hồ nữa.
Trong lúc vừa lâm chung thì tự nhiên cây mai trước vườn nở ra mấy cái hoa màu
trắng, có vài con chim bay đến đậu trong khung cửa ca hót…
Sau đó,
họ vẫn tiếp tục niệm Phật cho đến lúc tẩm liệm. Khi liệm xác, thân thể bà vẫn mềm
mại, nét mặt vẫn tươi tỉnh như đang nằm ngủ. Về việc thiêu, cái lò thiêu ở
Trung-Quốc có hình dáng giống như cái chum trộn hồ xây nhà vậy, cao cỡ một thước
rưỡi, đường kính cỡ một thước.
Một
chuyện rất đặc biệt xảy ra là sau lễ hỏa thiêu, khi người ta mở chum ra, bới
tro lên tìm được một số xá lợi, đồng thời phát hiện ra một khúc xương đã biến
thành xá lợi có hình dạng giống hệt một tượng Phật A-di-đà cao cỡ chừng ba tấc.
Họ quay rất rõ, con nhìn cũng rất rõ. Con rất ngạc nhiên về việc này. Con sợ có
sự lầm lẫn nào không cho nên hỏi đi hỏi lại mấy người cùng coi, họ xác định là
xá lợi hình Phật thật sự. “Tượng Phật xá lợi” đó trên đầu tóc xoắn hình trôn ốc,
một tay để ngang ngực, một tay xuôi thẳng xuống, thấy được rõ ràng cả năm ngón
tay. Hai chân Phật đứng thẳng vững vàng giống y hệt như một tượng Phật đúc vậy đó.
Riêng khuôn mặt phía bên phải bị chảy méo lại một chút và dính liền với một mảnh
xá lợi khác. Còn nữa, có một đốt xương,(có lẽ là xương sống?),lại biến thành một
đài sen có đầy đủ cánh hoa. Khi nhặt đài hoa giữa đống tro người ta thấy có một
viên xá lợi xanh biếc nằm trong đài hoa. Đem tượng Phật đặt vào đài hoa sen thì
nó vừa vặn giống như là chọn lựa vậy. Lão cư- sĩ Triệu-Vinh-Phương vãng sanh được
thâu hình để lại và họ đặt tên là “Triệu-Vinh-Phương Lão Cư-Sĩ Vãng-Sanh Lục-Ảnh”.
Thưa
cha má, câu chuyện này con kể ra đây để cha má hiểu được sự linh diệu vô cùng vô
cực của Pháp môn niệm Phật. Ở đây, con nhìn thấy rất nhiều những hình ảnh họ chụp
những trường hợp vãng sanh. Con biết rất nhiều những người vãng sanh về thế giới
Cực-lạc của Phật. Nhưng những tấm hình dù sao đi nữa nó cũng chỉ là một ảnh chết
cứng, những bài viết dù sao cũng chỉ là một mớ chữ để đọc, khó gây được một cảm
xúc mãnh liệt bằng như chính mắt mình xem lại những đoạn phim hiếm có này. Vì
sao lại hiếm có? Vì người chết đâu có nhiều đến nỗi người ta phải chuẩn bị quay
phim. Hơn nữa khi vãng sanh họ rất cần sự thanh tịnh trang nghiêm. Gia đình ít
khi cho quay phim hay chụp hình trong những giờ phút quan trọng nhất này, ngay
cả những vị sư đôi lúc họ cũng không cho phép làm ồn nữa là khác. Chắc chắn một
vài tháng nữa khi nào cuộn phim được chuyển dịch ra tiếng Việt con sẽ gởi về
cho cha má và gia đình coi tận mắt. Một cuộc vãng sanh thực sự chứ không phải đóng
tuồng.
Vãng-sanh
về với Phật là chuyện có thật một trăm phần trăm. Kinh Phật nói ra đúng thật một
trăm phần trăm. Tu hành đúng cách đúng pháp môn trong một đời này được về sống
trong thế giới của Phật là chuyện thực tế một trăm phần trăm, nhất thiết không
phải hão huyền viển vông. “Niệm Phật thành Phật” thực sự đã có bằng chứng
rõ ràng cụ thể, từng việc từng việc đều đúng y như Phật nói trong kinh, không
sai chút nào cả.
Bây giờ
câu hỏi đưa ra là: Ta có muốn về với Phật hay không? Ta có muốn vĩnh viễn
hưởng cuộc đời vô cùng khoái lạc, vô cùng trang nghiêm, vô cùng tự tại, thần thông
diệu dụng, tuyệt đối vĩnh ly khổ ách, vĩnh ly sanh tử, sống đến vô hậu vô chung
tại cõi Tây-phương Cực-lạc hay không mà thôi? Không muốn đi thì thôi khỏi nói.
Còn muốn đi thì vấn đề đặt ra là: “Làm sao ta được vãng sanh? Ta tu cách nào?
Làm sao thoát cho được nợ trần? Làm sao ta được đắc đạo về với Phật?
Thưa
cha má, đây là những câu hỏi vô cùng nghiêm chỉnh và thực tế. Câu trả lời là, chỉ
cần làm đúng như Phật dạy, một lòng Tin Phật, niệm Phật, cầu sanh Tịnh-độ là được.
Chắc chắn như vậy. Làm sao mà biết chắc chắn? Những người thực tâm TIN Phật,
tha thiết NGUYỆN về Tây-phương, và LÃO-THẬT-NIỆM-PHẬT thì biết chắc chắn, chính
họ chứng minh điều đó. Những cuộn phim, những lời giảng của những vị pháp sư,
những người chứng kiến tận mắt những cuộc vãng sanh kể lại, những tấm hình, những
viên ngọc xá lợi, những Phật xá lợi, v.v… rõ ràng là sự chứng minh không còn
chối cãi được nữa. Cụ bà Triệu-Vinh-Phương chín mươi bốn tuổi vãng sanh, đã được
con cháu quay phim để lại là một sự xác nhận rõ ràng rằng tất cả chúng ta không
kể là Tăng hay Tục, đều có thể về được tới thế giới Tây-phương Cực-lạc trong một
đời này thôi.
Điều cụ
thể là, nếu cha má muốn được trong đời này về tới Tây-phương Cục-lạc thì cứ làm
như vầy, bắt đầu ngay từ bây giờ phải chấm dứt coi tất cả những thứ phim ảnh phù
phiếm giả tạo, liên tục coi giảng pháp của Hòa-Thượng Tịnh-Không, nghe đi nghe
lại mỗi bộ một trăm lần, hai trăm lần, ba trăm lần… thì tự nhiên biết rõ đi
như thế nào. Con sẽ tìm mọi cách gởi về cho cha má tất cả những lời Pháp quý giá
đó. Hiện giờ có bộ nào cứ nghe bộ đó trước đã. Với lại không cần nhiều, chỉ cần
nhứt tâm nghe pháp thì một bộ cũng đủ liễu ngộ rồi. Hằng ngày trên thế giới người
ta nghe lời Pháp của Ngài, tu hành đắc đạo rất nhiều. Kẹt một nỗi là số lượng dịch
ra tiếng Việt còn hạn chế, và phương tiện gởi về Việt-Nam khó khăn, cho nên ở
Việt-Nam phải chịu thiệt thòi hơn các nơi khác. Nếu bây giờ chưa có những bộ pháp
đó thì tạm thời cha má hãy dành thì giờ đọc thư con cho nhiều, càng nhiều càng
tốt, có những thư rất quan trọng. Đọc cho đến thuộc lòng, thì tự nhiên sẽ thấy đầu
mối, thấy đường đi, nắm được chìa khóa để chuẩn bị mở lời Pháp của Ngài.
Nên nhớ,
những thư của con dù sao cũng chỉ là sự khai mở một lỗ nhỏ để cha má nhìn vào
Phật đạo mà thôi, chứ con không có khả năng làm gì khác hơn. Phần chỉ đường là
của con, phần ngộ nhập vào đạo chính cha má phải tự thực hiện lấy. Khi ngộ nhập
vào đạo rồi thì những lá thư này không còn hiệu dụng nữa. Tuy nhiên, cũng nên
nhớ, khi chưa thấy được Phật đạo thì những lá thư này vẫn còn có giá trị, vì dù
chỉ là một lỗ nhỏ nhưng biết để mắt vào đó, qua cái lỗ nhỏ ấy cũng có thể nhìn
thấy được Phật Pháp chứ không phải thường đâu!
Niệm
Phật sẽ thành Phật, ai cũng thành Phật
được cả. “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” thì “nhất thiết
giai thành Phật”. Thành Phật là trở về cái vốn của chính mình sẵn có chứ không
có gì xa lạ cả. Cho nên, người nào biết đường trở về thì họ sẽ thành Phật, người
nào cứ chạy quanh quẩn theo những cái hão huyền bên ngoài thì sẽ quên đường về,
sẽ mất luôn huệ mạng trong luân hồi lục đạo, tử tử, sanh sanh trong khổ đau bất
tận. Niệm Phật là công phu tu tập rất đơn giản mà lại tối ư vi diệu để một đời
viên mãn Phật đạo. Những người tu hành với lòng tin vững chắc, nhất hướng chuyên
niệm, một đường đi tới, họ thành tựu rất dễ dàng. Trong thư trước con có kể
chuyện ông Trịnh-Tích-Tân, giảng kinh xong thì không thèm giảng nữa, kêu bạn bè
mướn nhà để vãng sanh. Về nhà người bạn, chỉ một phút niệm Phật thôi, ông leo lên
giường ngồi tréo chân vãng sanh.
Sự vãng
sanh này đâu phải là chuyện trùng hợp. Một trăm bà cụ chết, một trăm bà đau khổ,
một ngàn ông cụ chết, một ngàn ông cụ mê man bất tỉnh, một trăm ngàn người trẻ
chết, một trăm ngàn người trẻ hoảng hốt, la hét, kinh sợ, giãy giụa… Trong
khi, MỘT bà cụ niệm Phật thì MỘT bà cụ an nhiên tự tại, MỘT ông niệm Phật thì MỘT
ông bình tĩnh ngồi kiết già chắp tay niệm Phật ra đi, MỘT người trẻ niệm Phật
thì MỘT người trẻ biết trước ngày, giờø, tháng, năm vãng sanh, thì làm sao gọi
là trùng hợp hay may rủi được.
Thưa
cha má, con người chúng ta từ vô thủy tới vô chung đều bất sanh bất tử. Tất cả
mọi người, tất cả vạn vật đều bất sanh bất tử. Tiếng Tư û hay Sanh chỉ dùng để
chỉ cho cái thân tứ đại này còn hay mất mà thôi. Tại vì con người mê muội, quên
mất cái chân ngã nên cứ đâm đầu vào chỗ khốn cùng để đội lên lớp người, lớp thú,
lớp cầm… rồi sanh tử, tử sanh trong vòng khổ lụy. Một lần ‘Tử’ là bắt đầu cho
một lần ‘Sanh’. Một lần ‘Sanh’ là chuẩn bị cho một lầnï ‘Tử’. Cứ thế thần thức
của một chúng sanh trôi lăn, trôi lóc qua trùng trùng cảnh giới khác nhau,
trong đó có nhiều cảnh giới đày đọa thân tâm chúng ta khổ đau kinh khủng mà ta
quên hết. Hễ người khéo tu một chút được sanh vào loài người thành một đứa bé
khóc oa oa, nhưng nó có biết gì đâu. Giỏi lắm thì thông minh một chút, đẹp trai
một chút là cùng, lớn lên tạo nghiệp rồi chết, rồi đọa lạc. Người ngu si thì
sanh thành con heo, con chó, con bò… Lỡ chui vào loài thú rồi thì tiếp tục
ngu si, bao giờ thoát khỏi kiếp mang lông đội sừng đây! Một thần thức khi qua một
cuộc cách ấm thì quên hết quá khứ, cho nên không ai để ý tới, chứ nếu biết được
thì chắc phải sợ đến toát mồ hôi máu, ăn ngủ không yên chứ phải thường đâu!
Quyết tâm
về với Phật là con đường tốt đẹp nhất, không còn con đường nào khác có thể sánh
bằng. Xác quyết được như vậy thì bây giờ mình phải chuẩn bị sẵn sàng con đường đi.
Nghĩa là tự cha má phải sẵn sàng để tự cứu lấy cha má. Tất cả con cái trong gia
đình phải sẵn sàng cứu lấy cha mẹ mình để làm tròn chữ hiếu. Nhất định chữ hiếu
đây không có nghĩa là một vài bữa ăn, hay cung phụng rượu thịt ê hề để gây thêm
nghiệp chướng cho cha mẹ rồi sau đó ai khổ mặc ai.
Con xin quay trở lại chuyện bà cụ Triệu-Vinh-Phương.
Tại sao bà cụ biết trước ngày giờ ra đi mà gia đình còn phải tổ chức hộ niệm liên
tục ba ngày đêm, còn niệm thêm tám giờ sau khi bà ra đi. Đây là điều rất quan
trọng mà người niệm Phật nói riêng, tất cả mọi người dù không tu Phật cũng cần
phải biết. Nếu không biết dễ vô tình tạo ra những cảnh rất thương tâm, rất
thảm thương, rất tội nghiệp!
Thưa
cha má, vềđược Tây-phương Cực-lạc rất dễ, nhưng cũng rất khó. Biết làm đúng cách
đi dễ dàng như vô lượng vô biên người đã đi được rồi, đã giải thoát được rồi, đã
thành Bồ-tát rồi, nhiều đến nỗi ngày nay không thể nào đếm được nữa. Nhưng cũng
khó, khó trong đường tơ kẽ tóc, sơ ý một tí ti là có thể mất phần liền. Trong
những thư trước con có đề cập tới chuyện này, xin lục lại xem thêm. Hôm nay con
nhấn mạnh việc làm sao cho chắc chắn đi được? Đó là nhờ –HỘ-NIỆM – Hãy đọc
thật kỹ, xin đừng phớt qua.
Hộ-niệm: Tự mình hộ chính mình, và nhờ người khác hộ cho mình.
Niệm Phật điều quan trọng là KHÔNG HOÀI-NGHI, KHÔNG XEN-TẠP, KHÔNG GIÁN-ĐOẠN.
Người nào giữ được ba điều kiện này chắc chắn được vãng sanh, người đó có thể tự
hộ niệm cho mình không cần nhờ người khác. Nghĩa là muốn vãng sanh là đi ngay lập
tức. Liên-Trì Đại-Sư, Thiện-Đạo Đại-Sư, Vĩnh-Minh Đại sư, v.v… rất nhiều rất
nhiều vị sư nói đi, đệ tử chưa kịp hỏi: “Thầy đi đâu?” là họ đã tịch rồi. Tăng
Ni được vậy, còn cư sĩ thường như chúng ta có được không? Thưa cha má, nhiều không
kể hết. Ông Trịnh-Tích-Tân thì ngồi vãng sanh, Cụ Hạ-Liên-Cư thì đứng vãng
sanh, cụ Triệu-Vinh-Phương thì nằm kiết tường vãng sanh, v.v… nhiều lắm. Nếu
kể cho hết thì những trang giấy này không đủ chỗ đâu.
Thế nhưng
với điều kiện sinh hoạt của chúng ta, với căn khí nghiệp chướng kết tập nhiều đời
nhiều kiếp, ta thường bị nhiễu loạn, bị phân tâm, bị xen tạp cho nên công phu
huân tập của mình không đủ bảo đảm tự vãng sanh. Lúc lâm chung sức khoẻ bị yếu,
khí huyết suy giảm, thân thể đau đớn, gia đình lộn xộn, con cháu khóc kể… tâm
trí rất dễ bị rối loạn. Trong điều kiện như vậy thường bị oan gia, trái chủ,
nghiệp chướng nhào tới bủa vây trả thù, đòi nợ, những cảnh giới hãi hùng hiện
ra rất dễ làm cho ta hoảng sợ, mê man bất tỉnh, hãi kinh! Nếu gặp phải những trường
hợp nàøy chắc chắn không thể nào vãng sanh được. Vì thế người Niệm Phật cầu
sanh về Cực-lạc thế giới phải lo liệu cho kỹ, phải nổ lực công phu, phải niệm
Phật liên tục, phải nguyện sanh Tây-phương hằng ngày, phải nhất tâm tin tưởng
pháp môn, phải quyết chí một con đường đi về cho được với Phật… có như vậy mới
giảm thiểu những tai nạn bất ngờ vào giờ phút chót.
Trong
nhiều đời nhiều kiếp mình đã giết hại nhiều sanh linh, mình gây bao tội ác, thì
chắc những oan gia đó luôn luôn rình rập để chờ cơ hội trả thù, chỉ cần mình sơ
ý là chúng tấn công ngay. Ngay cả những người được Phật thọ ký rồi cũng vẫn phải
hết sức cẩn thận. Hơn thế nữa, người đã được Phật thọ ký họ tu còn tinh tấn gấp
mười lần trước đó nữa là khác. Họ tu ngày tu đêm, họ niệm Phật quên ăn bỏ ngủ,
họ không rời A-di-đà Phật một giây phút nào, vì đã chắc rồi cũng cần phải chắc
hơn mới là chắc chắn vậy!
Hộ-niệm
rất quan trọng. Ngoài những người niệm Phật được “Nhất-tâm-bất-loạn” tự tại vãng
sanh, hầu hết người được vãng sanh là nhờ sự hộ niệm lúc lâm chung. Hộ-niệm là
người khoẻ mạnh niệm Phật phụ cho người ra đi, giữ chánh niệm cho người sắp lâm
chung, nhắc nhở người ra đi cố gắng giữ tiếng Phật hiệu liên tục để bảo đảm niệm
được mười câu “A-di-đà Phật” trước khi ra đi. Một điểm nữa là chính lòng thành
tâm của người hộ niệm góp phần rất lớn để giúp thần thức người lâm chung được
chiếu xúc quang minh của A-di-đà Phật. Người ra đi nhiều lúc quá mệt, quá yếu
không cất tiếng niệm được, thì tiếng niệm Phật của người hộ-niệm rót liên tục vào
tai người đi, giúp cho tâm họ niệm theo. Miệng không niệm được nhưng trong tâm
niệm Phật vẫn được vãng sanh như thường. Cho nên, điều kiện tối quan trọng là
lâm chung tâm phải tỉnh táo. Những người bị tai nạn, nạn nước, nạn lửa, bị
bạo tử… khó được vãng sanh vào cảnh giới tốt là vì lý do không tỉnh táo và bị
hốt hoảng, bị khủng bố.
Nhưng bây
giờ, làm sao cho tâm tỉnh táo? Trong kinh Phật dạy, người nào niệm Phật
thì khi lâm chung tâm hồn sẽ tỉnh táo, “Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo,
tức đắc vãng sanh A-di-đà Phật Cực Lạc quốc độ”, (kinh A-di-đà).
Hỏi rằng,
người khi lâm chung tỉnh táo có chắc được vãng sanh Cực-lạc không? Chưa chắc. Vì
sao? Vì tỉnh táo là điều kiện “ắt có nhưng chưa đủ”. Tỉnh táo và niệm Phật mới đủ.
Như vậy nhiều người tu những pháp môn khác, nếu tu tinh tấn, khi lâm chung họ vẫn
có thể được tỉnh táo, nhưng chưa chắc họ sẽ được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc cảnh
giới Phật. Vì sao? Vì cái Nguyện của họ sẽ dẫn dắt họ đi vào cảnh giới khác. Ví
dụ, tu Nhơn thì nguyện tái sanh làm người; Tu Tiên thì thèm khát những phép thần
thông hữu lậu, tu Định đi có thể vào cảnh giới Trời. Còn tu mà không nguyện thì
đi theo Nghiệp, nghiệp nào lớn nhất sẽ lôi họ đi. Tu hành như vậy chẳng qua tạo
được chút phước nào đó, tất cả cũng hoàn về đọa lạc mà thôi, vì tất cả đều còn
trong lục-đạo luân-hồi, chưa thoát khỏi tam-giới. Còn người không tu hành thì
thôi miễn bàn tới! Cho nên, có thể đưa ra công thức liên hoàn như vầy: Niệm
Phật thì tâm Tỉnh Táo; Tỉnh Táo thì được Vãng Sanh; Vãng Sanh là nhờ Niệm Phật.
Nói gọn lại: “Niệm Phật – Tỉnh Táo – Vãng Sanh Cực-lạc Thế-giới”.
Thưa cha má, trong đời này cha má gặp được Phật pháp,
có người khuyến khích tu hành là cả một nhân duyên rất lớn, phúc đức rất lớn từ
tiền kiếp, thiện căn sâu dày của cha má từ quá khứ. Xin cha má đừng bỏ lỡ cơ hội
ngàn vạn đời khó kiếm này. Hãy thành tâm niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” thì tất cả đều
thành tựu viên mãn.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu 4/8/2001).
Bậc giác ngộ sống trong hoàn cảnh thật nghèo khổ, họ vẫn hưởng
thọ sự an vui rộng lớn. (Pháp-Sư Tịnh-Không).
13 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Cuộc
đời một người rất ngắn ngủi, thân này chỉ một thoáng qua là đi vào hư không, trả
về cát bụi, làm sao mà tồn tại trường thọ qua thời gian. Người tuổi trẻ nhìn thấy
cuộc đời sáu bảy chục năm nữa tưởng là lâu lắm! Nhưng khi tuổi xế chiều mà không
tính trước chuyện thoát thân thì thật là một điều sơ sót đáng tội nghiệp! Ai mà
không muốn người thân yêu ở mãi với ta, nhưng khôn ngoan hơn một chút nữa, thì
suy tính cho cuộc sống tương lai dài lâu mới là người trí huệ, liễu ngộ rốt ráo.
Hôm qua là ta, hôm nay là ta và ngày mai cũng chính là ta, xin cha má cẩn thận.
Trong phần thư trước con nói chuyện HỘ-NIỆM,
đây là điều tối quan trọng cho một người muốn một đời này thoát khỏi đọa lạc. Vì
trước giờ mình không học Phật, không hiểu Phật, không biết đâu là đường giải
thoát, cho nên danh từ HỘ-NIỆM mới nghe cảm thấy lạ, còn người hiểu Phật
pháp rồi thì họ rất chú trọng và đặc biệt quan tâm.
Hộ-niệm
cho người ra đi cần phải chuẩn bị về vấn đề tâm lý. Tâm lý của chính người ra đi,
tâm lý của thân nhân con cái và người đến hộ niệm. Con xin nhắc đi nhắc lại với
cha má là con người ai cũng có số phần cả, ngoài những người tu hành đạt được đạo
cao, tự họ có thể đi hay ở tùy ý, còn tất cả đều đã được đặt để bởi định mệnh sẵn.
Hộ-niệm hay không hộ-niệm thì năm, tháng, ngày, giờ, ra đi vẫn đúng như theo định
số, khó thể thay đổi. Nói rõ thêm nữa, người không niệm Phật, hoặc có niệm Phật
cầu về Tây-phương thì ngày bỏ xác thân trần tục của họ cũng không thay đổi, chỉ
có khác nhau là người niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ thì lúc lâm chung được an nhiên
tự tại, tâm hồn bình tĩnh sáng suốt, không đau đớn, hoặc nếu có bị đau bệnh cũng
được nhẹ đi rất nhiều, (đau bệnh là do nghiệp chướng của mình chưa phá nổi), và
sau cùng cái quý báu nhất là được vãng sanh về thế giới Cực-lạc với Phật. Từ đó
về sau không còn sanh tử nữa, vĩnh viễn hưởng sự an lạc vui sướngï, ngày ngày
nghe được pháp âm của Phật để chờ ngày viên mãn thành Phật.
Phần thư trước con nói, Hộ-Niệm có
thể tự mình hộ cho mình hoặc nhờ người khác hộ cho mình. Tự-Hộ dành cho các người
có công phu tu hành tốt, đã được từ “sự nhất tâm bất loạn”, có nghĩa là
họ đã đạt được cảnh giới “niệm bất niệm”, đại khái trong tâm luôn luôn có
tiếng Phật hiệu dù cho bên ngoài họ không niệm. Chính vì thời thời khắc khắc tâm
họ đều niệm Phật, cho nên họ muốn vãng sanh là đi liền, sống chết tự tại. Tự-hộ-niệm
còn được hiểu là người ra đi phải tin tưởng vững chắc vào pháp Phật, tự mình niệm
Phật, tự mình cầu nguyện về nước Phật chứ không phải ỷ vào người khác, không phải
thấy người ta tới hộ niệm cho mình là yên tâm nằm nghỉ để chờ chết.
Một
vấn đề khác nữa là người nào muốn vãng sanh về cõi Cực-lạc của Phật thì không được
sợ chết. Pháp môn niệm Phật được chư Phật, chư Tổû Sư vinh xưng là tối thượng
pháp môn, người chí thành niệm Phật thì được “Bất-Bệnh, Bất-Lão, Bất-Tử”.
Còn bệnh, còn lão là tại vì tự mình còn có vấn đề. Vãng sanh không phải là chết,
người niệm Phật lúc nào cũng ra đi trong lúc còn tỉnh táo, còn sống mà đi, cho
nên gọi là “BẤT-TỬ”. Còn sợ chết là chưa hiểu đạo. Người muốn vãng sanh
thì không được lưỡng lự nửa đi, nửa ở, không được bám víu vào cảnh thế gian. Còn
lưỡng lự luyến tiếc thế gian là chưa tin Phật, là còn muốn tự đày đọa mình
trong luân hồi khổ ải, là chưa thật sự muốn về Tây-phương.
Hầu
hết chúng sanh đời này vì chưa hiểu đạo cho nên không tha thiết việc vãng sanh,
hoặc hồ nghi kinh Phật, cho đó chỉ là điều nói khuếch đại để khuyến khích người
ta làm lành lánh dữ mà thôi. Chính vì vậy, mà ai cũng cứ nằm đó chờ người thân
chết rồi tới chùa cầu siêu lấy lệ cho qua truông, để chứng tỏ với mọi người là
mình có hiếu, có nghĩa. Tất cả những sự việc này chỉ tạo được một chút xíu công
đức mà thôi, nghĩa là khó có hy vọng cầu được siêu sanh vào thế giới Cực-lạc của
Phật A-di-đà. Những người lòng còn tham luyến danh vọng, tiếng tăm, luyến nhớ
con cháu rất khó được vãng sanh vì lúc lâm chung tinh thần họ không tập trung vào
câu A-di-đà Phật, quên lãng việc cầu sanh về Tây-phương, cho nên, dù có người hộ
niệm đi nữa họ cũng không thể tương ứng với điều kiện của Phật.
Ngoài
việc tự Hộ-Niệm, hầu hết chúng ta không ai dám cả quyết là đã đạt được công phu
“Nhất-tâm-bất-loạn” hoặc “Niệm-Phật-thành-thục”, cho nên rất cần đến người khác
như bà con thân nhân, những người biết niệm Phật đến hộ niệm cho mình, để giúp
mình giữ chánh niệm, bảo đảm khi ra đi mình niệm được mười câu “A-di-đà Phật”
trước khi rời bỏ xác thân. Con xin nhắc lại lời kinh tối quan trọng trong kinh
Vô-Lượng-Thọ, nguyện thứ mười tám , đức Phật A-di-đà nói, người nào trước
khi lâm chung niệm được mười câu danh hiệu của Ta mà không được sanh về nước
Ta, Ta thề không thành Phật. Chỉ trừ những kẻ mang tội ngũ nghịch và phỉ báng
chánh Pháp. Đây là lời thề của đức Phật A-di-đà. Trong đó tội phỉ báng pháp
Phật nặng hơn và không cách nào cứu được, vì đã phỉ báng tức là không tin, mà
không tin thì chắc chắn không bao giờ niệm Phật được. Còn bị tội ngũ nghịch nhưng
không phỉ báng pháp Phật, nếu có cơ may niệm Phật được, vẫn được cứu như thường.
Nên nhớ tội ngũ nghịch quả báo là Địa Ngục A-Tỳ, nhưng niệm Phật A-di-đà có thể
cứu được. (Cái đạo lý này rất cao, có dịp sẽ trở lại). Cho nên Pháp Niệm Phật
vi diệu, vi diệu, rất ư vi diệu. Câu niệm “A-di-đà Phật” được gọi là “Vạn-Đức-Hồng-Danh”.
Vô lượng công đức, vô lượng công năng, không thể nào diễn tả được. Bất khả tư
nghị!
Vì
thế niệm Phật có sự thành tựu rất lớn. Mình niệm Phật cũng cần nên khuyên những
người trong nhà cùng niệm Phật, và giảng giải cho họ hiểu sự quý báu giải thoát
để cùng được lợi ích, và cùng giúp nhau trong giờ phút cuối cùng, đó là sự yêu
thương thành thực nhất. Thực tế, nên nhớ điều này, những người không hiểu đạo,
càng thương yêu nhau họ càng gây nhiều điều oái oăm đoạ lạc cho nhau, nhiều cảnh
thương tâm không tả xiết! Sự vô ý có thể làm nên những hành động đại nghịch
bất hiếu! Vì sao vậy? Trong suốt cuộc đời sáu bảy chục năm dù có tu hành
hay không thì cái niệm cuối cùng của cuộc đời vẫn là quyết định con đường tái
sanh.
Ví dụ,
như chuyện cụ Triệu-Vinh-Phương vãng sanh năm 1999, lúc đang ngồi bà cụ muốn nằm
xuống giường, người con gái nhẹ nhàng đỡ bà nằm xuống và lấy tấm khăn lót nhẹ dưới
vai, nhìn thấy trên mặt người con gái giọt nước mắt ướm ra và lăn nhẹ xuống má
nhưng cô ta không khóc thành tiếng mà vẫn tiếp tục niệm “A-di-đà Phật”. Có đoạn
người con trai của bà cầm hình Phật A-di-đà trước mặt dặn dò người mẹ niệm Phật,
nhưng ông ta nghẹn ngào, ngay lúc đó ông liền núp mặt ông ta sau tấm hình Phật,
không dám cho mẹ thấy. Coi tới đó con mới thấy rằng cả gia đình bà cụ đều hiểu đạo
Phật và làm đúng theo lời Phật dạy.
Tại
sao vậy? Vì chính cái niệm cuối cùng có thể quyết định hẳn tương lai của người
ra đi. Hễ nẩy ra một niệm sân giận đi vào địa ngục; một niệm tham lam đi vào
ngạ quỷ, một chốc lát mê muội đi vào đường súc sanh ngay. Một niệm luyến nhớ
con cháu (vì thấy giọt nước mắt của người con), có thể thay đổi hẳn tình thế,
thay vì về Cực-lạc bà có thể tái sanh lại làm người hoặc bị đoạ lạc vào đường
khác. Nghĩa là chỉ cần một tí sơ ý cũng đủ làm oan uổng cả một đời tu hành, có
thể dẫn tới khổ đau bá thiên vạn kiếp sau đó!
Vì
thế, khi lâm chung mà con cái khóc kể, kêu réo, ồn ào, hoặc đụng chạm mạnh vào
thân thể người đi, sẽ làm xáo trộn về tâm lý và gây đau đớn cho thân thể, làm
người ra đi rất dễ bị đọa lạc. Về thân thể người sắp ra đi đang ở vào thời điểm
cực kỳ khó chịu ở lúc tứ đại phân ly, họ có thể bị đau đớn kinh khủng khi bị đụng
chạm. Cho nên, sơ ý chỉ cần một sự chạm xúc bất cẩn cũng có thể đủ làm cho người
bệnh đau đớn chịu không nổi. Nếu người thân vô ý cứ ôm, giựt, níu kéo… làm
cho người ra đi đau quá đâm ra sân nộ, giận dữ thì trong nháy mắt thần thức bị đoạ
vào địa ngục ngay. Do đó, nếu không cần thiết lắm đừng nên đụng chạm đến người
bịnh. Nếu bất đắc dĩ cần giúp trở mình thì phải hết sức nhẹ nhàng, mềm mại. Còn
việc kêu réo, khóc than, kể lể… những nỗi bi thương là điều tối kỵ, tuyệt đối
phải bỏ. Nếu không, chắc chắn sẽ làm cho người đi mất tự chủ, tâm hồn bị bấn loạn,
hoảng hốt, hoặc bi lụy. Đang đứng giữa những cảnh giới lạ mà tâm hồn điên đảo rối
loạn, thì oan gia trái chủ sẽ lợi dụng cơ hội nhào vô hốt gọn linh hồn họ để đòi
nợ, trả thù, nó tìm cách dìm thần thức người thân của ta vào các đường ác hiểm
khó mà cứu thoát được.
Ấy
chính là vì quá thương mà hại người mình thương! Lương tâm thiện lành nhưng
không có trí huệ có thể gây ra tội ác là như vậy! Chính vì những lý do này,
người hiểu đạo không bao giờ dám làm một cử chỉ sơ hở vô ý nào gây dao động tâm
hồn, làm thương tâm người đi. Nhất định phải nhớ, phải nhớ kỹ điều này.
Biết
như vậy nhưng không dễ thực hiện. Làm sao tránh được tình trạng này? Phải
tin Phật, phải quyết tâm cứu độ người thân. Cụ thể ngày ngày khuyên nhau niệm
Phật, giảng giải Phật pháp cho nhiều để con cái và thân nhân trong gia đình hiểu
đạo. Người đi hiểu đạo, người hộ niệm hiểu đạo, tâm tâm tương ưng cùng nhau hướng
về một hướng chuyên niệm Phật cầu vãng sanh, thì sự việc vãng sanh ắt thành.
Gia đình nào mà có con cái thân nhân hiểu đạo là có cả một đại phước báu trên đời.
Nên nhớ, người sắp ra đi tinh thần nhiều lúc chao đảo, người hộ niệm phải hiểu ý,
phải thành tâm niệm Phật và cầu Phật gia hộ, chọn người thân nào yêu mến nhất kèm
sát bên cạnh để an ủi, khích lệ, khuyên nhủ, nhắc nhở người đi cố gắng niệm Phật,
tâm tâm luôn nghĩ về Phật A-di-đà, và một lòng cầu sanh về Tây-phương với Phật.
Phải củng cố niềm tin, ủng hộ tinh thần cho người ra đi. Ngoài ra tuyệt đối không
xen bất cứ chuyện gì khác.
Tuyệt
đối không để người ngoài chen vào hỏi thăm sức khoẻ hay chúc lành, chúc bình phục
gì cả. Nhất định chỉ có niệm Phật, ngoài việc niệm Phật tuyệt đối không cần đến
bất cứ một hành động thương yêu, một câu nói đưa đẩy, môt ý tưởng cầu an nào cả.
Cứ việc vững tâm niệm “A-di-đà Phật” và thành tâm cầu xin Phật đến tiếp dẫn, thì
cái uy đức của danh hiệu Phật sẽ đánh vẹt tất cả mọi cảnh giới và quang minh của
Phật A-di-đà sẽ xuất hiện để tiếp dẫn liền. Ông Châu-Quảng-Đại mấy năm trước ra
đi trong trường hợp này. Một người chưa hề biết Phật là gì, đến cuối đời nhờ phúc
đức, có duyên may gặp người khuyên niệm Phật. Ông chỉ niệm Phật và được hộ niệm
3 ngày đêm, đức Phật A-di-đà hiện tiền tiếp dẫn, trước khi buông bỏ xác thân ông
còn cảm ơn được mọi người.
Tại
sao Ông ta đi dễ như vậy? Vì lòng
tin đột xuất phát sinh vững mạnh, vì gia đình một lòng tin tưởng nguyện cầu, vì
những người hộ niệm đều thành tâm thiện ý. Con người khi dồn vào đường cùng thường
phát sinh những tâm linh mạnh kinh khủng, tinh thần của ông ta dồn hết vào niềm
tin Phật. Lòng TIN lên cao cực điểm đã đánh vẹt tất cả chướng ngại và ngay tức
khắc cảm ứng tới Phật quang. Nếu như lúc đó ông ta không tin tưởng thì cho dù hàng
ngàn người tới hộ niệm cũng khó thể nào thoát được. Nói đi nói lại, TÍN-NGUYỆN-HẠNH
là pháp môn thành Phật, trong đó lòng TIN là đầu mối của tất cả vạn sự để đưa về
cõi Phật. Thiếu lòng tin đành chịu thua.
Cho
nên, hộ niệm có hai yếu tố quan trọng, một là người lâm chung có Tin Phật hay
không? Có quyết tâm niệm Phật đến cùng để tự cầu giải thoát không? Đây là yếu tố
quyết định tích cực, còn những lời niệm Phật chung quanh là sự phụ giúp cần thiết
để giữ chánh niệm cho người đi. Nếu, chính người ra đi không tin tưởng hoặc tin
lấy lệ, thì sự hộ niệm của những người chung quanh có thể trở nên vô ích! Hầu hết
những thư của con từ trước tới giờ phải chăng xoay qua xoay lại cũng chỉ để củng
cố lòng tin. Hễ cha má TIN vững chắc rồi thì tự nhiên đường giải thoát rõ ràng
trước mặt và cha má biết sẽ làm những gì. Chính con đây, là con của cha má, tuổi
cũng chưa cao mà con đã chuẩn bị rồi. Con ngày đêm niệm Phật, ngày ngày đều
nguyện vãng sanh Tây-phương, con mong cho được cái ngày Phật A-di-đà thọ ký. Ngài
thọ ký ngày nào con mừng ngày đó. Ai sợ chết chứ con không sợ chết, con chỉ sợ
chết rồi mình có được về Tây-phương với Phật hay không mà thôi. Nếu hiểu rõ được
Phật pháp thì cha má sẽ tự tại vô cùng và chắc chắn ngày đêm sẽ không ngừng niệm
Phật để tìm đường về với Phật càng sớm càng tốt vậy.
Trở
lại chuyện cụ Triệu-Vinh-Phương, tại sao người ta phải tiếp tục hộ niệm tám tiếng
đồng hồ sau khi bà vãng sanh? Theo lời pháp của Pháp-Sư Tịnh-Không, Ngài nói
khi ra đi có ba diện vãng sanh không trải qua thời gian cách ấm, nghĩa là vừa dứt
hơi thở là người đó đi thẳng đến cảnh giới đã định, trường hợp này không cần đến
sự hộ-niệm. Ba diện này là:
1) Vãng sanh Tây-phương Cực-lạc;
2) Được sanh về các cõi Trời;
3) Bị
đọa Địa-ngục.
Còn
những đường khác như tái sanh làm người, lạc vào đường Nga- quỷ, Súc-sanh, đường
A-tu-la (Quỷ-Thần) thì con người có thể trải qua một thời gian cách ấm bốn mươi
chín ngày rất căng thẳng. Trước khi rơi vào khoảng thời gian cách ấm, thân thể
con người vẫn còn cảm xúc tới tám giờ sau khi trút hơi thở cuối cùng. Như vậy rõ
ràng một người khi ngưng hơi thở không phải là hết, mà họ vẫn cảm thọ được sự nóng
lạnh, đau đớn, âm thanh, cảnh sinh hoạt chung quanh có thể tới tám tiếng đồng hồ
mới hoàn toàn chấm dứt. Trong ba giờ đầu họ cảm nhận rất rõ.
Cho
nên, người hộ niệm phải hiểu rõ việc này, nếu mới thấy người vừa tắt hơi nhào vô
níu kéo, lay động thân thể, khóc kể, la hét, gây lộn xộn chung quanh… sẽ ảnh
hưởng rất lớn vào thần thức người ra đi. Xin nhắc lại, giây phút trước và sau
khi tắt thở là giai đoạn vô cùng căng thẳng. Người ra đi đang đối đầu với những
trạng huống rất lạ và kinh khủng nào là oan-gia, trái-chủ, thù-oán nhiều đời
nhiều kiếp nhào vô giựt phần đòi nợ, nào là những cảnh giới vừa thiện vừa ác hiện
ra. Là lúc cả một cuộn phim từ nhiều đời nhiều kiếp đang quay lại làm điên đầu
người ra đi. (Trong kinh Phật giáo Mật-tông nói rất rõ chuyện này). Trong trạng
thái đó nếu thân nhân hiểu Phật pháp một chút, họ có thể xoay trở tình thế, cứu
được người thân thoát khỏi nơi hiểm ác, sanh vào cảnh giới tốt bằng cách một lòng
thành tâm niêïm Phật phụ trợ người đi. Xui xẻo cho ai không tu hành, không có
người hiểu đạo lo liệu, vừa mới ngưng hơi thở chưa kịp nghỉ ngơi thì bị liệng vào
nhà xác, bị bác sĩ mổ bung bụng ra khám nghiệm, bị con cháu khóc lóc, kể lể, níu
kéo… những hành động này sẽ làm cho người ra đi đau đớn không chịu nổi, bấn
loạn đến cùng cực! Nhứt là thời khoảng ngay phút lâm chung và sau vài giờ khi tắt
hơi, nếu bị tác động mạnh thì chắc chắn không thể nào được sanh nơi cảnh giới tốt,
nếu không nói là bị đoạ vào tam ác đạo tức thì. Chính vì thế, mà phải để yên thân
thể, nhẹ nhàng đắp mền cho ấm và thanh tịnh tiếp tục niệm Phật suốt càng lâu càng
tốt, tới tám tiếng đồng hồ mới chắc được an toàn là vậy.
Hiểu
được chuyện này rồi, bây giờ xin thực lòng xét lại trong ông bà, thân nhân, bà
con của mình từ trước tới giờ đã thực hiện được chuyện này chưa? Những người còn
sống đến ngày hôm nay đã từng làm điều gì vô ý hại đến người thân của mình không?
Trong dòng họ mình liệu có ai đủ điều kiện vãng sanh nơi tốt đẹp chưa?
Thưa
cha má, không nêu ra thì thôi, nhưng đã nêu ra thì lòng con cảm thấy đau quặn
thắt. Chính vì hiểu được chuyện này đã làm cho con kinh hoàng, giựt mình và
ngay lập tức viết thư ngày đêm khuyên cha má và bà con mình mau mau tỉnh ngộ tu
hành, mau mau niệm Phật. Con lo ngày lo đêm, lo đến nỗi ăn không ngon khi cha má
chưa trực nhận thấy vấn đề, chưa hạ quyết tâm niệm Phật. Ngày nào cha má chưa
niệm Phật cầu về Tây-phương, ngày đó con còn kêu nài, năn nỉ, quỳ lạy cha má,
con xin lạy cha má cho đến khi nào cha má niệm Phật mới thôi. Cha má cứ nghĩ thử,
con ăn học tới đây, con đi đây đi đó tới tuổi này, con lặn lội khắp nơi, con đâu
thiếu thốn khổ cực đến nỗi phải bi quan chán đời, thế mà con khuyên cha má đến
nỗi muốn rơi máu mắt vì một tiếng niệm Phật thôi, chẳng lẽ con khuyên ẩu, khuyên
tả sao! Chẳng lẽ con nghĩ bừa bãi sao! Chẳng lẽ con làm vậy để lấy tiếng sao!
Cha má phải thấy rõ ràng rằng chính con đã thấy được đường đi, con đã hiểu rõ được
sự giải thoát, con đã thấy rõ sự vi diệu của câu “Vạn-Đức-Hồng-Danh” A-di-đà Phật.
Mỗi
lá thư con đưa ra một bằng chứng, mỗi lá thư con kêu đích danh từng người, mỗi
lá thư con kể rõ một hiện tuợng vãng sanh về với Phật. Tất cả sự thật đó đều nhằm
mục đích cho cha má thấy, hiểu, và TIN TƯỞNG để đi. Hễ đi thì chắc chắn được. Hễ
chần chờ dụ dự thì chắc bị đọa lạc, khó tìm con đường nào khác để mơ mộng. Cha
má thấy rõ không?
Tóm lại những điều quan trọng của sự
hộ niệm:
HỘ-NIỆM có hai vấn đề: TỰ-HỘ và HỘ-NIÊM.
Tự-hộ là tự chính người lâm chung phải một lòng TIN TƯỞNG,
phải tự niệm Phật, phải thành tâm cầu xin sanh về thế giới Cực-lạc. Nếu còn khỏe
thì niệm Phật ra tiếng theo với người hộ-niệm, nếu yếu thì ráng cố gắng niệm thầm
trong tâm. Ráng tối đa đừng để bị mê. Có như vậy thì sự hộ-niệm sẽ thành công dễ
dàng.
Hộ-niệm: là người thân, người biết niệm Phật trợ giúp cho người
đi giữ chánh niệm. Sự hộ-niệm phải chân thành, thanh tịnh, tránh mọi sự ồn ào,
tối kỵ con cái khóc kể, bi lụy trước mặt người ra đi, cấm người ngoài tới thăm
hỏi. Nên niệm bốn chữ tốt hơn sáu chữ vì dễ niệm, dễ đạt được mười câu Phật hiệu
liên tục trước phút ra đi. (Nhưng cái này cũng tùy thích của đương sự).
Không
được đụng chạm mạnh đến thân thể người ra đi, nếu cần, ngay cả cái giường của bệnh
nhân cũng không được đụng tới. Có lúc cần giúp đỡ để trở mình thì phải hết sức
nhẹ nhàng. Đặt người thân yêu nhất sát bên cạnh để khi có điều trở ngại thì nhắc
nhở niệm Phật cầu về Tây-phương, (còn không thì cứ niệm Phật). Nên có một hình
Phật A-di-đà để trước mặt người ra đi, và di chuyển sao cho lúc nào cũng thấy được
hình Phật. Tuyệt đối không được có tư tưởng cầu sống lại.
Sau
khi tắt thở, phải tiếp tục niệm Phật suốt tám giờ nữa là tốt nhứt. Sau thời
gian này muốn làm gì làm.
Thưa
cha má, những điểm này nên nhớ rõ, nếu trong làng có ai tin tưởng cha má cũng nên
giúp họ thực hiện sự hộ niệm. Cứu được một người về tới Tây-phương Cực-lạc thì
công đức lớn lắm. Công ơn của mình chắc chắn họ không bao giờ quên. Với năng lực
một người ở Tây-phương họ trở lại cứu mình không phải khó khăn đâu. Cứu người tức
là cứu chính mình vậy.
Tất
cả anh chị em trong nhà, nếu có thương cha má, khi đọc đến những lời này xin tự
biết những gì mình cần phải làm. Làm để cứu song thân trả tròn đạo hiếu, làm để
tự cứu lấy mình trong mai hậu. Cuộc đời như “mộng huyễn bào ảnh”. Sanh tử,
tử sanh là chuyện thường tình, nhưng lại là sự tối trọng đại cho huệ mạng con
người. Huệ-mạng không phải là xác thân này đâu. Xác thân chỉ là cái đồ vật ta lượm
nó trong tứ đại về dùng mấy chục năm rồi phải liệng. Cho, nên sanh tử không sợ,
chỉ sợ tử rồi mình sanh đi đâu. Anh em mình ở xa quá, chỉ thành tâm khuyên tất
cả mọi người sớm hồi đầu tỉnh ngộ.
Cầu
nguyện Phật lực gia trì cho cha má sớm thức tỉnh sự đời, ngộ được đạo pháp, nhứt
hướng chuyên niệm A-di-đà Phật để về được với Phật trong một đời này.
Nam-mô A-di-đà Phật,
Con kính thư.
(Viết xong tại Brisbane
10/8/01) (tiếp theo thư trước)
Trợ-Niệm chính là giúp cho họ khơi dậy câu Phật hiệu. Người
Phật tử, bất luận trong lúc bình thường tụng bao nhiêu kinh, niệm bao nhiêu câu
chú, khi lâm chung muốn chủng tử Phật xuất hiện, thì duy nhất chỉ có bốn chữ
“A-di-đà Phật” mới hữu dụng.
(Ngài Lý-Bỉnh-Nam).
14 –Lời khuyên song thân
Kính cha má,
Hôm trước
con mới nhận được thư cháu Tuyết con chị hai, cháu nói bà nội cháu yếu rất nặng
khó có thể qua khỏi. Bác trong thời gian chờ ngày ra đi đã nghe lời khuyên phát
tâm ngày đêm niệm Phật. Nghe như vậy con mừng lắm vì đây là cơ may hiếm có của
bác, do thiện căn phúc đức lớn nên cuối đời có người đến chỉ con “ Đường-Về Cực-lạc”.
Nếu bác đã tin tưởng đã phát tâm dũng mãnh, biết buông xả tất cả để niệm Phật cầu
sanh Tịnh-độ thì cơ hội để cho bác hưởng một đại phúc báu vô cùng vô tận cho một
đời người, khó có ai so sánh được. Chắc đến giờ này thì cha má đã nhận được cuộn
video “Hoa-Khai Kiến-Phật”, cuộn phim quay cuộc vãng sanh của cụ Triệu-Vinh-Phương
rồi. Xin cha má hãy coi đi coi lại thật kỹ câu chuyện đó để thấy được sự tối
linh nghiệm của pháp tu niệm Phật. Cuộn phim này là cả một bài pháp sống thực,
một bài “hiện thân thuyết pháp” cho những ai còn mập mờ trên con đường tu hành.
Xin cha má hãy trân trọng suy nghiệm.
Đến đây
thì coi như con đã hoàn tất được một đoạn đường quan trọng những gì con muốn nói
với cha má. Đầu tiên khi vừa phát hiện một sự thật quý báu là con đường vãng
sanh Tây-phương Cực-lạc, con đường giải thoát trọn vẹn mà đức Thế-Tôn đã để lại
cho chúng sanh, con bắt đầu viết thư cho cha má hay liền. Con mau mắn viết thư đến
nỗi nhiều lúc làm cha bực mình, nhưng thực ra tâm của con cũng chỉ một lòng lo
lắng cho cha má, con sợ chỉ cần chậm trễ một chút là ngàn đời ân hận. Người phát
tâm niệm Phật dũng mãnh cầu sanh về cõi Phật thì có thể thành tựu con đường giải
thoát ngay trong một đời này. Vì người đời nay thiếu quá nhiều thiện căn phúc đức
cho nên không có niềm tin vững chắc, khó phát lồ tu tập, tất cả chỉ vì nghiệp
chướng đã quá lớn, tư tưởng kiến giải đã quá nhiều, vô minh quá nặng đã che kín
trí huệ,cho nên họ khó thấy được chân lý. Vì một tâm ý quyết lòng trả hiếu
trong đời, con cố gắng tối đa, tìm đủ cách để chứng mình một sự thật quý nhất
cho đời người. Bao nhiêu hình chụp, bao nhiêu tài liệu con đều lần lượt gởi về
cũng chỉ muốn để cho cha má thấu rõ.
Đến hôm nay cha má đã coi được cuộn
video “Hoa Khai Kiến Phật”, thì con nghĩ sự hồ nghi của cha má chắc đã được
giải tỏa. Những lời con thường nói như: tu hành một đời này thôi viên thành Phật
đạo, một đời này thôi thoát ly lục đạo luân-hồi, một đời này thôi vượt qua tam
giới, một đời này thôi về tới được cõi Tây-phương Cực-lạc để thành Bồ-tát bất-thối
chờ ngày thành Phật… Những điều này đến nay chắc cha má phải chấp nhận là đúng,
vì đã tận mắt chứng kiến một bà cụ lụm cụm chín mươi tuổi mới phát khởi niệm Phật,
chín mươi bốn tuổi đã an nhiên vãng sanh về Tây-phương với Phật. Rõ ràng trước
mắt!
Thưa
cha má, trước Phật tiền con đã phát nguyện quyết tâm cứu độ cha má, con nguyện
còn một cơ hội con còn cứu, còn một hơi thở con còn tìm cách cứu cha má. Mong rằng
sự thành tâm của con cảm ứng được đến cha má. Bị hiểu lầm, bị chê trách, bị đánh
giá sai, bị chửi mắng… con không ngại, vì dù sao đi nữa con cũng chỉ có khả năng
cứu cha má trong đời này thôi, qua khỏi đời này con không còn cách nào cứu được
cha má nữa. Tất cả sự thương tâm đối với ông bà giòng họ mình con đã thấy rõ,
nhưng đã lỡ rồi đành chịu thua cuộc! Ông bà mình thua cuộc không phải ông bà mình
không tu, nhưng thua cuộc vì tu không đúng cách, tu lòng vòng để hưởng những thứ
phước báu nho nhỏ, chứ không tu theo đường giải thoát trần lao, không tu theo đường
Chánh-Giác thành Phật. Khi hiểu được con đường giải thoát rồi, con mới thấy rõ
ràng hiện nay còn rất nhiều người vẫn còn mê man trong những phép tu đọa lạc.
Thật đáng thương!
Cha má ơi!
Đời này ai tu nấy đắc, chắc chắn trên vũ trụ này không ai có thể tu thế cho ai được
cả. Khổ đau hay sung sướng tự chính mình chọn. Cực-lạc hay đọa-lạc tự chính mình
tìm. Tự do hay địa ngục do chính mình đi. Cảnh giới tương lai của mỗi người tự
cá nhân mình xây dựng lấy. Chư Phật đại từ đại bi cũng chỉ có thể tăng thiện
duyên cho mình, bày vẽ con đường cho mình đi, Phật sắp đặt sự gia trì trên con đường
đó, hễ mình bước theo con đường đó thì hưởng được sự gia trì, mình đi lạc đường
tự mình phải quay trở lại, chứ chư Phật không thể đi giùm cho mình được. Con thương
cha má con chỉ giúp được bằng lời, chứ con cũng chẳng làm được gì khác. Sự nghiệp
thế gian còn có thể cho nhượng để hưởng tạm bợ một vài năm rồi chết, chứ sự
nghiệp xuất thế gian thiên trường vĩnh cửu tự cha má phải làm lấy, con vì chữ
hiếu đã nói cạn lời cạn ý rồi, xin cha má muôn ngàn lần cẩn thận.
Con xin
nhắc lại, trong thời mạt pháp này chỉ có niệm Phật, niệm Phật A-di-đà và ngày
ngày cầu xin về cảnh giới Phật thì cha má mới thoát được khổ nạn cuộc đời. Niệm
Phật mới về được cảnh giới Phật, ngoài ra không tìm ra một pháp môn nào khác có
thể thay thế được đâu. Trong những thư trước con đã nói rõ ràng chuyện này rồi.
Bà bác mẹ anh Hai Nhung trong những ngày thoi thóp cuối cuộc đời đã phát tâm niệm
Phật, nếu đúng như cháu Tuyết nói “Ngày đêm Nội cháu niệm Phật”, thì đường
về với Phật đang nằm trong tầm tay của bác. Con đã viết thư cho cháu Tuyết và
khuyên cháu cố gắng giúp Nội của cháu, có lẽ con sẽ viết thêm thư để khuyên anh
Hai hỗ trợ hoặc nói thẳng với bác để củng cố niềm tin, may ra con cứu được một
người.
Sau khi đã tận mắt coi được người vãng
sanh về Tây-phương với Phật thì con nghĩ bao nhiêu câu hỏi gì liên quan đến “có”
hay “không có” vãng sanh đã được giải tỏa. Cha má cũng nên phát tâm giúp
bà con cô bác trong làng tu hành. Đây là một công đức rất lớn để làm tư lương lót
đường cho ngày vãng sanh của cha má. Hôm trước, chị Hai cũng có ý nguyện đi
khuyên bà con niệm Phật, con rất mừng. Một khi thiện căn đã phát thì phước báu
cũng phát sinh ra, hướng dẫn cho nhiều người tu tập thuộc về công đức vô lậu, đây
là công đức bố thí pháp quý nhất trong các loại bố thí.
Tại
sao niệm Phật được thành Phật? Thực
ra pháp Phật để lại cho chúng sanh vô lượng, vô biên, pháp nào cũng vi diệu cả.
Chính vì thế mà có rất nhiều người cứ lý luận rằng tu cách nào cũng là tu, pháp
nào cũng pháp Phật. Nói vậy coi chừng bị hớ mà không hay! Trong lời khai thị của
Hòa-Thượng Tịnh-Không, Ngài nói rằng: “có người cho rằng đạo nào cũng là đạo,
miễn làm lành lánh dữ là được, miễn có chỗ gởi gấm tinh thần là tốt rồi. Đây là
một sai lầm rất lớn, không những làm hại mình mà còn hại đến người khác, vì người
không học Phật thì vĩnh viễn không có cơ hội giải thoát. Ta nên nhớ, ngoài những
pháp hữu lậu thế gian, vẫn còn có pháp xuất thế gian, có thể siêu phàm nhập Thánh,
một đời thoát ly sinh tử chứng đại Bồ-đề, viên mãn Phật đạo”.
Có thể
nói rằng đạo nào cũng tốt thì có thể đúng vì hầu hết đạo giáo nào cũng khuyên làm
lành lánh dữ, chứ còn nói đạo nào cũng giải thoát thì không thể đúng được. Cũng
như nói, có học thì tốt là đúng, nhưng không thể nói có học là được cấp bằng tiến
sĩ, thành bác sĩ được. Học tiểu học sẽ được cấp tiểu học, học đại học sẽ có bằng
cử nhân, học tiến sĩ mới có bằng tiến sĩ. Tu đạo cũng vậy, Phật giáo có vô lượng
vô biên pháp môn, nhưng tu pháp Nhân-Thừa thì nhiều lắm cũng chỉ được làm người
trở lại; tu Thiên-Thừa thì nhiều lắm cũng sanh lên một cõi Trời; tu Tiên thì làm
được ông Tiên sống dai hơn thiên hạ một chút. Tất cả phép tu đó, theo Phật nói,
cũng chỉ hưởng được chút phước hữu lậu nào đó để chờ ngày đoạ lạc mà thôi. Muốn
thành Phật phải tu pháp môn thành Phật.
Pháp
môn nào thành Phật? Là Đại Thừa Phật
pháp. Niệm Phật là pháp tối thượng cực tôn trong đại thừa Pháp. Người học tiến
sĩ thì dù có dở cho mấy thì họ cũng được bằng cử-nhân, người học tiểu học thì dù
có giỏi tuyệt luân đi nữa cũng chỉ có bằng cấp lớp năm là cùng. Người tu pháp
thành Phật thì cơ hội thành Phật có trong đời, dù có dở cũng sẽ thành được Bồ-tát.
Người tu chỉ nguyện sanh trở lại làm người thì tột bực cũng chỉ được đời sau trở
lại làm người, sống thêm vài chục năm trên thế gian rồi chờ ngày chết. Người là
cảnh giới thấp nhứt trong tam thiện đạo (Thiên, A-Tu-La, Nhân). Như vậy, lỡ tu
hành không được tinh tấn, không đủ tiêu chuẩn để được làm người thì đi đâu? Chắc
chắn là phải rớt xuống tam ác đạo, nghĩa là không vào địa-ngục thì làm súc-sanh,
không súc-sanh thì chắc chắn thành ngạ-quỷ, ba đường đó khó thể nào trốn thoát.
Cả đời tu hành thật khổ cực sau cùng lại hưởng những thứ hung hiểm tàn tệ mà mình
không hay! Như vậy, làm sao tương đương cho được, thì làm sao ta có thể bừa bãi
được?
Thưa
cha má, hôm nay con muốn nói đến việc tại sao niệm Phật được Thành Phật? Tại
sao pháp niệm Phật lại tối cực chí tôn như vậy? Đã tối thượng viên mãn như vậy
tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni để lại Pháp môn này gần ba ngàn năm nay rồi lại
ít người thể hội đến, ít người tu tập? Con sẽ dựa theo kinh điển, dựa theo lời
giảng của Hòa-Thượng Tịnh-Không, của chư Tổ sư để giải thích, chứ không phải tự
ý con nghĩ ra và cũng để kết thúc lời thư củng cố niềm tin vững mạnh cho những
ai muốn tu học Phật.
Thứ
nhứt, căn bản nhứt mình cần phải biết
rằng sở dĩ mình được thành Phật là vì chính mỗi một người chúng ta đều có chủng
tử Phật. Nói đơn giản hơn, chính cha, chính má, chính con, tất cả ai ai cũng có
tâm Phật cả. Như cha thường nói với con rằng “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”.
Nghĩa là, chính mình là một vị Phật trên đời mà mình không hay không biết. Chính
vì thế, mà bất cứ lúc nào một người bình thường như chúng ta đều có thể thành
Phật nếu biết hồi đầu.
Ví dụ
cho dễ hiểu, nếu con là con của cha má, thì dù con có lưu lạc đến chân trời góc
biển nào, con có bất hiếu, hoang đàng, ngỗ nghịch mà từ chối dòng giống thì con
cũng không thể cải đổi giòng máu của con. Nghĩa là trong đời này con vẫn là con
của cha má, trong bất cứ lúc nào hễ chỉ cần con quay trở về là ngay lập tức con
nhận ra cha má liền. Ngược lại, nếu con không phải là con của cha má, thì dù
con có muốn mấy đi nữa, giả dạng đủ cách cũng không thể được. Với khoa học ngày
nay chỉ cần lượm được một sợi tóc thôi họ cũng có thể truy tầm ra nòi giống, thì
làm sao giả dối được. Tương tự, chính vì chân tâm của chúng ta là Phật cho nên
ta mới có thể thành Phật.
Thành
Phật là thành chính cái tâm Phật của mình chứ không có gì khác. Trong kinh Bát-Nhã
Phật dạy, “Vô-Trí diệc Vô-Đắc”, “Vô-Trí” là Căn-bản-trí, chính là chân tâm
của chính ta. “Vô-Đắc” là Vô-sở-đắc, là đắc được chính những cái gì chúng ta đã
sẵn có. Một chúng sanh vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thì tất cả những năng lực
của chính mình được khôi phục, vì thế cho nên ta thành Phật. Chân tâm ta là Phật,
nhưng ta không thành Phật được chỉ vì ta lăn lộn nhiều đời nhiều kiếp trong vô
minh, cái tâm Phật của ta bị đóng kín trong cái khung vô cùng kiên cố của trùng
trùng phiền não nghiệp chướng, thành ra ta bị mê muội không nhận được cái đúng
cái sai. Tất cả những cách sống cách nghĩ thường tình của con người trên thế
gian này đều do cái vọng tâm sai khiến hết.
Hễ mê
thì thích mê muội và ghét chân chánh, như kẻ có tâm trộm đạo thì thích kết bè với
người trộm đạo và rất ghét người hiền-nhân quân-tử vậy. Sống trong cảnh giới mê
muội hàng vô lượng kiếp rồi, cho nên chúng ta sinh ra là mặc nhiên chấp nhận sự
mê-muội và cho đó là chân-lý, không chịu hồi tâm phản tỉnh, chứ biết hồi tâm trở
lại thì cơ hội giác ngộ chỉ là một sớm một chiều thôi chứ có gì đâu.
Thứ
hai, pháp niệm Phật là pháp môn nhị lực
được đức Phật A-di-đà gia trì và chư Phật trên toàn cõi mười phương pháp giới hộ
niệm. Thành tâm niêïm một câu Phật hiệu là ta có thể bắt được đường dây nối liền
với lực hộ trì của chư Phật trên khắp pháp giới. Chính vì thế mà sự thành tựu
không thể nói hết bằng lời.
Nối liền
huệ mạng với Phật bằng cách nào? Bằng cách TÍN-HẠNH-NGUYỆN đầy đủ. Tin Phật,
nguyện sanh về cõi Tây-phương với Phật và niệm Phật tương tục không gián đoạn,
chỉ thế thôi là nối được huệ mạng với Phật. Cha má xét thử có đúng hay không, bà
Cụ Triệu-Vinh-Phương bắt đầu tu lúc nào? Năm 1994, lúc Cụ gần chín mươi tuổi mới
bắt đầu tu. Khi nào vãng sanh? Năm 1999, lúc cụ chín mươi bốn tuổi. Cụ biết trước
ngày giờ ra đi. Cụ tỉnh táo đến giây phút cuối cùng. Trước giờ từ giã, Phật
A-di-đà hiêïn thân quang minh sáng lòa, hương thơm ngào ngạt. Tất cả những hiện
tượng này nếu ai có đọc qua kinh Vô-Lượng-Thọ đều thấy rằng Phật đã nói rõ ràng
cách đây gần ba ngàn năm rồi. Nhìn hiện tượng vãng sanh, lấy kinh Phật ấn chứng,
mình còn biết được Cụ đã vãng sanh lên phẩm vị nào trong chín phẩm hoa Sen nữa
là khác.
Thưa
cha má, bà Cụ khởi đầu tu hành đã quá trễ, trễ hơn cha má bây giờ. Giả sử lúc đó
Cụ không có lòng TIN vững chắc, cứ nói bây giờ mình già rồi, trễ rồi, sắp chết
rồi… làm sao tu kịp nữa, thì đến hôm nay thân xác Cụ cũng đã tiêu tan, nhưng
khổ nhứt là không biết là mình đang nằm than khóc ở cảnh giới nào đây? Có ai
hay biết! Thế mà Cụ đã bừng lên một ý chí kiên cường dũng mãnh, quyết tâm về với
Phật, Cụ buông xả tất cả để đi, một lòng niệm A-di-đà Phật, chỉ cần vài năm ngắn
ngủi thôi Cụ đã được chính đức Phật A-di-đà hiện thân thọ ký vào năm 1998. Một
sự quyết tâm thực hiện TÍN-HẠNH-NGUYỆN đầy đủ một thời gian ngắn thôi ở cuối cuộc
đời: Cụ đã viên mãn Phật Đạo, hoàn toàn giải thoát, nghiễm nhiên trở thành vị Bồ-tát
vào năm 1999. Giả sử bây giờ Ngài có thị hiện xuống phàm sớm thì ngày nay bất kỳ
ai gặp Ngài cũng phải quỳ xuống phục lạy xin cứu độ chứ không phải tầm thường.
Thế mà
người đời chưa tin, nói đến tu hành thì hẹn nay hẹn mai, đổ thừa bị kẹt này kẹt
nọ, bị bận lo cho con cho cháu, cho nhân, cho nghĩa, lo cho cái nhà, miếng vườn…
“Dép dưới giường lên giường vội biệt, sống ngày nay khó biết ngày mai!”.
Ấy thế, tuổi đã xế chiều rồi mà còn tham chi mấy chuyện vụn vặt, mà quên mất cảnh
đọa lạc khổ đau hàng ngàn vạn năm sau đó. Rất tiếc là con không cách nào có nhiều
cuộn phim quay lại người vãng sanh, vì người ta không cho phép quay, chứ không
chắc chắn cũng có nhiều phim khác để cho mọi người cùng thấy, để cùng nhau phát
tâm niệm Phật. Trong thư trước con có chụp lại cái thông báo và tấm hình của cụ
Trần-Văn-Lâm vừa mới vãng sanh vào ngày 30/5/2001. Con của cụ thường tu trong
Niệm-Phật-Đường, về nhà khuyên cha niệm Phật, cụ nghe lời niệm Phật, cụ vãng
sanh ở tuổi quá bát tuần. Thật là đúng như lời nguyện, “Hết một báo thân này,
cùng sanh Cực-lạc quốc”. Quyển sách “Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi” chẳng
qua là một vài thí dụ thôi, chứ bây giờ mà sưu tầm cho hết thì sách đâu mà chứa
đây? Đó là sự thật, không dám nói sai.
Thế
thì tại sao đến ngày nay vẫn còn ít người biết đến niệm Phật? Người ta không biết là tại vì người ta không muốn biết,
hoặc không đủ duyên để biết. Tại Niệm-Phật-Đường ở đây đang mở khóa kiết thất
niệm Phật từ 17/12 đến 30/12/01, trong đó có một vị Sư, pháp tự là Thiện-Huệ,
tu hơn hai mươi hai năm qua tại Mỹ-Tho. Ngài qua Canada thăm con gái, vô tình
nghe được mấy cuộn video pháp của Hòa-Thượng Tịnh-Không do chính con đem qua
Canada trong tháng chín vừa qua. Ngài nghe được chợt tỉnh ngộ, liền cùng với người
con gái, chị Diệu-Đức, một dược sĩ, bay qua Úc để nhập thất cùng tu và mong được
bái kiến Hòa-Thượng Tịnh-Không. Trong một đêm nghe Pháp với thầy Ngộ-Thông, Ngài
được mời lên phát biểu. Ngài thành thực nói rằng: “Hơn hai mươi hai năm tu hành
nhưng tôi chưa nhận rõ đường đi, tu thì tu nhưng không biết đâu để đi, rốt cuộc
cứ chạy lòng vòng, kinh Phật thì có đọc có tụng, nhưng chỉ hiểu đại khái lờ mờ,
chứ không rõ đường về Cực-lạc”. Ngài nói cái lỗi này một phần là do các vị thầy
của mình không chịu hướng dẫn kỹ. Ngài nói tiếp: “Nếu tôi không có cơ duyên này
thì đến chết tôi cũng chưa chắc biết được đường nào tôi đi”. Ngài Thiện-Huệ năm
nay tròn tám mươi tuổi.
Thưa
cha má, đừng nghĩ rằng cha má đang được con nhắc nhở niệm Phật, thì tưởng rằng
ai cũng được nhắc nhở như vậy đâu. Cha má thử nghĩ, ngay cả một vị Sư xuất gia
tu học Phật hai mươi hai năm qua mà không hiểu, không biết nguyện vãng sanh với
câu Phật hiệu, thì làm sao đại chúng hiểu biết đây? Trong nhiều bài pháp Hòa-Thượng
Tịnh-Không nói rằng, thậm chí có nhiều vị xuất gia tu hành rất cao tuổi hạ nhưng
cuối đời vẫn không tin, hoặc không biết câu Phật hiệu để niệm vãng sanh. Ban đầu
con không dám tin, đâu có chuyện lạ lùng như vậy! Nhưng khi con đi dò hỏi để tìm
hiểu, mới giựt mình tỉnh ngộ rằng lời nói này đúng.
Ví dụ,
nhiều người tu học Phật cứ nguyện được tái sanh làm vị cao tăng để độ người, tái
sanh làm người hiền, nguyện tiêu tai giải nạn, được giàu có, được phước báu, được
an lành… Tất cả những lời nguyện đó chỉ có lợi trong phạm vi nhỏ hẹp nào đó
thôi. Còn có nhiều lời nguyện sai lầm nữa là khác! Nguyện như vậy thì chính họ
không được phần giải thoát, tự họ dẫn dắt mình vào con đường hiểm nạn. Vì sao?
Vì qua một cuộc cách ấm thì công phu tu hành bị xóa sổ sạch trơn, đời sau nếu
không có cơ duyên thì khó mà gặp lại Phật pháp để tu tiếp. Cạm bẫy giăng giăng,
ma chướng trùng trùng, càng về sau càng kịch liệt hung hiểm, khó cho họ cái cơ
hội thoát nạn!
Ngay cả
những người tu chỉ nguyện thành Phật cũng không viên mãn đường tu. Tại sao? Vì
thành Phật khi nào đây? Đời sau hay triệu đời sau? Hay tỉ đời sau? Tỉ tỉ đời
sau? Vô lượng vô biên kiếp về sau? Trong khoảng thời gian đó sẽ ra sao đây? Ai
cứu mình đây? Hòa-Thượng Tịnh-Không dạy rằng, người phát nguyện viên thành Phật
đạo dù họ có thiện căn sâu dày tới đâu cũng vẫn còn kém thua thiện căn và phước
đức của người phát nguyện vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Vì sao? Người phát
nguyện thành Phật mà không phát nguyện vãng sanh Tây-phương thì có thể hàng tỉ
tỉ năm sau họ còn lưu lạc đâu đó, còn lăn lộn trong sinh-tử luân-hồi chưa chắc đã
được may mắn thoát hiểm. Đó là con đường tự tu, tự chứng từng bậc từng cấp để
thành Phật, trong kinh Phật nói phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới viên thành
Phật đạo. Thời gian này là thời gian tinh tấn tu hành chứ không phải tà tà, nếu
tu tà tà thì miễn phần giải thoát. Ví như trong hiện tại họ đã phát nguyện thành
Phật, nhưng liệu họ có tu hành tinh tấn chưa, thì làm sao dám bảo đảm đời sau sẽ
tinh tấn tu hành! Sinh ra ở quốc gia giàu có thì còn đỡ, lỡ sinh ở mấy nước nghèo
hằng ngày không tìm ra muỗng cháo để húp thì làm sao tu hành đây!?
Còn người
nguyện sanh về Tây-phương Cực-lạc thì nhờ lực gia trì của Phật A-di-đà, chỉ
trong đời này thôi họ có thể được đức Phật A-di-đà tiếp dẫn về Tây-phương, họ sẽ
là Bồ-tát, không còn lo sợ tử sanh, không còn lo bị rơi vào ba đường ác, không
sợ bị thối chuyển nữa. Cứ thế họ an nhiên tự tại, hưởng thụ sự sung sướng “Cực-lạc”,
thần thông biến hoá bao trùm pháp giới. Kinh Phật nói, mỗi ngày có thể dùng
“thiên bá ức hóa-thân” đi khắp mười phương để cúng dường chư Phật, rồi trở về
phạn thực kinh hành niệm Phật. Cho nên, trong nhiều kinh điển đức Phật Thích-ca
dặn chúng sanh phải nguyện vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Thế mà người ta không
tin, nhiều người còn bài bác, nhiều nơi còn chủ trương ngược lại, thì Phật làm
gì được bây giờ!
Sinh
về Tây-phương khó hay dễ? Chỉ cần TÍN-HẠNH-NGUYỆN
là đi, làm sao khó được. Khó hay dễ cứ hỏi bà cụ Triệu-Vinh-Phương thử coi. Cho
nên con thường nói, chính cha má đang hưởng một đại thiện căn đại phúc báu và
nhân duyên trong đời khó người có được mà cha má không hay. Nếu bỏ mất cơ hội này,
xin nói thẳng, bá thiên vạn kiếp sau này chưa chắc cha má còn có cơ hội gặp lại
được. Xin cha má muôn ngàn lần trân trọng những lời nói của con để được thoát nạn.
Bên trên
là nói chung chung, bây giờ con muốn đi thẳng vào thực tế bên cạnh cha, cái pháp
tu để trở thành hiền nhân chờ dự Hội-Long-Hoa. Con xin thưa trước rằng đây không
phải là sự kỳ thị, nhưng con cứ theo đúng kinh Phật nói thôi, vì Hội-Long-Hoa từ
kinh Phật nói ra. Di-Lặc Tôn Phật là vị Phật thứ năm thị hiện xuống trần để cứu
độ chúng sanh. Ngài là một vị Đẳng-Giác Bồ-tát ở cõi Tây-phương Cực-lạc được bổ
sứ Thành Phật. Trước khi thành Phật, Ngài tu ở nội viện cung Trời Đâu-Suất. Vì
kinh của cha đang tu tập hồi giờ đều dồn vào Hội-Long-Hoa, cho nên con mới nói đến
hội này, chứ không phải đương không con nói tới. Xin cha má đọc kỹ để hiểu đường
tu tập của mình đang đi đâu?
Trong
kinh Di-Lặc-Thượng-Sinh và Kinh Di-Lặc-Ha-Sinh, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thụ ký
rằng, Ngài Di-Lặc Bồ-tát tu hành tại cung nội viện Đâu Suất-Thiên, thọ bốn ngàn
tuổi. Một ngày trên cung trời Đâu-Suất dài bằng bốn trăm năm ở cõi trần này, tính
chung lại là khoảng năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, tức là gần sáu trăm triệu
năm nữa mới hạ sanh xuống cõi trần gian, thị hiện thành Phật dưới cội cây
Long-Thọ), và lập Hội-Long-Hoa. Ngài sẽ thay thế đức Phật Thích-ca mở ra ba hội
thuyết pháp để độ chúng sanh. Ngoài ra còn rất nhiều kinh Phật Di-Lặc khác nói đến
chuyện này. Như vậy, Long-Hoa Hải-Hội không phải xuất hiện ở thế gian trong một
vài chục năm, một vài trăm năm, một vài triệu năm… mà năm trăm bảy mươi sáu
trăm triệu năm nữa mới xuất hiện. Hay nói gọn hơn, hơn nửa tỉ năm nữa mới xảy
ra tại trần thế này. Một đời người chúng ta trung bình bảy chục năm. Giả sử một
người vừa mới chết là đầu thai trở lại làm người liền để tu hành, thì phải mất
hơn tám triệu đời nữa mới may ra gặp Hội-Long-Hoa của Phật Di-Lặc.
Khi chủ
trương hướng về Long-Hoa Hải-Hội, từ trước đến giờ có ai thuyết minh việc này
chưa? Có ai tường tận cái thời gian tưởng chừng vô cùng vô tận này không? Thời
này là thời mạt-pháp. Chư Phật sợ chúng sanh không thoát khỏi hiểm nạn của tà
ma ngoại đạo đang bủa lưới khắp nhân gian, cho nên quý Ngài mới quyết tâm dùng
pháp âm A-di-đà Phật để cứu độ tất cả những ai phát tâm niệm Phật nguyện sanh về
cõi Tây-phương để thành Phật. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy, “Chủng chư
thiện căn nguyện sanh Cực-lạc, kiến A-di-đà Phật. Giai đương vãng sanh, bỉ Như-Lai
độ, các ư dị phương thứ đệ thành Phật đồng danh Diệu-Âm Như-Lai” (Vô-Lượng-Thọ
phẩm 48). (Nghĩa là, những người có thiện căn nguyện vãng sanh về Cực-lạc, sẽ
thấy được Phật A-di-đà. Những người vãng sanh này về được nước Phật đó từ các
quốc độ khác nhau, trước sau đều được thành Phật và cùng có tên là Diệu-Âm Như-Lai).
Pháp danh của con là Diệu-Âm, của vợ con cũng là Diệu-Âm, hàng ngàn người quy y
với Hòa-Thượng Tịnh-Không đều cùng một pháp danh là Diệu-Âm. Cha má ạ, hãy chuẩn
bị vị thế của mình ngay từ bây giờ chứ cần gì chờ đợi đến ngày vãng sanh…
Trong pháp
vận của đức Phật Thích-ca Mâu-ni trải qua mười hai ngàn năm, chánhpháp một ngàn
năm, tượng-pháp một ngàn năm, mười ngàn năm là thời kỳ mạt-pháp. Ta đã bước qua
ngàn năm thứ hai của thời mạt pháp. Trong thời kỳ này, ta đang sống càng ngày càng
lún sâu vào ma nghiệp, càng ngày càng khốc liệt, càng kinh khủng! Tất cả những
giáo pháp xuất hiện trong một ngàn năm trở lại đây thuộc về mạt-pháp, ai dám bảo
đảm đó là chánh-pháp? Gần ba ngàn năm trước đây, kinh sách của Phật để lại đã dặn
rất kỹ rằng, bắt đầu hai ngàn năm sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh tuyệt đối
phải cẩn thận, nếu không khó tránh đường đọa lạc oan uổng. Trong thời kỳ mạt pháp
này chư Phật luôn luôn xuất hiện để cứu vớt chúng sanh, nhưng cũng có rất nhiều
hiện tượng khác xuất hiện song song. Xin cha má phải nhớ kỹ một nguyên tắc để
phân biệt là:
1) Chư Phật Bồ-tát không bao giờ sử dụng
thần thông, biến hoá, đồng bóng…
2) Không bao giờ quý Ngài để lộ
chân tướng, danh tánh, không bao giời tự xưng là Phật, Thánh, Tiên, Hiền,
3) Nếu đã lỡ bị lộ danh tánh thì tức khắc
các Ngài thị tịch liền,
4) Các Ngài
xuất hiện là luôn luôn giảng chánh pháp, làm cho chúng sanh thấu rõ kinh tạng,
tu đúng pháp Phật, chứ không khi nào các Ngài giảng pháp đối nghịch với Phật
hay khai triển xa lìa chánh pháp của Phật. Xin cha má lấy những tiêu chuẩn này để
tự kiểm lấy.
Như vậy, từ
đây cho đến chín ngàn năm nữa vẫn còn là thời kỳ độ sanh của Phật Thích-ca Mâu-ni,
Ngài khuyên chúng sanh nguyện sanh về Tây-phương Cực-lạc của đức A-di-đà để viên
thành Phật đạo. Trong thời kỳ này tuyệt đối không có một vị Phật nào dám xuất
hiện mà lộ danh tánh, vì “Phật Phật đạo đồng”, “Nhứt Phật xuất thế thiên Phật
hộ trì”, không thể chư Phật lại đi làm chuyện dẫm chân lên nhau như người
thế gian đâu.
Bây giờ
xét tới “Tam Kỳ Phổ Độ”, chiếu đúng theo kinh Phật nói, thì kỳ thứ nhứt
xảy ra chắc chắn phải là gần sáu trăm triệu năm nữa mới có. Đức Di-Lặc Tôn Phật
sẽ lập ba hội thuyết pháp độ sanh gọi là ba kỳ độ sanh. Ngài thuộc hàng đệ tử của
Phật Thích-ca Mâu-ni, làm sao Ngài dám lập kỳ độ sanh trong thời của sư phụ đang
hành sự. Như vậy, tam kỳ độ sanh đây chỉ cho tam kỳ mở hội thuyết pháp của đức
Di-Lặc Tôn Phật ở Hội-Long-Hoa.
Thưa cha má,
tu hành cần hiểu thấu lẽ đạo, đừng nên bất cẩn mà khó về sau. Một thời gian hơn
nửa tỉ năm không phải là chuyện tầm thường. Lăn lộn khổ đau trong hơn tám triệu
đời chết đi sống lại để chỉ cầu được thành người, thật có oan uổng không? Xin
nghiêm chỉnh xét lại. Riêng con, con không dám đi con đường đó. Con đi theo con
đường của cụ Triệu-Vinh-Phương năm 1999, con đường của ông Trần-văn-Lâm vừa mới
vãng sanh về Tây-phương ngày 30/5/2001, con đường “Niệm Phật Thành Phật”.
Niệm Phật là nhơn, thành Phật là quả, con cố gắng tranh từng hơi thở để niệm Phật,
để được mười câu Phật hiệu trước phút lâm chung, thì con được vãng sanh và thành
Diệu-Âm Bồ-tát.
Ví dụ,
nếu bà bác mẹ anh Hai nghe lời con, một lòng niệm Phật, một lòng cầu vãng sanh
Tây-phương, trong những ngày cuối cuộc đời này nằm trên giường bệnh mà bác thành
tâm sám hối những lỗi lầm trong đời, quyết chí ăn năn hối lỗi, một lòng cầu Phật
Di-Đà tiếp dẫn và “niệm Phật không hoài nghi, không xen tạp và niệm liên tục không
gián đoạn”, thì bác cũng sẽ thành Diệu-Âm Bồ-tát trong một đời này. Trong khi nếu
tu theo con đường Nhân Hiền để chờ dự Hội-Long-Hoa thì hàng trăm triệu năm sau,
khi người ta đã thành Phật từ hồi nào rồi, mà mình thì vẫn còn lang thang ở một
xứ sở nào đó, không biết có còn được làm người hay không, có được phước phần để
nghe pháp âm của đức Di-Lặc lập kỳ phổ độ không! Xin cha má suy nghĩ kỹ.
Đức
Di-Lặc sẽ thuyết gì? Đức Di-Lặc Tôn
Phật sẽ thuyết pháp môn Niệm Phật cầu sanh Cực-lạc, vì pháp môn này mười phương
ba đời chư Phật đều phải thuyết.
Thưa
cha má, con nghe nói cha má đã có niệm Phật con mừng lắm, thư này con xác định
thêm niềm tin thôi. Nhứt định cha má phải tin Phật, phải biết gởi trọn vẹn huệ
mạng mình cho Phật là hành động đúng và trí huệ nhứt, không sai đâu. Niệm Phật
và tiếp tục niệm Phật thì ngày thấy Phật không xa. Tuổi cha má đã cao, sức đã yếu,
ngoài pháp tu niệm Phật ra, không tìm đâu ra pháp nào đơn giản dễ dàng tiện lợi
và vi diệu hơn. Cụ Triệu-Vinh-Phương, chín mươi tuổi mới khởi tu còn vãng sanh được
huống chi là cha má. Cụ Trần-Quang-Việt, tám mươi hai tuổi mới phát tâm niệm Phật,
tám mươi sáu tuổi vãng sanh trong đầu năm 2001. Tất cả những người thành tâm niệm
Phật không ai không thành Bồ-tát, thì cha má nhứt định không được chần chờ nữa
nghen.
Bồ-tát
Phổ-Hiền dạy rằng, “Danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật thành tựu vô lượng vô biên
công đức như thế, cho nên phải nói rằng danh hiệu chứa đựng vô lượng vô biên công
đức của hết thảy Phật pháp, khai vô lượng vô biên diệu dụng, hiển thị vô lượng
vô biên uy lực, giải thị vô lượng vô biên tri kiến giải thoát, siêu việt mọi tư
duy ngôn từ. Tại sao thế? Vì nhân nơi danh hiệu Phật mà xuất sanh và lưu bố tất
cả Bồ-đề tâm, tất cả Bồ-đề nguyện, tất cả Bồ-đề hạnh. Ba đời mười phương Như-Lai
thảy đều từ danh hiệu Phật mà phát sinh ra. Ba đời mười phương Phật thảy đều do
danh hiệu Phật mà thành đạo”, (Kinh Niệm-Phật Ba-La-Mật , phẩm 4). Cho nên,
danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật là toàn bộ Phật pháp của các đức Như-Lai, vô lượng
vô biên công năng, chứa tất cả mật tạng trong đó chứ không phải thường đâu cha
má ạ.
Hòa-Thượng Tịnh-Không thường giảng rằng,
chư Phật cũng phải niệm Phật để thành Phật thì tại sao chúng ta lại không niệm
Phật, còn chọn lựa gì nữa đây? Tây-phương Cực-lạc là Pháp giới của Phật, là tối
thắng trong tất cả mười phương pháp giới mà chỉ cần một đời tu hành nhất tâm niệm
Phật là được phần vãng sanh mà còn chờ đợi gì nữa.
Cha má kính thương, trong đời này con gặp cha má thì
con phải tìm cách trả trọn chữ hiếu làm con. Nhiều lúc, vì để thức tỉnh cha má
con đành lấn sang những phần đáng lẽ không nên nói. Tuy nhiên con tin cha má hiểu
con, chư Phật cũng hiểu con và hộ trì cho con để con làm tròn lời hứa cứu độ
song thân.
Đến lá thư này là đủ kết thúc giai đoạn củng cố niềm
tin cho cha má. Tin thì cha má phải đi, có đi thì tự nhiên đến. Hồi giờ mình cứ
đi lòng vòng trong rừng gai hiểm hóc không biết hướng thoát thân. Niệm Phật cầu
sanh Tịnh-độ là đại lộ thênh thang lót bằng vàng để ta về với Phật. Cha má cứ
giữ vững lòng tin mà tiến bước thì quang minh của chư Phật đang chờ phía trước.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu ngày 22/12/2001).
Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về Tây-phương là muốn giải
quyết vấn đề sanh tử của chính mình ngay trong đời này. Nếu niệm Phật để cầu đời
sau hưởng phước báu của cõi người hoặc cõi trời, thì chẳng khác gì người lấy viên
ngọc vô giá đổi lấy tán kẹo.
(Ấn Quang Đại sư).
Như-Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-Đà bổn nguyện
hải.
111
15 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Thế
giới trong tương lai có thể sẽ xảy ra nhiều tai ương hiểm nạn kinh khủng lắm, cường
độ có thể khó tưởng tượng chứ không phải tầm thường! Muốn cứu vãn phần nào tình
thế này không còn cách nào khác hơn là khuyên người tu hành cho nhiều, nhờ đó mà
xoay chuyển phần nào cái khổ nạn xã hội. Nhưng cứu người không những chỉ thoát
khỏi vài cái tại nạn thiên nhiên, hoặc sống sót sau vài cuộc chiến tranh là đủ đâu.
Vì nghiệp chướng vẫn còn đó, làm sao con người tránh khỏi nghiệp báo? Giảm nạn
thế gian là sự ảnh hưởng tự nhiên của việc tu hành, còn cứu độ chúng sanh vượt
qua được tam giới để vãng sanh Tây-phương mới là điểm chính yếu.
Hôm
Tết nói chuyện được với cha má và anh chị Ba, biết được tất cả đều có niệm Phật
làm con mừng lắm. Giác ngộ cuộc đời sớm chừng nào hay chừng đó, đừng để quá trễ
tràng thì không còn cứu kịp nữa đâu. Nhưng qua điện thoại, con lại phát hiện một
vấn đề khá quan trọng mà con không dám không nói. Đó là chuyện: có người niệm
Phật vãng sanh, có người niệm suốt cuộc đời cũng không được vãng sanh. Tại sao?
Mới đây có một Phật tử hỏi thầy Ngộ-Thông như vầy: “Thưa thầy, con cũng quyết tâm
niệm Phật và cầu vãng sanh, nhưng điều kiện để được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc
là khi lâm chung phải được tỉnh táo và niệm cho được mười câu Phật hiệu. Con thấy
một trăm người chết người nào cũng mê man bất tỉnh hoặc quằn quại đau đớn ra đi,
thì làm sao niệm Phật được. Điều này làm cho con lo lắng vô cùng và nhiều lúc
thấy chán nản, vì làm sao biết mình sẽ được may mắn, không bị mê man khi ra đi đây?”.
Để trả lời câu hỏi này, Thầy đã nghiêm
khắc cảnh cáo, “Coi chừng cô niệm Phật bể hầu bể họng, niệm suốt cuộc đời cũng
không thể vãng sanh …”. Trong nhiều lần khai thị, Hòa-Thượng Tịnh-Không cũng
thường nhắc đến chuyện này rằng, có người niệm Phật một thời gian rất ngắn mà được
an nhiên vãng sanh về Tây-phương bất thối thành Phật, có người niệm một ngày cả
vạn câu, bể hầu bể họng, nhưng cuối cùng vẫn chỉ là kết duyên với Phật mà thôi,
nghĩa là đọa lạc vẫn hoàn đọa lạc.
Tại
sao vậy? Phần sau đây con xin nói rõ chuyện này, mong cha má cẩn trọng lắng
nghe. Anh chị em, bà con, hàng xóm nếu ai muốn một đời này thành tựu Phật đạo cũng
nên đọc cho kỹ lá thư này để thực hành vậy.
Thành tâm niệm Phật mười câu trước lúc
lâm chung thì được Phật A-di-đà phóng quang tiếp dẫn. Đây là lời đại nguyện của
Phật A-di-đà, chắc chắn có thực. Đây là diện vãng sanh thấp nhứt, đới nghiệp vãng
sanh hạ phẩm, nhưng cũng thoát được tam giới lục đạo.
Nghe nói như vậy nhiều
người lầm tưởng rằng sự việc này quá đơn giản cho nên lơ là thành ra hầu hết bị
rớt đài. Tại sao? Tại vì nghiệp chướng, tại vì oan gia trái chủ, tại vì tâm điên
đảo, tại vì mê man bất tỉnh, v.v… Có mười trường hợp lâm chung khó thể vãng
sanh, ví dụ như: tai nạn bạo tử; chết vì các nạn nước, lửa, trúng gió á khẩu, cọp
chụp, té cây; con cháu kêu khóc phá rầy, mê man bất tỉnh, oan gia phá hoại, bị điên
loạn, bị tật nguyền câm điếc… Người có niệm Phật nhưng cuối đời bị vướng vào
các thứ trên khó có thể vãng sanh. Có người may mắn sanh vào thiện đạo như trở
lại làm người, sanh vào cõi trời, có người vẫn phải đọa lạc vào ác đạo như thường.
Nói chung không thoát khỏi lục đạo.
Tại
sao vậy? Vì những người này niệm Phật không đúng theo tiêu chuẩn Tín-Nguyện-Hạnh.
Niệm Phật không trung thành, không tin tưởng thì không được sự gia trì, phá không
nổi nghiệp chướng cho nên bị nghiệp chướng lôi đi. Niệm Phật bấy giờ chỉ tạo thêm
thiện duyên, làm nhẹ phần nào nghiệp chướng thôi chứ chưa đủ để vãng sanh. Niệm
thì thấy nhiều, nhưng chỉ là miệng niệm chứ không phải tâm niệm, thành ra uy lực
của câu Phật hiệu bị mất hiệu lực.
Cái
niệm lúc lâm chung quyết định đường tái sanh cho đời kiếp phiùa sau. Lúc lâm
chung chỉ cần nổi lên một ý niệm sân giận bị lôi vào địa-ngục, một ý niệm tham
lam bị rơi vào hàng ngạ-quỷ, một ý niệm si mê biến thành súc-sanh. Còn những
nghiệp khác, cả thiện lẫn ác sẽ vẫn còn đó chờ gặp duyên khác để mình nhận quả
báo. Vì thế, cái trạng thái lúc lâm chung tối quan trọng. Nếu cha má quyết chí
vãng sanh thì phải quyết chí giải trừ những nạn đó, nhất là nạn mê man bất tỉnh,
nạn oan gia trái chủ, nếu không thì khó bề thành tựu! Nên nhớ cái hiểm nạn này
nó đến một cách bất ngờ không báo trước. Mình không biết các thế lực đó nó đến
lúc nào, nó bất chợt hành động để lôi mình trở về trong lục-đạo hoặc ba đường ác
.
Làm
sao giải trừ? Thưa cha má, như
đã nói, phải thực hiện đúng ba điều kiện tiên quyết TÍN-HẠNH-NGUYỆN đầy đủ.
TÍN là
tin Phật pháp tuyệt đối, tin chắc chắn mình được vãng sanh, tin chắc vào lời Phật
dạy là đúng;
NGUYỆN
là ngày ngày cầu nguyện được sanh về Tây-phương khi mãn báo thân;
HẠNH
là ngày đêm niệm A-Di-Dà Phật.
Ba điều kiện này thiếu một thì phải
bị rớt, tu hành siêng cần tới đâu cũng bị rớt. Tín-Nguyện-Hạnh là ba chân của cái
đảnh, một chân yếu cái đảnh sẽ ngã. Người niệm Phật, khi niệm tuyệt đối : Không
hoài nghi, không xen tạp và không gián đoạn. Niệm Phật vô ý phạm phải một trong
ba điều cấm kỵ này không được vãng sanh, nhất là tạp niệm.
Khi
nói chuyện với cha vô tình con thấy được cha có tin nhưng tín tâm không đủ mạnh,
tin không đủ tức là còn hoài nghi, còn nghi thì sinh ra tạp niệm, có tạp niệm tức
là không liên tục niệm Phật, thế thì cha chỉ hưởng được một số phước-báu, thiện-căn,
và đời này chỉ được kết duyên với Phật A-di-đà mà thôi. Nghĩa là đời sau vẫn còn
trôi lăn trong lục đạo luân hồi, ngay ba đường ác cũng có thể lạc vào như thường.
Những người niệm Phật mà còn bị chết trong điều kiện mê man bất tỉnh, bị những
tai nạn, bạo tử… thường thường thuộc hạng nguời không làm trọn đủ Tín-Nguyện-Hạnh,
trong đó hầu hết đều do Tín tâm không đủ mà ra. Nên nhớ những tai nạn này không
phải là do niệm Phật, mà chính là không hưởng được sự gia trì của Phật A-di-đà,
nghĩa là mình bị chết theo định số của mình, mặc dù mình có niệm Phật.
Định
số của mình do đâu mà có? Do
nghiệp chướng kết tập từ trong quá khứ tạo nên. Niệm Phật không đúng theo Tín-Nguyện-Hạnh
chỉ có thể làm nhẹ phần nghiệp-chướng quả-báo mà thôi. Có người niệm Phật mà tiếp
tục làm điều sai trái, tâm địa không thiện lương, có thể bị tội nặng hơn nữa là
khác. Còn người trung thành chí thiết niệm Phật, một lòng cầu sanh Tây-phương,
thì dù nghiệp chướng có nặng cũng dễ chuyển biến thành nhẹ, hậu báo có kinh khủng
cũng thành hiện báo nhẹ, rồi được đới nghiệp vãng sanh. Tất cả những người tu hành
trễ tràng như cha má, hầu hết là hưởng cái diện đới nghiệp này. Tin như vậy thì
báo thân này cha má viên mãn sở nguyện, nếu không tin tưởng vững chắc, sẽ không
đi tới đâu hết. Chính vì thế rất nhiều thư rồi con đều nhắc nhở đến chữ TÍN.
Mong cha má phát tâm tin tưởng vững mạnh mà làm theo.
Người
Phật tử hỏi một sự thật, tại sao Thầy Ngộ-Thông nghiêm khắc cảnh cáo là “coi chừng
Cô niệm Phật bể hầu bể họng cũng không được phần vãng sanh” vậy? Xin thưa, vì còn
nói như vậy đã tự xác nhận niềm tin không trọn! Vì niềm tin không đủ, cho nên còn
lo âu về cái chết mê man như bao nhiêu người khác. Trong kinh Phật nói, người thành
tâm niệm Phật luôn luôn có hai mươi lăm vị Bồ-tát hộ pháp ngày đêm bảo vệ, có
chư Phật hộ niệm. Một người đã có hàng bảo hộ hùng hậu như vậy mà chưa chịu yên
tâm sao?
Người
khi chết tại sao mê man? Vì nghiệp chướng phá hoại. Tại sao thè lưỡi trợn mắt?
Vì oan gia, trái chủ nhào tới trả thù, bóp cổ. Muốn biết oan gia, trái chủ bao
nhiêu hãy đếm coi trong đời mình giết bao nhiêu con gà, bao nhiêu con heo, bao
nhiêu con cá… Đó là đời này, còn vô lượng kiếp về trước nữa đã trả hết đâu?
Chưa nói đến những người bị mình giết hại trở thành oan hồn thù mình truyền kiếp?
Tại sao khi lâm chung lại la hét thất kinh? Vì bị ma quỷ chụp xé, v.v… Vì quá
sợ hãi cho nên thân thể lạnh tanh, cứng ngắc và mắt mở trao tráo. Những cảnh giới
vô cùng kinh hãi diễn ra trong giờ phút đó, thì thử hỏi làm sao có thể bình tĩnh
được để niệm Phật được đây.
Tu là
tu sửa; hành là hành động. Tu hành là ngày ngày tu sửa những hành động sai trái
của mình. Cố gắng mở tâm lượng từ bi hỷ xả. Cái nguyên tắc đầu tiên tu hành là “chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”. Tất cả giáo nghĩa này
bao gồm trong ba chữ “TÍN-HẠNH-NGUYỆN” đầy đủ. Chư ác mạc tác là không làm việc
ác, lớn nhỏ đều không làm. Từ hồi giờ mình sơ ý đã tạo ác nghiệp quá nhiều rồi.
Sự thực là nghiệp chướng của mình quá lớn rồi. Tất cả những oán thân, trái chủ đang
chờ đợi từng ngày cái giây phút mình lâm chung để nó nhào vào trả thù, có nhiều
oan gia nó đeo theo mình mười đời, hai mươi đời thậm chí còn lâu xa nữa để chờ
cơ hội trả thù cho được cái hận hại mạng của nó. Ghê sợ lắm!
Cho
nên, bây giờ gần cuối đời rồi cha má hãy mau mau quay đầu lại làm lành, làm thiện
cho nhiều lên. Nói như vậy, không phải con ám chỉ hồi giờ cha má không có làm lành,
làm thiện đâu, nhưng cái thiện lành hồi giờ mình làm chưa đủ để xóa tan nghiệp
chướng. Trong Phật-Giáo có tiêu chuẩn Thập thiện là: không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không hỗn hào, không nói láo, không nói đâm thọc, không
nói lời hách dịch, không tham, không sân, không si. Có thể dựa theo tiêu
chuẩn đó mà làm, khởi tâm động niệm đều nên lấy mười điều đó mà đối chiếu, kinh
Phật gọi là: “Trú dạ thường niệm thiện pháp, tư duy thiện pháp, quán sát thiện
pháp”.
Cố gắng
mà làm lành, thành tâm để âm tích phước đức, giảm trừ tối đa nghiệp chướng. Khi
tuổi đời đã già, ngày mãn báo thân đã gần kề, thì cha má hãy mau mau tìm đường
thoát nạn. Muốn về được Tây-phương Cực-lạc trong đời này thì phải dốc lòng làm
thiện làm lành. Nghiệp lành “Thiên-Nhơn” muốn cho trọn không phải chỉ có mười điều
lành mà còn bao gồm cả: 1) Hiếu-dưỡng-phu-mẫu; 2) Phụng-sự-sư-trưởng; 3) Từ-tâm-bất-sát;
4) Tu-thập-thiện-nghiệp. Trong bốn điều này mà mình làm được chín mươi phần trăm
thì chắc chắn được sinh về cõi người, cõi trời; làm cỡ bảy mươi phần trăm thì
may mắn được sinh lại làm người. Dưới mức đó không chắc được đâu. Cho nên làm lành
lánh dữ quan trọng vô cùng.
Thế
nhưng tự xét coi, hồi giờ liệu mình làm được năm mươi phần trăm tiêu chuẩn bốn điều
trên chưa? Mười điều thiện mình có làm tròn chưa? Theo đúng luật luân hồi nhân
quả, làm sao mình khỏi lạc vào đường ác đây! Thấy trước thì phải lo toan tự cứu
cha má ạ, đừng để tới nơi rồi có khóc cũng thành thừa mà thôi.
Niệm được câu Nam-mô A-di-đà Phật mà
thành tâm thì có thể cứu vãn vô số nghiệp báo. Vì thế từ trước đến giờ con chỉ
tha thiết khuyên cha má phát lòng niệm Phật cho thiện căn khơi dậy trước, rồi
sau đó tính sau. Trong điều kiện hiện thời của cha với má rất khó làm thiện vì
hoàn cảnh không dư giả mấy, tuy nhiên hãy mở rộng tâm bố thí càng lớn chừng nào
càng hay chừng đó. Phật dạy, hễ tu bố thí tài mình được giàu sang, bố thí Pháp
mình được thông minh trí tuệ, bố thí vô-úy thì được khỏe mạnh sống lâu. (Vô-Úy
là an ủi, khuyến khích, từ bi). Hồi giờ về việc ác thì mình không chủ trương làm
nhưng, như trong những thư trước con nêu ra, vì không để ý chúng ta đã tạo tác ác
nghiệp nhiều lắm. Vô tình hay cố ý chẳng cần biết, chỉ cần hậu quả tạo ra đau
khổ cho chúng sanh là ta bị rồi. Đã như vậy rồi, thì bây giờ cha má chỉ còn
có cách thành tâm sám hối tội lỗi và làm lành để chuộc tội lỗi là đúng nhất.
Chắc
cha không đồng ý với con về chuyện này mà hỏi rằng, “Hồi giờ cha má đã làm gì mà
phải sám hối?”. Xin cha má đừng nên nóng giận vội. Trong thập thiện có mục tham
sân si, con nói sơ về SÂN thôi. Hồi giờ mình tưởng sân giận là việc thường,
chứ thực ra cái sân giận nó có ảnh hưởng lớn lắm. Con biết tánh của cha nóng,
ai nói điều gì trái ý thì cha nổi giận liền. Thưa cha, cái sân giận không phải
là lỗi mà là cái nghiệp nó kiết tập từ nhiều đời nhiều kiếp. Người ngoài thì ai
nói đến mình làm chi, còn con cái trong nhà thì không dám khuyên, chính vì thế
mà cái nghiệp đó nó càng phát triển để sau cùng nó hại mình.
Thưa
cha, chính như con, qua lá thư con mới dám ngồi đây viết để phân tích, để tìm
phương cứu cha, chứ khi đối diện liệu cha có để cho con nói hết một câu không?
Thế thì làm sao phân bua với cha cho được.
Giận
là ngọn lửa đốt tiêu tất cả âm đức một đời tích tụ, chứ không phải tầm thường.
Sân giận chính nó không phải là cái tội, mà lại là kẻ thù giết chết công đức, là
thủ phạm làm nên tội lỗi, nghĩa là chủ của tội lỗi. Nếu nó là cái tội, thì nó chỉ trách nhiệm trong phạm
vi lỗi lầm của nó mà thôi, còn các công đức khác nó không động tới, đàng này nó
lại đi đốt phá cái âm đức tích tụ cả cuộc đời của một người thì thật là kinh khủng!
Cho nên, khi lâm chung chỉ cần phát một sự nóng giận thì ngay lập tức chiêu cảm
vào đường địa-ngục. Con còn nhớ, vào ngày ông nội mất, có ông thầy muốn xưng niệm
hồng danh hai trăm vị Phật để cầu siêu cho ông, cha nổi nóng buông lời bất kính
về chuyện đó. Hồi đó con chưa hiểu Phật pháp, nay đã hiểu con giựt mình sợ hãi
cho cha mà nhiều lúc toát mồ hôi hột!
Thưa
cha, bất kính với Phật thuộc về tội phỉ báng pháp Phật, sẽ bị địa ngục A-Tỳ,
thuộc về Vô-Gián. Đây là kinh Phật nói. Trong tất cả tội ác, có hai loại tội lớn
nhất mà Địa-Tạng-Vương Bồ-tát không cứu được, tất cả chư Phật không cứu được. Đó
là: một là ngũ nghịch thập ác, hai là phỉ báng pháp Phật. Nếu người nào chỉ vướng
có một trong hai loại này thì chỉ có Phật A-di-đà mới cứu được mà thôi, còn bị
vướng cả hai thì chính Phật A-di-đà cũng không cứu được nữa. Cha đã bị vướng vào
loại thứ hai cũng tại vì tâm sân giận. Đây là một tội rất kinh khủng!
Tuy
nhiên, trường hợp của cha còn cứu được vì cha gây họa trong lúc cha chưa hiểu
Phật pháp, chưa rõ luật nhân quả. Với cái tội này, con xin nói thẳng, chỉ có Phật
A-di-đà với bốn mươi tám lời Đại Nguyện của Ngài mới cứu được cha, ngoài ra không
ai cứu được cả. Tin hay không tùy cha quyết định. Nếu như sau thư này mà cha không
nghe theo con, không quyết tâm một lòng sám hối, chí thành niệm Phật cầu về Tây-phương
thì xin đành tự cha lo liệu lấy. Con đã nói hết lời và vô phương giúp đỡ.
Thưa cha, vì con muốn cứu cha chứ không
phải chọc cho cha giận. Trong hàng loạt thư trước con chỉ nhắc nhở niệm Phật để
tạo thiện căn, gây tín tâm cho cha má, cho anh chị em trước, rồi sau đó con mới
tìm thế gỡ lần nghiệp chướng. Bây giờ, bước thêm bước nữa là Sám-Hối và Tạo-Phước.
Sám-Hối
là phải nhận biết và ăn năn về tội lỗi. Tạo-Phước là lấy công chuộc tội, có như
vậy tội mới diệt, phước mới sanh. Người có thiện căn tu hành mà thiếu phước báu
thì chướng ngại trùng trùng, nó tìm cách ngăn trở mình, trong đó khơi mồi lửa
giận là dễ nhứt. Vì chỉ cần lừa dịp chọc cho lửa giận phát lên là xong. Thưa
cha, đây là lời nói thành thực, không ngoa.
Thưa
cha má, đây là sự thực. Giả sử, như tuổi già này mà không có người hiểu đạo
khuyên tu, thì xin hỏi rằng, cha má có thấy được những chỗ sơ suất này không?
Cha má hãy nhìn chung quanh coi, có ai đã thoát nạn được chưa? Bây giờ họ đang ở
đâu? Nếu hiểu thấu suốt luân-hồi, nhân-quả thì phải giựt mình, lo sợ mà lo sám
hối liền đi!…
Sám-hối
và làm phước thiện, hãy lấy tâm thành mà làm. Cha má thành tâm giúp người, thành
tâm thương người thì dù mình cho người một vài đồng vẫn có phước đức lớn. Mở tâm
lượng rộng ra thương yêu sanh vật, thành tâm khuyên người tu hành, cố gắng hướng
dẫn, chỉ đường cho người ta niệm Phật, cầu mong cho nhiều người được vãng
sanh… đó là những công đức do tâm lượng. Chính cái tâm chí thành nó chuyển
nghiệp cho cha má.
Quyết
tâm về Tây-phương thì làm lành đừng bao giờ cầu xin hưởng phước, một khi mở lời
cầu lợi lạc, cầu phước báu cho mình thì bao nhiêu công đức tu hành sẽ hết sạch.
Muốn được về Tây-phương hãy thành tâm đem tất cả công đức của mình hồi hướng về
Tây-phương, hồi hướng cho chúng sanh, cho oan gia, trái chủ, thành tâm cầu cho
họ hưởng phước báu của mình, để cho ngày ra đi của mình được an lành tự tại. Đó
là cách “khất nợ để thoát thân”. Đó gọi là “Tự Tịnh kỳ ý”.
“Không
làm ác” là tu cho mình, tránh
gây thêm nợ, “Làm lành” là tu cho người, trả lần những nợ nần mình đã
vay. “Tự tịnh kỳ ý” là gởi tất cả công đức về Tây-phương, gởi công đức
cho oan gia trái chủ để họ khỏi trả thù mình và thành tâm ngày ngày “nguyện
sanh về Tây-phương Cực-lạc” để thoát khỏi lục đạo luân hồi, đi vào cảnh giới Tây-phương
của Phật, viên mãn đạo quả.
Cho
nên, tu thiện-nghiệp không giải thoát được, tu Tịnh nghiệp mới giải thoát. Tu tịnh-nghiệp
là tu thiện-nghiệp nhưng không cầu hưởng phước, mà gởi tất cả phước cho chúng
sanh, cho oan gia và gởi về Tây-phương để trang nghiêm Tịnh-độ. Như vậy tu Tịnh-nghiệp
giống hệt như tu làm lành lánh dữ, nhưng khác ở cái tâm không cầu hưởng phước.
Hầu hết rất nhiều người, nhiều nơi trên thế gian này đều chạy theo con đường hưởng
phước lợi hữu lậu, cầu cho được bổ báo phước lành. Thương thay, mới thấy thì tốt,
nhưng chung cuộc bị luật “Tam-thế-oán”, rất nguy hiểm về sau. Người hưởng phước
càng lớn, càng khó tu, càng tạo nghiệp lớn, thì càng đọa lạc nặng. Đây là điều
mà ít ai có thể nhìn ra, chỉ có Phật có đầy đủ trí huệ mới vạch trần cái bẫy
cho chúng sanh biết để tránh đường hiểm nạn đó cha má ạ.
Tóm
lại cách tu Tịnh-Nghiệp là: Sáng nguyện cầu sanh về Tây-phương Cực-lạc khi mãn
báo thân này. Rồi cả ngày phải giữ câu Phật hiệu luôn luôn trong tâm, không được
niệm cái gì khác xen tạp vào. Chiều phải đem tất cả công đức hồi hướng về Tây-phương
để vãng sanh và hồi hướng cho oan gia, trái chủ để họ hưởng được phước báu. Cái
Sự tu hành căn bản là vậy.
Như vậy, muốn thành Phật bắt buộc phải
tín-nguyện-hạnh đầy đủ, chứ không thể tự mình cứ nghĩ sao làm vậy. Trong tín-nguyện-hạnh
này chỉ làm sai một ly có thể uổng công tu hành. Đọa lạc vẫn phải bị đọa lạc.
Cha
thường nói phải có căn lành nhiều đời mới thành tựu chứ đâu có chuyện thành Phật
khơi khơi? Đúng đó, nhưng cha má cứ ngồi đây mà lý luận, thì cuộc đời luống qua
trong oan uổng! Đúng là đúng trên lý thuyết suông chứ không đúng lắm trong cái
tâm tu hành đâu. Vì niềm tin chưa đủ, vì hồi giờ ít nghe pháp Phật, cho nên chưa
khai thông cái bế tắc này. Chứ xin hỏi, thực ra cái căn lành trong vô lượng kiếp
trước của mình là gì? Mình có thấy được không? Không thấy, thì sao dám nói mình
ít căn lành? Không biết, thì tại sao dám nói trong vô lượng kiếp rồi mình không
tu? Không thấy, không biết làm sao lại nỡ bi quan, yếm thế, tự mình khinh bạc cái
thiện căn trong quá khứ của mình như vậy?
Trong
khi đó, chư vị Tổ-Sư khẳng định rằng, người nào đời này nghe được tiếng Phật hiệu
thôi cũng chứng tỏ thiện căn của họ rất lớn rồi, huống chi là người đã phát tâm
niệm Phật. Cha má đã niệm Phật rồi mà còn hồ nghi cái thiện căn của mình, để chấp
nhận tiếp tục trôi lăn trong lục đạo luân hồi thì thật là tiếc vậy! Cha má có
biết đâu, chính cái tâm chân thành niệm Phật nó tạo ra thiện căn, nó nẩy ra công
đức vô cùng to lớn.
Cho
nên, muốn biết căn lành của mình lớn nhỏ hãy coi lòng tín tâm của mình. Có tin
thì đã có thiện căn, tin ít thì thiện căn ít. Thiện căn ít mà quyết chí niệm Phật
thì chẳng mấy chốc căn lành được trưởng dưỡng vô bờ vô bến. Nên nhớ một câu chí
thành niệm Phật có thể giải trừ tám mươi ức kiếp nghiệp chướng. Hay nói cách khác
một câu chí thành niệm Phật thành tựu được một công đức thiện căn sánh bằng tám
mươi ức kiếp làm lành. Có gì thành tựu lớn hơn, thưa cha má?
Cha
má thường phân vân giữa tôn giáo. Tu hành theo pháp môn hay đạo giáo nào tùy
duyên, con không dám nói đến. Nhưng phận làm con vì muốn cứu cha má để trả chữ
hiếu con phải nói thẳng. Lá thư này tới tay là con nhập vào khóa tu học, không
còn thời gian nói nữa. Thời gian dài sau này tự cha má lo liệu lấy. Trong những
năm đóng cửa học Phật là con chỉ học một câu A-di-đà Phật, khi học xong đi giúp
người cũng chỉ là câu Phật hiệu. Chỉ một câu Phật hiệu người ta học suốt đời chưa
chắc đã thông thì sao mình dám khinh thường. Ngài Tịnh Không thuyết kinh giảng đạo
hơn bốn mươi năm nay cũng xoay quanh câu A-di-đà Phật mà vẫn còn tiếp tục giảng,
thì cha má phải hiểu chỗ vi diệu của nóù.
Tu đạo nào cũng tu, nhưng
khi già rồi, cần phải trực tỉnh giác ngộ đường tu để thoát thân. Sinh tử sự đại,
sao dám lơ là! Tất cả những người tu hành khi ngộ đạo đều trạch pháp cả. Trạch
pháp là gì? Là sựï chuyên tu một hướng để giải thoát trước cái đã. Tất cả hầu
như đều quay về với câu Nam-mô A-di-đà Phật hết.
Cái điều
con muốn nói thêm với cha má là cái năng lực của pháp môn niệm Phật và cái lý đạo
cần phải tỏ ngộ trong pháp tu hành. Ngay trong đạo Phật, mỗi chùa có mỗi cách
tu khác nhau, có chùa thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, có chùa thờ Quán-Thế-Âm Bồ-tát,
có chùa thờ Di-Lặc Bồ-tát, có chùa thờ Phật A-di-đà, v.v… Tất cả đều là đạo
Phật, không có gì chống trái. Tuy nhiên, một khi liễu ngộ đạo rồi thì ai cũng
phải buông xả tất cả để quay về với một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” để cầu vãng
sanh Tây-phương Cực-lạc. Khi đã ngộ đạo rồi, họ không còn niệm bất cứ một danh
hiệu Phật nào khác, chỉ còn danh hiệu A-di-đà Phật mà thôi, để họ cầu xin được
giải thoát, chứng đạo. Còn người chưa liễu ngộ Phật pháp, họ vẫn tiếp tục đi
lang thang, họ khó có cơ hội thoát thân hơn. Cho nên, xin cha má dù sao cũng nên
hiểu thấu lý đạo này.
Khi
buông xả tất cả chỉ còn danh hiệu A-Di-Dà Phật thôi có bị cái tội phân biệt không?
Có thất lễ với chư Phật khác không? Thưa không. Người hiểu đạo, hiểu rõ kinh Phật
thì rõ ràng đây là y giáo phụng hành, làm đúng lời Phật dạy. Vì sao như vậy? Sự
thật, muốn được tất cả chư Phật hộ niệm thì phải niệm tất cả chư Phật, Phật nào
cũng phải niệm cả. Nhưng xin hỏi, hồi giờ cha niệm bao nhiêu vị Phật rồi? Hai mươi,
ba mươi, bốn mươi… danh hiệu Phật. Đủ chưa? Chưa đủ đâu!
Trong
nhà Phật, có kinh Vạn-Phật, nghĩa là niệm mười ngàn danh hiệu Phật, nhưng cũng
không đủ, vì niệm mười ngàn Phật, thì còn vị mười ngàn lẻ một sao không niệm tới?
Có nơi tăng lên mười lăm ngàn danh hiệu Phật, thì danh hiệu mười lăm ngàn lẻ một
làm sao đây? Chư Phật trên mười phương có tới vô lượng vô biên, có hằng hà sa số
Phật thì làm sao niệm cho hết.
Nhưng
có cách, muốn niệm cho đủ toàn bộ danh hiệu Phật trong mười phương pháp giới,
thì ta phải niệm A-di-đà Phật, vì A-di-đà Phật là danh hiệu chung của chư Phật
mười phương. Vì vậy, chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo chúng sanh hãy niệm
A-di-đà Phật, vì đây là danh hiệu của tất cả ba đời mười phương chư Phật, ba đời
mười phương chư Bồ-tát, chư Thanh-Văn, A-La-Hán, (kinh Niệm Phật Ba-La-Mật). Tất
cả chư Phật mười phương đều đồng thanh lấy Phật hiệu này mà độ chúng sanh. Chính
vì thế, câu A-di-đà Phật mới có cái thần lực tối thượng, mới có thể cứu một người
từ địa vị phàm phu tục tử thẳng lên đến ngôi bất thối ở cõi Tây-phương. Đừng nên
sơ ý mà mất phần giải thoát. Oan uổng lắm cha má ạ!
Tu hành
ta không nên phân biệt đạo giáo, nhưng phải hiểu cho rõ lý đạo của mỗi cảnh chứng
đắc để tu. Tu hành mà không hiểu lý đạo giải thoát là sự vô trách nhiệm đối với
pháp thân huệ mạng của mình, chứ không phải là vấn đề kỳ thị.
Tất
cả đạo giáo đều tốt. Đúng! Nhưng chỗ liễu giáo bắt buộc phải thấy. Có đạo
liễu giáo, có đạo bất liễu giáo. Ví dụ như đi học, trung học so với tiểu học thì
trung học là liễu giáo, tiểu học là bất liễu giáo; trung học so với đại học thì
đại học là liễu giáo mà trung học trở thành bất liễu giáo. Tu hành theo liễu giáo
thì đường thành tựu viên mãn hơn. Con xin đưa ra ví dụ: Có người suốt đời thờ
Quán-Thế-Âm Bồ-tát, suốt đời niệm Nam-mô cứu khổ cứu nạn Quan-Thế-Âm Bồ-tát. Tu
như vậy rất tốt, nhưng so với niệm A-di-đà Phật, thì niệm Quán-Thế-Âm trở thành
bất liễu giáo. Tại sao? Vì Quán-Thế-Âm Bồ-tát là vị Đẳng-Giác Bồ-tát ở cõi Tây-phương,
trong Tây-phương tam Thánh thì Ngài đứng bên trái đức A-di-đà Phật, Ngài lập hạnh
tầm thinh cứu khổ cứu nạn. Những người đi sông đi biển, gặp cơn hoạn nạn, sinh đẻ
khó khăn, v.v… thành tâm cầu nguyện Ngài thì tức tốc được tai qua nạn khỏi. Còn
khơi khơi không có hiểm nạn gì cả mà cứ réo gọi tên Ngài để nhờ Ngài cứu, cứu gì
đây?! Như vậy ngay lúc lâm chung kêu cầu Ngài làm sao Ngài cứu mình thoát chết được.
Mạng số của mình đã mãn thì mình phải chịu mãn, Bồ-tát đâu có thể cải đổi mạng
sống của mình.
Muốn
về cho tới Tây-phương Cực-lạc mà ngay phút lâm chung niệm “Nam-mô Bổn-Sư Thích-ca
Mâu-ni Phật” cũng đâu có được. Vì sao? Vì chính đức Phật Thích-ca dặn dò rất kỹ
là phải niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” mới được về Tây-phương, mình không nghe Ngài
lại đi niệm Ngài. Rõ ràng, tự mình đi sai đường để mất phần thoát nạn một cách đáng
tiếc!
Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni là Giáo chủ thị hiện thành Phật ở cõi Ta-bà, Ngài lập đạo để
dẫn dắt chúng sanh về cõi Tây-phương của Phật A-di-đà bằng câu Phật hiệu A-di-đà
Phật, mình không hiểu rõ đạo lý này, lại đi niệm Nam-mô Bổn-Sư Thích-ca Mâu-ni
Phật trong lúc lâm chung, để chấp nhận trở lại cõi Ta-bà ngũ trược ác thế này mà
tiếp tục chịu khổ. Điều này có oan không?
Quán-Thế-Âm
Bồ-tát, Thích-ca Mâu-ni Phật là những vị đã qua khỏi lục đạo, qua khỏi tam giới,
qua khỏi thập đạo giới rồi, là hàng chư Phật rồi mà mình niệm Ngài không đúng
trường hợp còn bị mất quyền lợi, huống chi là mình niệm những vị Tiên ở trong lục-đạo
luân-hồi. Những vị Thần Tiên vẫn còn ở trong tam giới, (Dục-giới thiên, Sắc-giới
thiên, và Vô-Sắc-giới thiên), so với loài người thì thần thông của họ cao hơn,
có phước báu hơn, nhưng chính họ vượt ra khỏi tam giới không được, thì làm sao
họ cứu mình ra khỏi tam giới đây?
Thưa
cha, thưa má, xin tìm hiểu giáo nghĩa đạo lý cho kỹ để thấy đường thoát nạn…
Tu hành thoát nạn, đầu tiên là cầu chứng đắc cho chính mình, thứ đến là mới có đủ
năng lực cứu độ chúng sanh, chứ đâu phải giải thoát là bội bạc đạo giáo của mình
đâu. Mình đang học tiểu học, nhưng tâm cầu tiến mình sẽ học tới bác sĩ, tiến sĩ,
ngày về quê gặp lại thầy cũ, thì họ vẫn là thầy của mình chứ có gì là chống trái!
Thưa cha má, con đã thấy được con đường
tu hành chân chánh, con đã hiểu được cái đạo lý giải thoát trong một đời. Người
đầu tiên con cố gắng hết sức để cứu giúp là cha với má. Nhưng nếu không tin thì
con đành chịu thua, tùy theo căn phần của cha với má chứ con không còn cách nào
khác. Sau thư này, con sẽ giảm bớt thư từ để lo tu niệm.
Lời của con đã chân thành, đã tận đáy tâm, sự giải thích
đã quá cặn kẽ, nếu còn không tin nữa thì thôi, tùy nghiệp của cha má. Xin nhớ
cho, những lời thư của con không phải bắt nguồn từ sự bồng bột của tuổi trẻ nữa
đâu. Thôi, xin cha má suy nghĩ thật kỹ.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Kính thư.
(Viết xong, Úc châu 21/2/2002).
Chân thành phát nguyện vãng sanh Tây‐phương Cực‐lạc Thế‐giới là phát tâm Vô‐Thượng Bồ‐đề.(Tổ sư Ngẫu Ích).
16 –Lời khuyên song thân
Kính cha má,
Thực tế
mà nói, nếu hiểu được đạo pháp rồi thì mới thấy rằng cuộc đời mình hoàn toàn tự
mình lựa chọn tương lai, mình muốn đi đâu, muốn sướng hay khổ, muốn giải thoát
hay đọa lạc… đều do chính mình tạo ra cả mà mình không hay. Ngay cả cái vận mạng
của mình cũng là do chính mình tạo lấy, cho nên nếu biết cách tu hành thì có thể
cải đổi vận mạng được như thường. Đây là sự thật, chắc chắn thật. Ví dụ, như người
tạo tội ác phải đọa địa ngục, chắc chắn phải đọa vào địa ngục thiên thu vạn kiếp,
nay nếu biết hồi đầu cải sửa vẫn có thể thoát nạn và được vãng sanh về tới Tây-phương
Cực-lạc. Đây là lời kinh Phật nói…..
Thưa
cha má, thà mê mờ không biết thì đành chấp nhận rủi may, chứ khi đã biết được đường
đi, biết được chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh thì quyết định con đường
thoát thân phải đi, đi cho đúng, cho vững, đừng đi quờ quạng mà uổng phí một đời
luống qua. Thời khóa tu hành sắp sẵn không có chỗ hở, nhưng con cũng đã tự phát
nguyện niệm Phật thêm để cầu cho thế giới hòa bình, chúng sanh khỏi nạn… Hằng
ngày, con đều hồi hướng công đức cho cha má, nguyện cầu cho cha má sớm thức tỉnh
đường đạo, dũng mãnh tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Con thành tâm động viên
cha má hãy vững lòng tin tưởng pháp môn niệm Phật. Cha má tin lời Phật, vững lòng
phát nguyện cầu vãng sanh Tây-phương, một hướng chuyên tâm niệm Phật, và chỉ có
niệm Phật thôi, thì con tin chắc chắn cha và má sẽ được vãng sanh. Tất cả anh
chị em, bà con xa gần, ai phát được lòng tin vững chắc, cứ y theo lời thư con
tu hành thì ai cũng đắc được thiện lợi, một cái thiện lợi có giá trị bằng triệu
kiếp tu hành, bằng vạn đời cực khổ lao nhọc, vĩnh viễn khỏi bị đọa lạc, vô tận
thời gian an vui cực lạc chứ không phải nhỏ, xin chớ xem thường.
Cho nên,
muốn giải thoát được chỉ có niệm Phật, niệm Phật phải chí tâm, chí tâm là nhứt
tâm, nhứt tâm là không được xen tạp, xen tạp là vừa niệm Phật mà còn ôm đồm những
cách tu hành khác, xen tạp là đi sai pháp môn, đi sai pháp môn thì trở thành pháp
tu tự lực, tự lực là tự mình bỏ rơi sự gia trì của 48 đại nguyện của Phật A-di-đà.
Không có sự gia trì của 48 đại nguyện, thì trong thời đại mạt pháp này khó có
thể thoát nạn.
Thưa cha thưa má, Phật pháp quá sức thậm
thâm, cao siêu vô thượng. Còn rất nhiều, rất nhiều điều con muốn nói thêm với
cha má. Nhưng không cách nào con có thể nói cho hết được, vì pháp Phật nhiều như
lá trong rừng còn thư của con viết về cho cha má chỉ là từng chiếc lá đơn lẻ,
thì biết bao giờ mới viết cho hết đây. Hễ có thời gian thì con cố gắng viết, được
tới đâu hay tới đó. Còn tu hành thì nếu cha má có tâm chí thành muốn vãng sanh
về Tây-phương trong một báo thân này thì thật ra chỉ xem một lá thôi là cũng có
thể hiểu được vạn lá trong rừng. Đi được hay không đều do cái phát tâm của cha
và má vậy.
Trong
thư trước con có nói về cách hạ thủ công phu. Hôm nay con xin nói thêm một chút
về chuyện này. Thưa cha má, nên hạ thủ công phu tu ngay từ chỗ nào yếu nhất của
mình. Cái lỗi nào lớn nhất của mình mà phá được thì những lỗi nhỏ khác tự nhiên
được phá theo. Đừng nên tu theo lối lần mò từng bước, khó lắm. Xin cha má nên
nhớ trong tất cả những loại ma chướng, thì “Tử Ma” là trở ngại nhất cho
người tu hành, nhất là tuổi già. Thời gian không cho phép một người già khinh
thường cái chết được. “Ma” làm cho mình chết gọi là “Tử-Ma”, nó đến bất cứ lúc
nào và cắt đứt tất cả công phu tu tập mình, nó xóa sổ sạch trơn để mình phải trôi
theo nghiệp chướng mà thọ báo.
Tu phải
lấy ngay cái chỗ tối nguy kịch của mình mà hạ thủ, mới mong cứu mạng mình trong
đời, còn lo tu sửa những lỗi nho nhỏ vụn vặt chỉ là hành động bòn mót phước báu
bình thường, không được lợi ích lớn đâu. Ví dụ, như ở đời có người cứ lo chấp
những lỗi lầm li ti mà lại đi phạm cái tội tử hình thì những cái tốt nhỏ nhỏ có
cứu mạng mình được chăng? Tu hành cũng vậy, đi bòn mót những phước báu nhỏ nhặt
như được chút tiền tài, chút hảo danh, chút tiếng khen… một ngày nào đó lọt
xuống địa-ngục thì làm sao hưởng phước đây?! Cho nên, tu là phải tu thành Phật,
phải thành Bồ-tát, phải tu cho vượt được tam giới, vượt được luân hồi, tam đồ,
lục đạo, mới xứng đáng công tu hành, chứ đừng vì cảm tình mà cứ lẩn quẩn trong
vòng tử tử sinh sinh, khổ đau bất tận, thật là oan uổng! Con biết tâm tình của
cha, của má, thường khi xử sự đặt quá nhiều vào tình cảm, thành ra thường lúng
túng không có quyết định dứt khoát, vô hình chung cuộc đời bị lỡ mất quá nhiều
cơ hội để tiến lên.
Thưa
cha má, nay con đã đem được con đường một đời đắc đạo vãng sanh đến cho cha má,
thì xin cha má hãy nhanh chóng đến trước bàn Phật phát nguyện quyết tâm thực hành
và bắt đầu tu hành ngay, không nên hẹn nay hẹn mai nữa. Con nhờ được may mắn mới
thấy được đường đi, con chỉ đường mà cha má không đi thì tiếc lắm. Lỡ đời sau lại
rơi vào trong chốn lục đạo này nữa liệu có còn ai quyết tâm cứu cha má như con
bây giờ nữa không?
Phật dạy
rằng Tham, Sân, Si là ba chất độc dễ sợ nhứt. Nó là cái cội rễ chủ yếu nhứt, lôi
kéo con người vào lục-đạo luân-hồi, và tệ hại hơn là dìm thần thức con người vào
ba đường ác hiểm: địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh.
Địa ngục từ đâu có? Từ lòng sân-giận mà
có. Tại sao phải lạc vào đường ngạ quỷ? Vì lòng tham-lam. Lý do nào lại đầu
sanh vào đường cầm thú? Vì sự si-mê u-ám. Nếu hiểu được Phật pháp thì ai cũng
phải khiếp sợ ba cảnh giới này, nó nguy hiểm vô cùng, nhất là đường địa ngục, lỡ
rơi vào đó rồi thiên thu vạn kiếp khổ đau khó mà thoát ra được. Cái cảnh giới địa
ngục này ghê sợ lắm! Cha má, anh chị em, bà con, cô bác phải chú ý lưu tâm mà
tránh xa đi. Tin hay không, đối với con không thành vấn đề, mà vấn đề là cái khổ
nạn này tự mỗi người phải lo tránh, nếu không thì tự thọ lãnh lấy. Khóc hay cười
cũng tự một cá nhân mình nhận chịu mà thôi, không trách ai được cả!
Hôm nay
con xin thưa chuyện địa ngục để cha má, anh chị em biết mà né tránh. Kinh Phật
dạy rằng, tất cả cảnh giới của mình đều tự mình làm ra rồi tự mình hưởng lấy.
Phật dạy “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, nghĩa là tất cả vạn pháp
đều do tâm tưởng của mình sanh ra hết, là sự chiêu cảm tự nhiên để kết đúc thành
nghiệp chướng. Tất cả những hành vi tạo tác của một người nó tự đúc kết thành
nhân, để rồi tự mình nhận lấy quả báo. Nhân duyên quả báo tơ hào không sai. Vì
thế, tâm niệm Phật thì nhân địa là Phật. Tâm sân giận là tạo cảnh địa ngục, cái
nhân là địa ngục thì quả báo sẽ là địa ngục. Tâm tham lam, ích kỷ là nhân địa của
ngạ quỷ thì quả báo sẽ là đường ngạ quỷ… Chữ “Pháp” cũng tức là cảnh
giới, môi trường mình sống, hoàn cảnh mình thọ lãnh ở tương lai.
Như vậy,
địa ngục là do chính mình lập ra để nhốt tù chính mình, rồi tự mình tạo ra vô vàn
cực hình ghê rợn để hành hạ chính mình qua thời gian vạn kiếp, khó thể thoát được.
Cảnh này do đâu mà ra? Cái chính yếu là hậu quả của tội ác mình gây ra. Tại
sao mình gây ra tội ác? Cái chính yếu là từ tâm sân nộ, giận dữ gây ra. Như
vậy, cái nhân tố chính yếu trong những cái chính yếu để đưa mình vào địa ngục
là lòng sân-giận. Như trong thư trước con có nói, sự sân giận không phải là
cái tội, mà là ông chủ của tội lỗi, nghĩa là sự sân giận còn có tầm nguy hiểm hơn
điều tội lỗi nữa!
Trong cảnh
giới địa ngục, tất cả mọi người bị đọa vào đó họ sống trong sự sân giận, căm tức,
thù hằn, đố kỵ, họ nuôi mộng trả thù thiên thu vạn kiếp. Cho nên, cảnh giới sân
giận là cảnh giới địa ngục. Hằng ngày trong địa ngục họ bị thọ hình quá ư tàn bạo,
quá ư ghê rợn, quá ư dã man, quá ư đau đớn! Họ sống từng ngày, từng giờ trong cảnh
giới đó cho nên tâm địa của chúng sanh luôn luôn thù hằn, nóng giận, họ đâu có
thì giờ nào để nghĩ đến vị tha, tương thân tương ái. Họ đã làm ác bây giờ phải
thọ ác báo khổ đau. Sự thọ ác báo làm cho tâm của họ luôn luôn bị khủng bố, bị áp
bức… khiến tâm hồn thêm sân nộ, căm thù. Càng sân khuể, càng căm thù… thì họ
lại tiếp tục tạo thêm nhân địa ngục mới. Cứ thế, nhân chồng lên nhân, quả chồng
lên quả, oán oán chập chùng, khổ đau bất tận! Cảnh giới địa ngục vô cùng kinh
khủng! Thật là một cảnh giới rùng rợn không thể diễn tả hay tưởng tượng được!
Ngài Tịnh Không giảng kinh Địa Tạng nói về cảnh giới địa ngục, một lần Ngài giảng
trải qua hàng năm trời, mỗi ngày hai tiếng, giảng qua mấy lần như vậy mới nói hết
cảnh địa ngục, thì một lá thư ngắn ngủi này không thấm thía gì đâu, đây chỉ nói
tổng quát để tưởng tượng tới mà thôi.
Tại sao Địa ngục có những sự tra tấn
dã man ghệ rợn vậy? Xin thưa đó là
“Nhân-Quả Báo-Ứng”. Cái nhân quả báo ứng này tự mình làm rồi tự mình thọ lãnh,
không ai tạo cho mình cả. “Nhất thiết duy tâm tạo” mà, cho nên biết vậy
mà phải đành chịu thua, không cứu được. Trong kinh Phật nói, trong cực hình địa
ngục, chỉ có chính người thọ hình và Bồ-tát mới thấy được bên trong cửa địa ngục
đang có gì, ngoài ra không có ai khác trông thấy. Không trông thấy thì làm sao
tiếp xúc người trong đó? Không tiếp xúc với kẻ đang thọ hình trong địa ngục thì
làm sao cứu họ ra? Không tiếp xúc, không cứu ra được, thì kẻ thọ hình cứ tiếp tục
quằn quại đau thương, cứ tiếp tục căm hận, thù hằn kẻ ra tay hành hạ mình, và cứ
thế, tiếp tục đến vô tận, vô biên thời gian!…
Một điều
quá trơ trẽn và oái ăm là tất cả những cảnh giới thọ phạt rùng rợn, quá tàn nhẫn
kia, lại do chính cá nhân người đó dựng lên rồi tự thọ lãnh chứ không có một ai
bày ra hình phạt đó cả. Vì đó là sự chiêu cảm tự nhiên của nhân quả, giống như
người nằm mộng, tự mình chiêu cảm thành ác mộng, người nằm bên cạnh có hay biết
gì đâu. Vô hình chung, họ tự mình căm thù với chính mình, tìm cách trả thù chính
mình để tự mình thọ lãnh thêm những hình phạt mới dữ tợn hơn, cay nghiệt hơn, rùng
rợn hơn!!!
Trong địa
ngục, Bồ-tát muốn cứu người không phải dễ! Vì sao? Vì chúng sanh sống trong cảnh
thù hằn đến cực độ. Họ không chấp nhận một sự tha thứ, không chịu một sự giải hòa.
Họ không chịu nghe một lời giải thích nào cả ngoài việc thù hận thì làm sao đây?
Như ngay trên thế gian này, cảnh giới của dương thế này là dễ tu nhứt, Phật Bồ-tát
xuất hiện rất nhiều để cứu chúng sanh. Cứu bằng cách nào? Bằng cách thuyết kinh
giảng đạo, khuyên nhủ người tu hành… Nhưng, nhiều khi thuyết giảng đến khan cổ
mà có mấy ai nghe, viết muốn hết giấy, hết mực có mấy ai đọc đến? Ngay cả con cái,
anh em, cha mẹ trong nhà khuyên nhủ nhau hết lời liệu có ai nghe chưa, thì làm
sao trong một xã hội toàn là thù hằn sân giận thì làm sao họ để tâm nghe theo?
Cái tâm
căm thù quá cao chính là thủ phạm dìm họ mãi mãi trong địa ngục, Địa-Tạng-Vương
Bồ-tát muốn kéo họ ra nhưng không dễ gì kéo họ ra cho được. Nghiệp chướng của mỗi
người phải tự mỗi người hóa giải. Phật Bồ-tát chỉ có khuyên răn, chỉ đường và
gia trì mà thôi, còn cải đổi hay không phải tự mình làm lấy. Muốn cứu họ, Bồ-tát
nói rằng, ngươi tự làm khổ ngươi đó chứ không ai hành hạ các ngươi đâu. Hãy đừng
nóng giận nữa, đừng căm thù nữa, hãy niệm thiện niệm lành, hãy sám hối tội lỗi
của mình, hãy tịnh tâm niệm Phật thì tự nhiên các ngươi được thoát nạn liền. Nhưng,
cái tâm nghi ngờ của chúng sanh đó đã lên đến chỗ cực độ, không thèm nghe lời còn
cho rằng, “Ông nói xạo gạt tôi, tôi phải tìm cách giết cho được kẻ hành hạ tôi,
tôi phải trả thù…”. Cứ thế làm sao bây giờ? Cái khó là ở chỗ này vậy! Họ không
chịu nghe cho nên Bồ-tát muốn độ họ cũng phải biến hình thành quỷ rất dữ mới răn
đe họ được, nhiều lúc đành phải dọa nạt, đánh đòn, dùng cực hình trấn áp… để
cho họ khiếp sợ mà không dám làm bậy nữa.
Dưới địa ngục thọ mạng rất dài, một ngày
một người có thể bị hành hình chết đi rồi sống lại không biết bao nhiêu lần. Ở
chùa, thường người ta có để một pho tượng “Quỷ-Sứ” mặt mày dữ tợn, mắt trợn, lưỡi
thè dài. Đây là quỷ Tiêu-Diện, một vị quỷ sứ đại hung dữ ở dưới địa ngục. Ngài
là ai? Là Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán-Thế-Âm Bồ-tát đó. Ngài vì muốn cứu
độ chúng sanh ở địa ngục nên Ngài phải hiện thân thành quỷ dữ để độ họ. Trong
kinh Phật nói, chúng sanh muốn thân gì Bồ-tát hiện thân đó để độ. Dưới địa ngục
mà hiện thân Bồ-tát hiền từ họ đâu có nghe, vì chúng sanh trong địa ngục vô cùng
cay nghiệt, vô cùng ác độc! Ngày ngày, họ bị tôi luyện trong cực hình dã man,
cho nên tâm sân khuể, tâm thù hằn mạnh lắm không thể dễ dàng làm cho họ nguôi
ngoai được. Chính vì cái tâm nóng giận này nó chiêu cảm những hình phạt tương ứng
với trình độ của tâm thái.
Một người
có tâm thù hận đến cực độ sẽ bị chiêu cảm đến những hình phạt ghê rợn như “Thiết-Sàng”,
như “Đồng-Trụ ” chẳng hạn. Thiết sàng, là cái giường bằng sắt, bắt tội nhân nằm
lên đó rồi cho đun lửa cho đến khi tan xương nát thịt mà chết. Đồng trụ, còn gọi
là “pháo-lạc” là một trụ đồng nóng, bắt tội nhân ôm lấy để thân thể bị nóng cháy
cho đến chết luôn. Đó là hai trong những hình phạt vô cùng dã man trong địa ngục.
Tất cả những hình phạt đó đều do sự chiêu cảm từ cái tâm ác hiểm mà ra, chứ không
ai bày ra cho họ cả. Rõ ràng, thà rằng chém họ một nhát, bắn họ một phát chết
liền còn nhân đạo hơn ngàn lần sự thọ lãnh những cực hình đó. Một người có tâm ác
đến cực độ sắp sửa bị những cực hình trên mà họ không hay. Bồ-tát thấy được
chuyện này, Ngài muốn cứu họ mà cứu không được, vì họ không nghe lời khuyên, không
chịu ngừng tâm thù hận, thì làm sao đây? Đành rằng Bồ-tát cũng phải dữ như “Quỷ”
thẳng tay trừng trị, may ra mới ngăn chận họ đừng phạm phải tội lỗi nữa. Rõ ràng
Bồ-tát đang cứu người chứ đâu có hại người. Bồ-tát chấp nhận việc này là sự bất
dắc dĩ để giúp họ thoát cái cực hình ghê rợn của thiết sàng đồng trụ mà họ đâu
có hay!
Cách đây
một tuần, chúng con có dự một bữa tiệc, Hòa-Thượng Tịnh-Không được mời lên khai
thị, Ngài nói rằng, “khi quý vị phải giết một con vật để ăn thịt thì xin hãy làm
ơn cho một dao giết chết nó liền đi, rồi sau đó làm gì thì làm, đừng nên hành hạ
chúng tới chết”. Một Hòa-Thượng, thượng thủ Tịnh-độ Tông thế giới tại sao lại
khuyên người ta sát sanh? Thưa không. Ngài nhìn chung quanh trong cái xã hội này
đa phần đều là người sát sanh hại vật để ăn thịt, khuyên họ ăn chay làm lành không
được, thì thôi đành rằng trong cái tội lỗi, hãy bày cho họ chọn cái tội nhẹ hơn
một chút, để may ra tương lai còn có cơ hội sám hối chuộc tội, chứ Ngài nào có
chủ trương giết hại sinh vật đâu. Ngài nói mà trong tâm Ngài đau thương đến rướm
máu đó mà!…
Cho nên,
con thành khẩn khuyên cha má, anh chị em, bà con, cô bác, nếu vạn bất đắc dĩ phải
giết con vật để ăn, thì hãy gãy gọn làm một nhát cho nó chết trước đi, đỡ đau
khổ cho nó hơn, đừng nên đánh vảy con cá trong lúc nó còn giãy đành đạch, đừng
nên mổ bụng trong khi nó còn đang trào ra nước mắt. Biết được luật nhân quả, báo
ứng thì hãy cố gắng tránh tự tay mình kéo ngửa cổ con gà ra lấy dao cắt đứt gân
của nó để cho máu của nó chảy dần ra tới chết. Cái hận thù hành hình sát mạng này
trở thành bất cộng đái thiên, là mối thù truyền kiếp chứ không phải thường đâu!
Dù có Bồ-tát khuyên giải chúng nó cũng không nghe đâu. Nên nhớ, nợ sanh mạng nó
thề sẽ đền trả bằng sanh mạng! Khi hiểu đạo rồi mới thấy cái nợ oan gia, trái
chủ. Thật là khủng khiếp! Vì chúng nó vụng tu cho nên hiện tiền nó đang chịu thọ
lãnh cực hình của địa ngục. Đối với con cá, con gà lúc đó, thì địa ngục là đây
chứ còn đâu nữa! Quỷ sứ, chính là kẻ đang hành hình nó để ăn thịt chứ còn ai nữa!
Nhân quả báo ứng tơ hào không sai, ta đang tạo cảnh địa ngục thì xin hỏi, ai
thay ta đi xuống địa ngục để thọ hình trả nợ đây?
Trong
pháp môn niệm Phật, với bốn mươi tám lời nguyện của Phật A-di-đà nói rằng, tất
cả chúng sanh trong cửu pháp giới, nghĩa là có cả chúng sanh bị đọa trong địa
ngục, nếu người nào phát tâm tin tưởng, phát lời nguyện cầu sanh về Tây-phương
Cực-lạc Thế-giới, chí thành niệm Nam-mô A-di-đà Phật thì được cứu độ vãng sanh
về Tây-phương thành bậc bất thối Bồ-tát. Dễ dàng như vậy mà mấy ai nghe theo!
Ngài thề rằng, nếu Ngài không thực hiện lời hứa này thì Ngài không thành Phật.
Một lời thề vĩ đại, không thể tưởng tượng, và Ngài đã thực hiện được, vì Ngài đã
thành Phật hiệu là A-di-đà cách đây đã mười kiếp rồi tại Tây-phương Cực-lạc Thế-giới.
Thế mà con người vẫn không tin. Không hiểu tại sao?! Lời nguyện độ sanh này có điều
kiện rõ ràng là phải TÍN-NGUYỆN-HẠNH trọn vẹn thì mới được cứu thoát. Ấy thế mà
chúng sanh không chịu niệm, rất ít người chịu niệm, rất khó cho họ chấp trì. Tại
sao vậy? Tại vì cái tâm căm thù, đố kỵ, ngạo mạn, nghi ngờ… đã ngăn cản họ, cấm
họ, không cho phép họ mở lời phát nguyện để giải thoát. Thật không biết lời nào
để phê bình nữa!
Trở lại
với cảnh giới địa ngục, một người khi hết báo thân, thần thức bị chiêu cảm vào
cảnh giới đó là xui xẻo nhất, tệ hại nhứt, khổ đau nhứt, bạc phước nhứt! Trong
tội thập ác thì đây thuộc về thượng phẩm thập ác. Trung phẩm thập ác, bị đọa ngạ
quỷ đỡ hơn một chút, hạ phẩm thập ác bị đọa súc sanh, có nghĩa là nhẹ nhất, súc
sanh gần gũi với loài người. Nếu sơ ý sanh về hàng súc vật nhưng trước đó có làm
phước nhiều thì vẫn được hưởng phước. Ví dụ, như có những con chó được ông chủ
giàu có thương yêu chăm sóc, đây là có làm phước nhưng mà ngu si vậy.
Thượng
phẩm thập ác thực sự không khác gì với những tội ác khác cả, nhưng cấp bực tội ác
của nó thường là đã do lòng sân giận nâng cao mức tội lỗi lên đến chỗ tệ hại, vì
khi nóng giận:
(1) Là nó
đốt cháy tất cả công đức tu hành đã tích lũy được, làm cho người đó bỗng chốc bị
mất sạch tất cả công phu tu hành;
�.(2) Là nó gia tăng cường độ tai hại của việc làm;
�.(3) Là nó làm cho tâm hồn mình điên loạn (tâm
ma),
�.(4) và sau cùng là nó cấy cái nhân địa ngục, mình bị đọa
địa ngục.
Trong giảng ký về kinh Vô-Lượng-Thọ, Ngài
Tịnh-Không dạy rằng, người tu hành phải luôn luôn đề cao cảnh giác sự nóng giận,
tuyệt đối đừng sơ ý mắc phải, nếu không khó có cơ hội để hy vọng vãng sanh. Vì
sao? Vì rừng công đức tu tập suốt một đời bỗng chốc bị đốt cháy trở thành tro bụi
bởi đóm lửa sân giận trong tâm. Có nhiều loại ma quái luôn luôn tìm cách phá hoại
công đức tu tập của mình, khi nó thấy mình tích bồi được một số công đức, nó liền
tới xúi giục bảo mình, đốt đi, đốt đi, hãy đốt đi. Mình nghe lời chúng đem công
đức đốt cháy sạch trơn. Một tích tắc sơ ý, chỉ cần tâm lóe lên một ý giận thì
bao nhiêu công đức không còn gì nữa cả. Sau đó mình lại lần mò tu lại, rồi lâu
lâu nó xúi một lần nữa và lại phủi bàn tay trắng. Đọa lạc vẫn là đọa lạc là như
vậy. Ngài còn nói tiếp, nóng giận không đốt được phước đức, nhưng nó đốt tan công
đức. Phước đức là giàu có, tiền tài, danh vọng. Công đức là để vãng sanh đắc đạo
thành Phật. Công đức quý hơn nhiều!
Thưa
cha má, những lá thư này con nói sâu vào cách tu hành, thực ra đây không phải là
con dạy đời cha má đâu, nhưng trong đời con có may mắn gặp được chân sư, hằng
ngày con nghe thuyết kinh giảng đạo và vô tình đạo lý của Phật pháp nó thâm nhập
vào tâm con hồi nào không hay. Bây giờ ngoài thư viết về Phật pháp con không viết
được gì nữa cả. Người nào chấp nhận nghe thì con viết, người nào không chấp nhận
thì thôi. Tâm nguyện của con là cứu thoát cha má trong đời này, cho nên càng viết
con càng cảm thấy an lòng. Cha má tu hành là cái cơ may của cha má. Tu hành, phải
tích công đức, phước báu. Chính vì lo cho cái thiện căn phước báu này cho nên
những lá thư đầu tiên con chỉ mong cầu cho cha má phát tâm niệm Phật trước đã.
Hễ phát tâm niệm Phật, nếu không có thiện căn thì thiện căn cũng sẽ có, không có
phước báu thì phước báu cũng đến. “Nam-mô A-di-đà Phật” là một âm thanh tối vi
diệu, nó có khả năng tạo ra thiện căn phước báu vô lượng cho người phát nguyện
trì niệm. Có thiện căn, phước đức rồi thì nhân duyên vãng sanh sẽ đặt theo từng
bước chân đi, ngay trong đời này không đâu xa cả. Thiện căn, thuộc về công đức.
Phước báu, thuộc về phước đức là lương thực để đi đường.
Tu hành
phải từ cái lỗi lầm lớn nhất của mình mà hạ thủ công phu. Cái sở cầu phải tìm đỉnh
cao nhất mà cầu mới mong thành đạt, gọi
là “tu tại hồ trọng, chí tại hồ thượng” là vậy. Nghĩa là tu sửa phải lo sửa cái
sai lớn nhất trước, chí cầu đắc phải cầu thượng đỉnh thì sự tu hành của mình mới
viên mãn. Sửa sai chỉ chăm chú sửa lỗi nhỏ quên cái lỗi lớn thì tội lớn nó giết
chết cả huệ-mạng của mình, mình còn dịp nào nữa mà tu. Cầu đạo mà cầu chứng đắc
nhỏ thì khi tử ma đến mình đắc được cái gì? Bá thiên vạn kiếp không thành gì cả.
Ví dụ câu “Nhân đạo bất tu, Thiên đạo viễn hỷ” rất là đúng. Đây là căn bản của đạo
làm người, nhưng không phải chỉ làm người mà không lo đạo giải thoát đâu. Ví dụ
như nói “không học tiểu học thì làm sao học trung học”, là để khuyến khích người
không chịu đi học chứ không phải để nói cho người đang học cao học, đại học đâu.
Chẳng lẽ người học đại học không làm được bài toán tiểu học sao!?
Chí cầu
ư thượng đỉnh thì quả đạt thượng đỉnh, chí cầu chỉ được làm người trở lại thì
không bao giờ đạt tới hàng Thánh, thế thì còn mơ làm sao có ngày đạt đạo giải thoát?
“Tu sửa từ tội nào tệ nhất trước mới là tu”. Tội nào tệ nhất? Đó chính là tội đọa
địa ngục. Niệm Phật cầu về Tây-phương để một đời thành Phật là cái đỉnh tối thượng,
mà hằng ngày tâm mình lại tạo dựng cảnh giới địa-ngục thì cái quả địa làm sao tương
ứng với cảnh Tây-phương của Phật! Chắc chắn không thể nào được! Cha má nên nhớ
rằng muốn được về với Phật A-di-đà thì tâm phải là Phật, thân phải làm Phật, miệng
nói lời Phật mới được. Nghĩa là, tất cả đều phải đi đến chỗ nhất tâm hướng về
Phật.
Tâm niệm Phật thì tất cả vạn duyên đều
phải buông xả, chỉ còn có Phật, gọi là “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”.
Chính cái Tâm mình sẽ biến mình thành Phật. Nhất thiết duy tâm tạo, nếu tâm mình
muốn làm ông Tiên thì tâm Phật bị xao lãng. Tạp tu dễ thất bại là vì vậy đó cha
má ạ! Muốn vãng sanh thành Phật tâm phải niệm Phật. Miệng niệm Phật mà tâm còn
muốn cầu xin Bồ-tát cho chút phước báu thì tâm đó không chí thành, không nhứt tâm.
Tu hành sai giới luật của pháp niệm Phật, nên tự mình bỏ mất lực gia trì vậy.
Tổng quát
là vậy, bây giờ về sự tu trì, xin cha má phải đi vào căn bản, phải thực hiện cụ
thể, có như vậy mới đạt được công phu. Niệm Phật giới luật nghiêm minh thì tâm
mới được thanh tịnh, nhờ đó trí tuệ tự nhiên khai mở, cha má sẽ tự biết đường
huân tu. Cụ thể, về chuyện sân-giận, cha má hãy tự xét coi mình có thường giận
nóng hay không? Đó là cái nhân chủng địa ngục rất nguy hiểm! Nếu có, ngay lập tức
phải biết hối cải, sám hối nghiệp chướng liền. Nếu không sám hối ngay chỗ này
thì dù tu cách nào cũng không thể thành đạo.
Thưa
cha, vì một lòng thẳng thắn cứu cha, con đành phải nói thật, nói ngay trong thời
khoảng mà cha còn có thể hồi đầu chuyển lỗi thành công, chuyển tội thành phước,
hơn là ém nhẹm để sau cùng cha bị nạn quá nặng, đến chừng đó không ai cứu cha được
nữa. Xin cha chớ giận, con xin nói thẳng rằng cha thường sơ suất về chuyện này,
vô tình bao nhiêu công đức tu hành sáu bảy chục năm đã bị tiêu hủy hết rồi. Đây
là điều đau đớn con xin thưa thực, là sự đau lòng mà con rất muốn nói với cha,
nay mới có dịp. Đây là lời Phật nói trong kinh chứ không phải con nói. Muốn có
công đức cha phải tự tái tạo lại ngay từ đầu bằng cách niệm Nam-mô A-di-đà Phật,
và nếu một lòng nhứt tâm xưng niệm, chuyên chí một đường thì chắc chắn chỉ
trong một thời gian ngắn cha sẽ có một phước báu mới rất lớn, một thiện căn mới
rất lớn. Nhờ thiện căn và phước báu mới này mới có hy vọng cứu thoát cha ra khỏi
luân hồi. Nhưng, nếu cha sơ ý lại nổi sân giận nữa thì lại đốt tiêu tan lần nữa.
Xin cha tin con. Xin cha trăm ngàn lần nghe lời con, con tuyệt đối vì lòng hiếu
thảo, vì chí nguyện cứu độ cha nên con đành phải nói lời thành thật để cha trực
giác hồi đầu, tuyệt đối con không có một chút vọng ngôn.
Phật dạy,
bất cứ lúc nào hễ biết quay đầu thì thấy bến. Vậy thì “chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”, nghĩa là đừng sợ cái niệm sai lầm trước, chỉ sợ mình không
chịu quay đầu giác ngộ mà thôi.
Giận dữ,
nó đốt rừng công đức mà còn cấy nhân địa ngục vào tâm linh mình. Cấy nhân địa
ngục còn đỡ, lỡ sân giận mà buông lời sai suất với Phật và Phật pháp thì sự việc
trở thành rất lớn, tai họa nghiêm trọng. Cha tự nghĩ coi đã từng lỡ phạm phải
chưa? Nếu có, con xin quỳ xuống năn nỉ cha má, cha má phải tức khắc sám hối, hàng
ngày nên tìm giờ nào thuận tiên tự quỳ trước bàn thờ Phật mà kiệt thành sám hối,
nhất định không thể hẹn, không thể tự ái được.
Người
buông lời khinh thị Phật pháp đã kết thành tội cực trọng, trong kinh nói rằng,
chư Phật mười phương không cứu nổi,
chỉ có Phật A-di-đà với bốn mươi tám đại nguyện mới cứu được, nhưng bắt buộc phải
thành tâm sám hối tội lỗi. Người phạm lỗi này mà trong đời phạm thêm tội ngũ
nghịch nữa thì vô phương thoát nạn.
Đây có thể làø tội vô tình mà nên. Nhưng
vô tình hay cố ý vẫn là tội! Ngoài việc sám hối còn phải “lấy công chuộc tội”.
Một là ngày đêm
nguyện với Phật kiệt thành sám hối chuyện này,
Hai là để ý đề
cao cảnh giác ngăn ngừa sự sân giận mới,
Ba là lỗi tại đâu lấy đó mà trị.
Ví dụ,
cái lưỡi lỡ nói lời khinh báng thì bây giờ ta phải phát nguyện dùng cái lưỡi này
đi tuyên dương Phật pháp, đi khuyên người tu Phật, đi giúp người niệm Phật. Thành
tâm làm thì ta sẽ hóa giải cái kiếp nạn kinh khủng này, không những thế mà cha
má còn chuyển được nghiệp báo từ cực xấu trở thành cực tốt. Đây là diện “sám tội
vãng sanh”, công đức nhiều khi vượt thắng hơn người thường chứ không phải đơn
giản. Con thành tâm khuyên cha má nên tự quán xét để kịp thời tự cứu mình, đừng
nên lơ là buông trôi mà phải nhận chịu thọ phạt cực trọng.
Xin cha
má xem lại thư của con thêm một lần nữa. Địa-ngục, ngạ- quỷ, súc-sanh là những đường
phải tránh xa. Khổ nỗi! Ai cũng muốn tránh mà không biết cách tránh cho nên mới
phạm phải những lỗi nghiêm trọng mà không hay đó thôi! Hằng ngày, con đều nguyện
cầu Phật lực gia trì cho cha má thấu đường tu, cố gắng nhẫn nhục để đạt giải
thoát cho được. Tất cả xin hãy buông xả hết đi, tất cả hãy vì mục đích: về cho được
Tây-phương Cực-lạc trong đời này.
Nam-mô A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc Châu ngày 25/3/2002).
™Giữ tâm tốt,™ Nói lời tốt,™ Làm việc tốt,™ Tạo người tốt.
(PSTịnh‐Không).
17 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
“Cuộc
đời như áng mây trôi, khi tan, khi hợp, đổi thay không thường”, hãy cố gắng tu
hành, quyết thoát ly sinh tử, khổ nạn. Đừng chần chờ đừng do dự mà mất cơ hội
ngàn vàng khó mua này. Tu hành pháp môn nào cũng được, đạo nào cũng được, cũng
tốt cả. Nhưng tu với mục đích quyết giải thoát thì cần nghiên cứu cho kỹ vì không
phải pháp môn nào cũng dễ đưa đến giải thoát được đâu. Trong nhà Phật với tám mươi
bốn ngàn pháp môn đã bao trùm tất cả mọi phép tu, mọi tôn giáo xuất hiện trên
thế gian, khó có một chánh pháp nào lọt ra khỏi trong tám mươi bốn ngàn pháp đó.
Trong đó, đặc biệt Pháp “Niệm Phật” là pháp thù thắng trong tất cả pháp thù thắng,
là vì không những có khả năng đưa một chúng sanh vượt qua tam giới, thoát khỏi
luân hồi lục đạo mà còn vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Thế-giới để một đời thành
Phật. Nếu hiểu thấu được pháp giới thì mới thấy đây là một chuyện bất khả tư
nghì, với trí con người không thể nào hiểu tới.
Đã là
thân phận con người ai cũng phải chịu cái khổ “Sanh, Lão, Bệnh, Tử”, nhưng người
biết chí thành niệm Phật cầu sanh Tây-phương thì thoát được chữ “TỬ” này. Trong
kinh Luận, chư Tổ sư Phật giáo gọi đây là “Pháp Môn Bất Tử”. Người được vãng
sanh Tây-phương không phải là chết mà họ vẫn tiếp tục sống, họ chỉ chuyển thân
từ nhục thân thành liên hoa hóa thân. Hòa Thượng Tịnh Không nói rõ rằng, vãng
sanh không phải là chết rồi mới vãng sanh mà đang sống họ đi vãng sanh, tức là
họ tự liệng thân xác lại trong lúc vẫn còn đang sống để đi theo Phật và tiếp tục
sống trong một cảnh giới hoàn toàn khác tốt đẹp, vi diệu, thần thông biến hóa tự
tại tối thắng phi thường và tất cả những sự việc trong đời họ vẫn còn biết rõ rệt.
Không những thế bắt đầu từ đó họ còn biết luôn cả vô lượng kiếp về trước họ đã
từng làm gì, tu hành như thế nào, kiếp nào bị đọa, kiếp nào cao sang. Khi vãng
sanh, được quang minh của Phật A-di-đà phóng chiếu nhiếp thọ thì tức khắc tự tánh
của họ được phục hồi nguyên vẹn, nhờ “túc mạng thông” mà họ biết được tất cả vô
lượng kiếp về trước.
Còn
chết thì sao? Con người lúc chết không tự chủ được bản thân, bị đau đớn giống
như “con rùa bị người ta lột mai” vậy. Lúc chết, thần thức bị oan gia, trái chủ
bủa vây tấn công bằng những đòn thù tàn nhẫn và chúng nó cắn xé lôi mình vào đường
hiểm nạn. Chết thì thần thức phải qua thân trung ấm, thường trong bốn mươi chín
ngày, (cho nên người ta mới cúng bảy tuần là vậy). Đến khi đầu thai chuyển thế
thì ký ức của họ hoàn toàn bị xóa sạch, họ sẽ quên tất cả những gì đã xảy ra
trong đời họ, thần thức mê mê mờ mờ chiêu cảm theo nghiệp báo để thọ sanh. Ví dụ,
như ta đang sống đây nhưng đời trước ta không biết, một đứa bé sinh ra hoàn toàn
ngu ngơ, ngốc ngác… Tất cả những người bị “chết” nếu không bị lượng tội địa
ngục thì chỉ được tái sanh trong những đường: người, cầm thú, quỷ thần và ngạ
quỷ. Họ không thể sanh lên tới cảnh giới trời, thì còn mong gì tới cảnh Tây-phương
Cực-lạc.
Sanh
lên trời dù không vượt khỏi tam giới nhưng cũng được gọi là vãng sanh thiên. Bị
đọa địa ngục, vãng sanh thiên và vãng sanh Tây-phương Cực-lạc không qua sự cách
ấm, nghĩa là họ chuyển thân đi luôn. Sanh thiên được chư thiên đón về đó hưởng
phước, khi hết phước thì rất dễ bị đọa lạc nặng. Vãng sanh Tây-phương được chư
Phật, chư Thánh Chúng đón, chư thiên cung tiễn, về đó tu hành để thành Phật vĩnh
viễn thoát ly mọi ràng buộc của sanh tử luân hồi. Kinh Phật cho ta biết chậm nhứt
là mười hai kiếp, nhanh là ba kiếp thôi ta sẽ thành Phật, (đây là chưa kể lực
gia trì của Phật A-di-đà). Mười hai kiếp quá nhanh, có thấm gì đâu so với ba đại
A-Tăng-Kỳ kiếp hay vô lượng kiếp của các pháp tu khác. Bị đọa địa ngục thì quỷ
sứ còng đầu lôi đi, tới đó để vĩnh kiếp đọa đày khổ ải, “thống bất khả ngôn!”.
Vì thần thức bị rơi địa-ngục không qua cách ấm, không có nhập, trụ, xuất thai,
cho nên con người ở địa ngục có thể vẫn còn nhớ chuyện thế gian, còn nhận ra được
con cháu, còn nhớ những gì mình đã làm… Nhưng đã trễ rồi, có hối hận cũng quá
muộn màng! Bây giờ có muốn liên lạc cũng không thể liên lạc được nữa, đành âm
thầm nhận lấy thương đau, không kêu cứu ai được cả!
Hiểu
biết được cảnh giới như vậy mới thấy vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế-giới là
điều tối ư quý báu, là cái phước báu lớn nhất mà chỉ có Phật A-di-đà với bốn mươi
tám đại nguyện mới cứu độ chúng ta về đó mà thôi. Một điều nên biết nữa, là vãng
sanh Tây-phương là nơi viên mãn của Phật đạo nhưng lại dễ hơn là cầu sanh lên các
cõi trời trong tam giới, lên các cõi tiên là cảnh giới còn thấp hơn. Vì tất cả
các cảnh giới đều do tự tu chứng, đường tu rắc rối hiểm nghèo, dễ bị sai đường,
dễ lầm lạc vào nẻo tà, rất nguy hiểm!
Trở
lại việc tu hành, đã quyết định con đường vãng sanh Tây-phương Cực-lạc trong đời
này thì xin cha má hãy gấp rút “Tích Công Lũy Đức” để có tư lương đi về
với Phật. Tích công lũy đức là cố gắng làm lành lánh dữ. Làm lành, hãy lấy tâm
chí lành, chí thiện, thanh tịnh mà làm. Nghĩa là, cha má hãy thoải mái tùy duyên.
Tuổi cha má đã già rồi không thể bôn ba như người trẻ tuổi được cho nên hễ gặp
dịp thì làm còn không thì cứ an nhiên tự tại, ráng giữ cho tâm hồn bình thản an
vui niệm Phật. Làm thiện tùy duyên là có thì giúp không có thì thôi, chủ yếu là
tâm của mình lương thiện, sẵn sàng thành tâm thiện ý muốn giúp đỡ kẻ khốn khó là
được. Hễ có thiện ý đó rồi tự nhiên mình thấy cách làm, đừng chấp mình làm nhiều
làm ít, đừng để tâm phân biệt khinh thị kẻ nghèo kém hơn mình…
Làm lành tuyệt đối đừng nẩy lên ý tưởng mong cầu phước
báu mới là làm lành. Mong cầu hưởng phước báu tức là còn tham lam, còn bất thiện,
còn phải mắc nợ đọa lạc! Làm thiện thuộc về phước báu hữu lậu. Luật nhân quả
vay trả hễ có làm thì tự nhiên phước báu có đến, đừng cầu mong. Hễ nẩy lên niệm
cầu phước lộc thì bị phạm nghiệp “Tham”, nghiệp này thuộc về vô-lậu. Tham lam là
nhân ngạ-quỷ, cái phước báu mình làm được không chuộc được cái nhân chủng ngạ
quỷ đã cấy trong tâm. Chính vì thế, nên còn tham thì khó vãng sanh được. Làm
lành là tu cho chúng sanh, mở rộng tâm lượng bao la, thương yêu vạn vật để
phát triển tâm từ bi, khiêm nhường kính trọng mọi người, có như vậy tâm mình mới
tương ưng với tâm Phật A-di-đà, nhờ thế mà cha má dễ dàng vãng sanh.
Trong hoàn cảnh Việt-Nam thôn quê eo hẹp, mình khó có
khả năng bố-thí, khó có khả năng chu toàn việc thiện. Nhưng cha má cũng có thể
mở tâm lượng thương người, không nên tranh giành hơn thua đố kỵ với ai, đừng nên
chấp lỗi người khác, chỉ nên một lòng khuyên giải chỉ bày người khác tu hành, đừng
nên tự tay giết hại heo, gà để ăn nữa, v.v… đó là làm lành.
Làm lành với tâm chân thành kính cẩn có thể biến phước
đức thành công đức để hồi hướng cho chúng sanh, trả nợ oan gia trái chủ. Tu niệm
Phật, cha má phải nhớ là ngày ngày đều đọc câu: “Nguyện đem công đức này, hồi hướng
cho oan gia, trái chủ trong đời” sau mỗi buổi niệm Phật. Từ nhiều kiếp đến nay
mình đã sát hại sanh vật quá nhiều cho nên có nhiều oan gia, trái chủ theo mình
truyền kiếp để chờ cơ hội trả thù. Chính thế cho nên con người khó được giải
thoát. Hồi hướng cho họ là lấy công chuộc lỗi vậy. Phép tu, tóm lại là:
1)
Tin tưởng vững chắc sự cứu độ của Phật A-di-đà;
2) Phát nguyện cầu vãng sanh, nghĩa là mỗi buổi sáng
cha má nhớ phải đọc lời nguyện vãng sanh, nên đọc câu kệ này:
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung.
Cửu Phẩm Liên Hoa vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô-Sanh.
Bất-Thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Đọc nhiều lần trong ngày càng tốt;
3) Buông
xả tất cả, niệm A-di-đà Phật luôn luôn đừng để gián đoạn, tuyệt đối không được
niệm gì khác nữa;
4) Chiều, tối sau khi niệm Phật xong thì hồi hướng công
đức, đọc bài kệ này mỗi buổi sau khi niệm Phật:
Nguyện
đem công đức này, Trang nghiêm Phật Tịnh-độ. Trên đền bốn ơn nặng, Dưới cứu khổ
ba đường. Nếu có kẻ thấy nghe, Đều phát lòng Bồ-đề. Hết một báo thân này, Đồng
sanh Cực-lạc quốc.
Thế
là đủ rồi. Nếu cha má muốn mạnh hơn nữa, thì trước khi hồi hướng công đức nên
thành tâm nguyện sám hối những điều tội lỗi của mình và xin hồi hướng cho tất cả
oan gia, trái chủ trong vô lượng kiếp đến nay, cầu cho họ được lợi lạc, cầu cho
họ sớm giải thoát. Cứ như vậy mà tu thì nghiệp chướng tiêu trừ nhanh, cuối đời được
vãng sanh. Nếu không theo như vậy thì mất phần, uổng lắm đó.
Lánh
dữ để tu cho mình, tránh nhân
quả nghiệp báo, tránh những chủng tử xấu, cho tâm linh mình được nhẹ nhàng siêu
thoát. Đây là vấn đề lớn con đã nói sơ qua trong các thư trước. Có dịp con sẽ
trở lại. Lánh dữ để khỏi tổn hại đến công đức tu hành của mình. Một trong những
yếu tố tối kỵ nhứt là sự Sân-Giận. Thưa cha má, như trong thư trước con có
nói, cái nhân chủng của sân khuể là địa ngục cho nên kinh Phật dạy, khi lâm
chung chỉ cần người đó khởi lên một ý niệm tức giận về bất cứ chuyện gì thì thần
thức bị chiêu cảm vào đường địa-ngục ngay. Vì nó quá nguy hiểm, tối kỵ mà lại
quá dễ mắc phải, cho nên qua mấy thư liền con đều nhấn mạnh đến điểm này là
mong cầu cho cha má và anh chị em lưu tâm cảnh giác, có như vậy mới mong ngày
giải thoát. Muốn tránh được chuyện này, người tu hành luôn luôn tự mình nhắc nhở
lấy mình, kềm chế lấy mình, đề cao cảnh giác tột độ để tránh trạng thái này.
Nếu
một người ưa nổi nóng, ưa sân giận thì tánh nóng này sẽ trở thành quán tính rất
nguy hại cho huệ mạng. Quán tính này sẽ trở thành một phản xạ tự nhiên, một phản
ứng nhạy bén đến một sự kiện bất hợp ý nào xảy ra. Chính vì thế mà khi mình lâm
chung, chắc chắn sẽ bị, hoặc là oan gia trái chủ, hoặc là ma quái gạt mình rơi
vào trạng thái đó.
Giận
tức là điều tuyệt đối phải tránh. Bình thường tỉnh táo đã biết mà kềm chế không
được, thì làm sao tới lúc khốn đốn nhứt, đau đớn nhứt, rối loạn nhứt lại có thể
kềm chế được. Vậy thì, muốn thành đạo, muốn siêu sanh lên cảnh giới Cực-lạc của
Phật thì ngay từ bây giờ phải bỏ cho dứt cái tập khí, thói quen này.
Trong
Phật học có đưa ra pháp tu nhẫn nhục. Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn.
Tất cả mọi tôn giáo, mọi cách tu hành, nếu ai còn phạm phải chuyện này thì vô
phương thành đạo, không thể giải thoát. Chính con đây, hồi trước chưa hiểu đạo,
thường nóng giận bừng bừng, đến khi hiểu được sự tối ư nguy hại của nó rồi con
phải chú tâm đề cao cảnh giác. Mỗi lần có chuyện bực mình là con nói thầm trong
miệng “đừng giận, đừng giận…” rồi tìm cách lánh xa hiện trường, giận muốn mở
lời con cũng cố gắng cắn môi lại để tránh phải phát ra lời, vì hễ phát lên lời
thì lửa giận bốc ra, bừng lên, ta kềm không nổi, công phu tu hành của mình từ một
sơ ý đó thôi đã biến thành mây khói.
Phải cố công tập luyện chuyện này chứ
không phải dễ dàng đâu cha má ạ, vì đây là tập khí đã ăn sâu vào tạng thức của
mình từ lâu đời rồi. Sân-giận là kẻ thù rất đáng sợ sát bên cạnh, nó đã giết hại
vô số huệ-mạng của chúng sanh mà mình đâu ngờ. Xin cha má hãy cố gắng tối đa
chuyện này mới được. Chắc hẳn một đôi ngày, vài ba tháng không dễ gì mình bỏ hẳn
được, nhưng quyết tâm thì hiện tượng này chắc chắn sẽ giảm dần, rồi nó sẽ dứt.
Trước giờ, mình chưa xác
định được mục đích thì đành cho qua, nhưng nay đã thấy rõ rồi, đã hiểu được chỗ
mình cần phải tới rồi, thì xin cha má đừng vì một chút việc tầm thường mà đành
chịu mất cơ hội quý báu đánh giá bằng vô lượng kiếp tu hành này. Hãy buông bỏ tất
cả, hãy đem tất cả để đổi lấy cho được cái vé đi về Tây-phương cha má ơi! Cứ
nghĩ rằng một vài năm nữa mình về đất Phật thì tại sao phải ở lại chịu đọa lạc
khổ đau vô vàn kiếp số để tranh giành, để sân-giận?
Con
biết từ hồi nào đến giờ gia đình mình sống theo phong hóa Á-Đông, khuôn mẫu nhà
Nho, tư tưởng “Tam-Cương Ngũ-Thường” cũng đã ảnh hưởng rất lớn. Cái Nho phong này
là điều rất cần thiết cho đạo làm người. Tuy nhiên, Nho giáo dù sao đi nữa cũng
chỉ lo được chuyện thế gian trong một đời này, chứ hoàn toàn không cáng đáng nổi
tới đời quá khứ, vị lai. Nhân-quả, nghiệp-báo, luân-hồi… Nho giáo hoàn toàn
không nói đến. Cho nên, nói về đạo dạy làm người trong đời này thì Nho giáo rất
tốt, còn nói về đạo xuất thế, luân hồi, nhân duyên, nghiệp báo… thì nhà Nho
không thông được. Đây là một sơ suất đáng chú ý! Phải chăng trong nhiều tiền kiếp
có thể vì quá chú trọng vào thể diện, nhân cách người quân tử mà vô tình tạo ra
nhiều nhân tố lỗi lầm, có thể gây ra những nghiệp oán về sau mà không hay! Ví dụ
điển hình như chữ Trung Hiếu, “Quân xử thần tử”, “Phụ xử tử vong”, những sự bức
bách này làm sao tránh khỏi chiêu cảm thành oán thù truyền kiếp, làm cho lịch sử
mãi mãi chìm trong chiến tranh chết chóc. Tần-Thủy-Hoàng đốt sách chôn Nho, họ
cố quét sạch bóng dáng Nho gia trên ngay quê hương họ. Những cuộc cách mạng văn
hóa đã đem đền đài, sách vở Thánh Hiền của họ đập phá, đốt hết. Những cuộc nội chiến
tương tàn gây chết chóc cho biết bao nhiêu người, v.v… phải chăng là những quả
báo truyền kiếp từ trong chính dân tộc họ!?
Phải
tin Phật cha má ạ. Phật giáo là một nền giáo học cho ba đời quá khứ, hiện tại,
vị lai, bao trùm tất cả mọi phương diện, mọi khía cạnh chứ không phải chỉ là một
thứ tôn giáo dị đoan mê tín như người ta thường hiểu lầm đâu. Hiểu được đạo Phật
rồi ta có thể hiểu được tất cả mọi tôn giáo, ta thấy được mọi cảnh giới. Đây là
sự thật. Ví dụ như, Hòa-Thượng Tịnh-Không, có những lần người ta bất chợt mời
Ngài giảng Thánh kinh của Thiên-Chúa Giáo, Thánh kinh Hồi-Giáo, khai thị cho Thánh-Hỏa
Giáo, v.v… Ngài cầm kinh lên lật tới đâu giảng tới đó, thâm sâu, uyên áo hơn
cả chính giáo sĩ của họ nữa, mà những kinh điển này từ trước tới giờ Ngài chưa đọc
qua. Rõ ràng khi một người hiểu ngộ kinh Phật thì tất cả mọi cảnh giới đều thông
suốt, cho nên Ngài cầm quyển kinh nhìn vô là thấy ngay liền không cần phải chần
chừ suy nghĩ.
Ở Việt-Nam ta có nhiều tôn giáo, ví
dụ như Cao-Đài, Hòa-Hảo… chẳng hạn, nếu có duyên mời Ngài khai thị, chắc chắn
Ngài cầm lên giảng liền, giảng thẳng đến cốt tủy luôn, đến nỗi chính những cảnh
giới mà giới chức sắc tu nhiều năm trong đó chưa chắc đã ngộ ra. Đây là sự thật,
chắc chắn như vậy. Chính như con đây mới bập bẹ nghe Phật pháp của Ngài thôi mà
con đã nhìn thấy được nhiều cảnh giới của họ rồi, thì làm gì với bậc minh sư như
vậy mà Ngài không thông đạt.
Trở
lại chuyện tu hành, tất cả căn nguyên của đọa lạc là ba cái độc Tham, Sân, Si.
Tham-Lam bị rơi vào ngạ quỷ, sân-giận rơi vào địa ngục, si-mê rơi vào súc sanh.
Trong ba đường này, đường nào cũng khổ cả, trong đó địa ngục là cảnh giới dễ sợ
nhất. Trong mấy thư liền con nhắc đến điểm này, xin cha má, anh chị em, bà con,
có bác, nhứt thiết đừng sơ ý coi thường. Con vì lòng hiếu hạnh thành tâm muốn tất
cả mọi người chớ nên sắp hàng vào đó xem thử mà ân hận ngàn đời, muôn kiếp chứ
không phải như sự hiếu kỳ đi xem chiếu phim ma đâu! Mọi người, cả thân lẫn sơ,
hãy chú ý mà tránh xa đi. Tin hay không thì tùy, con nói vẫn phải nói với tất cả
lòng chân thành khuyên nhủ và con coi đây như là bổn phận làm con, làm bà con
thân thuộc với nhau trong đời này.
Đức
Phổ-Hiền Bồ-tát dạy “Khuyến-Tấn-Hành-Giả” và con đang làm đúng theo như
vậy. Xin cha má nên nghe theo con, tu hành là tu bằng cái tâm chân thành để được
giải thoát, chứ không ai bắt phải cạo đầu trọc đâu mà sợ, mà trốn tránh, và cũng
xin khuyên anh chị em rằng, chớ đem cái trí nghĩ thô thiển của mình mà đánh giá
lời Phật, đừng bao giờ ỷ mình có coi được vài ba quyển sách, nói chuyện trời đất
trên vỉa hè mà cho mình là hàng trí thức! Cái nhìn, cái thấy của mình lẩn quẩn
trong một xứ còn quá nghèo nàn lạc hậu, có thấm thía gì đâu so với vũ trụ bao
la, với nhân sinh cảnh giới trùng điệp, thì làm sao dám để tâm cống cao, ngã mạn
coi nhẹ Phật pháp.
Phật
là đấng giác ngộ tối thượng trong thập pháp giới, đại từ, đại bi vạch đường cho
mình thoát hiểm nạn, mình không chịu nghe theo, tự mình đâm đầu vào khổ hải thì
ráng mà chịu. Đến lúc cùng rồi, phía trước là vực sâu thăm thẳm lửa cháy bừng bừng,
phía sau hổ báo, nghiệp chướng tràn tới vồ chụp để phanh thây. Hết đường chạy
thoát rồi, lúc đó mới ngộ đạo thì cũng thừa thôi!…
Cái
cảnh giới địa-ngục này từ đâu mà có? Nó là sự chiêu cảm hằng ngày bằng cách sống, cách suy nghĩ, cách ăn ở,
cách tiếp vật đối người… của mình chứ không đâu xa cả. Khi không biết, mình cứ
tưởng nó là chuyện huyền hoặc, xa vời, phi thực… đâu ngờ nó là một thực thể núp
sẵn sát bên cạnh mình, ở sâu trong tâm mình, ở ngay trước mặt mình mà mình không
hay. Đó chính là đâu? Sân giận!
Phật
dạy “Duy Tâm sở hiện”, tâm mình tạo ra cảnh giới nào mình đi về cảnh giới
đó. Người hiền lành thấy cảnh thiện, người hung dữ thấy cảnh ác quỷ, người tham
lam keo kiệt thấy cảnh ngạ-quỷ, người ngu si mê muội thì sống trong cảnh giới súc-sanh.
Chuyện này ngay trong làng mình cũng có nhiều ví dụ cụ thể chứ đâu xa, như có
nhiều người mới sinh ra bị điên điên dại dại, mê mê khờ khờ… thật sự có phải
là họ đang sống trong cảnh giới loài vật, đôi khi còn thấp hơn một số con vật nữa
không?! Tất cả hiện tượng đó cũng là cái nghiệp báo của họ, vì dại đường tu
trong đời trước mà thành ra như vậy! Mình nên thương hại chứ đừng khinh khi họ.
Cho
nên, tu hành cần phải hiểu pháp, không hiểu pháp mà cố chạy theo thế trí biện
thông thì tạo thêm nghiệp. Mất chánh pháp thì càng tu càng lạc, càng tu càng xa
chân lý, càng mất phần giải thoát mà mình không hay! Nên nhớ, người tu mà đi lạc
đường thì có tội lớn hơn người không tu. Vì sao? Vì họ làm gương xấu cho người
khác, họ làm cho người khác mất niềm tin, họ dẫn người khác đi lạc đường, họ có
thể làm mất huệ mạng của người khác. Rõ ràng, họ gây tội cho chính họ và còn
mang thêm tội của người khác… Do đó, tu đúng chánh pháp mới có công đức, có
thiện căn, tu sai hướng thì nhất định phải nhanh chóng hồi đầu để kịp thời “đáo
bỉ ngạn” trước khi gặp tử ma, cha má ạ.
Trở
lại chuyện sân-giận, con cũng
xin thưa rằng là con đang dựa theo Phật học nói chung về cái nguy hại của chữ
“Sân”, rồi ứng dụng vào hoàn cảnh riêng của gia đình chứ con không phải nói riêng.
Con biết chắc chắn ai cũng từng vướng phải lỗi này, thì bây giờ đọc thư này nhớ
hồi đầu tỉnh ngộ. Hơn nữa, cái mục “Sân-Giận” rất dễ phạm phải trong nền văn hóa
Á-Đông. Ở đó, nếu nói rằng cha mẹ nóng giận con cái là sai thì ít ai chấp nhận.
Nhưng ở Âu Mỹ, thì đây là luật bị cấm. Các nước Xã-Hội Chủ-Nghĩa cùng một số nước
Á châu khác cũng đã áp dụng luật này rồi. Đây cũng là một điều may, vô tình cứu
được một số oán nghiệp cho người làm cha mẹ. Vì dù cho luật lệ quốc gia hay
phong tục tập quán có cho phép độc tài hay không, thì mọi sự bức bách đều gây nên
oán nghiệp. Nghĩa là nó sẽ trở thành mối hận thù truyền kiếp, đời này trả không
được nó cũng chiêu cảm ở đời sau.
Ví dụ,
như ai đã bức bách một người nào chết dù đúng luật thế gian hay không thì nghiệp
sát sanh vẫn có và thần thức người bị hại vẫn ghi tâm trả thù. Chính vì thế mà
thành ra oan oan tương báo, ngay cả con cái trong gia đình cũng vậy. Xin cha má
nhớ rằng đời này là Cha-Con, Thân-Thuộc… nhưng khi chết rồi, thì thần thức phải
qua cuộc cách ấm, tất cả ký ức đều bị xóa sạch. Thần thức nhập thai, trụ thai,
xuất thai hoàn toàn mê mờ đi theo dòng nghiệp báo đầu sanh, ở đó chỉ còn nghiệp
thức chiêu cảm và sẽ hành động theo “đền ân, báo oán, trả nợ, đòi nợ”, chứ không
biết ai là cha, là mẹ, là anh, là em gì nữa cả. Cho nên, khi hiểu đạo thì ngay
cả con cái mình cũng phải lấy lễ mà tiếp xử, chứ không thể ỷ quyền làm sai luật
nhân quả mà gây thêm nghiệp báo.
Nói
gọn lại, giận la rầy con cái nếu là vì lòng thương giáo dục thì không kết báo oán,
còn vì tánh nóng nảy của mình, thì vẫn tạo nên nghiệp báo, thù hận, không tốt
cho hậu kiếp!
Phật
dạy rằng, con cái đến với ta là do những duyên nợ từ trước, có rất nhiều duyên
nghiệp nhưng tựu trung có bốn diện, (1) “Báo-Ân”; (2) “Báo-Oán”; (3) “Đòi-Nợ”;
(4) “Trả-Nợ”.
“Báo-Ân” là người trong đời trước đã thọ ân của ta, chiêu cảm đến
đời này nó đến để trả ơn. Đây là những đứa con có hiếu có tình, biết thương cha
kính mẹ, dù cho có bị đối xử tệ bạc như thế nào nó cũng thương cha mẹ, không
thay đổi.
“Báo-Oán” là những đứa con trong những kiếp về trước đã bị ta
la mắng, chửi bới, hành hạ, cưỡng bức, sát tử… bây giờ họ tới nhằm trả mối nợ
này. Đây là những đứa con bất hiếu, vô lễ, vô nghĩa, vô đạo…! Nó sẽ tìm cách
phá tan gia phong uy tín của dòng tộc, làm cho cha mẹ phải chịu nhục nhã, bị tù
đày, thậm chí còn có thể sát cha hại mẹ nữa là khác.
“Đòi-nợ” là những đứa con phá sản, bao nhiêu sự nghiệp của cha
mẹ nó đem phá hết, cờ bạc, rượu chè, đau bệnh… bằng mọi cách làm cho gia tài
của cha mẹ phải tiêu tan. Đây là vì trong tiền kiếp, chính mình đã đoạt chiếm tài
sản của nó, ăn cướp, ăn trộm, dùng quyền cưỡng chiếm… nên mới tạo ra đứa con
như vậy. Nếu vừa cả “báo oán” và “đòi nợ” thì sự việc xấu ác sẽ xảy ra
ngoài sức tưởng tượng của nhân luân, kinh khủng lắm! Riêng cha má không có những
người con thuộc dạng xấu này, đây cũng là sự may mắn do bởi cái nhân ăn ở hiền
lành từ trong đời kiếp trước của cha má, chứ giả sử nếu có, thì cha má cũng đành
nuốt hận chịu thua chứ không cách nào cứu vãn được đâu!
“Trả-Nợ” thì ngược lại là nó nợ mình, đời này thường thấy những
người con thường gửi tiền bạc cung dưỡng cha mẹ. Nếu chỉ để “trả nợ” thôi thì nó
chỉ ý thức trách nhiệm hoặc sợ xấu mặt với bạn bè, bà con, mà giúp chứ chưa chắc
đã thương cha mẹ. Nếu có cả “trả nợ” lẫn “đền ơn” thì trở thành đứa con đại
hiếu, đại hiền, đại nghĩa, đại từ, đối với cha mẹ, vừa lo chu toàn cả vật chất
lẫn tinh thần và chí thành thương tưởng, trung thành với song thân.
Nuôi
dưỡng ăn uống là trả tiểu hiếu nhân sinh. Cứu độ cha mẹ vãng sanh Tây-phương là
trả Đại hiếu xuất thế. Như con đây đang tận lực làm tròn đại hiếu đó, con đã làm
hết bổn phận thì dù cha má có đi hay không con cũng đã trả trọn vẹn. Nếu cha má
sơ ý lọt lại trong tam đồ lục đạo, thì đó là duyên phần của cha má chứ con không
biết làm cách nào khác hơn…
Hiểu
được điều này, thì trong đời bất cứ chuyện gì xảy ra, xin cha má cũng nên an
nhiên tự tại. Tất cả đều do nhân quả nghiệp báo từ nhiều đời nhiều kiếp kết tụ
về để thanh toán ơn nghĩa nợ nần cũ mà thôi. Hễ có nhân thì có quả, có nghiệp
thì có chướng. Người khéo tu hành hiểu đạo thì phải tìm cách chặt đứt nguồn nhân
quả nghiệp báo này để thoát ly giòng sinh tử. Muốn chấm dứt thì bây giờ ta sẵn
sàng trả nợ và đừng gieo nghiệp mới nữa. Thế thôi! Chuyện này phải cố gắng làm
thì mới được. Nhiều người tu hành suốt bảy tám mươi năm nghiệp chướng vẫn còn
tràn trề và cơ hội giải thoát vẫn còn mù mịt. Do đó, giải thoát được không hẳn
tu lâu hay mau mà là biết cách tu. Có câu nói, “Tu trọn kiếp, ngộ nhứt thời”,
tu một kiếp có cả triệu đời nhưng chưa chắc đã ngộ, nhưng khi ngộ đạo chỉ cần một
tích tắc thời gian thôi. Cho nên tu có đúng cách, chọn đúng pháp môn, hợp căn cơ,
hợp lý đạo, người đó sẽ thành công. Tu không hợp lý hợp cơ dù tu trọn đời trọn
kiếp cũng khó có phần giải thoát.
Trong
tất cả pháp tu hành, Pháp môn niệm Phật được chư Phật, chư Tổ sư đều xưng tán là
“Đốn-Siêu trong Đốn-Siêu, Phương-Tiện trong Phương-Tiện, Cứu-Cánh trong Cứu-Cánh,
Liễu-Pháp trong Liễu-Pháp”. Đây không phải là lời nói đưa đẩy mà là lời trực ngôn,
chân ngữ, thực ngữ. Vì sao? Vì với tám mươi bốn ngàn pháp môn tu tập của Phật để
lại, thì pháp của Phật bao trùm tất cả mọi phương diện. Trong rừng kinh sách Phật
ấy, lại có kinh nói rằng dù cho có vô lượng pháp môn tu thì cũng chỉ có pháp Niệm-Phật
là duy nhất được mười phương chư Phật hộ niệm và được bốn mươi tám lời đại nguyện
của đức A-di-đà Phật gia trì. Là pháp độc nhứt nói lên sự bình đẳng thành Phật
viên mãn cho đều cả cửu pháp giới. Một pháp tu hành chỉ cần một đời này thôi được
vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, kết thúc sanh tử, một đời thành Phật. Chính nhờ
lực gia trì này mà có người đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, có người hẹn lại ngày
vãng sanh, có người niệm Phật chỉ vỏn vẹn ba ngày đã được vãng sanh, trút bỏ
bao nhiêu khổ nạn nghiệp chướng.
Thư
tới, con sẽ kể cho cha má nghe những chuyện “thần kỳ” ngay mới gần đây
thôi. Tất cả đều là sự thật. Trong khi đó có nhiều pháp môn rất cao siêu, nhưng
không trọn vẹn gọi là bất liễu giáo. Ví dụ, như pháp tu Đốn-Siêu có thể cấp kỳ
thành Phật nhưng đòi hỏi căn cơ, tâm trí quá cao không hợp với đại chúng; Phương
tiện dễ nhưng không có cứu cánh; Cứu cánh dễ nhưng không đủ phương tiện… Chỉ
có pháp niệm Phật hợp với tất cả mọi căn cơ. Đốn siêu vì một đời thành công, cứu
cánh thì chắc chắn, phương tiện thì quá dễ, nhân là niệm Phật, quả là thành Phật.
Niệm Phật thành Phật. Tất cả mật tạng bí tủy nhất của chư Phật để lại
cho chúng sanh đều ở ngay trong Thánh Hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Quyết định dứt
khoát rốt ráo. Kinh Phật dạy, “Ức Phật niệm Phật hiện tiền đương lai tất định
kiến Phật”. Nhất hướng chuyện niệm A-di-đà Phật, nhất định cha má sẽ được vãng
sanh, sẽ thành vị Bất thối Bồ-tát, chỉ còn một đời này thôi sẽ thành vị Phật ở
cõi nhất chân Pháp giới Tây-phương Cực-lạc.
Hãy
buông bỏ tất cả những đường đi vô định hướng. Hãy quyết tâm theo đúng pháp môn
tối thượng này để thành đạt. Xin cha má quyết tâm đừng vì cảm tình, hay tiếc nuối
những điều gì khác mà mất cơ hội vãng sanh, oan uổng lắm! Hãy buông bỏ tất cả để
ra đi trong quang minh, an lành, thanh tịnh. Hãy buông bỏ tất cả đi, để cha má
thoát khỏi cái chết của kiếp người ở tuổi đời đã gần mãn. Nếu tới tuổi này rồi
mà không nhận rõ số mạng, không vạch đường đi rõ ràng, thì còn đợi đến chừng nào
nữa đây, thưa cha thưa má? Buông bỏ đâu có nghĩa là bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ ăn, bỏ uống
đâu, những cái bỏ này là hành động tự tử, sẽ bị sa đọa rắc rối và có hại cho huệ
mạng.
Buông
bỏ là dứt khoát liệng tất cả những gì không ích lợi cho việc vãng sanh. Giận hờn
con cháu, tức giận người thân, chửi bới kẻ bất hiếu… là những hành động có hại
cho tâm linh của mình. Nuối tiếc nhà cửa, luyến tiếc gia đình, bàn chuyện thị
phi, đam mê danh vọng, thích nhân nghĩa hão huyền, ưa tiếng khen chê vô ích của
thiên hạ… là tự trói mình trở lại trong đường luân hồi, có sướng ích gì đâu. Thế
gian này, càng ngày càng tiến gần đến chỗ nguy kịch mà tình cảm không dứt, dây
dưa những con đường tu hành vô định hướng, cầu xin những phước lợi nhỏ nhoi cho
thế đời mộng huyễn này… là tự mình không muốn vãng sanh Tây-phương, là tự mình
bỏ mất cơ duyên thành Phật, tự mình tìm chỗ hiểm nạn mà đi.
Thưa cha má, nên suy nghĩ cho thật kỹ
thì giựt mình tỉnh ngộ liền, nên biết hồi đầu một trăm tám mươi độ để kịp cứu đời
mình. Trong lời pháp giảng về kinh Vô-Lượng-Thọ, Ngài
Tịnh-Không có nói, “Có người tu hành lâu năm, họ thường niệm Bồ-tát nên
sinh ra cảm tình sâu đậm. Bây giờ gặp Phật, họ không chịu niệm Phật mà cứ niệm
Bồ-tát, họ sợ niệm Phật thì có lỗi với Bồ-tát! Đây là vô minh, vọng tưởng! Bồ-tát
còn ngày đêm phải niệm Phật để cầu vãng sanh, còn mình thì không chịu hồi đầu tỉnh
giác. Đây thật là tình chấp thâm trọng thành ra mê mờ?! Chẳng lẽ học lớp một đến
kỳ phải lên lớp lại nói, “Tôi học lớp một lâu rồi, tôi mến cái lớp này, không
muốn lên”. Có cái đạo lý như vậy sao?”. Ngài nói tiếp, “Niệm Phật để thành
Phật là sự thăng cấp cao nhứt, là cơ duyên tối thắng dễ tìm ra lắm sao? Hàng tỉ
người may ra mới có một người gặp được, tin được để thành Phật”. Vì sao vậy?
Vì hầu hết không ai có đủ thiện tín để y giáo phụng hành, thực hiện trọn vẹn pháp
môn. Nghĩa là họ tin chút chút, niệm thử coi, còn thời giờ chính là họ lo cầu
xin phước báu, không dám bỏ thói quen xưa, vẫn chạy theo con đường tu hành tạp
nhạp. Tiếc thay!
Thưa
cha má, hằng ngày con tranh thủ từng phút để viết thư khuyên cha má tu hành. Vì
đây không phải là phép tu bình thường, mà tu đắc được giải thoát, một đời thành
Phật. Vì con đã thấy rõ ràng hiển nhiên, cho nên con phải nói cạn tình, cạn lý để
cha má quyết đắc được thiện lợi. Nếu lỡ cha má có bị mất phần thì con cũng không
còn ân hận nữa. Trong linh cảm con vẫn thấy rằng cha má vẫn chưa tin tưởng vững
chắc, vẫn còn hồ nghi: “Làm gì có chuyện tu một đời mà vãng sanh bất-thối thành
Phật dễ dàng như vậy?”. Nhưng thưa cha má đây là sự thật. Thư tới con sẽ cố gắng
giải thích rõ ràng chuyện này, con nêu đích danh những người vừa mới vãng sanh
gần đây, không những thế trong đời họ còn giúp hàng trăm người khác vãng sanh. Đây
là sự thực. Xin cha má vững lòng tin tưởng mà đóng kín tất cả lục căn lại, nhứt
tâm niệm Phật cầu về Tây-phương Cực-lạc, phải về đó cho được trước đã, mọi chuyện
khác sẽ tự biết sau. Nhất thiết đừng phân vân, phải quyết lòng đi thì phần an
vui cực lạc đang chờ sẵn cho cha má đó.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Kính thư .
(Viết xong, Brisbane ngày 7/4/02).
Pháp môn niệm Phật thật
là Tâm Tông của các đức Phật, là con đường tu tắt mau của hàng chúng sanh đi đến
quả vị giải thoát sanh tử. Nếu bền chí nhất tâm niệm Phật, thì không phải đợi mãi
đến đời sau mới được gần Phật, mà ngay đời này cũng đã thấy Phật.
(Bồ-tát Giác Minh Diệu Hạnh).
18 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Khi hiểu
được đạo pháp mới thấy tu hành cần phải cẩn thận, sơ hở một tí có thể chuyển
xoay họa phước, hễ đúng thì phước, lệch thành ra họa. Vì thế nên người tu thì
nhiều mà đắc thì ít. Cái khó nhứt là vì thời này đã mạt pháp rồi, tâm con người
bị hoàn cảnh vật chất chi phối quá nhiều. Tâm trí bị ô nhiễm thành ra ai ai cũng
thích chạy theo ảo vọng, ít ai lo chuyện giải thoát. Những người già cả, lớn tuổi,
lụm cụm họ cảm nhận được sự hão huyền của kiếp người mới thấy mối tu đạo ló dạng.
Nhưng tu hành lại quá khó, sơ hở là phạm luật, phạm giới, cho nên nếu mình thực
sự muốn thành tựu đạo quả thì phải để tâm chú ý, chứ không nên tự mạn cho rằng
mình đã thành công, đã có nhiều công đức.
Như cha
má thấy, tu hành trọn đời chỉ cần một lần sân giận, nóng nảy là tất cả công phu
đều bị tiêu hủy sạch trơn, bảy tám mươi năm tu tập trở thành số không mà người đó
không hay, cứ đinh ninh là mình tu hành ngon lành, hơn nhiều người khác. Cái ngạo
mạn nó đóng kín tâm trí lại làm cho họ tự đâm đầu vào ngõ cụt mà không hay. Còn
hại hơn thế nữa, cứ một lần giận dữ thì lại cấy vào tâm thức mình một chủng tử địa
ngục, khó gỡ ra được. Chủng tử địa ngục trong tâm nhiều hơn các thứ khác thì mình
sẽ bị thọ báo ở địa ngục chứ làm sao tránh khỏi. Người tu hành cần ghi nhớ điều
này, đừng bao giờ sanh tâm kiêu mạn. Chính Ngài Ấn-Quang Đại sư, vị Tổ thứ mười
ba của Tịnh-độ Tông Trung-Hoa, một vị đại tôn sư mà lúc nào cũng tự nhắc nhở rằng
công phu của mình còn kém. Cho nên, dù có tu hành nhưng xin cha đừng nên ỷ lại
rằng mình đã tu lâu năm, mà còn phải để tâm chú trọng đến vấn đề là đường mình
tu đi tới đâu? Có thành tâm chí thiết hay không?…
Niệm Phật
là pháp môn tối vi diệu. Kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy mười câu niệm Phật tất vãng
sanh, chỉ trừ người mang tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp. Nghĩa là, dù người
có mang trọng tội đều có thể được cứu độ vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Thế-giới
nếu biết hối lỗi tu hành. Ngài Tịnh-Không nói, pháp môn niệm Phật thật quá đặc
biệt, không thể bàn nghị tới được. Bất kể người có tội hay không, tội nặng hay
nhẹ, miễn là biết quay đầu tỉnh ngộ, biết kiệt thành sám hối, biết chí thành tu
sửa, thì dù có tội đọa địa ngục đi nữa vẫn được vãng sanh như thường. Đây không
hẳn là công của chính mình mà là nhờ thần lực gia trì của Phật A-di-đà.
Thực tế,
đây không phải là lời giảng của Hòa-Thượng, mà trong kinh Phật nhắc đi nhắc lại
nhiều lần, nhất là các kinh luận Tịnh-độ. Cho nên, người mang trọng tội chắc chắn
bị đọa địa ngục, nếu người đó muốn xuống địa ngục để xem thử vài ba vạn kiếp thì
khỏi bàn tới, còn như muốn cầu thoát nạn thì vẫn còn kịp. Đó là Niệm Phật. Con
xin thưa thẳng rằng thời đại mạt pháp này ngoài câu Nam-mô A-di-đà Phật ra khó
tìm đâu ra một năng lực thứ hai. Xin cha má suy nghĩ kỹ, quyết tâm niệm Phật ngày
đêm đừng lơ là buông xuôi nữa.
Biết thế
mà con người vẫn không chịu tin. Đợi khi nào mới tin đây? Thư trước, con hứa sẽ
nêu lên một vài thành tựu như “Thần Kỳ” trong pháp niệm Phật và nói rõ những
nguyên do nào có người tu hoài không thành đạt, ngược lại có người thành đạt rất
nhanh, rất rõ ràng.
Thưa
cha má, tu hành phải xác định rõ mục đích, nếu mình chỉ muốn tu để kiếm chút phước
đức nho nhỏ như cầu chút tiền, được trúng số, muốn mua mau bán đắt, được chút lợi
lộc thế gian, thì những lá thư của con không có giá trị gì cả, vì con thấy rõ rằng
con đường đó sẽ bị đọa lạc, sẽ bị khốn khổ về sau. Lúc vay thì cười hỉ hả, lúc
trả tan rã thân tâm, than đâu cho thấu, khóc thầm không xong!
Cái chính
của sự tu hành là cốt để giải bài toán giải thoát sanh tử luân hồi. Quý giá hơn
nữa là làm sao vãng sanh được tới thế giới Tây-phương trong một đời này. Vì bài
toán này quá khó, trên đời này không mấy ai giải được. Sự thật, khó thì khó nhưng
rõ ràng có cách giải, có thể thực hiện được ngay trong đời này, tại vì người ta
chưa thấy, chưa biết, chưa hiểu cho nên chưa đi được. Thế thôi.
Hôm
nay, con cố gắng giải thích thêm, cộng thêm những chứng minh cho cha má, mong
sao cha má thức ngộ chân tướng của sự thật mà hạ quyết tâm tu hành. Con cầu xin
đức A-di-đà gia trì vào lời thư này để thức tỉnh cha má.
Thưa
cha má, người tu hành mong cầu đạo ví như ngươi đi dự thi vậy. Lúc chưa thấy được
phương pháp thì nghĩ muốn điên đầu mà nó vẫn rối bùng ben, nhưng một khi đã hiểu
được rồi thì cách giải rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Một mạch, họ làm
xong bài toán, họ đậu. Tu hành cũng vậy, một khi ngộ được lý đạo rồi thì cứ một
đường thẳng tiến, sự thành đạo chỉ trong một đời này thôi chứ khó gì đâu! Thi cử,
con xin nêu ra vài trường hợp sau đây:
*) Một
là: Khi đã thấy được phép giải rồi thì
người đi thi phải mau mau làm nhanh, một đường từ đầu chí cuối, phải tranh thủ
làm để nộp bài đúng giờ. Chắc chắn thi đậu.
Đây là
ví dụ cho những người tu hành ngộ đạo, đắc đạo. Trong Phật giáo, những vị Sư tu
hành vào lúc thiếu niên và trung niên thường họ thử tu đủ cách, nhưng đến khi
tuổi về chiều, quá 50 tuổi về sau, họ thường bắt đầu mới thấy rằng sự giải thoát
là điều tối quan trọng. Giáo nghĩa kinh điển dù thông cho mấy, mà sự thoát ly
trong đời này còn mờ mịt thì sự tu hành chưa phải là viên mãn. Cho nên một khi đã
chợt ngộ ra đạo lý này hầu hết quý Ngài đều buông xuống tất cả, nhứt tâm quay về
với câu Phật hiệu A-di-đà Phật để cầu vãng sanh Tịnh-độ trước rồi những chuyện
khác sẽ tính sau. Hẳn nhiên cũng có người ngộ đạo theo các pháp môn khác, nhưng
hầu hết đều quay về niệm Phật, vì niệm Phật nhờ lực gia trì của Phật mà vượt khỏi
tam giới, rút ngắn được ba đại A-tăng-kỳ kiếp, về được tới Tây-phương Cực-lạc
quốc. Đó là những người thật sự liễu giải Lý Sự của Phật đạo.
Nếu
nghiên cứu trong rừng lịch sử Phật Giáo cha má sẽ rõ ràng chuyện này, nhiều vị
Sư niệm Phật mà đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, biễu diễn sự ra đi đúng như câu
nói “du-hí-thần-thông”. Chuyện này nhiều lắm con không thể kể hết ở đây được.
Khi nào có ghé chùa xin mua những quyển như “Mấy-điệu-sen-thanh”, “Vãng-sanh-ký”,
“Chuyện-vãng-sanh”, “Tịnh-độ-Thánh-Hiền-lục”, v.v… để coi thì biết.
Tu sĩ được
như vậy, còn người thường, cư sĩ thì sao? Thưa cha má, người nào tu người đó đắc.
Trong thế kỷ hai mươi vừa qua, Ngài Hạ-Liên-Cư là một cư sĩ, Ngài chỉ niệm
A-di-đà Phật, khi vãng sanh Ngài mời bạn bè tới dự tiệc chia tay rồi đứng giữa
chánh điện chắp tay mà thoát hóa, vui vẻ thoải mái. Người biết trước ngày ra đi,
đứng cười mà thoát hóa như trò đùa vậy, đây chẳng phải là chuyện “Thần-kỳ” sao?
Chuyện này cũng chưa lạ, thường ngày Ngài
có nuôi một con chuột, khi Ngài kinh hành niệm Phật con chuột lắc lẽo đẽo theo
sau, giống như ở quê trẻ em nuôi chim se sẻ, khi khôn lớn nó cứ nhảy nhảy theo
sau vậy đó. Đến khi Ngài đứng vãng sanh thì thấy nó đã vô chiếc giày của Ngài và
đứng vãng sanh theo. Đây đúng thật là chuyện “Thần-kỳ” của thế kỷ!
Trong
kinh Phật nói, tất cả chúng sanh nhứt tâm xưng niệm A-di-đà Phật thì được vãng
sanh. Chuột là chúng sanh, nó niệm Phật thì nó được vãng sanh và nó cũng được bình
đẳng thành Phật ở Tây-phương. Đây là chuyện có thực. Con chuột này, chắc chắn
trong đời trước nó là con người có tu Phật, niệm Phật thành thục rồi, nhưng lúc
lâm chung sơ ý nẩy lên một niệm ngu si, dại dột nào đó mà lọt vào đường súc
sanh, may mắn là gặp được Ngài Hạ-Liên-Cư cứu độ, chứ giả sử như sinh ra rồi đi
lang thang, gặp phải chú mèo thì tiêu đời rồi, biết kiếp nào nữa mới thoát đây?…
Cách đây cỡ hơn mười năm ở Đài-Loan, có
một lão cư sĩ tên là Lý-Bỉnh-Nam vãng sanh. Ngài là học trò của Tổ sư Thích-Ấn-Quang,
vị Tổ sư thứ mười ba của Tịnh-độ Tông Trung-Hoa. Cuộc vãng sanh của Ngài, cả nước
Đài-Loan đều thương tiếc. Hằng ngày, hơn sáu trăm người vì nhớ tưởng ơn Ngài cứu
độ, đến niệm Phật hộ niệm trước linh cữu trong bốn mươi chín ngày liền, ngày đêm
không gián đoạn. Ngài chỉ là một người thường nhưng có những vị Hòa-Thượng phải
đảnh lễ, bái làm Thầy. Ngay Hòa-Thượng Tịnh-Không, vị thượng thủ Tịnh-tông thế
giới cũng bái Ngài làm thầy và thọ giáo mười năm. Ngài là người niệm Phật và dạy
người ta niệm Phật cầu sanh Tây-phương. Trong đời, Ngài cứu độ hơn năm trăm người
thực sự được vãng sanh về Tây-phương. Chỉ là một công chức bình thường, nhưng
khi vãng sanh có tới khoảng sáu trăm người tự nguyện ngày đêm hộ niệm suốt bốn
mươi chín ngày, hàng ngàn người quỳ lạy tiễn đưa linh cửu, hàng triệu người khắp
nơi thương tiếc. Phước đức này đâu phải tầm thường, xưa nay dễ ai có được. Phải
chăng đây là một chuyện “Thần-kỳ”!
Ngay hiện
tại đây, ở đây có một vị tu sĩ hiệu là Thiện-Huệ. Trước đây, Ngài là con rể của
Phối-Sư Trần-Quang-Vinh, thống lãnh quân đội Cao-Đài. Ngài tu Cao-Đài ngay
trong nội Thánh-Thất Tây-Ninh hơn ba mươi năm, là giáo sư Pháp văn cho trường
trung học Cao-Đài hơn ba mươi năm. Trong Thánh-Thất, Ngài có tham gia tổ chức rất
nhiều đàn cơ, có lúc tự làm Điển-Ký đàn cơ. Thế nhưng sau cùng Ngài lại thấy được
sự giải thoát của đạo Phật và đã xuất gia học Phật hơn hai mươi mấy năm nay. Ngài
kiến lập được hai ngôi chùa ở Mỹ-Tho. Trong chuyến viễn du ra nước ngoài vô tình
Ngài gặp được lời pháp của Hòa-Thượng Tịnh-Không và trực ngộ ra câu “Nam-mô
A-di-đà Phật”. Từ Canada Ngài bay thẳng qua Úc để xin gặp mặt Hòa-Thượng Tịnh-Không
và Ngài xin bái Hòa-Thượng Tịnh-Không là Sư-Phụ. Còn hơn thế nữa, Ngài còn thường
xuyên ngồi nghe thầy Ngộ-Thông là đệ tử của Hòa-Thượng Tịnh-Không thuyết pháp.
Một vị
tu sĩ tám mươi mốt tuổi, lại lắng nghe pháp của một thầy, tuổi đời nhỏ hơn con
mình, tuổi đạo chỉ bằng học trò mình. Người bình thường đâu có khả năng làm được
chuyện này! Người bình thường, phàm hễ được chút tuổi, chút chức sắc danh vị, họ
tự mãn với công phu tu tập năm, sáu mươi năm, họ ngất ngưởng trên cái ngôi sư
phụ để cho hàng đệ tử quỳ lạy cung phụng, chứ ai dại gì đi bỏ cái danh vị ấy để
cúi mình bái người khác để cầu đạo giải thoát!!! Thế mà Ngài Thiện-Huệ làm được,
đây đâu phải là người thường! Tâm phục, khẩu phục! Có những lần Ngài dám mạnh dạn
nói rằng: “Năm, sáu mươi năm tu hành của tôi trước đây coi như không có gì hết,
bây giờ tôi mới biết là mình thực sự bắt đầu tu hành!”.
Thưa
cha má, đây chính là những con người giác ngộ đường tu, đã nhìn được thấu và buông
được trót. Nhìn chưa thấu thì buông không được, buông không được thì vô phương
cứu vãn vậy.
*)
Hai là, có nhiều người ngộ được đường
đi, họ sung sướng quá cứ ngồi đó rung đùi lo hưởng cái thú vị khám phá ra chân
lý, đến khi kiểng đánh cái “boong”, giựt mình nhìn lại thì ngỡ ngàng vì bài làm
của mình vẫn còn là tờ giấy trắng!…
Điều này
ví dụ cho những người ngộ đạo mà rớt đài một cách oan uổng! Thật quá oan uổng!
Cái lý thì nói oang oang rất hay nhưng chính mình thì không chịu hạ thủ công
phu tu tập. Chắc cha má cũng thường thấy những người như vậy, có ích gì cho đạo
giải thoát đâu! Xin cha má nên nhớ rằng, “Lý-Đạo” có thể đốn ngộ, nhưng “Sự-Đạo”
cần phải tiệm tu thì mới thành đạo. Nghĩa là, người có thể trực nhận ra được đường
đi, nhưng phải đi, phải thực hành gấp, phải tinh tấn kiên trì, chuyên tu thì mới
thành đạo được. Người hiểu ngộ lý đạo mà không đi thì cũng hoàn không. Chính vì
vậy mà con đây vừa tranh thủ thời gian viết thư cho cha má, vừa ngày đêm niệm
Phật chứ không dám lơ là. Con khuyên cha má tu hành nhưng chính con không chịu
niệm Phật, thì con vẫn phải chịu số phận hẩm hiu như thường.
Thầy Thiện-Huệ khi vừa mới tới đây, Thầy
liền cho dán lên tường câu, “Nói nhiều không bằng nói ít, nói ít không bằng nói
một câu, nói một câu không bằng KHÔNG NÓI”.
Thầy trương lên để cảnh tỉnh
mọi người thì chắc Thầy phải làm, nếu không làm thì Thầy cũng chờ nộp tờ giấy
trắng vậy thôi!
Thầy
Thiện-Huệ năm nay hơn tám mươi tuổi đời, sức đã yếu, thầy vẫn cố gắng đi kinh hành
niệm Phật một ngày tám tiếng, đi không nổi thì Thầy lạy Phật. Thân lạy Phật, Tâm
tưởng Phật, Miệng niệm Phật. Thân Khẩu Ý chuyên nhất hướng về A-Di Đà Phật đó gọi
“nhất tâm niệm Phật” để cầu vãng sanh. Còn Hòa-Thượng Tịnh-Không thì dạy: “Đa
nhất sự bất như thiểu nhất sự, thiểu nhất sự bất như vô sự. Lão thật niệm Phật”.
Suốt ngày, ý Ngài ở trong kinh, tâm Ngài trụ ở câu Phật hiệu. Rõ ràng tư tưởng
lớn gặp nhau. Những người có chí khí dũng liệt họ đâu thèm tranh giành những thứ
hão huyền của thế gian mộng huyễn.
Cha ơi!
Cha thường dạy con rằng: “Phật-tức-Tâm, Tâm-tức-Phật”, thì bây giờ đừng
thèm nói câu này nữa mà mong cha má hãy làm câu này đi. Thành Phật hay không là
làm chứ không phải nói. Phật tức Tâm nghĩa là hễ Phật có gì thì tâm mình có cái
đó. Phật vô sanh tử thì tâm vô tử sanh; Phật giác ngộ thì tâm mình vốn có sáng
suốt; Phật thiện lành thì tâm mình vốn không ác; Phật thanh tịnh thì tâm mình vốn
an lạc… Tâm tức Phật là tâm thiện lành là Phật; tâm thương người là Phật, tâm
buông xả, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi.. là Phật. Phật
tức tâm là “Thị-Tâm-thị-Phật”, tâm tức Phật là “Thị-Tâm-tác-Phật”. Cho nên, hễ
“tâm mình LÀ Phật thì tâm mình phải LÀM Phật”, mà “tâm mình LÀM Phật thì chính
tâm mình LÀ Phật” chứ còn gì nữa. Đó chính là cái đạo lý “Duy tâm sở hiện” đó
cha má ạ.
Cha thường
nói “Tâm CHÁNH là Phật, Tâm TÀ là Ma” thì cũng cùng ý nghĩa này, tất cả đều do
tâm mình hiện ra. Tâm Chánh tức là tâm niệm Phật, ý tưởng Phật. “Ý Phật Niệm Phật,
hiện tại tương lai nhất định thấy Phật”. Tâm, khẩu, ý, chuyên nhất hướng về Phật
thì chắc chắn mình sẽ về Tây-phương để thành Phật chứ không đi đâu nữa cả. “Nhất
thiết duy tâm tạo” thì học Phật ta hãy làm Phật chứ đừng làm cái gì khác, làm cái
gì khác tức khắc mình sẽ thành cái khác đó liền. Đây chính là cái đạo lý “Vạn
Pháp duy tâm”, điều mà cha thường dạy con vậy.
“Tâm Tà
là Ma”. Tâm Tà là sao? Ví dụ, sân giận là cảnh giới địa-ngục, người thường nóng
giận thì tương lai sẽ về địa-ngục; tham lam là cảnh giới của ngạ-quỷ, người có
tâm tham lam, chỉ thích tiền, mánh lới lừa lọc để được tiền thì chắc chắn sanh
làm ngạ-quỷ; si-ám mê muội trở thành súc-sanh.
Thế nào
gọi là si mê? Ví dụ như người suốt ngày cứ say sưa làm cho tâm thần hôn ám, hoặc
khi lâm chung luyến tiếc cái nhà mới xây, còn ngại gia tài lớn không ai lo, sợ
tiền nợ người ta không trả… đó là những cái niệm ngu si dại dột, nhanh chóng đưa
mình đầu thai vào hàng súc sanh. Ví dụ, như con đã nói, vào bụng con chó của người
hàng xóm. Khi con chó sinh ra, nó có linh cảm thích vào cái nhà đó để chờ con
cháu liệng ra cục xương. Đôi lúc thật oái oăm, lại bị chính con chó mà tiền thời
mình thương yêu cưng chìu, nó dí cắn chạy quắn đuôi! Tất cả những hành động hay
tư tưởng đưa ta vào tam ác đạo gọi là “Tâm-Tà” hoặc là “Tâm-Ma” vậy!
Tâm tà
nó còn bao hàm những chuyện tế vi hơn, nếu không chú ý không thấy. Ví dụ như,
người tới chùa để cầu phước lộc, cầu trúng số, cầu khỏe mạnh, cầu buôn bán nhiều
lời… cầu nguyện này không có ác, nhưng đó là lối tu tự tư ích kỷ vẫn là
tham-lam! Phật không bao giờ cảm ứng chuyện này đâu. Còn có người cầu tái sanh
làm người, làm tiên nhân thì tâm bị chấp vào cảnh giới lục đạo trong sanh-tử luân-hồi
để chờ ngày đọa lạc… “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, tâm ở đâu tương
lai sẽ tới đó.
Cha má ơi!
Hiểu thấu đạo lý thâm sâu này rồi thì lý do gì mà còn cố đi sai đường nữa? Hãy
mau mau ngày đêm niệm Phật, tâm tâm cầu về Tây-phương. Mình sơ ý đã bỏ phí gần
hết cuộc đời rồi, mà bây giờ còn đủng đỉnh rung đùi, thì làm sao nộp bài cho kịp
trước khi kiểng đánh đây?!…
*)
Ba là, thi rớt là vì không chịu buông
bỏ những phương thức rườm rà, cứ tiếc rẻ ráng chép đủ thứ vào trong bài, đến lúc
kiểng điểm giờ thì bài mình làm chưa xong!
Điều này
ví dụ cho những trường hợp tạp tu. Sự tạp tu, không chuyên nhất thường công phu
khó có thể thâm hậu. “Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh”. Đạo cũng giống như đời, hễ
“Tinh Tấn” thì dễ thành đạt, còn “Tạp Tấn” thì lỡ cỡ khó đi tới đích. Có nhiều
người đã hiểu được sự vi diệu của pháp niệm Phật nhưng vì hồi giờ họ đã tu những
pháp môn khác quen rồi nên không nỡ xa. Niệm Phật lại vừa niệm Tiên, cầu Thần,
xin xăm, bói toán, v.v… Đây chính là vì tập quán đã quen, tình chấp sâu nặng
làm quên mất con đường giải thoát, quên mất mục đích chính của sự tu hành. Những
cách tạp tu vô tình nó phá mất công năng câu niệm Phật, biến pháp niệm Phật tối
thắng vi diệu một đời thành Phật, thành pháp tu cầu phước báu tầm thường. Tu như
vậy thì bị mất sự gia trì của 48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà. Trong kinh Phật
dạy rất rõ là phải “nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật”. Không nhất hướng thì đi
lòng vòng không có mục đích, cuối cùng đành bị trôi theo nghiệp báo luân hồi, đọa
lạc vô cùng vô tận?!
Thường
tình, người ta cứ nghĩ rằng tu hành đạo nào cũng được, pháp nào cũng học, Phật
nào cũng niệm, Thần nào cũng thờ… có như vậy mới chứng tỏ sự bình đẳng tôn kính,
không phân biệt. Thực ra, nếu nói tôn kính tất cả thì đúng nhưng thờ phụng, trì
niệm tất cả thì bị lạc. Vì sao vậy?
Thứ nhứt là nếu hiểu rõ về cảnh giới thì mới thấy sự mông lung
vô định hướng. Trong vũ trụ này, bây giờ vàng thau lẫn lộn, thiện ác khó phân.
Phật là Phật, mà Ma cũng xưng là Phật, họ cũng có lắm đồ chúng, lắm pháp môn
nghe rất hay, rất dễ cảm mến! Lạc vào đó rồi khó còn sáng suốt để phân biệt trắng
đen.
Hai
là thọ mạng mình quá ngắn ngủi, bể khổ
thì mênh mông, hiểm nạn trùng trùng, không cho phép ta lang thang thám du nhiều
cảnh giới trong đời này.
Ba là: Ma, Quỷ, Thần, Tiên… ta cần phải kính trọng họ nhưng
không nên theo họ. Nên áp dụng câu “Kính nhi viễn chi”, một lòng kính trọng nhưng
cũng một lòng không theo họ làm đệ tử. Con từng thưa với cha má rằng, hễ quen đâu
thì nợ đấy, nên quen với Phật theo về với Phật là hay nhất thôi.
Bốn
là: pháp môn niệm Phật là Pháp nhị lực,
tạp niệm tự mình đánh mất bổn nguyện oai thần gia trì của Phật A-di-đà. Với sức
của con người làm sao dám nghĩ tới chuyện tự vượt qua tam-giới luân-hồi, vượt
qua bể khổ mênh mông đây?
Cho nên,
muốn vượt qua biển khổ hãy tìm chọn chiếc bè nào vững chắc nhứt để đi, đừng nên
tham lam đèo bồng, đứng trên một bè còn đề phòng kéo theo thêm năm bảy bè khác.
Mới nhìn thì thấy dường như chắc ăn, nhưng kết quả thì chính những chiếc bè kia
nó lôi mình trở lại không thể vượt đi được. Dù có ráng sức thì giữa dòng cũng
phải ngã quỵ. Chọn lựa một bè thật chắc chắn có nghĩa là suy nghĩ đắn đo thật kỹ
là bè nào có thể đưa mình nổi qua tới bờ kia chứ không thể sơ ý được, vì nếu chọn
chiếc bè quá yếu đuối nó sẽ nhận chìm mình trở lại trong bể khổ luân-hồi thì uổng
đời tu tập.
Cha má ơi!
Đời mình, tự mình cứu lấy, không ai cứu mình được cả. Thần Tiên không thể cứu
sanh tử khổ nạn cho mình được, Thần Tiên chỉ có thể hỗ trợ phước lộc cho mình hưởng
thụ vài chục năm rồi chết, rồi đọa lạc. Cho nên lỡ chọn chiếc bè yếu thì ngay lập
tức phải đổi bè, Thần Tiên cao minh không bao giờ ngăn cản chuyện này cả.
Muốn biết
bè nào tốt, bè nào yếu thì kiểm tra kỹ là biết ngay. Kinh cũng như thế, xem
kinh nào cứu độ mình thành Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác, thành Phật được là
chắc. Kinh nào chỉ nói cho chút lợi, giúp chút lộc, cứu chút nạn… không đá động
gì đến việc dứt sanh-tử luân-hồi thì yếu, không thể cứu độ rốt ráo. Chắc chắn
kinh pháp không thể nói sai, cứ bình tĩnh xem kỹ thì thấy liền. Chọn kỹ rồi cứ
một pháp môn mà đi, trong Tịnh-độ tông thường gọi là “Nhất môn thâm
nhập, trường kỳ chuyên tu”, có như vậy mới mong ngày thành đạt.
Tình thực
mà nói, ta có thể ví chùa chiền, thánh thất, v.v… giống như trường học, thầy
tu là giáo viên, pháp môn là những môn học, kinh điển là sách giáo khoa. Tất cả,
mỗi mỗi đều có trình độ cấp bực của nó. Tại mình không suy nghiệm kỹ thành ra mập
mờ đó thôi. Học hành muốn cầu tiến tới, thì phải chọn môn học thật kỹ chứ không
thể vị nể bạn bè. Tu hành thì phải quyết thành đạo, quyết tự cứu chính mình chứ
không phải tu để lấy cảm tình với Thánh, Thần, Tiên, Phật… được. Quý Ngài đâu
cần sự cảm tình đó. Tại chính vì mình ngại, mình sợ, mình có tình chấp thâm trọng
nên không dám tự quyết, chứ Thần minh nào có cấm cản. Đã là Phật, Thánh, Tiên,
Hiền thì đâu có thể có tâm lượng ích kỷ hẹp hòi như thường nhân mà tìm cách bắt
buộc chúng sanh phải theo mình! Con nói điều này xin cha má suy nghĩ thử đúng
hay sai!
Hiểu được
đạo lý rồi thì ta thấy rằng pháp môn, tôn giáo chỉ là phương tiện. Trong kinh
Phật dạy rằng, “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”. Có nghĩa là, khi
liễu ngộ được đạo rồi thì ngay cả pháp Phật cũng phải bỏ đi để đắc đạo huống
chi là những pháp không phải của Phật. Tại sao vậy? Vì pháp môn chỉ là phương
tiện Phật nói ra để hướng dẫn mình đi, khi thấy được đường đi rồi, thì Phật dạy,
phải liệng cái gánh pháp đó để đi cho nhanh, chứ tại sao lại cứ mang hoài trên
vai làm chi cho nặng?
“Pháp
thượng ưng xả” nghĩa là phải biết buông hết, bỏ hết những thứ râu ria, chỉ còn
giữ lại cái gì cần thiết nhất giúp mình đi được mà thôi. Ngài Thiện-Đạo Đại sư đời
nhà Đường nói, “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-Đà bổn nguyện hải”,
nghĩa là sở dĩ chư Phật thị hiện xuống trần thế là chỉ vì để nói cho chúng sanh
biết cái nguyện hải độ sanh của Phật A-di-đà mà thôi. Tất cả vạn pháp chỉ là phương
tiện dẫn dắt chúng sanh quy nạp về thế giới Cực-lạc, đó là câu “Nam-mô A-di-đà
Phật”, cái đỉnh cao nhất, tối hậu để viên thành Phật Đạo. Nay ta đã tới cái đỉnh
này rồi tại sao lại muốn tuột xuống? Chư Tổ sư đều nói, bốn mươi chín năm thuyết
kinh giảng đạo của Phật sau cùng cũng chỉ là để giới thiệu cho chúng sanh câu
Nam-mô A-di-đà Phật để vãng sanh Tây-phương thành Phật. Giờ đây biết rồi thì mình
phải thành Phật chứ, tại sao lại tìm cách đi ngược về đường đọa lạc?!
“Pháp
thượng ưng xả” là để vãng sanh Tây-phương thành Phật, phải thực hiện cho được
trong đời này. Siêu sanh Tây-phương Cực-lạc là đang còn sống đây ta niệm Phật để
về tới Tây-phương thành Phật, chứ không phải chờ đến lúc chết, rồi bảo con cháu
chạy mời mấy vị Sư đem tấm hình A-di-đà Phật tới tụng kinh cầu siêu đâu… Thực
tế, cầu siêu cho người chết thì ít, mà chính yếu là cầu cho người sống hãy mau
mau tỉnh ngộ tu hành, đừng đợi chết rồi thì đã quá muộn đó thôi!
Tất cả
pháp môn đều là phương tiện, nhưng niệm Phật có cả cứu cánh luôn, vì “Niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả”, nhân và quả đều ở ngay trong câu Phật hiệu. “Niệm
Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng
sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh chứ đâu phải
là chuyện tầm thường.
Trong
nhà Phật thường có câu, “Qua sông liệng bè”. Phật giáo Đại Thừa còn nói
mạnh hơn nữa, giữa giòng nếu cần cũng liệng bè luôn. Ai tin được không? Có. Ví
dụ, một chiếc bè dập dìm giữa sóng gió trùng dương, gặp một chiếc thuyền cứu nạn
mà không nhanh chóng lên thuyền để nó chở qua “bờ kia” còn đợi gì nữa?! Pháp tu
Niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ là vậy đó. Mình tu một nửa, còn nửa kia hãy đưa tay
cho Phật cứu. Chính sự cứu độ này đã giúp cho vô số chúng sanh vượt thẳng tới Tây-phương
viên thành Phật đạo chỉ vỏn vẹn trong một vài năm thành tâm niệm Phật. Với chiếc
thuyền của Phật A-di-đà Ngài cứu độ vô tận vô biên chúng sanh, một vài người lẻ
tẻ như chúng ta đâu thấm thía gì đâu mà lo với ngại. Nếu điều này không một ai
tin, con vẫn xin khuyên cha má hãy quyết lòng tin tưởng, chắc chắn như vậy. Con
đã hiểu, đã thấy, con đang dẫn đường cho cha má leo lên con thuyền đó để được cứu,
con không dám nói một lời vọng ngữ đâu. Thời gian qua con đã chứng minh cho cha
má quá cụ thể, quá đầy đủ rồi, làm sao còn mập mờ gì nữa? Thời mạt pháp này, nói
thực nếu không có sự cứu độ của Phật A-di-đà làm sao có một ai có thể mơ mộng vượt
khỏi tam kỳ, siêu việt qua tam giới. Ai dám vỗ ngực tự thoát khỏi sanh-tử luân-hồi
đây, thưa cha má!…
*) Bốn là: làm bài sai đề. Chắc chắn phải rớt!
Đây là
ví dụ cho người tu sai đường, càng tu càng lạc. Nếu không kịp thời tỉnh ngộ
quay lại đến một lúc nào đó, nếu không may mắn được người chỉ điểm, thì có muốn
quay lại cũng không biết đâu mà quay. Cái khổ não bi thương nhất của chúng sanh
thời mạt pháp là chỗ này. Họ không muốn đi lạc, mà vì cạm bẫy trùng trùng bẫy họ
vào hiểm lộ. Trong kinh Phật dạy rằng, đời mạt pháp Phật pháp đã đi dần đến chỗ
diệt pháp, ngoại đạo tà phái đang càng ngày càng nhiễu loạn. Từ đây đến chín ngàn
năm nữa thì Phật giáo bị diệt là chính vì sự khuấy nhiễu này. Phật dạy chúng đệ
tử rằng thời “Mạt pháp Tịnh-độ thành tựu”, chúng sanh hãy mau quay về với
pháp môn niệm Phật. Tất cả những pháp môn tự lực khó có thể thoát khỏi cạm bẫy
của ngoại đạo. Chỉ có pháp môn niệm Phật được Phật A-di-đà gia trì, chư Phật mười
phường cùng hộ niệm, người chí thành niệm Phật sẽ có hai mươi lăm vị Bồ-tát hộ
pháp, chính vì thế mới bảo vệ được người niệm Phật an toàn vãng sanh Cực-lạc quốc.
Tu pháp của Phật mà Phật còn dặn như vậy, huống chi những pháp tu không xuất phát
từ Phật?
Trong
kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật nói: “Đương lai chi thế kinh đạo diệt tận, Ngã dĩ từ
bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả,
tùy ý sở nguyện giai khả đắc độ”. (Nghĩa là, tương lai thế giới này kinh điển
của Phật bị diệt hết, Ta vì lòng từ bi ai mẫn, đặc biệt lưu bộ kinh này thêm một
trăm năm nữa. Nếu có chúng sanh thọ trì kinh này thì tùy theo sở nguyện đều được
cứu độ). Bộ Kinh Vô-Lượng-Thọ dạy chúng sanh niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ.
Nghĩa là, khi tất cả pháp Phật bị diệt hết, thì Phật lưu âm hiệu “A-di-đà Phật”
lại thêm một trăm năm nữa để độ chúng sanh cuối cùng có duyên với Phật về Tây-phương
trước khi Phật pháp diệt tận. Cho nên, câu Phật hiệu uy lực công đức lớn vô biên,
thời mạt pháp này ngoài câu Phật hiệu ra, khó có pháp môn nào bảo đảm cho mình
thoát hiểm nữa cả. Đây là kinh của Phật nói rõ ràng, xin cha má quyết không thể
hồ nghi được.
Cái khổ
trong thời mạt tận là hoàn cảnh nhân sinh càng ngày càng hỗn loạn, không biết đâu
là chánh, là tà, người thành tâm muốn tu giải thoát lại tu theo tà. Thật đau đớn!
Ngài Tịnh-Không vạch ra mấy điểm cụ thể để chúng ta tự cảnh giác hầu phân biệt
chánh tà.
1) Là Phật, Bồ-tát không bao giờ dùng
thần thông để thâu nạp tín đồ. (Tất cả những loại phép lạ, cơ, bút, bùa ngải,
thông linh… đều là những dạng thần thông); 2) Là Phật, Bồ-tát xuất thế không
bao giờ thố lộ danh tánh. (Ai tự xưng danh tánh, nhứt định phải “kính nhi viễn
chi”);
3) Là lỡ
bị lộ danh các Ngài tịch liền. (Người được vinh danh là Thần, Thánh, Tiên, Phật…
đủ thứ mà không đi thì phải cẩn thận).
Cha má
nên nhớ ở đâu cũng có nêu ra cái chân lý hành đạo riêng nghe hay lắm, nhưng mục
đích chính bên trong thì khó lường được!…
*) Năm
Là: hỏi rằng, những người không biết
gì hết muốn đi thi có thể đậu được không? Trả lời: không thi thì không đậu, nhưng
nếu thi nhiều lúc lại đậu rất cao!
Đây là
ví dụ cho nhiều người không hiểu đạo, mù tịt tu có được không? Liệu có thành tựu
không? Có vãng sanh được không? Phần thư này con xin viết riêng cho má, cho bà
Bác mẹ của anh Hai, cho cô Bốn, cho những ông bà cụ đã lụm cụm hồi giờ không hiểu
biết gì về đạo pháp cả, tự họ không biết một cách nào để giải bài toán sanh tử,
nhưng có thể được thi đậu và nhiều khi còn đậu cao nữa là khác. Nhờ đâu vậy? Thưa
cha thưa má, “Cốp-Pi”. Họ biết mình dở rồi, nhưng họ có lòng thành thực mong cầu
chỉ điểm, xin mượn bài để chép, khỏi cần ý kiến. Có sao “chép lại” vậy, nhanh
tay chép nhanh nhanh để nộp bài cho kịp giờ. Họ đậu và nhiều khi đậu rất cao.
Quan trường thi cử xưa nay, hạng người may mắn này không thiếu. Cái mục đích của
họ là làm sao đậu trước đã, giải thoát trước đã, thoát ly sanh tử trước cái đã.
Sau đó muốn hiểu, muốn biết còn thiếu gì thời gian cho mình thực hiện.
Trên thực
tế, người vãng sanh theo diện này rất nhiều, và cách vãng sanh của họ chứng tỏ
phẩm vị rất cao, nhiều khi còn cao hơn nhiều vị tu hành nhiều năm nữa là khác.
Ví dụ, bà cụ Triệu-Vinh-Phương là một chứng minh cụ thể, chín mươi tuổi mới bắt
đầu niệm Phật, không biết một chút Phật pháp nào cả, chín mươi bốn tuổi an nhiên
vãng sanh trong ánh quang minh của Phật vào năm 1999, (xem lại cuộn phim). Cụ
Trần-Quang-Việt, tám mươi hai tuổi mới bắt đầu tu, tám mươi sáu tuổi vãng sanh
tại Singapore năm 2001. Cụ Châu-Quảng-Đại, niệm Phật ba ngày vãng sanh. Còn nhiều
lắm, rất nhiều người già cả đến ngày gần chết được may mắn có người chỉ điểm niệm
Phật, họ thành tâm tin tưởng, nhứt tâm xưng niệm A-di-đà Phật, một lòng cầu về
Tây-phương, họ thành tựu ngay trước mắt, trước sự ngỡ ngàng của những vị tài
cao hiểu rộng!
Thưa má,
xin má đọc thật kỹ đoạn thư này thì tự nhiên má cảm thấy vô cùng hoan hỉ, vô cùng
sung sướng và bắt đầu từ đây má có thể hưởng được một sự an vui tự tại cho đến
ngày vãng sanh bất thối thành Phật. Dựa đúng theo kinh Phật chỉ bày, nếu má một
lòng tin tưởng, tuyệt đối làm đúng như con chỉ, tuyệt đối không ý kiến, tuyệt đối
không thay đổi, tuyệt đối không cần tìm hiểu gì cả. Con dám bảo đảm chẳng bao lâu
má sẽ tự biết được ngày ra đi, an nhiên hẹn ngày ra đi, đi trong vui vẻ thoải mái,
đi theo Phật vãng sanh rõ ràng giống như cụ Triệu-Vinh-Phương vậy. Nghĩa là, má
không còn chết nữa, ngày đi tự má chủ động liệng cái thân già còm khổ cực yếu đuối
lại cho con cháu muốn chôn thì chôn, muốn thiêu thì thiêu, còn mình thì nương
theo ánh quang minh của Phật về Tây-phương thành Phật. Ngay tích tắc, má sẽ hiểu
cái chân tướng của vũ trụ nhân sinh này. Thoát ra khỏi sanh-tử luân-hồi rồi, nhìn
lại mới thấy tấn tuồng ở nhân gian này chỉ là một giấc mộng mà hồi giờ mình không
hay! Tất cả những bà cụ, ông cụ nào trên thế gian này, nếu phát lòng tin, vững
mạnh niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ sẽ hưởng được cái đại phước vãng sanh quí báu này.
Con xin
nhắc lại điểm chính yếu để tu:
Một
là: tin tưởng vững chắc pháp môn niệm
Phật, tin tưởng vững chắc Phật A-di-đà cứu độ, tin tưởng vững chắc mình được vãng
sanh về Tây-phương, tuyệt đối không còn suy nghĩ gì cả.
Hai
là: sám hối tội lỗi và nguyện vãng
sanh. Nghĩa là sáng chiều quỳ trước bàn thờ Phật A-di-đà thành tâm sám hối những
tội lỗi từ vô lượng kiếp tới nay, nguyện quyết tâm niệm Phật và mỗi ngày đều hồi
hướng công đức cho oan gia, trái chủ. Xong rồi thì phát nguyện vãng sanh, hãy
viết câu phát nguyện rõ ràng ngắn gọn và ngày nào cũng đọc như vậy. Sau mỗi lần
niệm Phật, hoặc chiều tối hồi hướng công đức về Tây-phương. (Xem lời hồi hướng
trong các thư trước. Tuyệt đối, ngoài cầu vãng sanh không được cầu bất cứ điều
gì lợi ích cho chính mình cả).
Ba là: ngày đêm sáng trưa chiều tối, đi đứng nằm ngồi, thái
rau, bửa củi… lúc nào cũng niệm A-di-đà Phật. Tuyệt đối ngoài niệm câu Phật
hiệu, không được niệm một tiếng gì khác nữa cả.
Nếu bị
con cái bắt giữ cháu thì ru cháu, đưa cháu, dỗ cháu bằng câu A-di-đà Phật. Đi
ra đường mỗi bước chân một câu A-di-đà Phật. Hãy cầm trong tay xâu chuỗi, lúc nào
cũng phải lần một hột là một câu A-di-đà Phật. Cắt giảm tất cả chuyện thăm nom
bà con, miễn chuyện thị phi nhân nghĩa, miễn bàn luận hơn thua với bất cứ ai. Gặp
hai người đang nói chuyện nhất định không tham gia vào thành người thứ ba, nhứt
định không chịu đi chung với họ trên một đoạn đường dài để tránh nói chuyện, nếu
kẹt quá không thể tránh được thì tìm cách lách ra hoặc đi ngược chiều lại, nghĩa
là chỉ gặp nhau chào rồi đi luôn. Muốn vãng sanh là phải như vậy, không được bỏ
phí một giây phút nào không niệm Phật cả. Ai nói gì nói, ai chê gì chê, vài ba
năm nữa lây lất ở trần thế này có nghĩa gì đâu mà tham luyến.
Hãy
nghe lời con đi má, hãy nghe lời con đi cha. Hãy nhắn lời cho cô Bốn, bác gái mẹ
anh Hai, tất cả bà con cô bác xa gần hãy nghe lời con, niệm Phật liền đi. Vững
mạnh mà đi tự nhiên thấy câu trả lời. Hãy quyết tâm thực hiện đường về Tây-phương.
Đừng chần chờ nữa, thời gian không cho phép lề mề đâu. Lỡ một bước rồi ân hận
ngàn đời vạn kiếp đó.
Đường về
Tây-phương để một đời này thôi viên thành Phật đạo là câu Phật hiệu Nammô
A-di-đà Phật chứ không phải cái gì khác cả. Tất cả các vị pháp sư suốt cuộc đời
nghiên cứu kinh điển, khổ công khổ sức truy tầm con đường giải thoát từ trong rừng
kinh biển sách, rốt cuộc cái bí quyết để thành công, một bí tủy của Phật pháp để
thành Phật không gì khác hơn là danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật. Ngộ được lý đạo,
quý Ngài mau mau buông bỏ tất cả mà niệm Phật, thì tại sao bây giờ có người lại
cứ chạy theo con đường tu tập khổ cực của các Ngài mà không chịu nghe lời khuyên
chân thành của người đắc đạo?
Bồ-tát Đại-Thế-Chí,
người đứng bên phải của Phật A-di-đà dạy, “Thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương
tục”, cứ thế mà làm thì thành Phật. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, đóng hết lại để niệm Phật. Đừng nghe, đừng nhìn, đừng nói, đừng học, đừng
hiểu, đừng biết… gì cả, cứ một lòng tin tưởng niệm Phật là thành đạt. Cho nên
chính má, cô Bốn, bác gái mẹ anh Hai, tất cả những người già cả quê mùa… là
những người hồi giờ không rành kinh điển, không hiểu giáo nghĩa, không biết triết
lý gì hết mới chính là cơ duyên tốt nhứt để thành đạo.
Đừng nên
mong cầu hiểu đạo, đừng nên cầu mong rõ lý, đừng nên chạy lung tung làm cho tâm
mình dao động. Nhất thiết một lòng niệm Phật dù cho có Sư, có Thầy nào đức cao
tài giỏi tới chỉ điểm gì khác cũng đừng thay đổi.
Niệm Phật và chỉ niệm Phật thôi mới
mong giải thoát cha má ạ.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Kính thư.
(Viết xong, Úc Châu ngày 22/4/2002).
Đừng nên vì những thứ ở ngoài thân mà lãng phí quãng đời trân
quí của mình. Phải mau sớm tu hành! (Hòa-Thượng Quãng-Khâm).
Kính
cha má,
Tu hành
mà hiểu thấu được Phật pháp thì thấy lý thú, vững lòng tin, tinh tấn tiến bước.
Mỗi lá thư, đầu tiên con đều nói một chút lý đạo. Cho nên, nếu đọc nhiều thư của
con cũng thấy vui với nguồn đạo, thấm lần vào Phật pháp. Còn phần sau của thư
thường con nói đến những điểm cụ thể cần thực hiện, cần cho cha má và cũng cần
cho những ai muốn niệm Phật cầu sanh về Tịnh-độ. Con biết được hoàn cảnh của
cha má, anh chị em, bà con, cô bác ở quê nhà rất khó khăn để nghe được Phật pháp,
thành ra con phải dùng cách này để từng bước giải bày. Xin cha má cố gắng đọc kỹ.
Cha hoặc má hãy bảo con cháu mỗi người thay phiên nhau đọc cho cha má nghe. Điều
này rất có lợi vì nhờ vậy mà con cháu cũng hiểu được đạo, cũng có thể cùng phát
tâm tu hành….. nhứt là người nào chưa tin Phật pháp thì cha má cứ nhờ đọc nhiều
lần, biết đâu cha má cứu được người đó. Hễ cha má thích con cháu đọc thì con cháu
cũng thích đọc cho cha má nghe, hễ có đọc thì có cơ hội hiểu.
Nếu
khuyến khích con cái trong nhà đều niệm Phật thì chính cha má đã tạo được một công
đức lớn. Nhờ đó mà thiện căn của chính mình tăng trưởng, và cái lợi ích thiết
thực nhất là khi lâm chung mình đã có một số người hùng hậu vây quanh để hộ-niệm
bảo vệ mình, có vậy mới tránh được cái nạn oán thân, trái chủ. Người niệm Phật
cầu vãng sanh luôn luôn chuẩn bị chu đáo cho giờ phút lâm chung, đây là điều tối
quan trọng, không thể lơ là được.
Xin đọc
lại những thư nói về Hộ-Niệm cho thật kỹ, đừng sơ suất. Người mới tu hành, công
phu chưa vững, muốn được “Đới Nghiệp Vãng Sanh” thì luôn luôn cần phải chuẩn bị
một số người hộ-niệm lúc lâm chung, nếu không có người hộ-niệm rất dễ bị oán thân,
trái chủ, hoặc nghiệp chướng phá hoại vào giờ phút chót làm mất phần vãng sanh.
Một
người ở thế gian này mà có cơ duyên niệm được câu Phật hiệu là trong nhiều đời,
nhiều kiếp ở quá khứ đã có căn lành phước đức rất lớn. Trong Kinh Vô-Lượng-Thọ,
ông vua A-Xà-Vương-Tử khi nghe Phật thuyết về Thế-Giới Tây-phương Cực-lạc của
Phật A-di-đà, ông bèn cùng năm trăm vị trưởng lão tùy tùng liền đồng dũng mãnh
phát nguyện rằng tương lai sẽ tu thành Phật như Phật A-di-đà. Phật nói, nhóm người
này trong tiền tiền kiếp đã có phước đức cúng dường tới bốn trăm ức đức Phật.
(1 ức = 100 ngàn; 400 ức = 40.000 ngàn = 40 triệu). Đây là một phước báu vĩ đại,
ở thế gian này không dễ mấy ai có được. Ngày nay chúng ta tìm một vị Phật để nhìn
thử không có, thậm chí một vị Thánh A-La-Hán thôi cũng không thấy thì làm sao mà
có được cái phước báu cúng dường cho bốn trăm ức Phật? Ấy thế mà trong kinh Phật
nói nhóm người ấy chỉ được cái phước báu tối thiểu, cái tiêu chuẩn thấp nhứt để
giúp cho họ tin được lời Phật, phát được tâm nguyện muốn thành Phật chứ chưa đủ
để phát nguyện viên mãn thành Phật.
Lời
Phát nguyện viên mãn thành Phật là: Nguyện vãng sanh Tây-phương Tịnh-độ. Nghĩa
là người nào phát tâm nguyện cầu vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thì tự nhiên họ
đã có cái phước báu vượt hẳn cái phước báu cúng dường bốn trăm ức đức Phật. Vì
nguyện thành Phật là lời nguyện cao cả, nhưng bao lâu để thành Phật thì mông
lung vô cùng tận! Một triệu đời hay một triệu kiếp? Một tỷ kiếp hay vô lượng kiếp
tu hành nữa để thành Phật đây?! Trong suốt khoảng thời gian vô cùng vô tận đó
liệu còn đủ bản lãnh chống chọi với những thế lực hung hiểm không? Có giữ được
chí nguyện đó không? Hơn nữa người tự tu thành Phật nhất định phải đoạn diệt rốt
ráo tất cả nghiệp chướng, vọng tưởng, chấp trước, vô minh, tham, sân, si, mạn,
kiến tư phiền não, trần sa phiền não, đoạn luôn cả bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh,
thọ-giả, v.v… tới lúc đó may ra mới mong ngày thành Chánh-Giác. Cha má, anh
chị em cứ tự nghĩ thử coi, liệu mình có làm nổi chuyện này không? Rất là khó!
Còn
người niệm Phật nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc thì hoàn toàn khác, vì họ được
đới nghiệp vãng sanh, một đời này họ có thể thực hiện được, một đời này
thôi biết bao nhiêu người đã thành công rồi. Thử đếm sơ sơ nội trong vòng mười
năm trở lại đây thôi mà có thể một vài trang giấy còn thiếu chỗ để ghi. Đây là
sự thật. Người nào có duyên lành thấy được điểm này thì phải biết giựt mình tỉnh
ngộ, hãy mau mau niệm Phật cầu vãng sanh Tây-phương, quyết định đừng chần chừ, đừng
dùng dằng nửa ở nửa đi, đừng bán tín bán nghi. Nhứt tâm một lòng niệm Phật cầu
sanh là được. Đây gọi là dễ. Một pháp môn tu hy hữu trên đời chỉ dành
cho người nào có đủ thiện căn, phúc đức, nhân duyên. Đã gặp pháp môn này rồi mà
để lỡ qua cơ hội, xin thưa thẳng thắn rằng, một tỷ đời sau chưa chắc sẽ được cái
may mắn gặp lại Phật pháp để thực hiện mộng liễu sanh thoát tử.
Thưa
cha má, cha thường nêu ra vấn đề thiện căn phước đức, cứ lo ngại là phải tu hành
nhiều đời, nhiều kiếp, phải có thiện căn tối thiểu nào đó mới có thể đắc thành
Phật quả chứ đâu phải dễ! Thì hôm nay, trong kinh Phật chỉ cho ta biết cái thiện
căn tối thiểu đó chính là con số cúng dường bốn trăm ức Phật như trong kinh Phật
nói. Con số này quả thật quá lớn! Thế nhưng một người có cái phước đức thiện căn
lớn như vậy vẫn chưa đủ để họ Tín-Thọ-Phụng-Hành pháp môn niệm Phật, nghĩa là
chưa đủ để thành Phật.
Thế thì liệu mình có được phước đức
đó không? Thưa cha má, phước đức
này không phải mình nghĩ mà có, mình tìm mà thấy, mình muốn mà được đâu. Nhưng
cũng tức cười, nhiều khi chính mình đã có mà mình không hay biết. Vì sao? Vì thần
thức của mình vẫn đang bị nhốt tù trong cái thân tứ đại, chân tâm đang chìm
trong vô minh cho nên không thấy, không biết. Muốn biết mình có thiện căn vĩ đại
hay không hãy lấy cái TÍN-TÂM của mình mà đo, lấy SỰ-PHÁT-NGUYỆN của mình mà lường,
hãy coi thử mình có CƠ-DUYÊN gặp được câu A-di-đà Phật hay không thì biết. Ví dụ,
trong gia đình mình khi con nói về niệm Phật, người nào khởi phát tín tâm trước
hết, phát nguyện trước hết thì biết chắc chắn đã có thiện căn lớn hơn ai hết.
Người
nào tín, tho,ï phụng, hành đầy đủ pháp môn niệm Phật thì biết chắc trong tiền
tiền kiếp họ đã cúng dường tới bảy, tám, chín trăm… vô số ức Phật mà họ không
hay, chứ không phải chỉ có bốn trăm ức đâu. Còn người nào tin nửa vời, hoặc không
tin, thì biết là thiện căn của họ không nhiều hoặc là bị chướng ngại gì đó, chưa
có cơ duyên thành Phật thành thục trong đời này. Họ muốn tu bồi thêm thiện căn,
còn hơn năm trăm triệu năm nữa mới có một đức Phật nữa ra đời. Hãy tính nhẩm thử
coi họ sẽ trải qua bao nhiêu kiếp năm nữa?!…
Đã có
thiện căn thì sẽ gặp cơ hội vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thành Phật, mới xui
khiến có người điềm chỉ pháp môn niệm Phật. Kinh Phật đã nói như vậy. Bây giờ
xem lại coi, phải chăng gia đình mình nhiều người đang được nghe nhắc đến danh
hiệu A-di-đà Phật rồi, thì có lẽ trong gia đình mình cha má, anh chị em, bà
con, cô bác trong vùng cũng có thể có khá nhiều người đạt đủ tiêu chuẩn mà không
hay đó?! Xin đừng tự ngăn cản con đường vãng sanh mà đành cam chịu đọa lạc cha
má ạ!…
Bây
giờ, giả như có nhiều người cứ nghĩ rằng mình không đủ phước báu thì làm sao đây?
Hãy nói với họ, đừng suy nghĩ nữa, cứ phát tâm niệm Phật cho nhiều đi, phát
nguyện mỗi ngày niệm năm ngàn câu, rồi mười ngàn câu Phật hiệu, nếu cũng chưa
thấy gì thì niệm hai mươi ngàn, ba mươi ngàn… cứ làm đi rồi họ sẽ tự thấy cái
phước của họ lớn tới cỡ nào, có đủ tiêu chuẩn hay không sẽ biết liền. Chứ còn cứ
ngồi đó than thiếu phước đức mà không chịu niệm Phật, thì tìm đâu ra phước đức đây?
Cũng nên nhớ rõ một điều, là dù cho đã có đủ thiện căn phước đức nhưng chỉ muốn
hưởng phước, không chịu phát tâm cầu vãng sanh thì cũng như không thôi. Thật là
đáng tiếc!
Cha
má đã già yếu rồi, con xin cha má hãy quyết chí giác ngộ đường đi, đừng phóng tâm
tìm cầu những cái hão huyền của thế thái nhân tình nữa mà rốt cuộc phải chịu trầm
luân. Con ở đây lâu lâu nhận được thư từ các cháu, anh chị em. Nghe sơ qua
thì thấy có tu, nhưng đọc kỹ lại thì đường đi vẫn còn bị lạc. Đây không phải
là cố tình hay bướng bỉnh, mà lại là vô ý lạc đường, thường lấy cái phụ làm chính,
trong khi cái chính thì quên mất. Đây có lẽ, một là thói quen, nó cứ lôi cuốn vào
đó. Hai là những thư con viết về không chịu đọc kỹ, cứ coi đại khái rồi bỏ qua.
Chính
vì thế mà mỗi lần nhận thư thì con đều phát hiện ra sự “lạc nẻo”. Nên nhớ, tu mà
sai đường thì vừa tốn công sức, vừa làm giảm mất niềm vui, không những khó có lợi
ích mà sau cùng đành thất bại. Ấy là do mình sơ ý chứ không đổ thừa cho Phật pháp
không linh được.
Cho nên, tha thiết xin cha má, anh
chị em, con cháu… hãy cố gắng nghe pháp cho nhiều, thiếu pháp thì tạm đọc những
thư của con cho thật kỹ, có giờ rảnh đọc thêm nhiều lần thì tự nhiên hiểu. Ai còn
mập mờ chỗ nào thì mạnh dạn viết thư hỏi, con sẽ trả lời thật rõ ràng cho. Người
trong nhà có gì đâu mà ngại.
Muốn
về được Tây-phương thì phải biết BUÔNG-XẢ cha má ạ. Buông-xả một phần, mình
gần với Phật một phần, buông mười phần, gần mười phần. Không buông xả thì tự trói
mình trong lục đạo luân hồi. Buông xả là quên đi những thứ vàng, bạc, nhà cửa,
danh vọng, nhân nghĩa, tiếng thơm, tiếng thối… đừng để những thứ tục lụy này
vướng bận tới mình nữa thì tự nhiên thấy Phật! Nghĩa là, thấy rõ ràng minh bạch
nhưng xin đừng lưu luyến, đừng ham muốn, đừng vui khi có, đừng buồn khi mất, đừng
cố nắm bắt chúng như trước giờ nữa, thì mình tự nhiên sẽ đi tới đất Phật trong đời
này. Tuổi già thọ mạng mong manh như giọt sương đầu cành, quyết định phải dứt
khoát chứ không thể chần chờ như tụi trẻ nữa cha má ơi! Nên nhớ, có khi mình muốn
buông xả nhưng có những việc ngầm ý lôi kéo mình lại. Nhiều lúc hành động và tâm
ý đều bỏ, nhưng hoàn cảnh, nhân duyên, con cháu, lại trói buộc mình lại đó.
Cho
nên cần phải rất nhạy bén để ý mới thấy vấn đề. Nếu không, có nhiều thứ chi phối
rất vi tế nó trở ngại việc vãng sanh. Con viết về cha má nhưng lại thường gởi về
các anh chị em, là chính con muốn các anh chị em đọc trước đi để cùng hiểu, cùng
thấy chữ “Đại-Hiếu” là quan trọng, để cùng nghĩ ra hướng giúp cho cha má tích cực
hoàn thành đạo nghiệp. Rất nhiều thư con cứ lập đi lập lại những điểm then chốt
là vì điều này. Xin hãy đọc thật kỹ đừng xem lấy lệ nữa.
Nên
nhớ, có những việc làm thấy rất hay đối với thế tục, nhưng xét về mặt đạo lại
trở thành vụng về, nếu không muốn nói là sai lầm! Ví dụ, có nhiều người cứ tới
ngày lễ, ngày giỗ là làm đám, làm tiệc tưng bừng, giết heo, gà… để thết đãi.
Sát sanh thì ác nghiệp nặng lắm, chuyện này hoàn toàn không tốt đâu! Có người
thích uống rượu, thích một lon bia để ngủ cho ngon. Thế tục thì thấy ngon thật,
nhưng về mặt xuất thế thì ngủ ngon trong hơi bia gọi là hôn trầm, càng hôn trầm
càng gần với đường súc sanh trong mai hậu.
Uống
rượu say là một trong năm giới cấm của Phật, (sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói
láo, uống rượu). Người cứ uống rượu rất dễ gây tội ác, nếu không gây tội đi nữa
thì tâm trí cũng thường bị hơi men làm u-ám, đời sau dễ chiêu cảm sanh làm súc
vật, không tốt đâu! Giận dữ là nghiệp báo địa ngục, keo kiệt thì nghèo khổ,
khinh người thì cô đơn, ghét người thì bệnh hoạn, ác thì thành quỷ, hiểm thì thành
ma, v.v… tất cả đều không tốt! Hãy khuyên nhau liệng bỏ cho hết đi. Tu hành là
quyết quét cho sạch những thứ riêng tư ích kỷ, để cho tâm mình càng ngày càng mở
rộng ra. Thế thôi chứ có gì đâu.
Một
chuyện nữa cũng nên nhắc thêm, là nhiều người thích tới chùa cầu xin phước lộc,
cầu trúng số, cầu giàu có, cầu may mắn… Cầu đó không có ác tâm gì cả, nhưng càng
cầu càng càng sai. Có nhiều vị Sư biết vậy mà gỡ không được. Các vị Sư thì gặp
hoàn cảnh khó khăn, Phật tử thì không thường nghe pháp, thành ra cứ hễ tới chùa
là lạy Phật cầu danh, cầu lợi. Có người ngày ngày cầu xin cho trúng độc đắc để
cúng dường Phật!… Đó không phải là tu hành, mà là tạo nghiệp. Đừng nên hối lộ
với Phật nữa mà có tội nặng. Chính lòng thamlam, tự-tư ích-kỷ, là cái hạnh
nghiệp của loài ngạ quỷ, sống hàng vạn đời trong đói khát thèm thuồng, chứ có
hay ho gì đâu mà cầu!
Hôm
trước nhận được thư của cháu Tuyết, con anh chị Hai, cháu có nói “Ông Ngoại được
Cậu, Dì tặng quà…”. Cũng vì cái món quà mà con viết thư này đây, nếu anh chị
em có hỏi tới con có lẽ con đã bàn thấm thía hơn!
Vì có
lòng hiếu thảo con cháu hùn nhau mua sợi dây chuyền tặng cho cha má đeo. Nhìn bằng
con mắt thế tục thì hay lắm, con cháu thật sự có tình nghĩa. Nhưng xét cho cùng
tới chỗ lý đạo thì coi chừng bị sơ hở! Vì sao vậy? Thưa cha má, như trên con đã
nhắc qua, muốn vãng sanh thì phải biết buông-xả, đừng dính mắc vào bất cứ chuyện
gì thì mới có hy vọng thoát thân được. Buông-xả thứ gì đây? Gần gũi nhất là “Ngũ-dục,
Lục-trần”. Ngũ-dục là “Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy”, lục trần là “Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc, Pháp” (“Xúc” là tiếp xúc, “Pháp” là những phương pháp, triết lý, cách
sống, suy nghĩ, TiVi, kịch ảnh, cải lương… của thế gian).
Trong ngũ-dục, thì tiền tài là món ảnh hưởng rất
lớn. Một người trước phút lâm chung chỉ cần khởi một niệm tham luyến ngũ dục thì
tức khắc bị đọa lại trong tam đồ liền. Sợi dây chuyền, đôi bông tai, tiền bạc…
tiêu biểu cho “Tài”, dễ gây xáo động tâm ý người ra đi. Trong một thời điểm tối
quan trọng, tối khó khăn, một khi vừa lóe lên một ý niệm, tâm bị dao động thì có
thể thay đổi hẳn cục diện. Nghĩa là thay vì vãng sanh thì lại trở thành đọa lạc.
Ngũ-dục, lục-trần là những cái còng lôi mình lại trong luân hồi đọa lạc. Những
người tới chùa mà đeo nữ trang đầy mình, xiêm y lòe loẹt thì dù bề ngoài họ có
tu hành, nhưng cũng khó mà đắc được gì! Đó không phải là nhìn bề ngoài mà đoán
bên trong, nhưng chính cái tham luyến bên trong của họ đã thô thiển lộ ra bên
ngoài vậy!
Cho
nên, nếu thật sự muốn cầu vãng sanh Tây-phương Cực-lạc trong một báo thân này để
trở về cái chân tánh Phật tâm của mình thì phải cẩn thận chú tâm quán xét cho kỹ.
Pháp niệm Phật là “Vạn nhân tu vạn nhân đắc”, chỉ cần làm đúng là đi được.
Thế nhưng tâm không thanh tịnh, không chịu làm đúng, thường để ngũ dục, lục trần
cám dỗ đánh lạc hướng, nhất là giờ phút lâm chung thì cũng đành chịu thua. Bây
giờ cụ thể con nêu vài ý kiến cha má nghĩ thử. Con nghĩ tuổi già cả không nên đeo
đồ nữ trang trong người làm chi.
Một là, dễ tạo nên tà ý cho những kẻ bất thiện. Những chuyện
cướp giựt, giết người đã xảy ra khắp nơi chỉ vì một vài ngàn bạc nhỏ nhoi đã từng
xảy ra thì mình cũng cần chú ý. Tuổi trẻ họ đua đòi thì đành như vậy đi, còn
cha má đã quá già rồi đeo thứ đó làm chi. Lão-Tử dạy, “Bất kiến sở dục, sử
nhân tâm bất loạn”. (Nghĩa là, đừng khơi cái lòng tham thì con người không
khởi loạn). Cái sợi dây chuyền dù nhỏ nhoi tới đâu, nhưng đeo trên thân thể một
ông cụ ốm yếu lụm cụm là món mồi quá ngon cho lòng tham nổi loạn. Đừng để phải ân
hận thì mình cũng đã thiệt thòi rồi, đúng không thưa cha má?
Cho
nên, đừng thèm đeo, không thèm cất giữ, đó mới là tự tại. Nếu gia đình có những
đứa con bất hiếu ngỗ nghịch, sợ ngày già không ai nuôi, sợ chết không ai chôn,
thì cũng ráng cất kỹ để chết có tiền chôn!?… Cha má đâu có những đứa con đó đâu
mà lo trước?
Con
xin kể ra đây một câu chuyện có thực xảy ra ngay trong làng mình mà con trực nhớ
ra, chuyện xảy ra từ ngày con còn nhỏ, có lẽ cha má còn nhớ. Một bà cụ ở với người
dâu và đứa cháu nội khờ. Người dâu lại chết trước, bà nội lụm cụm nuôi đứa cháu
dại khờ rất tội nghiệp. Bà sống khá thọ trong cảnh côi cút đó. Khi bà chết âm
thầm trong nhà, người hàng xóm có liên quan bà con gì đó thường lui tới “giúp đỡ”,
thấy vậy, cái hành động giúp đỡ đầu tiên là giựt cái nắm tiền trong tay đã cứng
đơ của bà cụ, cái giúp thứ hai là giựt đôi bông tai bằng vàng còn dính trên tai
người chết. Đang làm chuyện này thì có một người hàng xóm khác vừa tới, phát hiện
ra… Người chết thì đã chết rồi, người giựt thì nay cũng đã nằm trong nấm mồ
xanh cỏ. Thật là chua xót! Chuyện là như vậy…
Đời
thật quả vô-thường! Nếu bà cụ đó có tu hành, biết đời là mộng huyễn thì giữ chi
đôi bông tai? Biết đời là bọt bóng, là ảo ảnh thì nắm làm chi cái gói tiền
trong khi chết? Còn người kia nếu có tu hành thì chắc cũng hiểu kiếp sống ngắn
ngủi như giọt sương, có đó mà tan biến nhanh như điện chớp, thì giành giựt làm
chi những thứ giả tạm cho mang nghiệp vào thân? Rõ ràng những thứ này, sinh không
mang tới chết không đem theo, mà tham luyến làm chi vậy?!
Cho
nên, đeo mấy thứ vàng bạc để làm chi? Tuổi già chờ từng ngày một để ra đi thì mấy
thứ này nên cởi xuống giao lại cho con cái nó giữ, muốn bán, muốn cất tùy ý, cứ
miễn sao mình có cơm ăn qua ngày là được. Mua thứ mắc tiền tặng cha má sao bằng
tới chùa thỉnh xâu chuỗi về đeo, nó vừa hay vừa rẻ hơn nhiều. Thứ này gặp người
xấu, năn nỉ họ lấy cũng không thèm lấy. Nhưng xâu chuỗi để giúp niệm Phật, một
hột một câu, hằng ngày niệm liên tục thì một hột chuỗi tàng chứa hàng ngàn, hàng
vạn câu Phật hiệu. Đeo câu Phật hiệu lên người để nó nhắc mình niệm Phật, để được
giải thoát, nó phải hay hơn những thứ tài vật ngàn vạn lần chứ cha má!
Hai
là, nếu cha má đã hiểu được đạo,
đã thấy vãng sanh về Tây-phương là điều tối quan trọng, vô cùng quý báu, một cái
đại phúc báu trên đời, thì cha má hãy dồn hết nỗ lực vào con đường đó. Con đã gởi
về cho An một nửa bộ giảng ký Kinh Vô-Lượng-Thọ của Ngài Tịnh-Không giảng, đây
là kinh đức Phật Thích-ca nói về cảnh giới Tây-phương Cực-lạc, cha má cố gắng
ngày đêm, đêm ngày bám sát bộ giảng ký này mà nghe, nghe đi nghe lại hàng trăm
lần thì tự nhiên thấy hết tất cả. Cha sẽ thấy cái tối thắng không thể nào nghĩ
bàn của thế giới đó, đang mở cửa đón mời những người niệm Phật vãng sanh.
Còn
một hơi thở còn niệm câu Phật hiệu, còn một cảm giác còn nghĩ tưởng đến Phật
A-di-đà. Tất cả đều hướng thẳng về mục đích tối hậu ấy thì mới mong khỏi lạc đường.
Suốt cuộc đời mình đã sơ ý để tâm mình chạy đi khắp nơi, quyến luyến toàn là ngũ-dục
lục-trần, quên bẵng câu Phật hiệu suốt bảy tám chục năm rồi. Giờ đây đã đến tuổi
xế chiều, gần ngày ra đi mà không chú tâm giải thoát, vẫn còn lưu luyến mấy thứ
đó nữa thì làm sao có thể cởi thoát mấy cái sợi dây thòng lọng đó được? Chẳng lẽ
đã thấy rõ đường đi rồi mà vẫn cam tâm đọa lạc nữa sao, thưa cha má?
Chắc
cha má và anh chị em đã coi xong cuộn “Hoa Khai Kiến Phật” rồi chứ gì? Bà
cụ Triệu-Vinh-Phương, chín mươi tuổi mới có cơ may niệm Phật, bà quyết lòng tin
tưởng đi thẳng một mạch, chín mươi bốn tuổi vãng sanh vào năm 1999. Khi thiêu xác,
bà còn biểu diễn một pha ngoạn mục, là chiếc xương biến thành tượng Phật để tặng
lại cho những người hộ niệm cho bà. Chuyện này chẳng lẽ chưa tin sao? Trong cuộc
đời của Cụ có một sợi dây chuyền vàng rất quý giống như gia bảo vậy, có hột kim
cương hình Phật, đế Phật ngồi được làm bằng thứ cát lấy ở sông Hằng-Hà bên Ấn-Độ
là nơi tiền thời đức Phật có ngự tới. Sợi dây chuyền quý giá được bà trân quý,
là vật bất ly thân trong suốt cuộc đời. Thế nhưng khi đã hiểu đạo, bà gỡ liệng
ra và dặn con cháu không được để bà thấy lại lần nữa.
Đó là
một quyết định rất là sáng suốt, rất trí dũng. Bà biết tâm tham luyến của bà chưa
rửa sạch, suốt chín mươi năm trường chạy theo dục lạc, tiền tài thế gian thì
nay vừa mới hiểu đạo, nhưng chưa có công phu làm sao dám khinh thường những sự
cám dỗ của vật chất. Cho nên nếu cha má thật sự quan tâm đến huệ-mạng của mình
thì phải dứt khoát đoạn tất cả những nguồn tham luyến này, tất cả những thứ gì
gây ảnh tượng đam mê phải tìm cách bỏ, bỏ một lần không được thì phải tập bỏ dần
hằng ngày, hằng giờ, hằng phút. Nếu lơ là thì dù có thương cha má tới đâu, dù có
chuẩn bị cho cha má tới đâu, dù có viết hàng trăm lá thư nữa cũng trở thành vô ích,
con cũng chỉ đành rơi nước mắt mà nhìn cha má trôi lăn theo dòng nghiệp báo đọa
lạc mà thôi!
Nếu
hỏi rằng, thích đeo một sợi
dây chuyền, một chiếc nhẫn, một cái lắc vàng có tội lỗi gì đâu? Con xin thưa,
đúng đó, không phải là lỗi gì cả nhưng chính nó sẽ là cái bẫy cám dỗ cái tâm mình.
Cha má nên nhớ một điều là tất cả mọi cảnh giới ở tương lai đều hình thành
ngay trong tâm tưởng của mình trong hiện tại này đây và nhất là tại ngay thời điểm
lâm chung. Tưởng nhớ Phật về tới cảnh Phật. Đang niệm Phật, sợi dây chuyền
cạ ngưa ngứa tại cổ là đủ cho mình nghĩ tưởng tới nó rồi, tức là tâm bị lạc liền.
Niệm Phật, Phật quang bắt đầu hiện ra tiếp dẫn, chỉ cần một tiếng kêu khóc của
con cháu thì Phật quang biến mất, cảnh giới xoay hướng, thần-thức bị lôi vào
khoảng cách ấm mê mờ để tiếp tục trôi theo dòng nghiệp báo luân hồi. Định lực
không mạnh, đang niệm Phật bỗng chợt thấy mẹ mình vẫy tay mình tưởng thiệt, vừa
bước theo là xong ngay, nó chộp liền, vì đó chính là Ma-quái đã gạt mình,
v.v…
Cho
nên con thường nhắc đi nhắc lại rất nhiều thư, và dặn anh chị em hãy thay phiên
nhau đọc thư để cha má hiểu và con cũng muốn mọi người trong nhà cùng hiểu để cùng
hỗ trợ, hộ-niệm cho nhau. Nhưng đáng tiếc là ai cũng chỉ coi lướt qua,
coi lấy lệ rồi mỉm cười!… Trong cuộc đời này chưa chắc có nhiều người hiểu được
cái đạo lý giải thoát này đâu. Tìm mờ mắt chưa chắc đã có người chỉ rõ được đường
đi nước bước rõ ràng như con đâu cha má ạ. Thư con viết khá dài là để nói rõ, bất
cứ ai cũng có thể coi được, hiểu được. Thư khuyên tu hành có gì đâu mà phải ngại
riêng tư.
Hỏi
rằng tại sao Phật quang lại dễ tan biến vậy? Sao mà yếu vậy? Không phải vậy đâu. Ánh sáng của Phật, như trong kinh
nói, “Phật hằng phóng quang minh chiếu nhất thiết…” nghĩa là Phật
quang luôn luôn phổ chiếu khắp mười phương thế giới, tất cả mọi nơi (chứ không
phải chỉ riêng quả địa cầu này) để tiếp dẫn chúng sanh, không có giây phút nào
ngưng hết. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhớ là ánh sáng của Ma-Vương cũng thường
chiếu để tranh nhau tiếp dẫn. Chỉ có khác là ánh sáng của ma thì làm cho tâm mình
nóng-nảy, đố-kỵ, giận-dữ, tật-đố, ganh-ghét, tham-lam… dẫn tới sự đọa lạc. Dễ
nhận hơn là làm cho ta chói mắt. Còn quang minh của Phật thì làm cho dịu mắt, tâm
hồn an-ổn, thanh-tịnh, từ-bi… để giải thoát. Quang minh của Phật tiếp dẫn bình
đẳng và tùy duyên, ai tiếp nhận thì được hưởng, ai từ chối thì quang minh biến
mất.
Cái
tâm của mình thật sự có hai mặt vừa là tấm chắn vừa là hấp thụ. Tưởng tượng như
ta đang đứng giữa hai luồng ánh sáng chiếu tới, hễ ta ngăn ánh sáng này thì ánh
sáng kia tràn ngập, ta chận ánh sáng kia thì ánh sáng này tràn ngập. Khi tâm ta
quyết theo Phật, chỉ Nghĩ – Tưởng – Niệm – Nhớ tới Phật thì tự nhiên tấm chắn sẽ
ngăn ánh sáng ma lại và Phật quang tự do chiếu xúc tiếp dẫn ta vãng sanh. Ngược
lại, thì tự ta làm ta bị đọa lạc. Đây là ví dụ.
Lời
tán thán Phật A-di-đà có câu, “Quang Trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ-tát chúng
diệc vô biên”, nghĩa là Phật tiếp dẫn chúng sanh bằng cách phóng ánh sáng đi
khắp nơi, trong ánh sáng hóa ra Phật, Phật lại phóng quang, quang minh lại hóa
ra Phật… trùng trùng điệp điệp để cứu độ tất cả chúng sanh. Trong quang minh
của Phật còn hóa ra Bồ-tát để bảo vệ, hộ pháp, thuyết pháp cho người niệm Phật.
Cho nên, niệm Phật nhứt tâm thì tự nhiên được quý Bồ-tát bảo vệ, không nhứt tâm
thì quang minh biến mất, Bồ-tát cũng bỏ đi luôn, ma quái tự do hốt gọn thần-thức
đi về chỗ đọa lạc .
Trở
lại chuyện đeo vàng bạc trên người, thật là điều không tốt! Cất giữ vàng bạc cũng không hay ho gì đâu cha
má ạ! Cha má nghĩ thử, pháp môn niệm Phật là pháp tối thắng mà Phật A-di-đà cúng
dường cho tất cả chúng sanh, không phân biệt có lỗi hay không, có tội hay không
đều được bình đẳng vãng sanh về Tây-phương để thành Phật trong một đời này. Chỉ
cần là người đó phải biết thành tâm ăn năn, chí thành sám-hối, một lòng tin tưởng
Phật, nhứt tâm nguyện sanh về đó, nhứt hướng chuyên niệm A-di-đà Phật thì được
Phật tiếp dẫn. Rất nhiều người đã vãng sanh rồi, nhiều lắm chứ không phải là không
có.
Cho
nên niệm Phật vi diệu lắm, không thể tưởng tượng được đâu, nhưng nó đòi hỏi phải
nhứt tâm niệm Phật, nhứt tâm tưởng Phật, nhứt tâm hướng về Tây-phương thì tự
nhiên thành. Còn như lơ đễnh, còn xao lãng, còn mơ chuyện này, chuyện nọ thì đành
mất phần vãng sanh. Lúc đó niệm Phật sẽ trở thành thứ phước báu bình thường để đời
sau hưởng phước. Cái nguy hiểm là càng nhiều phước thì càng gây nhiều họa, để
cuối cùng vẫn phải chịu đọa lạc và bị nặng hơn.
Cho
nên chuyện cất giữ tiền tài, nhìn qua thì không dính dấp gì đến chuyện niệm Phật,
nhưng xét cho kỹ thì coi chừng nó là cái còng giữ mình lại đó. Cha má nghĩ thử,
người thực sự muốn vãng sanh thì tâm tâm phải niệm Phật. Đàng này đi đâu cũng
nghĩ tới tiền, ra ngoài mà tâm cứ bồn chồn lo lắng liệu có ai vào nhà ăn trộm
không? Mình để chỗ đó có an toàn không? v.v… Thưa cha má, liệu mình còn an tâm
niệm Phật nữa không? Đây chỉ là ví dụ, chứ còn biết bao nhiêu thứ khác chi phối
tâm trí, nào là ai cho heo ăn? Ai tưới rau? Ai giữ cháu? Ai đi chợ bán giùm cho
con?… Khi cái tâm đã trói quyện vào những thứ đó rồi làm sao niệm Phật cho trôi
đây?
Xin
cha má nhớ cho, niệm Phật chính là TÂM NIỆM CHỨ KHÔNG PHẢI MIỆNG NIỆM. Niệm Phật
là trong tâm lúc nào cũng tưởng-nghĩ-nhớ tới Phật, tất cả đều nhứt tâm hướng về
Phật mới gọi là niệm Phật. Còn miệng là dùng để nói, kêu, gọi… Phật, chuyên môn
hơn một chút gọi là miệng XƯNG PHẬT. Cho nên mới có danh từ là Xưng Niệm.
Xưng thuộc về miệng, niệm thuộc về tâm, lâu ngày mình cứ gọi chung là niệm Phật
cho đơn giản, chứ thực ra miệng xưng là để nhắc cho cái tâm niệm Phật. Vì cái tâm
cứ chạy rông cho nên cái miệng phải xưng A-di-đà Phật cho lớn để kéo cái tâm về,
để chuyển hóa hoàn cảnh, chuyển phiền não thành ra A-di-đà Phật để đưa về tâm.
Hễ cái tâm càng xao lãng thì niệm càng lớn để đánh thức, đó là cái phương tiện để
đánh thức cái tâm. Khi đã thức tỉnh rồi thì tất cả những thứ gì làm tâm mình bị
chi phối phải liệng đi, quên đi, bỏ đi để cho tâm mình thanh tịnh niệm Phật. Chứ
còn bây giờ đi đâu cũng lo với lắng, giờ giờ phút phút đều nghĩ tới hết chuyện
này đến chuyện khác, thì dù cho miệng có kêu “A-di-đà Phật” đến khan cổ bể hầu
cũng chỉ là vô ích mà thôi!
Cho
nên, tốt nhứt là không giữ thứ gì cả thì an nhiên tự tại. Tiền bạc đừng nên giữ
làm gì, có được đồng nào có thể giao hết cho chị Ba, em Thứ hoặc vợ chồng Mười
Phương giữ đi. Hãy để tự các con giải quyết sao cũng được, miễn sao cha má có
hai bữa cơm hàng ngày là được rồi, mấy người con thay phiên nhau nấu cơm, mình ăn
xong niệm Phật, không thấy thoải mái hơn sao?
Ráng
lên cha má, chỉ quyết tâm niệm Phật một thời gian trong cuối đời ngắn ngủi này
thôi, mà cha má vãng sanh được là vượt hơn người ta tu vạn kiếp chứ không phải
nhỏ đâu. Anh chị em, con cháu trong nhà nên thương cha má, hãy cố gắng phụng dưỡng
ông bà. Chúng ta cùng nhau cố gắng lo tròn chữ hiếu, đừng vô tình cứ tỉnh bơ mà
tội nghiệp cho người sanh thành và cho chính mình nữa vậy.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Brisbane ngày 19/5/2002).
Mình đã hồ đồ,mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, mình phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết–Con đường ấy chính là niệm“A‐di‐đàPhật”.(Hòa‐Thượng Quảng‐Khâm).
20 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Chuyến
về thăm lần này con đã thấy khá nhiều sự việc mà trước nay con không thấy, những
hiện thực chung quanh con rõ ràng hơn trước đây. Trong những ngày ngắn ngủi đó
con đã cố gắng niệm Phật trợ lực cho cha. Cha tỉnh lại được từ cơn bệnh nặng.
Thật là vi diệu! Trợ niệm cho cha đau nặng nhưng con không mở một lời cầu xin
Phật, Bồ-tát gia trì cho cha khỏe lại, trái lại con cứ một lòng cầu nguyện vãng
sanh cho cha. Kết quả thì, chỉ vỏn vẹn hai ngày cha bình phục trở lại. Cái lý này
sâu lắm, vi diệu lắm. Thành tâm niệm Phật cầu về Tây-phương không phải là phải
chết, mà niệm Phật cầu vãng sanh làm nghiệp chướng dễ tiêu tan, nếu báo thân đã
mãn thì cha được vãng sanh Cực Lạc, nếu chưa mãn thì tự nhiên bình phục rất
nhanh. Cái lý này vi diệu không thể nói một vài lời được đâu.
Đây cũng
là dịp may, rõ ràng trên đời “đắc thất nan truy họa phước”. Cha không đau như vậy
đâu có dịp thấy sự hiển linh của câu Phật hiệu. Bây giờ cha má đã quyết lòng niệm
Phật ngày đêm, má cũng bắt đầu buông xả, làm con mừng không thể tả được. Nhưng
nhìn kỹ thì nghiệp chướng vẫn còn, oan gia vẫn có, trái chủ chưa xa đâu. Những
trở ngại này vẫn còn hiện diện tại chỗ… Những ngày gần cha má và gia đình, sáng,
chiều con cố hết sức để nói, khai thị trong những buổi niệm Phật để tìm cách giải
tỏa, nhưng chỉ được một phần, chưa được viên mãn.
Con muốn
ở lại lâu hơn nữa để ngày ngày nói chuyện với cha má và mọi người về pháp Phật.
Nhìn cha má, nhìn mọi người mà dễ tùy cơ ứng nói, tùy căn cơ khuyên nhủ thì mọi
người dễ phát tín tâm, sớm thực hành pháp môn niệm Phật hơn. Nhưng vạn sự phải
tùy theo duyên, không duyên khó hành sự. Bây giờ con đã nhập thất niệm Phật lại
rồi, không còn ngày ngày cùng nhau bàn Phật pháp nữa, xin cha má hãy lấy những
lời thư này để thay cho những lần thấy mặt con vậy. Nếu thấy rõ ràng pháp niệm
Phật tối thắng vi diệu, thì tất cả hãy cố gắng tinh tấn niệm Phật. Ở An-Thái,
con nói chuyện chỉ có một ngày thôi mà đã có rất nhiều người tự nguyện thành lập
nhóm để tu hành, họ dự định mỗi tuần họp nhau bốn ngày để niệm Phật.
Khi vào
Bình-Dương, cô Sáu và các em có hoạch định chương trình và thời giờ niệm Phật rất
nghiêm chỉnh, 3:30 sáng đã thức dậy niệm Phật rồi. Theo những lời khuyên của
con, cô và gia đình đều cố gắng thực hiện đầy đủ. Đó là do thiện căn, phúc đức,
nhân duyên đã thành thục vậy. Xin cha má và anh chị em hãy lấy đó làm gương mà
nỗ lực thêm lên. Vì pháp Phật quá cao diệu, quá sâu rộng cho nên nếu không tiếp
tục nghe pháp không tài nào hiểu thấu. Chết sống quá gần, pháp thân huệ mạng đã
quá nguy hiểm xin cha má hãy quyết tâm tự cứu lấy mình. Đừng nên giải đãi nữa,
hãy vạch hẳn thời gian ngồi trước bàn Phật để niệm Phật, niệm xong một thời thì
em Thứ đọc thư để cùng nhau nghe. Mỗi lá thư con đều nói thẳng đến những sự cố
cụ thể quan trọng chung quanh liên quan đến việc tu tập. Khi đọc phải đọc rõ ràng,
đọc lớn, đọc không ngập ngừng, không được dừng lại để suy nghĩ.
Đây là
một phương tiện tu hành để có thể thâm nhập vào nghĩa đạo. Nếu không chịu làm
như vậy gia đình mình khó có thể thâm hiểu đạo lý. Băng giảng pháp thì không có
để nghe, thư thì đọc lấy lệ, khi về con đã thấy rõ ràng rằng cả nhà tu hành hầu
hết bị lệch lạc, mặc dầu bao nhiêu thư rồi con viết khá rõ, hướng dẫn từng chút
mà vẫn bị sơ ý. Pháp càng vi diệu, càng học hỏi cho kỹ! Cho nên xin mọi người đừng
quá coi thường những lời thư này, mà nên nghe đi nghe lại vài ba lần mới được.
Nếu chịu lắng nghe nghiêm chỉnh thì thêm một lần nghe hiểu thêm một điều quan
trọng mới. Cũng là một thư mà nó cứ mới hoài trong đó.
(Riêng
em Thứ, anh Năm thương em, nhiều lần khen em vì em có tâm tu hành nhiều nhứt,
nhưng khi về thì anh đã phát hiện em không chịu nghe theo lời thư anh dặn. Ít
ra, cũng hơn ba lần anh nhắc đến chuyện này mà em vẫn tỉnh bơ làm theo ý nghĩ của
mình. Chuyện gì vậy? Thấy Phật! Bắt đầu từ hôm nay em phải đọc thư anh
nhiều lần cho cha má, và riêng em phải đọc nhiều hơn nữa mới được. Pháp Phật thì
quá cao, thư viết thì không thể quá dài, đọc thư thì cứ đọc lướt qua… Như vậy,
làm sao em hiểu thấu, không hiểu thì rất dễ bị lạc, có nhiều khi bị nguy hiểm mà
mình không hay.
Niệm Phật
phải lấy tâm thanh-tịnh để niệm, không được tham đắc quả mau chóngï. Pháp niệm
Phật tối ư vi diệu mà dễ thực hành, nhưng không thể bừa bãi nghĩ sao làm vậy mà
được đâu. Niệm Phật là để cho nghiệp chướng tiêu trừ, tâm hồn thanh tịnh, có
thanh tịnh thì mới được vãng sanh. Niệm Phật mà nghĩ này tham nọ lung tung làm
sao thành tựu!
Hôm nay, anh nói về chữ THANH-TỊNH, muốn
thanh tịnh thì phải diệt Tham, Sân, Si. Anh Năm chưa một lần khuyên niệm Phật mà
mong thấy Phật, nhưng em vì quá cảm xúc cho nên bị rơi vào chuyện này. Khi tâm được
thanh-tịnh thì tự nhiên có cảm ứng đạo giao với Phật. Còn tâm chưa thanh-tịnh mà
thường thấy Phật thì có vấn đề, nói rõ hơn là Phật giả. Điều này không tốt, phải
tránh. Ở An-Thái vừa rồi anh phát hiện ra một chị khoe rằng, đọc kinh Phổ-Môn
hay kinh Địa-Tạng thấy được “Phật Bà Quán-Thế-Âm” thường xuyên. Trong Bình-Dương,
một người bạn của chú Bảy hằng đêm đều thấy Phật, “Phật” còn lên cơ để xưng tên
nữa là khác. Tất cả đều là giả. Những người này không mau mau quay đầu giữ tâm
thanh tịnh và niệm Phật để được Phật lực gia trì, thì khó tránh khỏi trở ngại về
sau. Người quyết tâm niệm Phật thì công phu nhiều, tiến nhanh, thấy vậy nên oan
gia trái chủ, ma quái tới tìm cách phá đám, nó cố tìm cách làm cho mình tham
luyến vào sự hão huyền mà mất chánh niệm. Chỉ cần mình nhận chân ra nó, không
tham luyến nữa thì tự nhiên nó tan. Nhất định phải nghe lời anh Năm, anh có đủ
sáng suốt, nhìn thấu vấn đề. Tuyệt đối em không được tự mãn, hoặc sơ ý nữa. Bắt
đầu hôm nay, nếu có hiện tượng giống như vậy hiện ra nữa nhất thiết không được
mừng, không sợ. Khi thấy, thì tâm phải vững vàng giữ chắc câu Phật hiệu là được.
Tu hành đừng nên tham cầu thấy này thấy nọ thì tâm mới thanh tịnh. Nếu không giữ
tâm bình thản thì sự vọng tâm sẽ dễ chiêu cảm đến những cảnh giới giả, không tốt
đâu!
Trong
nhiều đời, nhiều kiếp mình sát hại sanh mệnh quá nhiều, oan gia, trái chủ vừa vô
hình và hữu hình nhiều lắm. Họ muốn trả thù, mình muốn thoát mà vô ý quên gởi công
đức thì bị phá là vậy đó. Hơn nữa bị phá cũng tại vì mình tham thấy, cầu thấy mới
bị chúng lợi dụng gạt mình. Bây giờ bỏ cái tham đó đi là xong. Nghe chưa? Bồ-tát
Đại-Thế-Chí dạy, “Nghĩ Phật, niệm Phật thì hiện tại hoặc tương lai chắc chắn
thấy Phật”, thấy Phật ở đây không phải là ngày ngày thấy Phật hiện ra vỗ đầu,
mà chính là vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, lúc đó thì tự nhiên thấy Phật. Không
những thấy Phật A-di-đà mà hằng ngày mình đi thăm hàng vạn đức Phật để cúng dường.
Đó gọi là thấy Phật.
Niệm Phật
quyết tâm cầu về Tây-phương thì một đời này thôi sẽ được vãng sanh, đó gọi là
hiện tại. Nếu niệm Phật mà tín tâm không vững, nguyện không tha thiết, còn nhiều
tạp niệm, vọng tưởng thì đời này không thể vãng sanh, nhưng đã niệm Phật thì tương
lai trong một vài ngàn kiếp nào đó khi tâm cơ thành Phật thành thục ta mới có
thể vãng sanh, lúc đó ta mới thấy Phật, đó gọi là tương lai.
Như vậy,
người nào muốn vãng sanh trong một đời này thôi thì bắt buộc phải chí tâm thành
kính niệm Phật. Khi thật sự chân thành thì tâm sẽ thanh tịnh, tâm không còn lao
chao vọng động nữa, thì người đó đủ tiêu chuẩn chắc chắn vãng sanh, lúc đó mới
thấy Hóa-Thân của Phật hiện ra trong quang minh để thọ ký, cho biết ngày giờ vãng
sanh. Còn những hiện tượng mờ mờ ám ám hiện ra thường xuyên, lại còn giả hình này
hình nọ, giả luôn cả Phật để dụ, đó là giả, nhứt định không được tham tới. Không
những không tham mà còn vững tâm niệm Phật và cho họ biết rằng ta đã biết chân
tướng, khuyên họ hãy niệm Phật để giải thoát đi là tốt nhứt, đừng tạo tội lỗi nữa.
(Có dịp anh Năm trở lại chuyện này).
Con xin trở lại với cha má. Thưa cha má, mỗi một
lá thư con viết về đều có một mục đích quan trọng riêng, đó chính là sự điều chỉnh
cấp kỳ những cách tu hành lạc đường. Vì không hiểu nên cứ tỉnh bơ, chứ khi đã
hiểu thì thấy rất rõ. Ví dụ, như một loạt thư trước con nhắm đến chữ “SÂN-GIẬN”,
vì vừa phát hiện điểm này, nó là điều tối nguy hại, tối kỵ, đại kỵ! Thành ra tất
cả những cái khác dù đang dang dở con cũng bỏ hết để xoáy vào điểm này. Tham, sân,
si, là ba chất độc hại chết chúng ta, trong đó sân giận được coi như nguy hại
nhất. Chính vì thế mà cha má nên cố gắng gìn giữ, chứ lơ là thì cứ phạm hoài những
lỗi lầm quá lớn, dễ dẫn tới hiểm họa, uổng công tu hành.
Sân giận
giải quyết chưa xong thì lần về này con lại phát hiện thêm món độc dược khác
nguy hại không thua kém với sân giận. Đó là không buông xả nổi Ngũ-Dục, Lục-Trần,
phạm vi này liên quan đến sự tham đắm. Chữ “Tham” ai cũng có cả, rất khó bỏ, chính
vì thế mà con người không thể giải thoát!
Đầu tiên,
xin cha má luôn nhớ vì chuyện sanh tử sự đại, mà chăm lo niệm Phật. Cha má muốn
thoát nạn thì phải ngày ngày, giờ giờ, phút phút niệm Phật vì nếu không như thế
không trở tay kịp đâu. Tuổi già cái chết nó đến trong tích tắc. Tám mươi năm trước
đây, cha má vừa mới được sinh ra chỉ là một đứa bé khóc oe oe, sau tám mươi năm
bây giờ đã chuẩn bị chết. Nghĩ lại coi, đời có phải thực sự chỉ là giấc đại mộng
không? Những ngày, tháng phiêu phỏng còn lại này nhanh chóng như giọt sương trên
đầu ngọn cỏ, thế thì phải liễu ngộ chân tướng cuộc đời chứ đừng đợi. Đã từng trải
qua những cơ hội “chết hụt” rồi mà còn mơ màng đến danh vọng hão huyền, nhơn
nghĩa thị phi nữa sao?
Thưa
cha, thưa má, bị sanh thì phải bị tử, sống chết là lẽ tự nhiên cần chi mà sợ.
Không biết được Pháp Phật thì thấy chết là chết, khi nghe được Phật pháp rồi mới
hiểu rõ ràng đó không phải là “Ta” chết. Cái áo rách mình liệng, chiếc xe hư mình
liệng, thân thể này già yếu hư hại mình cũng phải liệng. Thế thôi. Chết là cái
thân nó chết chứ mình đâu có chết. Mình mất cái thân này mình sẽ có cái thân khác
liền. Mỗi lần chết là mỗi lần đổi thân, đổi cảnh. Ví dụ, như con rời Việt Nam
thì con sống bên nước Úc liền.
Cho nên,
chết không sợ. Tuy nhiên, phải sợ là chết rồi mình sẽ ở đâu? Mang thân gì? Sẽ
ra sao? Sướng hay khổ? Vui hay buồn? Cười hay khóc? No hay đói?… Vì thế, hãy
suy nghĩ thật kỹ chứ đừng bừa bãi! Phải giải quyết rõ ràng. Hãy mau mau chọn chỗ
sướng, vui, cười, no… đừng háo kỳ tìm vào chỗ khổ, buồn, khóc, đói… cha má ạ.
Lỡ lạc vào đó rồi muốn sống sống cũng không được, muốn chết chết cũng không
xong, muốn khóc khóc không ra tiếng, muốn cười cười chảy máu hồng, chứ không phải
tầm thường đâu! Cô Bốn là người rất sợ chết, em Vân nói thầm với con: “Anh đừng
bao giờ nhắc đến tiếng “Chết” với má em”, thế nhưng chỉ cần nói chuyện hai hôm
cô Bốn đã tỉnh ngộ, cô đã coi cái chết trở thành thường. Chưa hiểu mới sợ, đã
hiểu rồi thì có gì đâu mà sợ.
Thế nhưng,
Sanh-Tử Đại sự! Một lần chết thì công phu tu hành bị xóa sạch. Cái chết đến quá
bất ngờ nên phải mau mau niệm Phật, không chờ, không hẹn. Má thường nói để lúc
nào yên tĩnh Má mới niệm. Không tốt, mà còn sai với phép niệm Phật nữa. Bước ra
khỏi cửa coi chừng không còn trở vô, buông chén cơm xuống có thể không cầm lên được,
cô Tám Tâm đi thăm ruộng mà không chờ được đến ngày cây lúa đơm bông… thì làm
sao mà chờ đến lúc yên tĩnh được. Sự chết đến nó có chờ đâu mà mình chờ? Má không
nghe câu chuyện bà bác thường tới niệm Phật kể lại sao, ở An-Thái có người con
cứ nói: “Tôi chờ cho mẹ chết mới tu hành”, không ngờ anh ta chết trước.
Nghĩ đến
cái chết thì phải sợ, sợ địa-ngục, sợ tam ác đồ. Vì vậy niệm Phật phải niệm liên
tục, niệm ngay trong những lúc rối loạn nhứt, ồn ào nhứt, lộn xộn nhứt… vì có
thể mình ra đi ngay trong những lúc đó. Hỏi thử Ông Hai Thuận, ông Mười Tịnh,
ra đi như thế nào? Bác Năm S. cô Tám T. đã bị gì? Họa vô đơn chí, nó có báo trước
cho mình không? Cho nên không thể đợi đến lúc yên tĩnh mới niệm Phật, mà lúc ồn
ào, náo nhiệt phải niệm Phật để bao phủ nó lại, đè nó xuống. Có như vậy tâm mình
mới yên tĩnh được, chứ người ta ồn ào mình cũng ồn ào, người ta lăng xăng mình
nhào vô lăng xăng… thì bao giờ tâm mới yên tĩnh.
Niệm Phật
là pháp diệt phiền não. Điều này khó lắm. Diệt không được thì chuyển, nghĩa là
cứ một ý nghĩ nào nổi lên là niệm Phật liền, tốt cũng A-Di-Dà Phật, xấu cũng
A-di-đà Phật thì tự nhiên tâm an lành, đó gọi là chuyển. Chuyển không được thì
phủ lấp phiền não lại. Nghĩa là phiền não, ồn ào, lộn xộn nhiều quá thì cứ niệm
Phật cho nhiều lên để câu Phật hiệu phủ lấp nó lại. Phật dạy chỉ cần phủ lấp
phiền não là có thể vãng sanh rồi. Dễ dàng, dứt khoát!
Nhất định
phải niệm Phật để cứu đời mình cha má ơi! Những kẻ tự cao ngã mạn, chắc chắn phải
bị đọa lạc. Trong hiện đời mạt pháp này, mang thân đàn ông gây tội nghiệp nhứt,
vì họ thích tham lam, sân giận, ngu si, ngã mạn, tà kiến, ác thú… họ không chịu
tu hành, thành ra họ bị đọa nhiều nhất. Cái cuồng ngạo đến tột cùng rồi, cho nên
Phật, Bồ-tát thì không lạy lại đi lạy danh vọng ô trọc trần tục mà tự hại đời!
Trí-Huệ, Giải-Thoát không lạy lại đi lạy nghiệp chướng đọa lạc để cam chịu khổ
nạn! Tội nghiệp thật! Chết có nghĩa lý gì mà sợ, nhưng có sợ là sợ nghiệp báo.
Kinh Phật thường nói “Bồ-tát sợ Nhân, chúng-sanh sợ Quả” là vậy. Bồ-tát
thấy nhân duyên quả báo sợ quá không dám tạo nhân xấu. Chúng sanh không biết nhân-quả
cứ lăn xả vào làm việc ác xấu, để chờ quả ác. Nếu hiểu rõ nhân quả báo ứng, không
ai dại khờ đâm đầu tranh giành những thứ tài sắc danh vọng hão huyền để sau cùng
thọ nạn. Con nghe thím Bảy H… ra đi, trước những ngày tháng ra đi thím quằn
quại đau thương, lăn lộn than khóc. Khi cô Sáu đến thăm, thím ôm chân cô van
xin, “…Em chết mất chị ơi, làm ơn cứu em với…”. Nghe nói vậy mà con đau
nhói trong tim! Làm sao cứu đây?
Phật dạy
“Độc sanh độc tử, độc khứ độc lai, khổ lạc tự đương, vô khả đại giả”, rõ
ràng sinh ra chết đi chỉ có một mình, có đi, có lại cũng một thân trơ trọi, khổ
sướng tự chịu lấy, có ai thay thế cho mình được đâu. Địa vị, danh vọng, thị
phi, nhơn nghĩa, có cứu mình được không? Người liễu ngộ chân tướng của vũ trụ
nhân sinh, dại gì mê mờ chạy theo cái tham dục trần tục để tạo thêm nghiệp chướng,
đến khi quả báo hiện tiền thì kêu than sao được! Phật dạy “Tùng thiện nhập
thiện, tùng ác nhập ác, tùng lạc nhập lạc, tùng minh nhập minh… thùy năng tri
giả”? “Thiện ác báo ứng, phước họa tương thừa, mạc năng tri giả?…”, sao
không hiểu thấu đạo lý này mà mau mau niệm Phật để cứu lấy huệ mạng của mình đây
chứ?
Niệm Phật,
cốt để thoát khỏi sinh-tử luân-hồi, để siêu sanh Tịnh-độ. Niệm Phật thành Phật.
Muốn vãng sanh bất thối thành Phật thì tâm phải thanh-tịnh. Muốn tâm thanh tịnh
thì những thứ ngũ dục, lục trần phải buông xuống. Người không chịu buông những
thứ trần lao này không thể nào thoát nạn được.
Buông là tâm mình buông, bỏ là tâm mình
bỏ. Buông bỏ không có nghĩa là phải đem tiền bạc liệng ra cửa sổ, mà chính là
trong tâm phải biết đủ, danh vọng phải biết ngừng, thị phi phải biết tránh, phải
nhìn thấy rõ rằng những thứ đó là hoàn toàn giả tạm. Nhứt thiết đừng mong cầu
những thứ đó nữa thì tự nhiên tâm được thanh-tịnh. Ngũ-dục là tài, sắc, danh,
thực, thùy. Lục-trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ngũ-dục là năm cái gốc
của địa ngục; lục-trần là sáu cái rễ của lục-đạo luân-hồi. Người muốn thoát nạn
mà cứ bám chặt cái gốc rễ của tam đồ lục đạo thì làm sao có thể siêu sanh!
Trước tiên, con xin nói đến ngũ dục trước.
Tài, sắc, danh, thực, thùy là cái rễ của địa-ngục. Người nào cứ tham đắm những
thứ đó, sau khi chết khó có thể tái sanh làm người.
Tài là
tiền tài, thuộc về phước báu hữu lậu. Không có tiền thì khó sống, nhưng có tiền
vừa đủ thì phải lo biết tu để tiếp tục hưởng cái phước đó, đừng để lòng tham
lam thành vô đáy, rốt cuộc cũng hoàn trắng tay mà thôi. Phật dạy, tiền tài có được
là quả báo của sự bố-thí-tài trong đời trước, không phải do cái thông minh lanh
lợi, bon chen, lương lận mà có đâu. Ai không tin thì chờ mà coi. Ví dụ, trên đời
rất nhiều người không làm mà tự nhiên trở thành tỉ phú. Ngược lại, nhiều người
thông minh học giỏi mà vẫn nghèo, làm đâu thất bại đó. Tại sao? Vì kiếp trước
keo kiết, bỏn xẻn, không chịu bố thí tài, đời này tiếp tục tham lận để làm giàu…
thì hậu quả chắc chắn sẽ đói khát cùng túng. Phật dạy bố thí tài thì giàu có, bố
thí pháp thì thông minh trí tuệ, bố thí vô úy thì kiên khang, mạnh khỏe. Chân lý
này không thể thay đổi được. Tham lam là nhân địa của ngạ-quỷ. Người tham tiền
hằng ngày chỉ lo kiếm tiền sẽ tái sanh vào hàng ngạ quỷ, đói khát triền miên. Có
hay ho gì đâu! Cho nên phải biết đủ để lo tu. Cha má già rồi phải mau mau buông
xuống những thứ bất tịnh nàyï. Người già tính từng ngày từng giờ để ra đi mà còn
cố tình giữ tiền bạc làm chi nữa, chẳng lẽ để coi chơi cho thỏa mắt vài tháng,
vài năm, rồi chịu chui vào làm loài quỷ đói hàng vạn kiếp mới đành sao! Tuổi già
hãy để con cái lo liệu, cứ một mực niệm Phật có hơn không, thưa cha má?
Lần về
này, đầu tiên con thương em An nhứt. Người thứ hai con thương là anh Bốn. Con
thương An vì em nó có hiếu, có nghĩa và lại biết tu hành, có tu thì tự nhiên có
hậu báo tốt. Con thương anh Bốn vì anh có hiếu nhưng chưa biết tu, người chưa
biết tu thường vô tình tạo nhiều nghiệp chướng, quả báo không được tốt! Tình ruột
thịt, con thấy anh lạc đường muốn cứu nhưng cứu không được. Tội nghiệp biết chừng
nào!
Em An đề
nghị không nên để cha má giữ tiền bạc nữa, đừng nên cho cha má nhiều mà chỉ nên
cung cấp tất cả nhu cầu hằng ngày. Đây là đề nghị có trí tuệ! Cơm, áo, nhu cầu
sống hằng ngày các con đều lo chu toàn cho cha má. Mỗi tháng nhu cầu cha má cần
thiết bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu. Mỗi tháng tiêu còn dư, nhứt định cha má phải đem
bố thí hết. Đây là ý nghĩ của một người hiểu đạo, đại hiếu, đại nghĩa. Có lẽ
nhiều đời, nhiều kiếp về trước cha má có tu, nay mới có những đứa con hiếu thảo
và đạo nghĩa như vậy.
An nó
không những lo cho cha má từ cuộc sống hiện tiền mà còn lo đến cả huệ mạng của
cha má về sau nữa. Đâu dễ gì có người hiểu đạo như vậy! Em nó có nhiều sự phát
nguyện âm thầm để hồi hướng công đức cho cha má không cần một ai hay, không xin
anh chị em một đồng, không màng đến tiếng khen. Nó đâu cần chờ tới phải làm buổi
lễ linh đình, có nhiều người chứng kiến mới khệ nệ đưa ra. “Cha mẹ nuôi con sánh
bằng trời biển, con nuôi cha mẹ tính tháng, tính ngày”. Bố thí cho cha mẹ cũng
phải chờ có người chứng kiến mới dám cho sao? Hiếu thảo hay không tự lòng mình
biết chứ đâu phải chờ cho có người làm chứng mới là hiếu sao?
Tại sao
An không muốn cha má giữ tiền? Vì hễ giữ tiền thì tâm sẽ dính chặt vào tiền tài,
không thể nào thoát khỏi đại họa lúc lâm chung. Con nói khá nhiều chuyện này,
chắc cha má còn nhớ. Người niệm Phật cầu sanh về với Phật mà lúc lâm chung tâm
không niệm Phật lại cứ nghĩ tiền đang cất ở đâu, chia cho ai, có an toàn không…
thì chắc chắn không thể vãng sanh. Một niệm khi lâm chung là tất cả. Gởi tiền
cho người ta vay khi ngã xuống làm sao đòi? Cất tiền cho kỹ khi nằm xuống làm
sao moi lên? Khi đã cứng mồm làm sao trăn trối với con cái?… Chính vì thế, mà
tâm cứ dính vào đó, chắc chắn phải vào hàng ngạ quỷ hoặc súc sanh. Rõ ràng tiền
bạc là cái gốc của tam đồ ác đạo.
Người
già cả mà tham giữ tiền thực sự là một đại hiểm họa cho pháp thân huệ mạng chính
mình. Cho nên cha má không nên giữ tiền. Cô Bốn giữ tiền, con khuyên một lời cô
buông ra, cô Sáu đeo vàng trên tay con khuyên một lời cô tháo ra giao cho mấy
em liền. Thế thì má còn tiếc gì mà còn cố gắng nuôi heo, còn lo trồng đám lúa,
còn giữ đôi bông tai, còn cất sợi dây chuyền? Phải buông ra đi má. Nếu không có
thì đây là phước. Nếu có nhín nhút chút đỉnh nào thì hãy mạnh dạn kêu mấy đứa
con tới, đem ra, đổ xuống đó, nói rằng: “Tụi con làm gì làm đi, cha má cần an lành…”.
Sau đó tuyệt đối không thèm hỏi tới, không thèm biết ai giữ, không thèm đếm xỉa
tới nữa. Nếu làm được vậy, niệm Phật chắc chắn cha má được tự tại vãng sanh.
Tại
sao nên đem tiền dư cho đi? Đây là người
có trí huệ đó! Không những cho tiền dư mà nên nhín chút phần ăn để cho nữa là
khác. Vì ai cũng biết tham là xấu, nhưng ai ai cũng thích “tham” cả. Tham, Sân,
Si là ba độc tố giết chết huệ mạng nhưng ít ai có thể xả bỏ được. Phật dạy “Bố-Thí”
thì phá được “Tham”; “Nhẫn-Nhục” thì phá được “Sân”; “Trí-Huệ” thì phá được
“Si”. An muốn hàng tháng hễ còn dư tiền thì cha má đem cho hết: con cái, cháu
chít, người nghèo, cho hai Phú, cho thím Bốn H… là muốn cho cha má bố thí đó,
muốn cha má dọn đường vãng sanh đó. Cứ việc cho người ta đi thì tự nhiên tâm hồn
mình sung sướng, tự nhiên mình thấy từ bi, an lạc, tự tại, giải thoát. Chuyến này
về con ghé Bình-Dương, Huy-Hồng chỉ thoáng nghe qua điện thoại là con nhờ người
ta may áo tu không được, là nó tự động mua hai, ba cây vải về, chỉ trong hai ngày
chót mà em nó ngày đêm may tới hai mươi bộ gởi cho con đem bố thí, cúng dường.
Các em nó còn gởi thêm năm trăm đô-la Mỹ để mua máy niệm Phật về biếu cho người
ta. Bửu, Chương nó mở tâm giúp đỡ cùng khắp… Trên đời này tìm đâu ra những tâm
hồn như vậy.
Có người bào chữa rằng, tại giàu có nó
mới cho, chứ nghèo thì tiền đâu mà cho? Nói như vậy là vì không hiểu đạo lý. Phật
dạy, “Vì có bố-thí tiền mới được giàu”, giàu rồi mà tiếp tục giúp đỡ người khác
thì giàu mãi, tiền thu không kịp. Giàu mà không biết bố-thí thì bị tàn lụn, phá
sản nhanh lắm. Sau khi tàn lụn rồi, hậu quả còn vô cùng thảm thương hơn lúc chưa
có tiền. Có tâm bố-thí hay không, không phải là giàu hay nghèo, mà bố thí là cái
hạnh của người biết tu. Chịu nhìn một chút thì ta thấy liền, rất nhiều người càng
giàu càng keo kiệt. Người giàu mà biết bố-thí họ càng giàu thêm, người nghèo biết
bố-thí thì nghèo mà họ vẫn sướng, cũng an lạc tâm hồn. Nếu thành tâm cố gắng giúp
người họ tự cải tạo được vận mệnh của họ ngay trong đời này, hoặc giả nếu phước
báu đời này chưa tới kịp thì đời sau họ không làm mà tiền của vẫn cứ rót vào chứa
không hết. “Bố-thí Tài được tài phú”, nhất định đúng, đây là lời Phật dạy. Mình
hồi giờ sống vì tự tư ích kỷ cá nhân, cho nên phước không có.
Phước mới không bù thì phước
cũ phải tiêu, phước tiêu thì dù cho giàu có đến đâu cũng có một ngày tàn lụi. Đó
là nhân-quả vậy!
Hiểu vậy,
anh chị em, con cái trong nhà nếu thật sự có thương cha mẹ trong tuổi xế chiều,
thì hãy lo làm chuyện thực tế cho song thân hưởng được những ngày thoải mái để
rồi ông bà ra đi, hay hơn là cho những thứ bắt ông bà phải cất giữ. Hãy xuống bếp
nấu giùm cho má bữa cơm, sửa giùm nhà tắm, lo xây cái nhà vệ sinh, căn phòng nóng
lạnh hãy mau mau điều chỉnh gấp, chứ sao lại tặng sợi dây chuyền? Khi cha má chết
anh chị em gỡ ra hay chôn theo? Nếu gỡ ra thì bây giờ gỡ trước đi, chứ sao lại
cam tâm trói cổ cha má đọa vào ác đạo trước rồi mới gỡ?!… Tôi không dám trách
anh chị em đâu, nhưng xin anh chị em nhớ rằng “tình thương” mà thiếu suy nghĩ
có thể gây nguy hiểm cho người mình thương”.
Cho nên,
“Hiếu-Thảo” phải kèm theo “Hiểu-Đạo”, nếu không sẽ thành “Đại-nghịch Bất-Hiếu”
mà không hay, oan uổng lắm! Tội nghiệp lắm! Sao bằng tính thử coi dây chuyền
bao nhiêu, đôi bông tai bao nhiêu, dùng tiền đó mua thuốc thang, lo cơm nước tươm
tất cho ông bà hưởng thụ mà an tâm niệm Phật có hay hơn nhiều không? Cha mẹ gần
lâm chung, con cái có hiếu, mà hiểu đạo, thì thành tâm niệm Phật hộ-niệm cho người
vãng sanh Tây-phương để về với Phật, đừng nên “hiếu-thảo” mà lại đem tiền bạc của
cải ra tính toán, khoe khoang để trói cái tâm cha mẹ vào đó, để hậu quả phải xuống
địa-ngục, làm quỷ đói hàng vạn kiếp khổ đau. Có phải vì vô tình trở thành thứ
con oan-gia, trái-chủ, đại nghịch, đại ác không? Xin anh chị em nghĩ cho thấu vấn
đề.
Cha má ơi!
Hãy suy nghĩ cho kỹ, cho thấu đáo nhân sinh pháp giới hầu tránh đại họa cho mình
trong tương lai. Con hiểu được chút ít đạo lý giải thoát thì cha má đã già, ngày
đi sắp tới rồi. Con không còn biết cách nào để đả thông tư tưởng cho kịp thời hạn
đây. Ngày về thăm cha bệnh, con tranh thủ sáng chiều để khai thị, không dám lơ
là một buổi là để cầu mong cho cha má bừng tỉnh được vấn đề. Con nói bằng cái lòng
tha thiết đến nỗi có người thấm thía phải khóc. Ngày cuối cùng ra đi, con nói
thẳng đến mục đích của con về làm cho em An phải khóc nức nở đành rời chỗ ngồi
ra ngoài rồi mới vô lại được. Tại sao nó khóc vậy? Nó đã hiểu được lý, đã thấu được
đạo, đã thấy rõ nguồn cơn. Vì quá thương cha má mà nó nghẹn ngào không cầm được
giọt lệ hiếu. Vì chỉ hai chữ “Buông-Xả” mà cha không chịu buông, má không chịu
xả cho trót, thì làm sao vượt được ách nạn trong đời. Cha má nghĩ coi, tuổi trẻ
mà nó còn thấu rõ lẽ đạo như vậy thì cha má nào nỡ làm ngơ!
Con biết
nhiều lúc chính con cũng không ngăn được sự kích xúc, nhưng con không còn cách
nào khác hơn. Đạo lý thì quá thâm sâu, tâm người quá cố chấp, thời hạn quá ngắn
ngủi, làm sao con khai thông cho kịp đây. Cứu huệ mạng cha má như cứu lửa cháy đầu,
vòi nước như sương có ích gì đâu. Tuổi dương đang so sánh như giọt sương mai,
không cứu kịp thời thì đành uổng công lo liệu. Cho nên, có khi con nói mạnh mẽ,
để may ra đánh thức được cha má, còn hơn là ru ngủ nhẹ nhàng để chờ ngày nhìn
cha má lâm nạn, có ích gì đâu! Vì chữ hiếu, con sẽ làm hết sức mình, con đang làm
hết khả năng của con vì con thấy còn có cơ hội cứu độ. Cha má chấp nhận lời con
thì mừng cho cha má thoát nạn. Cha má không chịu nghe theo thì tùy duyên phần của
mỗi người. Con đã tận lực rồi, lòng con không ân hận nữa.
Còn đối
với anh chị em trong gia đình, những lá thư này ai đọc cứ đọc. Cần thì đọc, không
cần cứ liệng. Ai hỏi con trả lời, ai gọi tới con giảng cho nghe, ai chê thì con
buông thõng hai tay ra đi an nhiên tự tại. “Tùy duyên tiêu túc nghiệp, thiết
mạc tạo tân ương”, tùy duyên của mỗi người mà giúp cho tiêu nghiệp chướng,
con đâu cần chi tạo thêm nợ mới nữa, phải không thưa cha má!…
Cho nên
phải “nhìn cho thấu và buông cho trót” cha má ạ! Nhìn thấu cái gì đây? Nhìn cho
thấu cuộc đời vô thường, nhìn cho thấu rằng thân mạng sẽ tan vỡ như bọt bóng nước
dưới cơn mưa, nhìn thấu tất cả vạn vật đều trở thành không cả… Thế thì còn gì
nữa mà tham với tiếc, còn gì nữa mà giữ với gìn, còn gì nữa mà luyến với lưu.
Nhìn thấu
cái gì? Nhìn cho thấu rằng khi thân này chết đi chứ chính ta đâu có chết. Thân
chết đi ta có thể trở thành loài ngạ quỷ đói, ngày ngày lang thang những nơi dơ
bẩn để kiếm ăn. Vì tham-lam, ăn xong là bức cổ chết. Ta thích được vậy không?
Chắc chắn không! Thế thì phải buông bỏ tiền bạc xuống mà ngày đêm niệm A-di-đà
Phật. Tiền bạc chỉ cần đủ sống qua ngày. Con cái cho ít thì cảm ơn, cho nhiều
không thèm nhận nữa, hãy trả lại, đừng nên nhận tiền rồi đem cất giữ. Hễ đứa
con nào đã hiếu thảo, biết phụng dưỡng, thì dù có trả lại thì tự chúng nó cũng
sẽ tìm cách làm sao dùng trọn số tiền đó cho cha má. Không những bấy nhiêu đó mà
con cháu còn tăng thêm niềm thương kính, lo lắng chu toàn hơn. Cho nên trả ít
nhận ít, trả nhiều nhận nhiều, không trả lại không tạo thêm được lòng hiếu thảo
của con cháu là vậy.
Còn con
cái, nếu có thương cha má nên thực tế, đừng nên bày vẽ đủ kiểu cách ơn nghĩa, bắt
cha má già cả sắp chết phải ngồi chóc ngóc chờ đợi tiếng vỗ tay, phải ngày đêm u
ủ cất giữ đôi bông tai, sợi dây chuyền… mà tâm của người bị tham nhiễm vào, bị
đánh lạc hướng đi, quên mất câu Nam-mô A-di-đà Phật mà tội nghiệp cho cha má về
sau!
Tóm lại,
ngũ-dục là cái rễ của địa-ngục. Ở đây mới nói đến tiền tài thôi mà đã sợ rồi huống
chi kể cho đủ năm món. Nhưng dù sao, con cũng cố gắng nói hết trong những thư tới,
cả ngũ-dục và lục-trần đều lần lượt mổ xẻ hết cho cha má nghe. Cầu xin đức
A-di-đà Phật gia trì cha má, gia trì tất cả những bà con cô bác đã có thành tâm
niệm Phật với con trong những ngày về quê. Khuyên tất cả mọi người hãy dũng mãnh
tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Nguyện cho tất cả đều được vãng sanh Tây-phương
Cực-lạc quốc.
Nam-mô
A-di-đà Phật.
Kính thư.
(Viết xong, Úc châu 20/7/02).
Tâm hiếu kính đạt đến mức cùng cực thì viên mãn thành Phật đạo.(Pháp Sư Tịnh Không).
21 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Người
niệm Phật hưởng được mười đại lợi ích sau đây:
1) Ngày đêm thường được tất cả
chư thiên, đại lực thần tướng ẩn thân gia hộ.
2) Thường được đức Quán-Âm và hai mươi lăm vị đại Bồ-tát hộ trì mãi mãi.
3) Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Phật A-di-đà phóng quang nhiếp thọ.
4) Tất cả ác quỷ dạ-xoa, la-sát đều không thể hại mình được; không bị trúng độc
xà, độc
dược.
5) Không thể bị hại bởi lửa, nước, oán tặc, đao binh, gươm giáo, gông cùm, lao
ngục, hoạnh
tử.
6) Nếu có tội chướng, ác nghiệp, niệm Phật sẽ dần dần tiêu diệt; tăng trưởng phước
nghiệp. 7) Ban đêm có chiêm bao thì tốt lành, hoặc thấy thân kỳ diệu sắc vàng của
Phật A-di-đà. 8) Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi nhuận, khí lực đầy đủ; làm
việc gì đều được kết quả
tốt đẹp.
9) Thường được tất cả nhơn dân ở thế gian cung kính, bái lễ như kính Phật vậy.
10) Đến khi gần mệnh chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, Tây-phương
tam
Thánh kim đài tiếp dẫn vãng sanh Tịnh-độ, hoa sen hóa
sanh, thọ diệu lạc thù thắng.
Thanh tịnh niệm Phật thì tự nhiên được mười điểm lợi
trên. Tuy nhiên phải nhớ kỹ hai chữ “TỰ-NHIÊN” và “THANH-TỊNH”. Tự nhiên là không
phải mong cầu, người mong cầu thì không phải là tự nhiên, vì mong cầu thì tâm
không thanh tịnh. Một khi tâm không thanh tịnh thì mở ngõ cho tà khí xâm nhập,
vô tình pháp tu thì Chánh mà ý niệm sai lệch thành ra là tà. Điều thứ tư nói, tất
cả ác quỷ dạ-xoa, la-sát, không thể hại người niệm Phật, oan gia trái chủ đâu
thể đòi nợ được, chính thế mà chúng mới sợ hành giả niệm Phật, lo sợ chúng ta có
công phu đắc lực.
Cho nên, người mới khởi tu niệm Phật, công phu đắc lực,
ban đầu thường bị chúng tới phá đám. Phá bằng cách nào? Chúng giả người thân yêu,
giả Bồ-tát tới dụ khị mình, đôi khi chúng có thể giả dạng luôn cả Phật để làm
cho mình đắm say vào đó. Một khi đã thích vào đó rồi thì nó sẽ hướng dẫn mình đi
tới chỗ sai đường lạc lối, mất phần vãng sanh. Điều thứ bảy nói chiêm bao thì
thấy điềm tốt, thấy thần kỳ diệu sắc thân Phật A-di-đà. Đây là quả báo tự nhiên
của tâm đã được thanh-tịnh, chứ không phải đêm đêm cầu nguyện thấy được Phật,
thấy được điềm lành.
Người niệm Phật không nên cầu xin những thứ lợi lạc tầm
thường mà đành bị mất phần giải thoát, vì đây là lòng tham luyến trần tục. Niệm
Phật chỉ để cầu nguyện vãng sanh Tâyphương Tịnh-độ. Nguyện vãng sanh Tịnh-độ
không phải là lòng tham mà là cái tâm nguyện Bồ-đề, cái nguyện Vô-Thượng Bồ-đề để
thành Phật cứu độ chúng sanh. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, ở phẩm “Tam-Bối-Vãng-Sanh”,
Thượng, Trung, Hạ phẩm Phật dạy đều phải giữ một nguyên tắc là “Phát Bồ-đề tâm,
nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật, và nguyện sanh bỉ quốc”. Phật đưa ra
ba vấn đề rõ rệt,
1) Là phát Bồ-đề tâm;
2) Là một lòng trì danh niệm A-di-đà Phật;
3) Nguyện vãng sanh Tịnh-độ.
Phật
không bao giờ dạy cầu thấy Phật, cầu thấy điềm tốt, cầu Bồ-tát ứng hiện… nếu
thường xuyên thấy Phật, Bồ-tát xuất hiện, thấy Tiên, Thánh hạ cơ chỉ điểm, xưng
tên lung tung, đó là do vọng tưởng sinh ra, chắc chắn là giả…… Cho nên, bà
con, cô bác, anh chị em ai thường có những hiện tượng này phải chấm dứt đi.
Người
chân thành niệm Phật tự nhiên hưởng được mười điều đại lợi trên. Cầu mong là
tham-lam! Phật dạy tham, sân, si, là ba chất độc phải bỏ, mình vô ý lại cố
gắng phát triển lòng tham thì sai lệch cách tu hành. Cho nên, niệm Phật không được
cầu cho mình khỏe mạnh, sống dai, tai qua, nạn khỏi, vì nó tự nhiên đã có rồi.
Nếu nguyện như vậy, vô tình thay vì được cả mười điều thì nay chỉ còn lại có một
điều, nhưng sau cùng cũng bị mất hết vì không có được cảm ứng đạo giao. Không được
sử dụng câu Phật hiệu để luyện khí, luyện thần, người nào ham thích thần thông,
lợi dụng câu Phật hiệu để cho thần khí được khai thông, chứng đắc thần thông biến
hóa, chắc chắn sẽ bị điên loạn hoặc tàn hại cuộc đời. Những người ham mê năng lượng
siêu hình, muốn tiếp nhận nhiều từ trường vũ trụ… dùng câu Phật hiệu để khai
mở luân xa, tăng cường điển lực, phát triển “nhân-điện”… nếu không chấm dứt
không thể có kết quả tốt, nếu không nói là tự hại mình.
Phát Bồ-đề
tâm nghĩa là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”.
Muốn độ tận chúng sanh thì tự mình phải thành Phật trước đã, chưa thành Phật chưa
thể độ tận được chúng sanh. Muốn thành Phật cần phải vãng sanh Tây-phương. Cho
nên chỉ cần chí tâm phát nguyện vãng sanh Tịnh-độ, là đã bao hàm ý nghĩa cao cả
phát tâm Vô-Thượng Bồ-đề, y giáo phụng hành theo lời Phật dạy rồi vậy. ]
Còn điều
thứ hai là “chân thành niệm Phật”. Niệm Phật không được hồ nghi, không được xen
tạp những niệm khác, đừng để gián đoạn câu niệm Phật trong tâm. Người niệm Phật
thì cứ niệm Phật, tâm-tâm niệm Phật, ý-ý tưởng Phật, trong lòng cứ nghĩ tới Phật
là được. Niệm Phật thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đừng chạy ra ngoài. Miệng
niệm Phật, niệm rất rõ ràng, dù niệm thầm cũng phải rõ ràng, tai lắng nghe từng
tiếng mình niệm. Miệng niệm ra, tai nghe vào, cứ thế tâm sẽ nhiếp vào đó thì tự
nhiên thành tựu tất cả.
Vì thế,
niệm Phật muốn cho “nhất tâm bất loạn” thì không cần cầu nhứt tâm bất loạn thì
mới được nhứt tâm, còn cầu xin cho nhất tâm bất loạn thì tâm bị loạn liền. Tương
tự, không cần cầu giải nạn, không cần cầu chứng đắc, không cần cầu người ta kính
trọng, không được cầu thấy Phật… vì tất cả những thứ này tự nhiên sẽ có khi công
phu tốt, tâm thanh-tịnh. Cứ một lòng tin tưởng vững chắc như vậy là được. Chỉ cần
nên nhớ một điều là trong nhiều đời, nhiều kiếp mình gây nợ máu quá nhiều, bất
cứ người nào cũng có oán thân trái chủ bám sát theo bên. Oán thân trái chủ này
có thể là hữu hình hoặc vô hình, là người thân, con cái, là bạn bổn đạo tu hành…
mà chúng ta không hay biết. Người Niệm Phật cần phải hồi hướng công đức cho “oán
thân, trái chủ”, có như vậy đường tu hành sẽ được êm xuôi.
Thưa
cha má, đúng ra thư này con viết tiếp thư trước còn đang dang dở, nhưng con đành
phải trở lại vấn đề thực hành pháp niệm Phật để cho cha má, bà con, anh chị em
chỉnh đốn lại cách hành trì thì mười điều thiện lợi của sự niệm Phật sẽ chắc chắn
được. Biết bao nhiêu người tâm hồn thanh tịnh niệm Phật một thời gian ngắn được
an nhiên vãng sanh. Xưa nay có rất nhiều chuyện vãng sanh như vậy, nhưng con ít
khi kể những chuyện xảy ra xa xưa, mà thường kể những chuyện mới đây, những
chuyện có thể làm chứng được. Ví dụ như tháng Sáu vừa rồi khi con về thăm cha má
thì căn nhà của con mở cửa cho một anh mà cha của ảnh mới vãng sanh vừa xong thất
tuần. Bác đó là người Việt-Nam. Nhưng chuyện này ở Úc, còn xa. Con xin kể hai mẫu
chuyện ở ngay quê nhà mình, mới đây thôi cho cha má nghe.
Chuyện
thứ nhứt do anh Hai Nhung kể lại.
Ở xã Nhơn-Thọ, vừa rồi có một người không đau bệnh gì cả, ông ta nói với nhiều
người rằng: “Vài ngày nữa tôi chết đó”,
thế là vài ngày hôm sau ông tự nhiên ra đi. Anh Hai hỏi: “Ông ta không niệm
Phật mà biết ngày ra đi, cũng vãng sanh, như vậy đâu cần gì phải niệm Phật?”…
Chuyện
thứ hai do vợ chồng em Lộc và Sáu Luân kể lại, cũng trong năm này, một ông bác ở Long-Khánh đau rất
lâu, vợ chồng Sáu Luân khuyên bác niệm Phật nhưng bác không nghe theo. Sáu Luân
nói: “Tôi đem một xấp cỡ mười lá thư
của anh cho bác đó coi. Coi xong bác phát tâm tin tưởng và niệm Phật và cho người
hộ niệm”. Kết quả bác được vãng sanh. Lộc nói: “Em chắc chắn ổng vãng
sanh, ổng tỉnh táo đến phút cuối cùng, ổng biết được lúc chết và cho mọi người
biết “bây giờ ta bắt đầu đi đây…”. Tắt thở xong gia đình vẫn tiếp tục
hộ niệm. Ba bốn giờ sau khi tắt thở đầu bác vẫn còn nóng hổi…”. Đây là lời
thuật lại của vợ chồng Lộc-Luân.
Như
vậy, rõ ràng là có chuyện “Vãng-sanh” thường xảy ra khắp nơi mà mình không hay.
Tuy nhiên, chữ “vãng-sanh” này phải kèm theo chữ “Tịnh-độ” hay là “Tây-phương Cực-lạc”
mới được, chứ còn chết rồi đi về các nơi uế độ khác thì gọi là tái sanh, thọ
sanh, đầu sanh, đọa lạc… chứ không phải là vãng sanh. Hôm nay sẵn dịp có chuyện
này con cố gắng phân tích rõ thêm về sự vãng sanh cho cha má nghe.
Chuyện thứ nhứt của anh Hai kể, đây không thể nói là vãng sanh Tịnh-độ được. Trước
tiên con xin nói rằng, lời bàn dưới đây là chính con suy luận ra bằng cách dùng
phương pháp loại suy, nghĩa là bỏ lần những cảnh giới không hợp lý, để tìm ra
chỗ hợp lý mà thôi, chứ con không thể tự ý xác quyết đây là đúng. Trong thập pháp
giới, gồm có Phật, Bồ-tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn, Trời, Người, A-tu-la, Súc-sanh,
Ngạ-quỷ, Địa-ngục. Bốn giới cao nhứt gọi chung là Thánh: Phật, Bồ-tát, Duyên-Giác,
Thinh-Văn, thì không thể nào tới được, vì muốn vãng sanh về Tây-phương với Phật
thì bắt buộc phải niệm A-di-đà Phật và phải nguyện vãng sanh, còn những cảnh giới
Thánh kia muốn tự tu thành đạt phải mất cả ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Như vậy chắc
chắn bác đó phải lọt lại trong sáu đạo luân-hồi.
Về
hai cảnh ác đạo là địa-ngục, súc-sanh, thì khi một người bị sanh về đó tức là bị
đọa-lạc, lúc chết không thể nào tự tại an nhiên ra đi. Bị đọa địa-ngục thì trước
lúc chết thường tướng địa-ngục đã hiện ra, làm cho người đó bị khủng-bố,
kinh-hoàng… nên thường la hét, giãy giụa, trợn mắt, v.v… Còn về đường súc-sanh
thì do sự ngu-si mà lạc vào đó, thường tâm trạng rối bời, lo âu, sầu bi, hôn ám,
mê muội, v.v… không thể nào tỉnh táo được.
Sáu đường,
còn lại bốn đường: Trời, A-tu-la, Người, Ngã-quỷ cứ từng bước mà xét tiếp và loại
ra nữa thì ta thấy ngay. Nếu muốn sanh về những cảnh giới Trời, thì bắt buộc
trong đời phải làm lành tu thiện, tránh ác. Mười điều thiện là: không sát sanh,
không trộm cắp, không tà hạnh, không nói láo, không nói thêu dệt, không nói đâm
thọc, không hỗn hào, không tham, không sân, không si, phải đạt đến tiêu chuẩn
chín mươi phần trăm trở lên, nghĩa là thượng phẩm thập thiện. Ngoài việc này ra
phải tu phúc, nghĩa là bố-thí, giúp người thật nhiều mới có phước báu sinh về
những cảnh trời dục-giới (trời thấp nhứt). Còn muốn lên những cõi cao hơn, sắc
giới và vô sắc giới, phải tu Thiền-định… Anh Hai nói, trong đời ông bác đó không
tu gì cả thì vô phương tới được những cảnh giới Trời.
Còn
lại ba đường A-tu-la (quỷ-thần), Người, Ngạ-quỷ. Nếu tái sanh làm người thì tạm
coi như huề vốn! Chết tái sanh làm người thì đâu có ai hộ vệ, trong kinh gọi là
“Độc sanh độc tử, độc khứ độc lai, khổ lạc tự đương, vô hữu đại giả”, họ
theo nghiệp lực mà đi, không có thần hộ vệ. Hơn nữa thần thức phải qua thân
trung ấm, sẽ mê mờ, khó có thể tỉnh táo và biết trước ngày ra đi.
Như
vậy, tới đây chỉ còn lại có hai đường là Quỷ-Thần và Ngạ-quỷ. Cảnh giới của Quỷ
và Thần chung với nhau, Quỷ-Thần có hiền, có dữ, có nhiều phước báu hơn người.
Người bình thường ít ra cũng phải có chút ít phước báu, có tu hành thì cũng dễ
sinh về đó. Ngạ-quỷ là loài quỷ không có phước báu, chịu cảnh đói khát suốt đời,
chiêu cảm bởi lòng tham-lam khi còn sống ở dương gian. Chết bị lạc vào cảnh giới
này thì khó được tự tại ra đi. Một ngày trong Quỷ-Thần đạo dài bằng một tháng
trên dương gian, âm u mù mịt, không có mặt trời, (cho nên gọi là U-Minh). Loài
quỷ thường xuất hiện ban đêm khoảng từ chín mười giờ tối cho tới hai ba giờ sáng,
họ sống chung đụng với loài người. Quỷ-Thần thường là cảnh giới khá hung hiểm,
tâm háo sát rất lớn, luôn sống trong cảnh chiến tranh chém giết, tàn sát, dữ tợn.
Thổ-địa,
Thần-đình, Thần-miễu… thì hiền không dữ, nhưng La-sát, Dạ-Xoa là những loài
quỷ rất ác. Chư Cổ-đức khuyên rằng đối với quỷ thần ta “kính-nhi-viễn-chi”, kính
trọng họ nhưng không nên theo họ là vậy. Ông bác ở Nhơn-Thọ này biết trước ngày
đi và ra đi tự nhiên thì chắc là theo vào con đường này. Ngài Tịnh-Không dạy rằng,
con người ngày nay chết thường đi về cảnh giới quỷ nhiều nhất, lý do chính là vì
lòng tham quá lớn, càng ngày càng tham-lam, tâm địa càng ngày càng hiểm-ác!
Tại
sao người đó lại biết trước ngày chết và ra đi tự nhiên? Có thể là, trong lúc đang sống có phát lời thề nguyện
làm quỷ thần, hoặc một lời hứa nhận chịu về với họ(?)… đã hứa thì phải giữ lời,
cho nên đôi lúc được họ cho biết ngày đi và tới ngày giờ họ tới bắt hồn. Như
trong lời pháp giảng kinh Lăng-Nghiêm, Ngài Tịnh-Không có kể hai câu chuyện có
thực bị quỷ bắt chết.
Một người bị nhận nước chết, họ gạt ông
ta ra sông nhận nước hai lần, nhưng may mắn gặp được người ta đi ngang cứu sống
lại. Lần thứ ba bị nhận giữa đêm về sáng không ai hay biết, thành ra phải chết
và thần-thức ông ta bị bắt đi làm Thổ-Thần giữ miếu thổ địa mới xây. Chuyện này
là do ân oán trong đời.
Còn
một người nữa, ông ta biết được ngày ra đi tới ba tháng chỉ vì trong giấc chiêmbao
lỡ buông lời hứa chịu làm việc trong quỷ đạo, họ cho thời gian ba tháng để sắp
xếp việc nhà, rồi đúng ngày giờ họ tới bắt đi, không thể trễ hẹn.
Thưa
cha má, bình thời vì không hiểu thấu cảnh giới của Quỷ-Thần, cho nên nhiều người
móng tâm hâm mộ. Phật dạy, đây là một ách nạn trong luân-hồi lục-đạo. Vào đó rồi
muốn ra, ra không được. Thọ mạng của Quỷ đạo rất lâu, ít nhất cũng một ngàn tuổi,
một ngày ở đó bằng một tháng trên thế gian. Đặc biệt là ở đó tâm sát hại chúng
sanh rất nặng. Nếu có chút phước báu hưởng một cấp bậc nào đó thì còn tạm ổn, nếu
trở thành ma dân, ma nữ, quỷ đói thì khổ sở vô cùng. Ở những nơi họ có lập miễu,
lập đình, thì còn có chỗ trú thân, nếu không lập hoặc bị phá sập thì số mệnh khá
thương tâm! Quỷ, Thần, Tiên, Ma… có chung cảnh giới, sướng có, khổ có, tùy
theo phước đức và sự tu tập, so ra thì cảnh giới dương gian ổn định hơn.
Ấy
thế nhiều người không biết lại đi thờ họ, rồi nguyện xin về với họ. Chính vì lời
hứa này mà lúc chết đôi khi được biết trước và tự nhiên ra đi. Nhưng sau đó thì
sao? Ai biết được! Cho nên, đừng vì giận hờn mà buông lời thề bừa bãi, mà có thể
bị họa về sau không tốt!
Người
niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ thì cảnh giới tương lai của họ là Nhứt-chân-Pháp-giới,
là cảnh giới của Phật, Bồ-tát, đã vượt khỏi tam-giới, là vị trí cao nhứt trong
tứ pháp giới của Thánh. Cho nên người niệm Phật, khi đã thành tâm phát nguyện
sanh về Tây-phương Cực-lạc thì được chư Thiên kính nể đảnh lễ. Hòa-Thượng Tịnh-Không
còn nói, nếu chí thành phát nguyện, thì Thánh A-La-Hán cũng phải đảnh lễ, thì
chư Thần-Tiên làm sao sơ ý được. Cho nên đối với Thần, Tiên, Đình, Miễu, người
niệm Phật chỉ nên bái chứ không nên lạy. Ai muốn lạy thì lạy, nhưng lạy họ chỉ
làm cho họ khổ sở mà thôi, đang ngồi ăn uống đành phải bỏ chạy vì cái lạy của
ta. Nhiều người không thông hiểu pháp giới, không hiểu Phật pháp, tự bỏ ngôi thứ
giải thoát thành Phật của mình, đi xuống thờ lạy chư Thần-Tiên trong tam-giới để
sau cùng bị lọt lại trong luân hồi khổ nạn! Những ngày về quê tổ chức niệm Phật
cho cha, con chỉ quỳ lạy bàn thờ Phật, còn bàn thờ Thần-Tiên con chỉ thắp nhang
rồi khấn như vầy:
“Nam-mô A-di-đà Phật. Phật dạy rằng, tất cả chúng
sanh trong cửu Pháp giới, ai nghe được danh hiệu của A-di-đà Phật mà tin tưởng
trì niệm danh hiệu Ngài, nguyện sanh về Tây-phương Tịnh-độ, thì được vãng sanh
về đó, một đời bất thối thành Phật. Kính xin chư vị phát lòng tin tưởng cùng niệm
Phật để sớm ngày thành Phật. Nam-mô A-di-đà Phật”.
Đây
là sự thành tâm cứu độ chúng sanh. Phật cứu độ tất cả chúng sanh trong cửu pháp
giới, nghĩa là tới hàng Thánh ngoài tam giới vẫn còn phải niệm Phật để được cứu
cánh giải thoát, thì các vị trong tam giới không niệm Phật làm sao mong có ngày
giải thoát. Con khấn như vậy không đụng chạm ai hết, một lòng vẫn kính trọng và
còn kèm theo tâm cứu độ…
Chuyện
thứ hai ở Long-Khánh, nếu đúng
như lời của Lộc và Sáu Luân kể, thì đây thực sự là được vãng-sanh. Thật quá may
mắn, hy hữu, hiếm có! Một triệu người may ra mới có một chứ không phải thường.
Mấy năm trước đây, ở Mỹ có ông Châu-Quảng-Đại cũng được cái may mắn này, ông ta
niệm Phật ba ngày được vãng sanh. Ông Bác Long-Khánh này một đời không tu hành
gì nhiều, đến cuối đời được người điềm chỉ, ông phát lòng tin chịu niệm Phật chỉ
một thời gian rất ngắn đã thành tựu đạo quả, được vĩnh viễn thoát khỏi sinh-tử
luân-hồi, thọ hưởng phước báu vô cùng vô tận ở Tây-phương Cực-lạc Thế-giới của
Phật A-di-đà. Giờ đây Ngài đã là một vị Bồ-tát rồi chứ không phải thường nữa đâu.
Con xin phân tích rõ ràng thêm chuyện này.
Trong
Kinh Vô-Lượng-Thọ, lời nguyện thứ 18, Phật dạy, “Khi Ta thành Phật, chúng
sanh trong mười phương nghe đến danh hiệu của Ta, mà chí tâm tin kính, ai có căn
lành tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh về nước Ta, cho đến mười niệm nếu không được
sanh Ta thề không thành Phật. Duy trừ có tội ngũ nghịch và phỉ báng Chánh pháp”.
Đây là lời thề của Phật A-Đi-Đà trước khi Ngài thành Phật, lời thề mười niệm vãng
sanh. Trong kinh A-di-đà, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy, người nào nghe Ta
thuyết về A-di-đà Phật mà phát lòng tin, chấp trì danh hiệu Ngài mà niệm từ một
ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì được vãng sanh.
Bác
này dù hồi giờ không tin, không niệm Phật, nhưng khi đã già, bị bệnh hoạn, không
còn cách lựa chọn nào khác là nằm chờ chết. Sự chết đối với bác đã là đương nhiên
rồi nên không thèm sợ nữa, bác bình tĩnh chờ ngày đó. Chính vì thế mà bác đã biết
buông xả tất cả thế sự nhân tình, vì có lo lắng cũng không được gì. Trong trạng
thái an tịnh như vậy, gặp được duyên lành, như người đang chết đuối vớ được cái
phao. Bác chấp nhận dễ dàng, thoải mái, tin tưởng, quyết chí đi. Bác thành công
đến nỗi khi nghe con cũng lấy làm ngạc nhiên. Chính con còn chưa vững tin, mới đem
chuyện này hỏi thầy Thiện-Huệ. Thầy nói, nếu đúng như lời kể, thì bác đó đã vãng-sanh.
Thành thực con rất mừng về chuyện này, trong đời tu hành ta cứu được một người
mừng cho một người. Mình biết được con đường giải thoát phải nên chân thành hướng
dẫn người khác cùng giải thoát vậy.
Sau đây
là tóm tắt những điểm xác minh:
1) Là sự buông xả thấy rõ. Trong những
ngày trước khi ra đi bác an nhiên, cười vui, niệm Phật, không lo lắng gì cả,
coi cái chết nhẹ hơn lông hồng. Đây là điểm rất hay!
2) Là bác tỉnh táo đến giây phút cuối
cùng, trước phút ra đi còn báo cho mọi người biết là: “Ta bắt đầu đi đây”. Người thành tâm niệm Phật cầu
vãng sanh Tịnh-độ, nếu đã biết buông xả trọn vẹn, họ dễ đạt được trạng thái tươi
vui, bình tĩnh và sáng suốt này, gọi là “tâm bất điên đảo”;
3)
Thần thức rời khỏi nhục thân từ chân đi lên, điểm cuối cùng là đỉnh đầu, tắt thở
ba bốn giờ mà đỉnh đầu vẫn còn nóng. Đây là dấu hiệu then chốt xác định sự vãng
sanh. Trước đây con có phân tích chuyện này rồi chắc cha má còn nhớ. Chính điểm
nóng sau mấy tiếng đồng hồ trên thân thể là vị trí thần thức xuất ly sau cùng. Ông
bác nóng tại đảnh đầu đây là điều rất tốt, cho phép ta tin tưởng sự vãng sanh.
Xin chân thành chúc mừng cho Ngài. Xin nhắc lại bài thiệu để dễ nhớ.
Đảnh Thánh, Nhãn sanh Thiên.
Tâm Nhơn, Phúc Ngạ-Quỷ.
Bàng sanh Túc hạ hành.
Địa-ngục,
Cước để xuất.
(Nghĩa
là nóng tại đảnh đầu sanh về cảnh giới Thánh, tại mắt về trời, tại ngực trở lại
người, tại bụng làm ngạ-quỷ, từ đầu gối xuống làm súc-sanh, tại bàn chân bị đọa
địa-ngục). Cảnh Thánh là những cảnh Phật, Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác, ở ngoài
tam giới. Ở đây Bác đã có niệm Phật, có nguyện vãng sanh Tịnh-độ và cho con cháu
niệm Phật hộ niệm, như vậy bác được siêu sanh thẳng về Tây-phương Cực-lạc. Đây
là một thiện căn, phúc báu, nhân duyên lớn vô cùng vô tận! Có người tu hành nhiều
đời nhiều kiếp chưa chắc đã sánh bằng! Quá may mắn! Nhiều thiện căn! Đại phúc đức!
Đại thiện duyên!
Có một
điều là, nghe Lộc kể lại lúc vãng sanh bác đó có phần chú tâm vào sự diễn tiến
của thần thức đang xuất ra, bác chỉ cho mọi người từng phần thân thể đang chết.
Thật may mắn cho bác là không có chuyện gì trở ngại xảy ra. Có lẽ hồi giờ bác đó
và gia đình ít nghe pháp Phật, không hiểu nhiều về quy luật vãng sanh, chỉ đọc
qua mấy lá thư rồi tin tưởng làm theo mà được tương ưng với điều kiện vãng
sanh, thật quá may mắn! Chứ người hiểu đạo, hiểu pháp, thì phải hết sức cẩn thận
trong giây phút tối quan trọng này.
Nghĩa
là, tất cả mọi người, ngay cả người lâm chung, phải thành tâm chí thiết niệm Phật.
Khi biết mình được Phật tới tiếp dẫn hoặc biết mình đang ra đi thì đừng nên lơ
là. Nếu muốn từ tạ thì một lời là đủ rồi. Hoặc giả không cần lễ mễ chuyện này,
mà phải chú tâm niệm Phật để vãng sanh theo Phật trước đã, rồi chuyện khác tính
sau. Còn người hộ niệm dù có thấy hiện tượng lạ như quang minh của Phật xuất hiện,
hoặc mùi hương thoảng bay, người ra đi hiện ra tướng lành như mặt hồng hào, tươi
trẻ, nét mặt cười vui, trái tai dài ra, ở ngoài cửa chim bay tới đậu, hoa trong
bình tự nhiên nở ra, v.v… nhất thiết đừng có vọng động, đừng lên tiếng, đừng
chỉ chỏ gì cả, mà phải thành tâm cùng niệm Phật, chí kính niệm Phật cho đều để
cho cảnh giới được tăng cao, giữ vững an toàn cho người đi. Tuyệt đối không được
tháy máy, hiếu kỳ hay sơ suất mà nhiều khi bị trở ngại bất ngờ, ngàn đời ân hận.
Quan
trọng nhứt là tuyệt đối không được khóc, không được kêu réo người đang ra đi,
không được gây tiếng động ngay giây phút đó. Con cái trong nhà thương cha mẹ phải
quyết tâm bảo vệ cha mẹ mình, dù phải trả giá gì cũng chấp nhận, vì đây là phút
cuối cùng cứu độ được người thân, là cơ hội cuối cùng để báo đáp chữ hiếu, không
thể nhân nhượng được. Khi ra đi rồi người hộ niệm phải tiếp tục niệm Phật chung
quanh nhục thân ít ra phải tám tiếng sau mới được rời khỏi. Tuyệt đối không được
đụng tới thân thể, ngay cả cái giường nằm cũng không được đụng mới bảo đảm sự
an toàn.
Niệm
Phật thành Phật. Cha má đang nắm trong tay một pháp môn thành Phật, đừng để vụt
mất cơ hội. Người có lòng thành, có tâm tu đạo, có lòng tin, biết buông xả để về
với Phật thì tự nhiên được cảm ứng, chắc chắn được vãng sanh. Người vận may đã đến
trong tay mà không chịu nắm lấy thì bị đọa lạc, đành tự chịu lấy hàng vô lượng
kiếp khổ đau. Thật oan uổng, đáng tiếc!
Phải
biết rằng, bình thường một người muốn thoát khỏi tam giới thôi, nghĩa là mới nhập
vào hàng Thánh, gọi là hàng nhập lưu thôi, thì công tu ít ra cũng phải một đại
A-tăng-kỳ kiếp mới được. Muốn lên đến phẩm Địa hạ của Bồ-tát phải mất một A-tăng-kỳ
kiếp nữa, rồi thêm một A-tăng-kỳ kiếp nữa mới chứng được hàng Địa thượng Bồ-tát,
nghĩa là cảnh giới cận kề Phật. Còn bác đó đã được sự gia trì của A-di-đà Phật,
hiện giờ đương nhiên trở thành vị bất-thối Bồ-tát ở cõi Tây-phương, tất cả năng
lực của tự tánh đã được khôi phục, thần thông tự tại như kinh Phật nói: thiên-nhãn-thông,
thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, thần-túc-thông, lậu-tận-thông, túc-mạng-thông với
vô-lượng-thọ thân… không cần phải tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp thời gian nữa. Thật
bất khả tư nghì! Trí óc phàm phu không bao giờ hiểu tới được!
Một
A-tăng-kỳ dài bao nhiêu? Con ghi thử ra đây con số của A-tăng-kỳ cho cha má tưởng
tượng:
Một A-tăng-kỳ =
100.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000
(số 1 với 47 con số 0). Con số vô cùng lớn, nhưng không phải bấy nhiêu đó ngày mà
bấy nhiêu đó kiếp. Ví thế, tu muốn thành một vị Bồ-tát đâu phải dễ, muốn thành
Phật đâu phải đơn giản! Người nào muốn tự tu chứng hãy xét thử coi liệu mình có
đủ khả năng không!
Thưa
cha má, muốn tu cho được giải thoát, thành Phật, hãy tu tại cảnh giới nhân gian
này. Cảnh giới người dễ tu, dễ thành Chánh-quả. Đừng lầm mà tưởng rằng phải lên
tới cõi Trời, cõi Tiên rồi mới tu. Không phải vậy đâu! Thứ nhứt là lên Trời, lên
Tiên không phải dễ. Lên Trời phải có phước báu, phải tu thập thiện, phải có thiền-định,
rất khó! Lên được đó rồi thì sống xa hoa sung sướng, tận hưởng khoái lạc khó có
ai nghĩ đến chuyện tu hành, đến khi phước cạn phải bị rơi xuống và thường rơi rất
nặng.
Cảnh
Tiên cũng không hơn gì, nếu khá thì thì sống an nhàn ngao du sơn thủy, hưởng lạc
nhiều năm, ngày đêm say sưa tu luyện một số phép thần thông biến hóa mà quên mất
con đường giải thoát cho tương lai, một ngày nào đó cũng đành chịu chung số phận
vô-thường! Vấn đề huệ-mệnh vẫn còn nguyên vẹn, vẫn còn lăn lộn trong tam-giới,
sanh-tử luân-hồi.
Cảnh
giới người là dễ quay đầu tu hành nhất. Phật nói vì ở đây khổ nhiều, sướng ít dễ
thức tỉnh đường đạo. Tất cả chư Phật thị hiện hầu hết đều trong nhân đạo để cứu
độ chúng sanh. Chính vì thế, tại đây, ai tin tưởng, ai quyết tâm, ai y-giáo phụng-hành,
một lòng theo Phật thì được vãng sanh bất thối thành Phật.
Cũng
cần nhắc lại điều này, xin đừng hiểu lầm mà cứ nguyện sanh lại làm người để tu.
Nếu nguyện như vậy thì mãi mãi trầm-luân đọa-lạc, vì còn làm người thì còn sanh
tử khổ nạn, còn bị đọa tam đồ. Nên nhớ dễ tu là đối với người biết tu, còn người
không tu thì đâu có phần. Hơn nữa, ở đây dễ tu, dễ tiến nhưng cũng dễ thối đọa.
Tiến một bước nhưng dễ thối hai bước. Bao giờ mới thành chánh-quả?
Thưa
cha má, đời là vô-thường, thân này vô-thường, nhà cửa vô-thường, danh vọng, ân
nghĩa, con cái, gia đình… chỉ là sự vô-thường. Đó gọi là “Chúng-Sanh”. Chúng
là nhiều thứ kết hợp lại mà “Sanh” ra nên gọi là “Chúng-Sanh”. Hợp đó rồi tan đó,
gọi là “Vô-Thường”. Hãy liễu giải chơn tướng của sự Vô-Thường mà vững tâm quyết
định niệm Phật cầu về Tây-phương. Vô-Thường tấn-tốc! Quyết định không thể chần
chờ, không hẹn giờ hẹn ngày nữa…
Thành
tâm ngưỡng nguyện đức A-di-đà Phật gia trì cho cha má cùng tất cả chúng sanh đều
phát lòng niệm Phật, hết một báo thân này đồng sanh Tây-phương Cực-lạc quốc.
Nam-mô A-di-đà-Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Úc Châu, ngày 9/8/02).
Kính
cha má,
Niệm Phật
được mười điều lợi ích, trong đó cái lợi sau cùng là được vãng sanh về Tây-phương
Cực-lạc thế giới, một đời này thôi ta thoát khỏi sinh-tử luân-hồi. Đây là cái lợi
ích chung cuộc. Không có cái lợi ích này thì tất cả những lợi ích kia chỉ là mộng-huyễn,
vì có thu lợi nhiều đến mấy đi nữa nhưng rồi cũng chết, gắng gượng sống thêm một
vài năm bệnh hoạn trong cái xã hội đầy sầu não, sau cùng chính thần-thức của mình
bị đọa lạc, thì có gì đâu mà lợi?!… “Chuyển thân thọ thân, cải hình dị đạo”.
Khó đoán được tương lai.
Hãy giác-ngộ
cha má ơi! Cố gắng tu hành nhắm thẳng tới sự giải thoát viên mãn, đừng nên bám
víu vào những điều lợi vụn vặt mà tự hại ngàn đời. Bây giờ, trí-huệ đang trói
trong cái nhục thân phàm tục cho nên mình không thấy, chứ một khi đã thấy rồi
thì sự việc này quan hệ lớn lắm. Bị đọa lạc kinh khủng lắm! Không thể lơ là bừa
bãi được đâu. Nhiều lá thư rồi con nhắc đến chuyện này, mong cha má thức ngộ, làm
gương cho gia đình, bà con cô bác, cùng tỉnh cơn mê, cùng nhìn ra sự thật, cố gắng
tu hành tránh hiểm nạn.
Về quê,
tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng con thấy cũng khá nhiều điều, có dịp con lần lượt
nói ra cho mọi người nghe. Tu hành coi vậy chứ có nhiều nẻo lắt léo, chú ý lắm
may ra mới thấy vấn đề! Hòa-Thượng Tịnh-Không ít khi nói thẳng tên, sửa thẳng
việc, nhưng một khi Ngài thấy cái sai lầm của người nào thì trong những buổi thăng
tòa giảng kinh Ngài nói ra sự việc đó. Có nhiều lúc Ngài nghiêm sắc mặt chỉ thẳng
vào máy thâu hình mà nói, “…Tôi nói đây là cho chính quý vị nghe, quý vị lại
tưởng tôi nói đến người bên cạnh chứ không phải nói mình, cho nên tự mình cho là
ngon lắm, đắc đạo rồi, thành ra không chịu tự sửa. Học Phật phải tự xét chính mình,
đừng nhìn cái lỗi của thiên hạ thì quý vị mới mong có ngày khai ngộ…”.
Ngài nhìn
thẳng vào máy là nhìn đến mình. Ngài chỉ thẳng vào máy là chỉ tới mình. Chính lúc
đó, ai biết hồi tâm thì lo tự sửa lấy. Con học theo pháp của Ngài, trước lo sửa
chữa và sau nói chuyện với mọi người. Mỗi lần viết thư, nếu không phải là em út
ruột thịt, con không bao giờ dám lên mặt dạy đời đâu. Tuy nhiên, vì là người học
Phật, phát tâm muốn giúp đỡ chúng sanh, cứu nạn cho người, lúc nào con cũng thầm
mong những người thân thuộc, tất cả người nào đã đọc được thư con đều để tâm đến
để được thoát nạn.
Đời mạt
pháp này nghiệp chướng chúng sanh quá nặng nhưng lại hơi giống với nhau. Phật nói
tất cả đều do ba cái độc tham, sân, si, mà ra cả. Người không tham thì sân giận,
không sân giận thì lại bị ngu si. Vì ngu si cho nên cống cao ngã mạn. Điều này
thấp kém lắm, vì người khôn ngoan không cống cao ngã mạn, người học cao hiểu rộng
bao giờ lại ngạo nghễ với đời? Cho nên cha má cũng nên truyền bá những tư tưởng
đạo đức này cho con cháu biết. Lỗi lầm của chúng sanh ngày nay không xa vấn đề
này đâu! Hãy tự xét cái sơ suất của mình để ngày ngày sửa đổi, đó là tu hành vậy!…
Niệm Phật,
pháp môn tối vi diệu, nhưng vì chúng sanh có cái bệnh tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến… lớn quá nên không được lợi ích. Có người, vì nghiệp chướng quá nặng
nên không chịu nghe theo. Có người, có lòng tin nhưng lại tham đắc đạo nhanh,
niệm một vài câu Phật hiệu thì đã vội cầu chứng đắc thành ra thất bại. Có người
tự mãn vì quá khôn, kiến thức tốt, tự vạch lấy những cách tu trì riêng mà rước
lấy bi thảm…. Chính vì vậy vẫn còn quá nhiều chúng sanh nối đuôi nhau chờ vào
chỗ hiểm nạn. Ví dụ cụ thể nhất, trong lần về quê thăm này con phát hiện một số
người niệm Phật thèm muốn được Phật xuất hiện, thấy được Bồ-tát hiện ra đêm đêm
để an ủi, vỗ về. Có người còn nói với con, “…trước đây mỗi lần tụng kinh Phổ-Môn,
tôi đều thấy Bồ-tát ứng hiện, độ rày tôi bận quá không tụng nữa cho nên không
thấy nữa. Tiếc quá!…”.
Thưa
cha má, tất cả những hiện tượng này thường là không tốt lắm! Hôm nay con nói thêm
về điểm này để mong cảnh tỉnh thêm nhiều người hầu tránh những trở ngại thuộc về
ma chướng về sau. Cha má đến tuổi cuối đời mới may mắn gặp được Phật đạo, thì
chắc chắn công phu không thể cao dày được, tất cả đều phải nhờ vào Phật lực gia
trì mới mong thoát hiểm. Muốn tránh được ma chướng, thì niệm Phật là hay nhứt,
vì tất cả các pháp môn đều tự lực tu trì chứng đắc, chỉ có thành tâm niệm Phật
mới được chư Thiên gia hộ, hai mươi lăm vị Bồ-tát bảo vệ, ác quỷ dạ-xoa, la-sát…
không thể đến gần, mới tránh khỏi ma nghiệp. Sau cùng, được Phật A-di-đà tiếp dẫn
vãng sanh, vĩnh viễn xuất ly tam giới, nhập vào cảnh giới của chư Bồ-tát, Phật.
Tất cả mọi phép tu dù hay tới đâu mà không siêu việt tam giới, thì chắc chắn vẫn
còn bị đọa lạc, nhiều lúc càng tu nhiều càng bị nặng vì hậu quả của “Tam-thế-oán”.
Thế
thì tại sao niệm Phật mà có thể vẫn bị phá hoại? Vấn đề cần hiểu rõ ràng không nên lầm lẫn. Niệm Phật,
thì được Phật Bồ-tát bảo vệ để cuối đời người đó vãng sanh. Nói như vậy không có
nghĩa là cứ niệm Phật chơi chơi là được Phật tiếp dẫn đâu. Niệm Phật, là để mình
được giải thoát chứ không phải niệm cho chư Phật. Nhiều người cứ nghĩ tu là tu
cho chùa được đông người, tu cho vị Sư khỏi buồn… tu hành giống như kiểu đi bầu
cử cho chùa được nhiều phiếu. Có lẽ vì vậy, thành ra mới niệm một vài câu là bắt
đầu yêu cầu lung tung, như cầu gia đạo yên vui, thăng quan phát tài, đòi hỏi chùa
phải làm thứ này thứ nọ… Cầu mong như vậy, nghĩ kỹ coi, là tu-hành hay
tham-lam? Từ bi, hỷ xả hay tự tư ích kỷ?… Hễ đang học Phật thì Phật gia trì,
còn đang tham lam ích kỷ thì ngoại lực gia trì. Cầu Phật có Phật, cầu Ma có Ma.
Đạo lý là như vậy!
Phật – Ma, Ma – Phật ở tại tâm. Cha thường
dạy, tâm chánh là Phật, tâm tà là Ma. Như vậy Phật là đâu? Phật là tâm. Ma là đâu?
Ma cũng là tâm. Tâm là đâu? Tâm là ta đây chứ còn đâu nữa. Như vậy rõ ràng chính
ta vừa là Phật, vừa là Ma. Giác thành Phật, mê thành Ma. Phật dạy, bất cứ lúc nào
ta biết quay đầu thì thành Phật liền, đạo lý chính là ở chỗ này.
Ma có bốn
loại ma: nội-ma, ngoại-ma, ngũ-ấm-ma, tử-ma. Con ma của chính ta là nội-ma hay
là phiền-não-ma, ngoại cảnh là thiên-ma hay ngoại-ma, thân-thể-vô-thường là ngũ-ấm-ma,
cái làm cho ta chết là tử-ma. Chúng ta đang mê nên đang sống trong sự kiểm soát
của ma lực. Hễ nội-ma của ta mở cửa thì ngoại-ma nhập vào. Nếu ta ngoan ngoãn
chấp nhận hiện tượng này, không phản ứng thì tạm yên, vì sau cùng ta đều phải
tuân phục sự dẫn độ đến chỗ sai lầm.
Người
ta thường cho rằng “sống làm người, chết làm ma”. Đó là tự họ muốn vậy, vì thế đám
chết mới gọi là đám ma. Bây giờ biết tu hành thì ta có thể đổi lại là “sống làm
người, vãng sanh thành Phật”, thì khi mãn báo thân này ta làm tiệc vãng sanh, kêu
người ta tới hộ-niệm cho ta vãng sanh.
Bình thường
con người vô tình hay cố ý đều làm những việc sai lầm, thường cứ cầu xin về những
nẻo hiểm ác mà họ không hay. Ví dụ, như vì tình nghĩa vợ chồng quá thâm trọng,
“…xây mồ bên cạnh nguyện xuống âm phủ gặp nhau…”. Có lần bác Ba Th. nói với
con: “… Bác có chết thì bác xuống địa ngục một mình, bây giờ nhà bác bác ở,
nhất thiết không đi đâu hết…”.
Thật là
dễ sợ! Dựng tóc gáy! Nghĩ cho kỹ, nhà đó đâu phải là nhà của bác. Đó chỉ là cái
thứ vô-thường dựng lên cho cái thân vô-thường tạm trú. Một vài năm nữa rồi vô-thường
cũng trả về cho vô-thường, bác có ở lại giữ được đâu? Tại sao chúng ta không nhận
ra thực giả mà tìm đường thoát nạn vậy? Ở trên đời này, con cái dù có bất hiếu
tới đâu, nhiều lắm cũng chỉ nói một vài câu sai lầm mà ta đã chịu không nổi, lại
thề xuống địa ngục cho thỏa giận.
Đơn giản
như vậy sao! Ở đó, họ đâu có thèm nói nặng nhẹ, họ túm cổ ta liệng vào chảo dầu
mà chiên, trói cổ vào trụ đồng mà đốt, cột đầu trên giường sắt mà nướng, cho hàng
trăm đao ngàn kiếm phanh thây ta ra thành muôn mảnh… chứ đâu có hiền!
Địa-ngục có nhiều tầng cấp, có Vô-Gián địa
ngục, A-Tỳ địa ngục, Căn-Bản địa ngục, Du-Tăng địa ngục, Biên-Địa địa ngục… một
ngày ở đó, nhẹ nhứt cũng dài bằng hai ngàn bảy trăm năm trên thế gian. Trong kinh
Phật nói, dưới địa ngục một ngày chúng sanh bị thọ hình chết đi sống lại cả ngàn,
vạn lần. Tính ra, nếu tội nhẹ thì chết một ngàn lần trong ngày, một ngày dài
hai ngàn bảy trăm năm, như vậy cứ hai hoặc ba năm bị hành hạ chết đi sống lại một
lần. Nếu nặng thì bị hành hạ chết một vạn lần, nghĩa là cứ hai hoặc ba tháng thì
bị cực hình đến chết một lần. Đâu phải tầm thường, mà cứ muốn xuống địa-ngục sống
cho yên! Xin Cha má hãy sớm tới thăm bác và giúp cho bác Ba hiểu mà bỏ đi lời
thề này. Khuyên bác tuổi già hãy mau mau biết buông xả, về ở với con cháu cho
anh Hai Lý lo liệu phụng dưỡng, và chính bác phải gấp rút niệm Phật cầu vãng
sanh Tây-phương mới mong thoát nạn được, còn không thì thê thảm lắm đó!
Trở lại
chuyện tại sao người tu bị phá hoại? Trước đây con thường ví như người đang gia
nhập đảng cướp, hễ tiếp tục tùng phục chúng thì tạm yên để làm ác, nếu tìm cách
thoát thân thì coi chừng bị chúng ám hại. Nên nhớ, yên là yên tạm bợ rồi chờ ngày
bị quốc gia chế tài chứ đâu phải yên lành luôn đâu. Quốc gia tượng trưng cho Phật,
đảng cướp tượng trưng cho ngoại lực. Quốc gia vẫn hằng bảo vệ chúng ta, tại vì
chúng ta tự theo kẻ cướp thì đành chịu pháp luật chế tài chứ làm sao được phước
huệ của quốc gia. Sự lý là vậy. Phật đang ngày đêm cứu độ chúng sanh, chúng
sanh không chịu nghe, lại làm điều sai lạc để sau cùng bị dẫn độ vào đường khổ
nạn. Đây là tại ta tự nguyện chứ đâu phải tại Phật.
Cho nên,
Tổ sư mới có câu, “Vô Thiền vô Tịnh-độ, thiết sàng tinh đồng trụ”, (người không
tu Thiền mà cũng không tu Tịnh thì hãy chờ mà vào địa-ngục để nhận chịu hình phạt
“giường-sắt” và “trụ-đồng” thiêu đốt). Người giác ngộ biết vậy, chi bằng tìm cách
thoát nạn trước có hay hơn không? Những tiên triệu khổ nạn này thường có thể dễ
thấy nhứt, là lúc báo thân sắp mãn. Ví dụ, như có người điên cuồng, mê muội,
ngu si… (theo cảnh giới của súcsanh); có người loạn óc, hung hiểm, đố kỵ, lúc
chết bị khủng bố hãi hùng… (cảnh giới địa-ngục); có người tham lam, bỏn xẻn,
gian xảo, lường lọc… (cảnh giới ngạ-quỷ); có người mê mê tỉnh tỉnh, như đang
sống với một thế giới vô hình nào đó, (cảnh giới ma-quái), v.v… Người không
hiểu đạo cứ tự nhiên coi sự việc bình thường, người hiểu đạo họ thấy suốt luôn
cả sự thể tương lai, hiểu được cảnh tượng thê lương sau đó, cho nên mới lo toan
tu hành thoát nạn.
Khi tìm
cách thoát ly thì đôi lúc có thể bị tà lực tới phá hoại để tìm cách kéo chân mình
lại. Chính vì không hiểu chuyện này mà có người cho rằng tu hành mới bị trở ngại,
còn không tu thì yên thân, nên thà đừng tu thì sướng hơn! Đây là lý luận không đúng.
Nhìn con mèo đang say sưa liếm mỡ trên lưỡi dao mà cảm thấy rợn người, cha má ạ!…
Trở lại
vấn đề niệm Phật. Trước đây con thường nói phải thành tâm chí kính niệm Phật,
biết buông xả thế tình thì tự nhiên thành công. Hôm nay con nói rõ hơn, dễ hiểu
hơn :
1) Là
thành thật niệm Phật: Niệm Phật là niệm
cho mình vãng sanh, chứ không phải niệm cho người khác biết mình có tu hành. Tốt
nhứt là cha má hãy âm thầm niệm Phật và âm thầm cầu nguyện vãng sanh Tây-phương
Cực-lạc hàng ngày, thoát ly khỏi thế giới Ta-bà này, còn người khác có khen hay
chê không cần thiết. Trần tục này quá khổ, quá điên loạn, là thế giới ngũ trược
ác thế. Hãy chán bỏ nó đi mà thành tâm nguyện về với Phật cha má ơi, còn nếu chần
chừ thì không còn cơ hội để thử lại nữa đâu. Người ngoài, con cháu, làng xóm…
nên thành tâm khuyên họ tu hành, ai nghe theo thì tốt, không theo thì tùy theo
duyên của họ. Riêng cha má cứ một lòng ngày đêm niệm Phật, ngày ngày lập lại lời
nguyện vãng sanh. Nhứt thiết không được bỏ một ngày nào hết.
2) Là
thực thà, hiền lành, giúp đời: Niệm
Phật đã quyết một đường vãng sanh, thì xin cha má cố gắng mà làm phước làm lành
nhiều hơn nữa. Tình thực mà nói, ông bà mình có danh vọng, có phước báu, ruộng
“cò bay thẳng cánh, chó chạy ngay đuôi!” nhưng sau cùng cũng trụi lủi, không giữ
được cho hậu thế qua một thế hệ, không giúp được đàn con cháu khỏi tha phương cầu
thực… Người có phước mà biết làm phước, thì dù cho thế sự có xoay vần tới đâu
phước lộc của họ cũng tự tìm cách chuyển đến cho họ dùng. Ví dụ, như ruộng vườn
nó chuyển thành tiền bạc, danh phong chuyển thành phúc lộc cho con cháu đỗ đạt
thăng quan… còn nếu không chuyển được thì đó là do đức mỏng. Đây là lời nói
thành thực. Con dựa theo kinh Phật mà nói, muốn nêu lên để cảnh tỉnh mọi người.
Chúng ta hãy mau mau sớm quay đầu tỉnh giấc “hoàng lương” mới mong tạo được phước
đức.
Đời nhà
Tống, có ông Phạm-Xuân-Yểm trọn đời lấy tâm từ thiện giúp đời. Lúc nghèo không đủ
ăn ông cũng nhịn phần ăn của mình để giúp người khó hơn. Quả báo này đưa ông đến
hàng tể-tướng. Làm tể-tướng nhưng ông vẫn giữ phận thanh bần, để dành tiền giúp
đỡ dân lành. Con cháu của ông tuân theo giáo huấn này mà sống. Kết quả, gia tộc
ông ta trải qua hàng ngàn năm, đến nay con cháu vẫn đời đời sung túc, quan lộc,
phước đức hưởng không hết.
Phật dạy,
phải tu cái nhân mới có cái quả. Nhân thiện quả thiện, nhân ác quả ác. Hôm nay
mình muốn được quả thiện lành mà không chịu tu nhân thiện lành, thì chắc chắn
không bao giờ được. Người tham làm giàu mà không thiện lành thì dầu có bạc tỉ đi
nữa nó cũng tìm mọi cách để tan biến như bọt nước vậy! Có phước, giàu có thì thấy
tốt trước mắt nhưng coi chừng bị nạn “Tam-thế-oán”. Nghĩa là khi có phước báu,
danh vị, tiền bạc cứ lo tận hưởng, tạo nghiệp, không chịu tu hành tiếp, thành
thử cái phước tiêu tán nhanh chóng. Chính vì vậy, họ khó bề thoát nạn, con cháu
cũng lận đận long đong. Biết như vậy, tuổi già rồi, cúi mong cha má hãy mạnh dạn
quay đầu, dũng mãnh làm phước thật nhiều để lót đường cho sự vãng sanh. Được vãng
sanh Tây-phương là đại phúc đức, đại thiện căn, không những cho chính cha má mà
còn cho Cửu-Huyền Thất-Tổ quá khứ, cho con cháu ở vị lai.
Muốn được
vậy, già rồi thì sự nghiệp thế gian phải tức khắc xa lìa. Tiền bạc, danh lợi,
nhơn nghĩa, thị phi… phải biết tức khắc chán chê. Em Hai Phú giúp đỡ cha má
thường ngày thì hãy giúp cho em chút ít. Trong làng xóm có ai quá khổ thì mình
tằn tiện chút tiền đem cho… Con xin bảo đảm với cha má, cha má cứ đi bố-thí đi,
nếu có nghèo đói con xin nhận chịu tất cả cho. Nếu con không đủ lo thì anh chị
em, con cháu thấy cha má có tâm từ bi như vậy, chắc chắn không ai nỡ vô tâm bất
hiếu được đâu. Phật dạy bố-thí tài được giàu có, cụ thể cứ việc thành thật thương
người trong làng, trong xóm, tìm cách giúp đỡ cho người khổ, cha má sẽ tức khắc
thấy ngay kết quả.
Quyết lòng
làm thiện, thiện căn sẽ vượt trội, phước thiện sẽ chuyển đổi hoàn cảnh trước mắt
liền lập tức. Xin tin tưởng chắc chắn như vậy! Đừng nên so đo với lòng ích kỷ của
những người giàu sụ, cái đó vô-thường như huyễn mộng, phiêu phỏng như số phận bóng
nước dưới cơn mưa chứ không có gì đâu. Xin cha má nghe lời con, làm đi để thoát
nạn.
4) Là
dứt khoát xả bỏ ơn nghĩa, nợ đời. Nếu cha má không biết lo sợ cái cảnh hãi
hùng của địa-ngục, cảnh đói khát của ngạ-quỷ, cảnh ngu si của hàng súc-sanh và
những cảnh giới tăm tối khác mà tìm đường thoát nạn, thì không ai có thể cứu
cha má được nữa rồi. Con xin nói thẳng, vì con người tình chấp quá thâm trọng,
chưa liễu giải được chân tướng của vũ-trụ nhân-sinh, cho nên cứ nằng nặc bám lấy
những cái tầm thường giả tạo của trần tục để sau cùng đành gia nhập ác thú khổ
nạn!
Con xin
hỏi rằng, có ai dám vì một vài tiếng khen tạm bợ để một vài năm nữa tự chấp nhận
đi vào cảnh thương đau vạn kiếp không? Cha má có dám hứa là vào trong đó bị đau
không thèm than khóc, bị khổ không thèm mong thoát nạn không? Như trong địa-ngục
có cảnh đao kiếm phanh thây, nếu một người tham tiền cứ thích lường gạt, gian lận,
không sợ địa-ngục thì hãy chỉ cảnh địa-ngục cho họ thấy. Cảnh địa-ngục ở đâu?
… Bị chém một dao cho một triệu, chém nhát thứ hai cho hai triệu, chém nhát
thứ ba cho bốn triệu… mỗi lần chém gấp đôi tiền lên. Tiếp tục chém mãi thôi.
Như vậy, chỉ trong một ngày họ trở thành người giàu nhứt thế giới. Dám không? Nếu
không dám thì hỏi rằng, cảnh địa-ngục còn ghê rợn hơn nữa tại sao không sợ?!
Con xin
nhắc lại, một ngày trong cảnh địa-ngục dài bằng hai ngàn bảy trăm năm trên thế
gian. Lịch sử dựng nước của Việt-Nam ta có bốn ngàn năm, một người bị rơi vào địa
ngục từ đời Hồng-Bàng đến nay thọ cực hình chưa mãn hai ngày ở đó. Cha má và
anh chị em có dám tham những thứ: tài, sắc, danh vọng, hân hoan nhận vài tiếng
vỗ tay cho nở mày nở mặt một vài phút, rồi chịu hàng trăm đao, ngàn kiếm phanh
thây vạn kiếp dưới địa-ngục chăng?
Rất nhiều
nơi không hiểu được thực tướng của cảnh giới nên cứ nói đại, sống bừa, thác bãi…
tự dựng nên những danh từ như là: thiên-cơ, định-mệnh, tử-vi, mạng-số,.. chứ thật
ra những ý nghĩa này đã được Phật giải bày tường tận chi tiết, rõ ràng, trong định
luật nhân-quả. “Nhân duyên quả báo tơ hào không sai” chính là định-mệnh, thiên
cơ, mạng số… đó. Vì không hiểu thấu đạo lý đành phải nói đại là “bất-khả-lậu”
đó thôi! Chứ thật ra tất cả những cái đó đều do chính ta tạo tác ra rồi chính
ta thọ lãnh cả. Đó chỉ là định luật của nhân-quả. Ví dụ, như cha má đời kiếp trước
chắc chắn có tu hành, có phước thiện nên đời này mới có người hướng dẫn đường vãng
sanh.
Vãng
sanh là con đường đại thiện, đại phước, nếu cha má chịu hưởng phước này thì cha
má hoàn thành được tâm nguyện của vô lượng kiếp nay, còn cha má từ chối thì tự
cha má tiếp tục rước lấy đau thương! Những đời kiếp sau nếu còn làm được con người,
có may mắn lắm thì chẳng qua cũng gặp được người tới giảng vài câu Phật pháp rồi
đi, tu hành được hay không tùy theo cha má định. Còn không may thì vĩnh viễn không
bao giờ gặp lại đạo giải thoát nữa đâu.
Phật dạy, có ba hạng
người niệm Phật không thể vãng sanh:
1) Là người còn tham đắm phước-báu nhân-thiên;
2) Là người học rộng, hiểu (chuyện thế gian) nhiều;
3) Là người phân-biệt chấp-trước.
Phước-báu
nhân-thiên là tham ngũ-dục, lục-trần. Ngũ-dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy; lục-trần
là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người có kiến thức rộng thuộc về pháp trần,
gọi là sở-tri-chướng. Phân-biệt chấp-trước là người ganh tị cố chấp. Những người
này, nếu không bỏ, dù có niệm Phật cũng không thể vãng sanh. Phật dạy rõ ràng
minh bạch, càng nghiên cứu kinh điển của Phật, ta càng giật mình tỉnh ngộ. Tất
cả bí mật của nhân-sinh vũ-trụ đã được Phật khai bày chi tiết từ ba ngàn năm về
trước mà ta không hay biết gì cả, cứ lầm lũi dắt nhau đi vào hầm lửa, tự thiêu đốt
chính mình. Đáng thương thay!
Trở lại
với sự sơ suất khi niệm Phật. Vì không hiểu cái tác dụng vi diệu của câu Phật
hiệu, cho nên nhiều người móng tâm cầu xin đủ thứ để sau cùng không được gì cả.
Trong mấy thư trước con đề cập đến chuyện thấy Phật, dùng câu Phật hiệu để phục
vụ cho các pháp luyện khí, mở luân-xa, luyện thần-thông… Tất cả những việc làm
này không tốt đâu. Xin cha má, anh chị, em đừng làm. Trong đó, chuyện mơ thấy
Phật, Bồ-tát hiện thân rất phổ biến. Hầu hết người có thiện tâm tu hành nhưng
không hiểu lý đạo thường dễ lầm lạc chuyện này. Chính con cũng phập phồng lo ngại
cho cha má, vì nóng lòng cầu cảm ứng mà dễ bị rơi vào. Hôm nay con nói thêm về
cảnh giới này cho rõ hơn. Xin cha má và anh chị em cố gắng hiểu thấu.
Thứ
nhứt: Như đoạn trên và những thư trước
con nói là ma-chướng, oan-gia trái-chủ phá hoại để lôi mình trở lại với chúng để
bị đọa lạc. Nghĩa là, bảo mình đừng niệm Phật nữa và sống bình thường như trước
giờ để chúng có dịp trả thù, đòi nợ. Cách phá của chúng là lợi dụng lúc ta chưa
có công phu tốt, dựa theo sự dao động của tâm mà thừa cơ đột nhập để làm thân tâm
ta bất an. Muốn tránh được chuyện này thì ta đừng mong cầu là được. Cứ một lòng
thực thà, hiền lành niệm Phật, tin chắc chắn vào câu Phật hiệu, tin chắc vào sự
bảo vệ của Bồ-tát, biết chắc rằng Phật A-di-đà gia trì cho mình để vãng sanh. Đừng
mong cầu những thứ vị kỷ bất chính như tiền tài, danh vọng, dâm tà… Cũng đừng
cầu thấy Phật, Tiên, Thánh… tất cả đều để tự nhiên. Một điều cần nhớ là trong
nhiều đời nhiều kiếp rồi chắc chắn mình đã tạo nghiệp sát rất nhiều, người đi lính
thì giết người hại mạng, còn không cũng giết hại chúng sanh để ăn. Cho nên ai cũng
có nhiều oan gia trái chủ, có oan hồn rình rập báo thù. Vì thế, ta phải hằng ngày
đem công đức tu hành hồi hướng cho họ, nguyện tu thành Phật về cứu độ họ. Có vậy
ta mới an ổn tu hành.
Học Phật
phải tuyệt đối tin lời Phật dạy, đừng hiếu kỳ. Vì ta chưa thông đạo lý nên cứ
thấy hay hay lạ lạ thì nhào vô làm thử, vô tình rất dễ bị mê loạn, khó tự chủ về
sau. Nếu để ý một chút ta thấy ngay rằng, hầu hết chỉ là những pháp tu lo thu đạt
phước hữu lậu. Những lý pháp nửa vời này, gọi là “bất liễu giáo pháp”,
thả lửng giữa đường mà ta không chịu chú ý. Chư Phật và chư Tổ sư dạy, nếu chúng
sanh không chịu phân biệt chánh tà, cãi lời Phật dạy, chạy theo sự hão huyền thì
bị đọa lạc, mất huệ-mạng. Vạn lần xin thức tỉnh.
Thứ
hai: Trên thực tế, pháp niệm Phật dễ
thành đạt đạo nghiệp, vãng sanh bất thối thành Phật. Nhiều người niệm Phật
trong đời họ đã thấy Phật hiện thân an ủi hay thọ ký. Rất nhiều người biết trước
ngày giờ ra đi, có nhiều người xin hẹn ngày ra đi cho thuận lợi việc sắp xếp hậu
sự. Điều này là thực. Có hai vấn đề:
1) Là
người thực sự chân thành niệm Phật. Thư
này con gọi là người hiền lành niệm Phật, thực thà cầu sanh Cực-lạc, biết buông
xả vạn chuyện thế gian. Chính vì sự thành tâm này mà họ đã đạt công phu thành
thục, ngày đêm tiếng Phật hiệu không gián đoạn trong tâm, họ đã được cảm ứng đạo
giao. Phật đã chính thức xuất hiện thọ ký. Bà cụ Triệu-Vinh-Phương là một ví dụ,
bốn năm niệm Phật thì tự tại vãng sanh, hai lần thấy Phật xuất hiện thọ ký. Có
nhiều vị thấy ba lần trong đời và họ được cho biết ngày nào, vào giờ nào Phật đến
tiếp dẫn. Đây là thực, không phải giả.
2) Là
người chưa có công phu niệm Phật tốt, tâm còn lao chao đủ thứ, lòng còn tham
luyến thế gian, tham – sân – si còn đầy đủ… mà thường xuyên thấy Phật, thì đây là giả, không phải thực!
Nên chấm dứt ngay, đó chỉ là vọng tưởng tạo nên mà thôi, không nên kéo dài thêm
nữa vì càng lâu càng khó gỡ!
Hỏi rằng,
làm sao phân biệt được giả-thật? Phật nào cũng giống như nhau, làm sao cả
quyết?
Đúng vậy,
khó lắm! Nhưng khó với người không tu hành, chứ còn người thành thực tu hành thì
thấy rõ ràng thật hay giả. Tiêu chuẩn chính là công phu thành thục. Người tu hành
chưa thành thục nhìn vào biết liền. Người lão thật niệm Phật, biết buông xả, muốn
vãng sanh Tây-phương, dù họ chưa được nhất-tâm-bất-loạn, cũng thể hiện ra sắc tướng
sự thanh-tịnh trong tâm. Một người được Phật thọ ký chắc chắn tiêu chuẩn tối
thiểu là tâm đã có một mức thanh-tịnh nào đó. Một khi đã được Phật thọ ký, tự họ
đã khai mở nhiều trí-huệ. Người biết tu hành thoáng nhìn là biết ngay, khỏi cần
hỏi. Chính đây là tiêu chuẩn phân biệt phải trái.
Tuy nhiên,
một khi tâm chưa thanh-tịnh, hễ nhắc thêm một chuyện thì tâm lại móng cầu thêm
một chuyện làm cho khó giữ được thanh-tịnh hơn! Cho nên, chư Tổ dạy rằng có thấy
được Phật thì tốt, mà không thấy được Phật thì còn tốt hơn nữa. Vì sao? Vì chắc
ăn hơn! Nếu tâm đã thanh-tịnh thì đâu cần Phật đến an ủi, còn nếu tâm chưa
thanh-tịnh thì không thể thấy Phật, chính thế mới biết công phu của mình vẫn còn
quá kém mà ráng tinh tấn tu hành thêm lên, ráng niệm Phật, ráng buông xả nhiều
hơn. Tổ Ấn-Quang dạy, luôn luôn phải nghĩ rằng công phu của mình còn kém thì mới
thành đạt được, là lý do này.
Như vậy,
thấy Phật giả hay thực tùy theo trường hợp. Tất cả anh chị em hoặc cha má mỗi
khi thấy chuyện gì xảy ra nên cho con biết để góp ý kiến cho vững tâm. Hãy cho
con biết liền, con có thể cố vấn được. Đừng âm thầm đắm vào đó mà nhiều khi
mang họa!
Để rõ
thêm vấn đề thấy Phật xuất hiện, chúng ta cũng nên hiểu thêm về pháp giới một
chút. Phật có rất nhiều thân chứ không phải chỉ có một thân, quy tụ lại thành
ba thân cho dễ nhớ, đó là Pháp-Thân Phật, Báo-Thân Phật và Ứng-Hóa-Thân Phật.
Phật Tỳ-Lô-Giá-Na là Pháp-Thân Phật; Phật Lư-Xá-Na là Báo-Thân Phật, cảnh giới
này quá cao không dám bàn tới hôm nay. Còn Ứng-Hóa-Thân Phật thì liên quan trực
tiếp đến chuyện này. Đức Thích-ca Mâu-ni Phật là Ứng-Hóa-Thân của Phật. Có hai
phần: Ứng-Thân và Hóa-Thân. Cõi Ta-bà này hiện giờ là quốc độ giáo hóa của đức
Phật Thích-ca Mâu-ni, rộng đến tam thiên đại thiên thế giới, (một thế giới là một
giải ngân hà, một giải ngân hà có hàng tỷ cái thái-dương-hệ). Một đại thiên thế
giới có hàng tỉ dãy Ngân-hà, đó là khu giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Ở mỗi nơi
Ngài thị hiện một Ứng-Thân chính (hay còn gọi là Liệt-Ứng-Thân) để cứu độ chúng
sanh. Tại quả đất này Ứng-Thân của Ngài là Thái-Tử Tất-Đạt-Đa ở xứ Ấn-Độ. Như vậy
đức Phật Thích-ca Mâu-ni không phải là Thái-tử Tất-Đạt-Đa, mà Thái-Tử chỉ là một
Ứng-Thân của Phật thị hiện trên quả địa cầu này để khai đạo cứu độ chúng sanh mà
thôi. Ứng-Thân này tùy thuận theo thân thể của chúng sanh tại nơi đó.
Còn Hóa-Thân
Phật là sao? Ta thường nghe nói Phật có thiên bá ức Hóa-Thân. (Nghĩa là:
1.000 x 100 x 100.000 = 10.000.000.000 (10 tỉ Hóa-Thân)). Đó là con số tượng trưng
chứ thật ra Phật có vô lượng vô số Hóa-Thân. (Mỗi người chúng ta khi vãng sanh
về Tây-phương cũng có được thiên bá ức hóa-thân như Phật vậy). Hóa-Thân này Ngài
ứng hiện khắp nơi tùy theo nhu cầu để cứu độ chúng sanh, có lúc thì hiện nguyên
hình theo ý dục của chúng sanh. Ví dụ, cha má quán tượng Phật màu vàng kim thì
Phật tiếp độ với Hóa-Thân Phật màu vàng kim giống như tượng thờ. Người thích tượng
Phật màu trắng thì Hóa-Thân có màu trắng. Chính vì vậy mà ta nên thờ một tượng,
niệm một câu Phật hiệu mà thôi, không nên thờ nhiều hình tượng để tránh khỏi bị
tạp niệm hoặc bị phân tâm lúc lâm chung mà có thể dẫn tới mất phần vãng sanh.
Phật cũng
thường âm thầm thị hiện xuống thế gian thành những vị cao tăng thuyết pháp độ
sanh, thành Bồ-tát tại gia giúp đời hành đạo… Đây gọi là Hóa-Thân của Phật, Bồ-tát.
Nên nhớ một điều, quý Ngài tái lai xuống trần, thì tuyệt đối không bao giờ thố
lộ danh tánh. Hóa-Phật nhiều lúc cũng ứng hiện trong mộng, trong hào quang, giữa
không trung trong một khoảnh khắc rồi biến… Ví dụï, như năm 1998 lúc bốn giờ
sáng, cụ Triệu-Vinh-Phương ra giữa sân tự nhiên thấy trên hư không hào quang sáng
rỡ, đức Phật A-di-đà hiện thân thọ ký. Mấy năm trước đây ở Mỹ, khi người ta làm
lễ khánh thành tượng đài đức Quán-Thế-Âm, ngay lúc làm lễ tự nhiên trên không
trung trong vắt xuất hiện hào quang chiếu xuống cả tiếng đồng hồ, lại xuất hiện
tiếp một đám mây giống y hệt như tượng đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát ngồi giữa không
trung. Những cảnh này người ta đều đã chụp và quay hình lại được. Tất cả hiện tượng
này đều là Hóa-Thân. Cho nên, một người niệm Phật đắc lực, tâm thanh-tịnh, thấy
được Phật thì đây chính là thấy Hóa-Thân của Phật vậy.
Thưa cha má, trong nhiều đời nhiều kiếp cha má có tu hành
tích công lũy đức, quả báo kết lại trong đời này cha má mới hưởng được cái phước
duyên đại thiện, là cuối đời cha má đã gặp được những người con có hiếu quyết lòng
lo lắng cứu độ vãng sanh. Con thành tâm khuyên cha má hãy hạ quyết tâm niệm Phật,
quyết chí cầu vãng sanh Tây-phương để về với Phật, hãy hoan hỷ đón nhận ân huệ
của đức Phật A-di-đà và chư Phật mười phương đã ban riêng cho cha má. Quyết đi,
thì chắc chắn đi được. Không đi, chắc chắn khó thoát sự đọa lạc. Tất cả đều tùy
theo sự quyết định của chính cha má.
Niệm Phật thành Phật. Cha má niệm Phật thì nhân này là
nhân Phật, chắc chắn sẽ thành Phật quả trong tương lai.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Australia ngày 11/9/02).
Chết là một vọng tưởng.Thân hình,thể xác không phải là Ta. Nhiều người cứ lấy thân xác này là Ta cho nên sanh ra lo sợ.(Pháp Sư Tịnh‐Không).
23 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má,
Tất
cả vạn sự sự vật không có gì thoát khỏi định luật nhân quả. Thiên cơ, định mệnh
chỉ là một cách gọi khác của định luật nhân-quả mà thôi. Trồng dưa được dưa, trồng
đậu được đậu, chính vì vậy mà An nó tìm cách cho cha má có cơ hội bố thí làm phước
để tạo thêm phước báu lót đường tương lai cho cha má. Trong những ngày về thăm,
An nó tâm sự với con rằng, “…mình làm sao cho cha má an tâm không lo gì về tiền
bạc, hơn nữa còn phải coi nhẹ tiền bạc. Mỗi tháng tiêu dùng nếu thiếu mình bồi đắp
cho đủ, nếu dư cha má phải đem cho người ta hết, cho nhiều mình sẽ bù vào nhiều
cho cha má, nếu còn dư mình trừ số tiền đó trong phần cấp dưỡng tháng sau…”.
Nghĩ tới lời này mà con thương em nó, trong tất cả những người con của cha má
không biết còn có ai thành tâm, thành ý hiếu thảo lo lắng cho cha má như An nữa
không?
“Bổ
bất túc, tổn hữu dư”, (bù chỗ
thiếu, lấy phần dư) là đạo lý của Lão-học, là triết lý của dịch-học, không biết
An nó học sách Thánh-Hiền từ hồi nào mà nói lên được đạo lý này. Cha má bố thí
nhiều, mình nguyện cung ứng thêm cho cha má làm phước cứu giúp người. Cha má để
dành lại thì coi như tiêu dùng còn dư mình phải lấy lại phần đó. An đề nghị như
vậy là nó không muốn cha má tiếc tiền trong việc bố thí giúp người. Nghĩ tới ý
tưởng này con mới giựt mình vì con vẫn còn có nhiều sơ sót, một đề nghị đơn giản
như vậy mà chính con chưa nghĩ ra. Tư tưởng này người bình thường khó hiểu tới,
nhưng người thông hiểu được đạo mới thấy chí lý, cao siêu. Có được tư tưởng thiện
lương như vậy chứng tỏ được lòng hiếu thảo chân thực của một người con. Hòa-Thượng
Tịnh-Không dạy, “Phật đạo dẫn cho đến cùng lý chỉ là tròn hiếu đạo mà thôi”.
Người có tâm chí hiếu tự nhiên cảm ứng đạo giao, Phật Trời phù hộ, trí huệ phát
sinh. Người sống mà thiếu hiếu hạnh thì như trong cửa Khổng thường nói là “Thiên
Địa bất dung”, “Quỷ Thần bất phục”, đã bị như vậy rồi thì làm sao mà nên thân được.
“Bổ bất túc, tổn hữu dư”, là đạo sống trung hòa. Bù chỗ thiếu để giảm phiền não,
ngăn trừ cái độc “Sân”; Lấy phần dư để phát tâm rộng rải, phá trừ cái độc
“Tham”. Giảm giận dữ và tham lam là mở đường của trí huệ, có trí huệ thì phá được
si mê. Đoạn trừ được ba chất độc tham, sân, si là phá được cái gốc của tam đồ lục
đạo, mở đầu con đường để giải thoát. Một đề nghị tuy đơn giản nhưng hàm chứa
trong đó cả một đạo lý làm người thiện lành. Cho nên, có trí huệ mới thấy giá
trị, có hiếu thảo mới thấy chí lý, có thấu triệt đạo lý mới thấy cao siêu.
Thưa
cha má, thông thường con người cứ khư khư bảo thủ, tằn tiện cất giữ tiền bạc để
làm vốn liếng, tạo sự nghiệp. Việc làm này đối với tuổi trẻ có thể cho là chuyện
thường tình, nhưng nghĩ cho kỹ cũng thấy buồn cười rồi. Còn đối với người già cả
mà cất giữ tiền bạc thì thật là chuyện tiếu lâm của kiếp nhân sinh! Vì sao vậy?
Vì, thân người chờ đợi từng ngày một để ra đi, thì còn ham chi nữa những thứ bất
tịnh này cho ô nhiễm tâm hồn? Người ta cứ nghĩ rằng không tằn tiện thì tiền sẽ
hết, không thủ giữ thì mai hậu làm sao sống. Thử hỏi người già rồi mà còn có
mai hậu nữa sao? Khi nằm xuống rồi có moi tiền để sống được không? Còn về chuyện
phước báu trên đời, thì thực tế mình thấy thường trái ngược lại, người càng bố
thí càng giàu, người càng rộng rãi càng có nhiều tiền, người ưa giúp tha nhân
thì hoàn cảnh sống càng ngày càng thoải mái hơn. Bên cạnh đó người càng keo kiệt
càng cô đơn cùng khổ, càng ngày càng nghèo xác xơ…!
Đó là
định luật của nhân-quả, người đời thường gọi là định-mệnh, tất cả đều đã an bài
rồi. Thế thì sống trên đời cần gì phải lo lắng nhiều, cần gì phải chạy mánh
mung bất chánh để kiếm tiền, bon chen thủ lợi, suốt đời quần quật để tranh giành
làm chi những cái gì của chính mình đã sẵn có trong định-mệnh. Người giàu là vì
trong mạng họ có tiền, nghèo là vì số họ bị nghèo. Danh vọng, quyền lợi, địa vị…
mỗi thứ đều do cái nhân của chính họ đã trồng từ trước, thì tại sao không chịu
an tâm tu nhân để được hưởng thêm quả mới, lại cứ lo tìm quả để gây thêm cái nhân
xấu mới và rồi nhận lãnh cái vận mệnh xấu trong tương lai?
Ngày
về quê con có nghe kể một câu chuyện, có người có tiền của rất nhiều, có đầy một
lon hột xoàn, đầy một lon vàng, mà suốt một thời gian qua không dám tiêu dùng,
con cái phải khổ sở làm kiếm từng đồng để sống, trong khi đó kim cương, hột xoàn,
vàng, bạc lại âm thầm chôn giấu ở sau vườn. Sau cùng, hai lon của cải không cánh
mà bay mất. Của thì mất rồi, còn người thì tiếc của đâm ra ngơ ngơ, ngẩn ngẩn.
Cho nên, người già cả mà cất giữ tiền bạc quả thật là cái họa vào thân. Câu
chuyện này là một chứng minh điển hình. Rõ ràng có tiền của chưa chắc là phước,
ngược lại không biết sử dụng nhiều khi trở thành họa, cái họa trong đời này có
thấm thía gì đâu, cái đọa lạc khổ đau vạn kiếp về sau mới là điều ghê sợ!
Cho
nên con tha thiết khuyên cha má nên biết buông tất cả những thứ đó xuống,thì mới
có cơ hội vãng sanh về với Phật, còn tham luyến cất giữ thì nó sẽ là cái gông,
nó cùm chân mình lại trong bể khổ luân-hồi. Ví dụ, người mất hết hai lon vàng hột
xoàn bây giờ tiếc ngẩn tiếc ngơ. Họa hay phước đây?! Người hiểu đạo thì biết đây
chỉ là số mệnh, hễ mệnh có nó ở, mệnh không nó đi, thì cần gì phải buồn. Thế nhưng,
vì không hiểu đạo cho nên việc này trở thành phiền não vô cùng, buồn rầu vô tận!
Đó chính là nghiệp chướng, là cái gông nó trói đầu mình lôi vào tam ác đạo chứ
còn gì nữa.
Trong
cái phước có cái họa, có phước mà không biết làm phước thì cái phước nhanh chóng
biến thành họa. Ví dụ như người mất của nếu cứ tiếp tục buồn mãi, thì chẳng phải
là tự mình muốn mai đây trở thành con thằn lằn, hằng ngày ôm cột nhà, tiếc của
mà tắc lưỡi suốt kiếp mới đành hay sao!
Thưa
cha má, người không có phước đức không thể hưởng được phước báu, dù cho của tiền
có đến tận tay. Người mà không lo làm thiện thì dù bạc tỉ trong tay cũng sẽ trở
thành tay trắng. Chính như con đây, có thời tiền trong tay đếm không hết, nhưng
rốt cuộc có lúc đói không có tiền mua được ổ bánh mì. Tại sao vậy? Vì con không
có phước đức cho nên không thể hưởng phước lộc. Hiểu điều này rồi thì buồn làm
chi khi tiền tài đã mất, có buồn chăng là tự trách mình sao không chịu tu hành
sớm mà thôi. Phật dạy, có phước đừng nên tiêu hết phước. Phước tiêu thì họa đến,
nếu không mất tiền thì tai họa vào thân. Người đó nên hiểu rằng, lỡ có “Tổn-tài”
thì được “Tiêu-tai”, đây là điều may mắn quá rồi, không vui mà còn buồn nữa
sao?!
Tiền
bạc là “Thông-hóa”. Thông là lưu thông, hóa là biến hóa. Có thông mới có hóa,
không thông thì thành thối. Giống như nước vậy, có chảy mới trong lành, không
chảy thì ối đọng, trở thành nước độc. Có tiền mà bo bo cất giữ thì tiền đó thành
tiền chết, thứ tiền độc hại. Cái tính chất của tiền là lưu thông để làm lợi cho
mình, cho người, làm giàu xã hội, phục vụ quốc gia. Mình không cho nó làm tròn
nghĩa vụ của nó, lại âm thầm cất kỹ là làm trái ngược đạo lý, đã tự gây nên
nghiệp chướng. Nghiệp chướng tăng trưởng chưa bị hiểm họa là may, còn nói chi hưởng
phước. Phước đức hao mòn đến một lúc nó hết sạch, thì tự nhiên tiền tích giữ nó
cũng tự động tìm cách ra đi.
Chính
vì thế mà cất giữ tiền bạc là điều không tốt mà lại còn làm tiêu hao âm đức của
mình là vậy. Tuổi trẻ lưu giữ tiền bạc nó ít gây nghiệp chướng hơn, vì chúng nó
còn có dịp tung tiền ra để đầu tư, lập cơ xưởng, tạo thêm công ăn việc làm cho
người khác, nghĩa là đồng tiền được “thông-hóa”. Còn già mà cất giữ tiền bạc lại
chỉ là món nợ, nợ cho đời này, nợ thêm đời sau, chứ không có chỗ giải quyết. Hơn
nữa, giữ tiền thì tâm bị dính vào tiền, rất nguy cho huệ mạng. Phật dạy, người
không chịu buông bỏ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) thì không tránh khỏi
tam đồ ác đạo, chắc chắn hậu lai không tốt!
Đời
trước có bố thí tiền, đời này được giàu có. Bố thí vui vẻ, thành thật thì tiền
vào dễ dàng, tiêu xài thoải mái. Bố thí mà so đo, tính toán thì có tiền nhưng
phải làm lụng vất vả. Người đã có phước đức thì dù vừa làm vừa chơi, tiền của vẫn
vô như nước. Người thiếu phước đức thì có cố gắng làm quần quật suốt đời, sau cùng
vẫn thành trắng tay. Cho nên, đạo hưởng phước báu chính là đạo tu nhân tích đức.
Vì vậy, tiền bạc vừa có đủ xoay xở
thì nên lo bắt đầu tích công lũy đức liền, có thế mới nên sự nghiệp. Người không
chịu tin định luật nhân-quả, cứ cưỡng cầu thâu đạt cái phước lợi chỉ là vọng tưởng,
có của thì mất của, buôn bán thì lỗ vốn, có được gia tài coi chừng nếu không bị
trộm thì cũng bệnh hoạn, không bệnh hoạn thì cũng gặp nhiều tai ương. Nghĩa là,
bằng mọi cách để nó tiêu hao sản nghiệp. Nói chung lại, rốt cuộc cũng hoàn không
mà thôi.
Làm chết xác để hoàn trắng
tay mà còn thêm họa vào thân, thì dại gì cứ chạy theo con đường đoản hậu vậy?
Dục
tri tiền thế nhân Kim sinh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả Kim sinh tác giả thị.
Muốn
biết cái nhân đời trước, hãy nhìn vào sự hưởng thụ trong đời này. Muốn biết cái
quả sau này, hãy nhìn đời này ta đang làm gì đây. Đây là đạo lý của Nhân-Quả,
không thể nào sai chạy được. Nếu biết rằng “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định”,
một hớp nước, một miếng ăn cũng không ra khỏi định mệnh trước, thì mình sẽ an
nhiên tự tại, tư thái thoát phàm, dù nghèo đến đâu ta vẫn sống an nhàn, thảnh
thơi.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”…
Tiên cảnh là đây chứ còn
tìm đâu nữa, phải không thưa cha má?
Nhân
đã có, thì quả ắt có. Nhân trong đời kiếp trước tạo ra quả trong đời này, thì
quả báo này thuộc về hậu-báo. Con người sinh ra trên đời là tự nhiên đã thọ lấy
cái quả báo của đời trước, đây gọi là định-mệnh. Nhân trong đời này tạo được quả
cũng trong đời này, thì đây là quả báo hiện tiền, hay gọi là hiện-báo. Hiện-báo
có thể thay đổi vận mệnh, thay đổi hoàn cảnh, đây gọi là “Tận Nhân-lực tri
Thiên-mệnh”.
Như
vậy, “định-mệnh” là nhân-quả, mà “đổi-định-mệnh” cũng là nhân-quả. Người xuôi
theo định mệnh thì sống trọn vẹn trong cái quả báo của đời trước, người không
xuôi theo định mệnh thì có thể tự cải tạo được định mệnh của mình bằng sự giúp
người, làm thiện.
Ví dụ,
đời nhà Minh có người tên là Hoàng-Khôn-Nghi ở tỉnh Giang-Tô, số ông khoa bảng
không cao, không con, thọ mạng chỉ tới 53 tuổi. Khi gặp Vân-Cốc Thiền-Sư bày
cho cách làm thiện để cải đổi vận mệnh. Ông Hoàng-Khôn-Nghi làm theo, ông phát
nguyện làm hàng ngàn việc thiện, cả gia đình đều ủng hộ làm thiện. Kết quả định
mệnh của ông đã chuyển hẳn, như được trường thọ, có khoa bảng, có quan nghiệp,
con cái đầy đủ. Ông đổi tên thành Liễu-Phàm và bốn bài khuyến thiện của ông là
“Liễu-Phàm-Tứ-Huấn” lưu lại đến ngày nay, trở thành sách gối đầu cho những ai
muốn hiểu thấu về nhân-quả, cải-tạo-vận-mệnh.
Như
vậy định-mệnh có thể cải tạo được. Định-mệnh chỉ là cách gọi khác của định luật
nhân-quả mà thôi. Con người chỉ có thể thay đổi định-mệnh trong đạo lý nhân-quả.
Nói rõ hơn, con đường chân chánh để thay đổi mệnh số là phải làm cái nhân tốt để
có cái quả tốt, nhờ cái quả báo tốt mà cải đổi hoàn cảnh sinh hoạt của con người.
Chính vì lý do này mới có sự khuyến khích tu hành để chuyển nghiệp, chứ không đổi
được định-mệnh thì tu hành làm gì?
Thưa
cha má, người thực sự hiếu thảo mới có những lời hiếu thảo. Người con hiếu thảo
mà hiểu đạo nữa thì không những có lời hiếu thảo, mà còn có thêm những hành động
hiếu thảo thực sự chu toàn cái đại hiếu. An nó đã hiểu được cái định luật của vũ-trụ
nhânsinh, nên mới đề nghị khuyên cha má cố gắng phát tâm bố thí, tích cực giúp
người để có nhân lành, tu bồi âm đức để hưởng được quả báo an lành. Cụ thể, như
hoàn cảnh của cha má ở quê thì nên giúp người trong làng xóm, có nhiều giúp nhiều,
có ít giúp ít, những chuyện này tụi con sẽ cố gắng ủng hộ cho cha má.
Trong
tất cả các pháp bố-thí, thì bố-thí-pháp như khuyên giải bà con tu hành, khuyên
họ niệm Phật, giảng giải pháp Phật, tạo duyên cho người ta niệm Phật là thù thắng
nhứt. Hãy cố gắng mở rộng tâm ra cầu mong tất cả mọi người đều niệm Phật để được
vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, thoát ly sanh-tử luân-hồi.
Cứ
thành tâm làm thì tự nhiên Phật Trời sẽ gia hộ. Nếu chân thành thương người, gắng
sức giúp ích tha nhân thì nghiệp lành sẽ lớn, nó bao phủ được nghiệp ác trong
những đời kiếp trước, nhờ thế mà quả báo tốt sẽ hiện tiền giúp cha má cải tạo được
định mệnh trong đời này.
Thành
thật bố thí giúp người thì phá trừ được lòng tham, những thứ tiền tài, danh vọng,
địa vị thế gian không còn có thể cám dỗ mình nữa. Buông xả được thì tự tại như
Thánh nhân, một Thánh nhân niệm Phật thì tức khắc được về với Phật là lẽ đương
nhiên. Nhiều người nhờ biết buông xả mà niệm Phật họ được vãng sanh dễ dàng, còn
người không chịu buông xả thì dù có niệm Phật cũng khó mà được vãng sanh. Cho nên,
phải nhìn cho thấu và buông cho trót cha má ạ. Dòng chữ bên trái trên tượng
Phật là, “Khán-Phá, Phóng-Hạ, Tự-Tại, Tùy-Duyên, Niệm-Phật”. Khán-Phá là nhìn
cho thấu sự thật của vũ trụ nhân sinh, hiểu rõ nhân quả; Phóng-Hạ là buông cho
trót thế tục phàm tình, nhàm chán ngũ dục, lục trần, đoạn trừ tham sân si mạn,
bố thí giúp người; Tự-Tại là tự do thoát tục, thư thái thanh nhàn, an nhiên vui
sống; Tùy-Duyên là hòa trong hoàn cảnh sống nhưng không bị hoàn cảnh chuyển, không
đắm nhiễm thế tục thường tình, không thèm can dự vào chuyện thế gian; Niệm-Phật
để chuyển phàm thành Thánh, là giai đoạn chót viên thành Phật đạo. Đạo lý đang
nằm trong tay, giải thoát đang có ngay trước mắt. Rõ ràng định mệnh là do tự ta
chọn lấy.
Bố-thí là giúp đỡ người nghèo khó, nâng
đỡ kẻ khốn cùng, giúp những nơi đáng giúp, chứ đừng cần đến cái tiếng khen tặng
làm chi cho giảm cái đức của mình. Người được nhiều người bao vây khen tặng đâu
thoải mái tự tại bằng kẻ nhàn cư. Người thường nhậu nhẹt say sưa, đem tiền lì xì
cho nhà hàng đâu có phước thiện bằng người mua giùm vài tấm vé số của các em nhỏ
lang thang ngoài đường.
Cho
nên, phước-đức có âm-phước, có dương-phước. Âm-phước có âm-đức, có thiện-báo; dương-phước
là dương-đức có ác-báo. Âm-phước là làm phước âm thầm không khoe khoang; dương-phước
là làm phước mà thích khoe cho thiên hạ biết. Âm-phước là lòng chân thành, lương
thiện. Dương-phước là lòng giả vọng, tham danh. Người âm thầm giúp đỡ người nghèo
khó không cầu mong trả ơn… đó chính là lòng thương người chân thật, tâm tánh
hiền hòa từ bi. Nhìn vào người đó tự nhiên thấy hiền lành, tướng hảo quang
minh, thâu nhiếp sự cảm mến của thiên hạ. Đây thuộc âm-đức, chắc chắn có quả báo
tốt hiện tiền, không cần cầu xin.
Ngược
lại, người cứ làm một chút việc tốt thì muốn cho người ta hay, người khác khen
tặng, cần nhiều tiếng vỗ tay… đây thì thiện lành ít, mà lòng cạnh tranh tham
danh vọng thì nhiều, tiền bạc họ bỏ ra có khi rất nhiều nhưng âm-đức không có,
không những không có đức mà còn bị tổn hại nữa là khác. Nhìn họ ta thấy nụ cười
gượng gạo, tâm thái bất an… tất cả những cái đó nó phá cái sắc tướng của họ,
khó có thể dấu được ai. Đây gọi là dương-phước. Dương-phước thì thiện quả đã mất
mà ác báo lại hiện tiền, hậu quả thường bị người đời xem thường, tương lai quả
báo không tốt.
Có lần
má muốn góp tiền để xây cái nhà “Táng” hay may cái lá cờ… cho đám ma. Đóng góp
vậy cũng được. Nhưng thực ra không tốt bằng má âm thầm đi giúp người nghèo khó,
cho họ chén cơm, manh áo, an ủi lúc khổ, tặng họ chút tiền để mua thuốc lúc ốm đau,
nhất là đi khuyên người niệm Phật… Làm cái nhà Táng để cho đám ma linh đình
chỉ là cái tập quán của người Việt-Nam, trong đó nó ngụ ý đưa hồn về địa-phủ.
Người tu hành hãy thành tâm khuyên người khi còn đang sống hãy niệm Phật cầu vãng
sanh về Tây-phương Cực-lạc để thành Phật thì hay hơn, công đức này lớn vô cùng
vô tận, chứ khi chết rồi làm đám tang linh đình để đưa về địa-phủ thì tốt lành
gì đâu mà làm! Sống trong làng xóm, mình cần hòa với mọi người, không trái nghịch
với xã hội, nhưng đường ta ta đi, chứ không đồng lòng theo họ. Đây gọi là Tùy-Duyên,
tức là “Hòa mà không Đồng” vậy má ạ.
Thưa
cha má, đường đời đầy bạc bẽo phũ phàng! Sự tu hành cũng nhiều chông gai cạm bẫy!
Mình phải sáng suốt để tìm đường thoát ly, thoát ly thế tục, thoát ly sanh-tử
luân-hồi. Phật dạy, tu hành cần phải phúc huệ song tu. Tu phúc mà không tu huệ
thì bị nạn tam-thế-oán. Tu huệ mà không tu phúc thì chướng ngại trùng trùng khó
bề vượt qua. Tu phúc là làm lành, lánh dữ, tu huệ là để thoát ly sanh-tử luân-hồi,
viên thành đạo quả.
Ví dụ, như câu “Một lòng niệm Phật,
ăn chay, làm lành”, thì niệm Phật là tu huệ, ăn chay, làm lành là tu phúc,
nghĩa là phúc huệ song tu, rất tốt. Nhưng nếu ta cứ đi cầu ơn trên cho được bổ
báo phước lành, thì công đức bị mất hết, chỉ còn lại cái phước báu hữu lậu mà
thôi. Tu như vậy là một sự sơ suất đáng tiếc! Cũng như mình niệm: “Sau dầu đến chốn Diêm đình, linh hồn trong sạch
nhẹ mình thảnh thơi”, không tốt lắm! Vì Diêm-đình thuộc về Diêm-Ma-La giới,
tức là địa-ngục. Niệm địa-ngục thì dễ lạc vào địa-ngục, tới đó làm chi? Hãy niệm
rằng: “Sau dầu mãn báo thân này, linh hồn trong sạch nhẹ nhàng thảnh thơi”,
thì hay hơn nhiều chứ!
Cho
nên, tu hành nên rất cẩn thận mới được. Phật dạy, “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”,
tâm chánh là Phật, tâm tà là ma. Tà – Chánh tại tâm chứ không phải do bên ngoài.
Tôn giáo chưa hẳn đâu là tà, đâu là chánh, chỉ có người sơ suất đã biến tôn giáo
thành ra có tà, có chánh thì rất là nhiều. Ví dụ, như ngay trong Phật giáo, Phật
dạy tu hành phải đoạn trừ lòng tham mà hầu hết người nào tới chùa cũng cầu xin
phước báu, tiền tài, danh lợi… cầu tăng trưởng lòng tham. Cầu như vậy là sai
lời Phật dạy không tốt chút nào cả!
Chuyện
tu hành là vậy, chuyện thế sự nhân sinh còn nặng hơn nữa! Con người ai cũng thích
thành hiền nhân quân tử, nhưng tư tưởng hành động lại thường đi ngược mà không
hay, như ngay trong gia đình mình vẫn còn nhiều người vướng mắc vào chữ danh.
Chữ danh có nhiều hình tướng lắm, có thực có hư, có thơm có thối, có thiện có ác,
có chánh có tà… chứ đâu phải có danh là tốt đâu. Ấy vậy, mà nhiều người quá
chú ý vào chữ danh nên mới bị nhiều phiền não. “Gẫm hay mà ngán ngao dường,
có danh phải chịu trăm đường đắng cay!”. Người trước đã than như vậy mà người
nay không biết tỉnh ngộ mà cứ tìm đường cay đắng mà theo.
Danh
là quả báo của tài đức. Có tài thì có danh dự, có đức thì có tiếng lành. Không
tài không đức mà tìm cái danh thì nhiều lắm cũng được cái hư danh, ác danh, tà
danh… mà thôi chứ có hay ho gì đâu. Người biết tu hành thì cái tiếng tốt danh
thơm kia cũng không động tới tâm họ, huống chi là cái danh vọng hão huyền.
Trong lịch sử xưa nay có vị nào tham danh mà được thành danh đâu?!…
Cái
danh nó xác định nhân phẩm của con người, nó đến một cách tự nhiên. Định luật
nhân-quả xác định có tiền kiếp, có hậu lai, thì chắc chắn đời này chết đi không
phải là hết. Cái thân này chết đi ta có cái thân khác để sống. Cái báo thân này
tự nó đã là cái danh quả cho đời trước rồi. Nếu làm lành, làm tốt, thì mỗi lần
thay đổi ta lại có cái thân tốt hơn, có hoàn cảnh sống tốt hơn, bây giờ là thân
người sau này có thể là thân Đế-Vương, thân Trời, thân Phật… Nếu làm xấu, làm
ác, thì mỗi lần đổi ta mang cái thân hình tồi tệ hơn, hoàn cảnh sống khổ cực hơn.
Cái danh hiện tại nó xác định cái nhân phẩm của mình trong quá khứ. Vậy thì, cứ
làm thiện làm lành, lo tu bồi tài đức thì dù có chạy trốn cái danh thơm nó cũng
tìm tới, chứ đâu cần phải khổ nhọc đổ mồ hôi, sôi nước mắt để mua cái tiếng hão
huyền hư vọng làm chi?
Ở Việt-Nam, người tham danh thường lấy
câu, “vật chết để da, người ta chết để tiếng” làm châm ngôn sống. Họ cho đó là
lý tưởng của người trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất. “Không danh đành nát
với cỏ cây”. Nhưng thương hại thay! Họ thèm tấm da làm chi mà coi chừng đời sau
đành chịu thân mang lông, đầu đội sừng, đi bốn chân, suốt đời quần quật kéo cày
cho thiên hạ, rồi đến khi thân tàn ma dại thì họ trói chân mình lại, quật mình
ngã xuống, banh thây mình ra lấy thịt để ăn, rồi mới lóc tấm da đem đi thuộc để
làm đồ hữu dụng!…
Còn
“Người chết để tiếng”, tiếng gì đây? Tục ngữ có câu, “hữu xạ tự nhiên hương”, có
mùi thơm thì tự nhiên có hương thơm. Không có nhân thì chắc chắn không có quả.
Không có làm thiện lành, thì chắc chắn không có quả thiện lành. Người cứ lo chạy
tìm tiếng thơm, thì giống như trong kinh Lăng-Nghiêm, đức Phật ví “Như người
lấy phân khô mà khắc thành hình cây chiên đàn”. Chiên đàn là một loại cây đàn
hương, tự nó tiết ra mùi hương thanh thoát. Người không có cây chiên đàn mà chạy
làm điều bậy bạ để tìm mùi thơm của hương chiên đàn, có phải là dại lắm hay không?!
Làm
thiện là lấy cái tâm thiện lành để làm chứ không nên vì cái danh, hay vì để được
khen mà làm. Người chân thành làm thiện nên lo sợ mà tránh xa lời khen tặng, phải
biết trốn tránh cái danh vọng hão huyền để bảo tồn cái âm-đức của mình. Ham
danh thuộc về dương-đức, dương-đức thì giả-vọng, giả-vọng thì gặp ác-báo. Rất uổng
cho cái phước báu mình khổ công vun trồng sẽ tiêu sạch, vì thèm mua một ít lời
khen trong chốc lát. Nếu lý luận theo ngày nay, thì người vì tham cái danh nên
bỏ tiền ra mua được cái danh, có danh rồi thì sống trong sự giả dối, tâm tánh
thiếu thành thật, mà còn thường cống cao ngã mạn, khinh thị thiên hạ… Tất cả
những hành vi này cấy vào tâm điền biết bao nhiêu tật xấu. “Tướng tùy tâm
sanh”, trong tâm có tật xấu dấu sao cho được trước trực giác của mọi người. Có
nhân chủng xấu làm sao tránh được ác báo tương lai?
Thưa
cha má, con nói đến chữ danh là thực tâm muốn cầu mong cảnh tỉnh một vài người
còn đang mập mờ theo đuổi. Ngày nào cha má còn tại tiền thì con cháu phải biết
nghe lời răn dạy cái đạo đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của cha má. Cái đạo đức
làm người phải hiểu có “Nhân” có “Quả”, phải biết có “Xạ” thì mới có “Hương”.
Muốn có cái “Tiếng-Thơm” phải có cái “Tâm-Thơm” trước, không lo cái tâm thiện lành
mà chạy tìm cái tiếng thiện lành thì có khác gì người không có chiên-đàn mà cứ
muốn ngửi mùi chiên-đàn đâu?
Con
cái muốn có tiếng hiếu nghĩa thì phải lo cho tròn chữ hiếu, âm thầm từng phút,
từng giây nghĩ cách sao báo đáp cho trọn ơn nghĩa sanh thành. Cụ thể, từng bữa đói
no đã nấu giùm nồi cơm chưa? Từng ngày nóng lạnh đã đắp cái mền, đã thông chút
gió chưa? Trong lúc cha má xỉu té có ai túc trực đỡ cha má dậy không? Đã có kế
hoạch gì để phụng dưỡng chưa? Đã nghĩ cách cứu huệ-mạng của cha mẹ cho đời kiếp
tương lai chưa? … Đó mới thực sự là “Hiếu dưỡng phụ mẫu” vậy.
Xin thành tâm khuyên anh chị em, con
cháu trong gia đình đừng ham chi cái danh giả tạo bên ngoài mà tổn cái đức bên
trong, không tốt chút nào cả! Trong lịch sử Trung-Quốc, người đại hiếu đại thuận
là vua Thuấn. Xuất thân của ông là đứa con mồ côi mẹ, bà mẹ ghẻ ác nghiệt cùng
người cha ngu muội suốt đời tìm cách hãm hại ông ta. Nhưng vì nghĩ đến công ơn
sanh thành mà ông quyết một lòng hiếu thuận. Sự hiếu thuận đã cảm động đến đất
trời, bay xa tới tai vua Nghiêu, được vua Nghiêu truyền cho ngôi báu. Đây chính
là “hữu xạ tự nhiên hương”. Thử hỏi, nếu từ đầu ông Thuấn cứ đi rao khắp nơi, kêu
nhiều người tới chứng kiến là mình có hiếu nghĩa, thì liệu cái quả báo sẽ như
thế nào?
Hãy
nhìn coi, chung quanh chúng ta, cũng đâu thiếu gì những cảnh vì tham chút danh
mà cuộc đời lao đao lận đận, rồi cuối đời âm thầm khóc trong tủi cực buồn đau!
Tham danh mới bị đời xoay, thích danh mới bị kẻ dày người chê. Rời bỏ danh vọng
trở về cuộc đời hiếu hạnh chắc chắn phải hay nhiều hơn chứ!
Hiếu
đạo là căn bản đạo đức của con người. Tất cả anh chị em, trong gia đình muốn báo
hiếu với cha má thì phải nên tìm hiểu cho tường tận cái hiếu của thế gian và cái
hiếu của xuất thế gian. Trả chữ hiếu thế gian là tiểu hiếu, tròn chữ hiếu xuất
thế gian là đại hiếu. Hiếu xuất thế gian là đại hiếu, vì nó đã bao hàm cả tiểu
hiếu trong đó rồi, vì người hiểu đạo rồi có bao giờ lại ganh tỵ, so đo từng đồng
để phụng dưỡng cho cha mẹ đâu? Người chỉ lo việc thế gian thì nhiều lắm cũng chỉ
trả được tiểu hiếu của thế gian, nếu tốt thì có thể đem về một số vật chất và một
ít niềm vui nào đó, trong khoảng thời gian hạn hữu khi cha mẹ tại tiền. Nếu lỡ
sai lầm, coi chừng vô tình trở thành tội phạm đày đọa song thân mình vào nơi hiểm
ác! Cho nên hiếu thảo cần phải hiểu đạo lý xuất thế nữa, thì sự báo hiếu sẽ được
toàn vẹn cả vật chất lẫn tinh thần, giải nghiệp được cho cha mẹ trong cả quá khứ,
hiện tại, và vị lai.
Thưa
cha má, trước đây con từng nói, người hiếu thảo nhưng thiếu trí tuệ thì rất dễ
vô tình tạo ra những sự cố đau lòng, vô ý trở thành oan-gia trái-chủ đối với người
sanh thành và trở thành kẻ đại nghịch bất hiếu, vì dìm đời kiếp sau của cha mẹ
mình trong ngục tối mà mình không hay! Hầu hết chuyện này hoàn toàn chỉ là sự vô
tình đáng tiếc mà thôi. Hậu quả, trách tội thì không trách được, vì chỉ là sự vô
tâm không hay biết, nhưng đau thương vẫn phải bị thương đau, nước mắt rơi vẫn
phải rơi nước mắt!… Xin cha má nhớ lấy những điểm này để có sự hành động thích
đáng, có lời di chúc rõ ràng, đề phòng oan gia trái chủ phá mình mất phần vãng
sanh. Di chúc này không hẳn là tiền bạc nhà cửa, mà chính là lời răn dạy cho
con cái biết tu hành hiểu đạo, biết hộ niệm vãng sanh, biết thành tâm tin Phật.
Và nhất là, chính cha má phải hạ quyết tâm dũng liệt niệm Phật cầu sanh về Tây-phương
Cực-lạc thế giới. Cố gắng làm thêm việc thiện để hồi hướng công đức vãng sanh. Tâm
chí thành, chí kính sẽ được Phật lực gia trì, phá vỡ ách nạn cho cha với má an
lành thoát ly tam giới.
Riêng
về anh chị em trong nhà chúng ta nên ủng hộ chương trình của An. Đây là một đề
nghị hợp tình, hợp lý, có nghĩa, có khả năng thực hiện tốt nhứt. Con cái chúng
mình đông như vậy chắc chắn dư sức làm việc này, hãy tự giác kẻ công, người của
góp sức phụng dưỡng cha má cho thoải mái trong tuổi xế chiều này. Có thoải mái
thì cha má mới yên tâm tu hành và cuối cùng cha má hưởng được cái đại phúc báu
của sự thiện chung. Được như vậy, mình cứu cha má và chu toàn chữ đại hiếu làm
người. Phụng dưỡng cha mẹ nhất thiết phải tùy tâm, đừng nên so đo nhiều ít. Hãy
tự lấy gương soi lấy tâm hiếu của chính mình. Công đức vô lượng!
Thưa cha má, hãy buông xả để về với
Phật. Cha má nghĩ coi, ông bác ở Long-Khánh biết buông xả nên chỉ cần niệm Phật
một thời gian ngắn mà được vãng sanh. Còn ở đây con lo cho cha má đến như thế này
mà còn sơ ý để mất phần thì đáng tiếc biết chừng nào?
Nhất
định phải hưởng cho được cái đại phước báu vãng sanh. Buông xả, niệm Phật,
hết báo thân này chắc chắn được về Tây-phương Cực-lạc Thế giới.
Nam-mô
A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu 18/10/02).
Biển khổ đường mê nghĩ thoát thân,
Cách đây mười vạn cõi vi trần,
Hoa sen nơi ấy trăm ngàn ức,
Mỗi mỗi liên hoa hiện Phật thân!
(Lý‐Thương‐Ẩn, đời Đường).
Đô‐Nhiếp lục căn,Tịnh‐Niệm tương kế.
201
24 –Lời khuyên song thân
Kính
cha má
Thành kính
niệm Phật tự nhiên sẽ được Phật lực gia trì, sự cảm ứng bất khả tư nghì. Những
sự cảm ứng này nhiều khi nó hiển hiện trước mắt, hoặc âm thầm xảy ra sát bên cạnh
mà mình không hay. Ví dụ, chuyến về thăm gia đình, thăm cha bệnh trong tháng Sáu
vừa rồi là con đã làm một việc khá liều lĩnh, bây giờ tất cả đã xong con mới dám
nói lại. Thời gian con về là lúc con đang bệnh, bác sĩ cấm con không được lái
xe, không được đi xa, không được đi máy bay. Bịnh của con rất kỵ trời nắng nóng,
hễ nóng lên có thể bị xỉu liền. (Nay thì đã đỡ lắm rồi). Thế mà khi vừa nghe
cha ngã bịnh, vì phải cần cứu cha, con quyết định liều lĩnh bay về ngay trong
thời điểm thời tiết Việt-Nam rất nóng. Chuyến đi ngắn ngủi nhưng tất cả những
thủ tục bảo hiểm đều trả hết, và Ngọc chuẩn bị sẵn sàng bốc con ngược trở lại Úc
bất cứ lúc nào. Vậy mà sự việc lại êm xuôi không có gì trở ngại. Cha má nhớ không,
ngày đầu tiên con vừa bước chân về tới nhà thì trời chuyển mưa tầm tã, rồi suốt
những ngày sau đó thời tiết dịu lại, trời tiếp tục mưa lai rai. Thật là một
chuyện may mắn hiếm có, nhờ thế mà con ở lại quê được lâu.
Có thể đây
là một chuyện trùng hợp, nhưng dù sao đi nữa, nhờ vậy mới giúp cho con làm tròn
những gì con muốn làm khi gặp cha má. Gần hai ngày trước khi lên máy bay, hầu
như con tự giam mình trong niệm Phật đường, để ngày đêm nguyện cầu đức A-di-đà
Phật gia trì những việc con đang làm để cho con trả phần nào chữ hiếu. Thời tiết
Việt-Nam lúc đó hạn hán, nóng bức. Nếu trời tiếp tục nóng như vậy không biết
con có chịu nổi qua một ngày hay không?
“Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Phật ở ngay trong nhà, có cầu các Ngài có ứng. Người
thành tâm cầu nguyện thì cầu gì cũng được, người thành kính tu hành thì khổ nạn
nào cũng được cứu thoát. Sở dĩ cầu không được cảm ứng là vì cầu không như lý như
pháp, khổ nạn mà không được cứu là vì ta quay lưng lại với Phật để tự mình rước
lấy khổ đau. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy rằng, “Thế gian thiện
nam tử, thiện nữ nhân nhược hữu cấp nạn khủng bố, đản tự quy mạng Quán-Thế-Âm Bồ-tát,
vô bất đắc giải thoát giả”, nghĩa là, ở thế gian nếu có người thiện
nam tín nữ nào bị tai nạn khủng bố mà tự cầu nguyện đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát thì đều
được thoát nạn. Đức Quán-Thế-Âm là vị Đẳng-Giác Bồ-tát ở cõi Tây-phương Cực-lạc
Thế-giới, đứng bên trái của đức Phật A-di-đà. Người bị nạn mà thành tâm cầu Bồ-tát
Quán-Thế-Âm thì được Ngài cứu thoát nạn, còn thành tâm niệm A-di-đà Phật thì Bồ-tát
bảo vệ mình không bị nạn. Rõ ràng có sự khác nhau.
Thưa
cha má, tu hành cần ở sự chí thành, chí kính, Ngài Ấn-Quang Đại sư nói, “một
phần thành kính một phần lợi ích, mười phần thành kính mười phần lợi ích”.
Lợi ích này thành tựu đạo nghiệp chứ không phải là cái lợi bình thường. “Thành
tất linh”, người có lòng thành mới có được lợi ích. Con đang kiết thất niệm
Phật, đạo tràng ở đây họ mở Phật thất quanh năm, mỗi lần mở mười Phật thất liên
tục, mỗi Phật thất bảy ngày, nghĩa là bảy mươi ngày, bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông
không gián đoạn. Có một ông già, bảy mươi tám tuổi từ Đài-Loan qua tu, ông rất
yếu nhưng hằng ngày từ bốn giờ sáng cho đến chín giờ rưỡi đêm tu suốt thời khóa
không bao giờ trễ nãi. Từ bốn giờ sáng là ông đã bắt đầu niệm Phật. Hằng ngày, đi
kinh hành có lúc ông té vào tường nhưng rồi cũng cố gắng gượng dậy mà đi. Nhiều
lần lạy Phật ông ngã lăn xuống sàn nhà, người ta tới đỡ ông lên thì ông nói,
“Xiè-xiè, pũ cơ chi!”, (cảm ơn, không sao!), rồi ông lại tiếp tục lạy tiếp.
Nhìn thấy
cảnh ông cụ tinh tấn tu hành mà con cảm động, ông quyết tâm xả bỏ thân này để về
với Phật. Thật là dũng liệt! Gặp bất cứ người nào dù trẻ hay già ông cũng chắp
tay cúi đầu thành kính chào, một lòng lễ kính không bao giờ tỏ ra ta là bậc trưởng
thượng. Có nhìn thấy những cái gương này ta mới nhận ra cái giá trị của người
tu hành. Hòa-Thượng Tịnh-Không dạy rằng, niệm Phật nhất tâm bất loạn thì không
dễ, nhưng “niệm Phật thành phiến” hay “lão thật niệm Phật” thì ai
cũng có thể làm được. Lão thật niệm Phật được thì bảo đảm con đường vãng sanh. Ông
già đó quyết tâm làm chuyện này. “Lão thật niệm Phật” là sao? Là người
buông xả tất cả, làm như ngu ngu ngơ ngơ, bàn gì cũng không dự, hỏi gì cũng không
biết… thời thời khắc khắc chỉ một lòng niệm A-di-đà Phật quyết tâm cầu về Tây-phương
mà thôi.
Muốn bảo
đảm chắc chắn được về Tịnh-độ trong một đời này thì phải vậy cha má ạ. Tu hành
không thể ỷ lại, không thể tự mãn, đừng bao giờ tự cho là đủ mà coi chừng bị thất
bại vào giờ cuối cùng. Phải tự thấy mình tu hành còn yếu mà ráng tinh tấn hơn nữa.
Hãy lập thời khóa niệm Phật và giữ đúng thời khóa đó đừng giải đãi thì công phu
mới thành tựu tốt được. Ban đầu lập thời khóa nhẹ một chút, sau đó tăng dần cho
đến khi nào suốt ngày tâm mình gắn liền với câu Phật hiệu. Tuổi đời đã gần mãn
xin cha má chớ lơ là. Ví dụ con đưa ra thời khóa mẫu:
Buổi sáng
5:00
– 7:30 thức dậy, vệ sinh, ăn sáng
7:30
– 8:00 lạy phật, nguyện vãng sanh
8:00 – 9:00 giải
lao, dạo vườn cầm chuỗi niệm Phật
9:00 – 11:00 kinh hành niệm Phật
11:00 … hồi hướng công đức, nghỉ giải lao,
12:00 – 2:00 cơm trưa, nghỉ,
nằm niệm Phật…
Buổi
chiều và tối cũng phải lập thời khóa để theo. Nhất định theo đúng thời khóa. Không
có thời khoảng đi chơi, không có thời khóa thăm bà con. Quyết tâm xả bỏ nhân tình
thế thái, quyết lòng niệm Phật để trong những tháng ngày phiêu phỏng còn lại này
mình có đủ tiêu chuẩn vãng sanh.
Muốn kiết
thất niệm Phật thì người hộ thất rất cần thiết. Người hộ thất giúp mình lo chuyện
cơm nước, giặt giũ, tiếp khách… niệm Phật mà phải tiếp người này, nói chuyện
nọ, lo chuyện kia… thì khó mà thành tựu. Vợ chồng em Thứ đang ở với cha má là
một thuận lợi rất lớn cho cha má yên tâm niệm Phật….
Cha má ạ,
tuổi già thân mạng như trái chín cây, thì hãy biết buông vạn duyên xuống để nhẹ
đường thoát nạn. Vật chất, thế thái, nhân tình… thực sự là cái cùm đó, phải
ghê sợ mà liệng nó đi. Còn ham tiếc tiền bạc, còn lo giữ cái nhà, còn quyến luyến
con cháu, còn tham đắm danh vọng hão huyền… là tự mình đưa chân vào cùm vậy.
Con xin kể một chuyện tiếu lâm nhưng có thực cho cha má nghĩ thử. Có một năm ở
Việt-Nam bị bão lụt rất lớn. Ở nước ngoài mỗi lần nghe vậy người Việt-Nam thường
đi quyên góp tiền bạc để giúp người bị nạn. Lúc đó, con có đưa tiễn một Sư Cô đem
tiền quyên góp về Việt-Nam cứu trợ bão lụt, con có nghe kể lại rằng có một vị
giàu có, có địa vị khá cao, gởi tặng mười lăm đô-la và hỏi cô có cấp biên nhận
cho ông ta khai thuế lấy lại được không?
Thật là
tiếu lâm! Là một người giàu có, tiền bạc trong tay tệ gì cũng có vài chục triệu
đô-la, khi bố thí mười lăm đồng để giúp người đồng hương hoạn nạn mà còn hỏi tới
cái giấy biên nhận để khai thuế, trong khi có nhiều người thất nghiệp, làm công
khổ cực để kiếm từng đồng sống qua ngày, khi nghe tới cảnh đau lòng ở quê nhà họ
cũng dám vét túi tặng vài trăm đô-la.
Bố thí
giúp người không phải là giàu mới làm được, mà chỉ là người có tâm thiện lành mới
làm được. “Vi phú bất nhân!”, thông thường người giàu ít có lòng nhân từ, rất
khó tu. Càng hưởng phước báu càng xa đường đạo! Cho nên Phật dạy rằng, tu để cầu
phước báu sẽ rơi vào nạn tam thế oán, sau cùng dẫn vào đường đọa lạc là vậy. Thực
sự tội nghiệp cho họ! Giả như có cơ may họ tiếp xúc được với Phật pháp, hiểu được
lý nhân quả, thì đỡ cho họ biết chừng nào! Nghĩ thử coi, có tiền mà thọ mạng không
có thì tiền nhiều để làm gì? Bảy tám mươi năm trôi qua thì cát bụi cũng trở về
với cát bụi, tiền bạc lúc đó nó nằm lộn xộn giống như đống rác bên lề đường, chứ
có giúp ích gì cho linh hồn đang bị lôi theo nghiệp báo đọa lạc đâu!
Ở tại ngoại quốc này, hễ cha làm bác sĩ
thì con cũng sẽ làm bác sĩ, không bác sĩ thì cũng tiến sĩ, luật sư… với trình
độ đó chúng nó đâu cần tới tài sản của cha mẹ. Vậy mà không hiểu tại sao họ cứ
thủ giữ tiền bạc cho thật nhiều để làm gì, mà không biết đem ra một ít để làm
thiện, giúp người, cứu nạn, ấn tống kinh sách… để tu bồi thêm phước đức cho đời
sau hưởng tiếp. Họ cứ an nhiên hưởng thọ và ra tay tàn phá cho hết cái phước báu
trong mạng của mình, mà bất chấp cái hậu quả tệ hại ở kiếp sau. Thấy vậy mà con
cảm thấy thương hại!
Thưa
cha má, liên tục mấy thư liền con đều khuyên cha má hãy tích cực bố thí, giúp
người. Gia đình mình không giàu, tiền bạc không nhiều, cái quả báo này đều có cái
nguyên nhân của nó. Hiểu được lý nhân quả thì hãy lấy nhân quả mà chuyển. Sự
chuyển biến quan trọng nhất là chuyển từ cái tâm, hễ cái tâm chân thành thì sự
lý viên mãn. Một đồng đưa ra mà lòng thương người chân thực, thì quả báo sẽ tràn
trề. Người có bạc tỷ cho ra hàng triệu để bố thí, nhưng tâm tánh kiêu mạn, thích
khoe khoang sẽ không có quả báo tốt bằng người nghèo giúp cho người khó một chén
cơm hẩm đâu cha má ạ.
Quả phước
lớn hay nhỏ tùy theo tâm lượng chứ không phải số lượng. “Tâm bao thái
hư, lượng châu sa giới”. Tâm từ bi, rộng rãi, thì phước lượng bao trùm
pháp giới, dù nghèo cũng thấy giàu, dù khó cũng thấy an vui. “Nhất
thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, thiện hay ác, tốt hay xấu… nằm
ngay trong tâm mình chứ không đâu xa cả.
Cho nên,
“tồn hảo tâm” thì tự nhiên “hành hảo sự”ï. Nếu còn nghĩ rằng,
“nghèo quá tiền đâu mà cho”, thì cái nghèo này là tâm nghèo chứ không phải là
tiền nghèo. Cái tâm mà nghèo thì dù có nhiều tiền cuộc sống vẫn phải chịu gian
nan. Thế gian này đâu thiếu những trường hợp người giàu lo làm giàu thêm mà đến
quên ăn mất ngủ. Đây là đạo lý “vạn pháp duy tâm”. Thế mới biết rằng Phật
pháp hay quá, siêu nhân sinh, vượt thiên đạo, siêu vượt Thánh đạo nhập vào pháp
giới của Phật. Giáo lý của Phật bao trùm Lý Sự viên mãn, có thể ứng dụng bất cứ
mọi trường hợp, mọi căn cơ. “Một là tất cả, tất cả là một”. Hiểu được “MỘT”
thì có thể hiểu “TẤT-CẢ”, đem “TẤT-CẢ” để ứng dụng vào “MỘT” chuyện thực tế hàng
ngày, chứ đâu có gì là viển vông.
“Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Phật
dạy muốn cầu cho khỏi nạn thì mình phải đi cứu nạn, muốn được giàu có thì phải đi
bố thí tiền, muốn cho khỏe mạnh sống lâu phải từ bi hỷ xả. Biết thương người thì
được người thương, biết nâng đỡ người thì được người bảo vệ… Nếu một lòng
nghe lời Phật dạy mà cầu thì làm sao mà không ứng. Chỉ tội nghiệp cho chúng
sanh chưa biết đạo cứ mãi lăn xả vào sự tỵ hiềm, ganh đua, vị kỷ… thì cầu làm
sao cho được cảnh giới tốt trong tương lai đây?
Ở tỉnh
Thiên-Tân, bên Trung-Quốc có xảy ra một câu chuyện như thế này, có một bà lão có
đứa con trai tên là Tiểu-Hổ, nó ăn ở vô đạo. Con bà bị chết sớm, bà cụ già vì
quá thương nhớ con, cho nên có một đêm bà cảm ứng chiêm bao biết được nơi của
con mình tái sanh đang ở. Bà cụ tìm tới nơi mới hay rằng con bà đã tái sanh thành
con chó và đang giữ cửa một ngôi chùa, người ta đặt tên cho nó cũng là Tiểu-Hổ.
Đây là chuyện có thực. Hòa-Thượng Tịnh-Không
đã từng khuyên bà cụ nên đi phổ biến câu chuyện này ra để có thể cứu độ được
nhiều người, và tu hành hồi hướng cho con chó, may ra một kiếp nào đó nó thoát
nạn súc sanh. Lâu lâu, nhớ con thì bà mua vé tàu đi tới ngôi chùa đó để thăm
con. Con chó thấy bà đến nó chạy tới nhảy vào lòng, người và chó ôm nhau mà nghẹn
ngào rơi lệ. Mẹ là người, con là chó, thương nhau tha thiết nhưng làm sao cứu được
nhau đây?! Thật là cảnh đau lòng.
Trong một
cuốn sách, Thầy Thích-Chân-Tín, vị trụ trì chùa Hoằng-Pháp ở Hóc-môn, có để lại
hai câu thơ:
“Nhân sinh là kiếp vô thường,
Vô thường là cảnh đoạn trường nhân sinh!”.
Hay quá,
thấm thía quá! Vô-thường, đoạn-trường, là sự thực của kiếp nhân sinh! Biết vậy
hãy gắng sức tu hành, phải hạ thủ công phu tu tập để vượt qua cho được tam giới
lục đạo trong một báo thân này.
Thoát
khỏi sanh tử luân hồi quý vô cùng, phước đức vô biên, thiện căn vô tận. Tháng
6/2002, con về thăm cha má, thì căn nhà của con ở Úc mở cửa cho mấy người đến tạm
trú để niệm Phật. Họ từ Sydney tới Brisbane dự tu, bất chấp sự từ chối của
Ban-Trị-Sự của Tịnh-tông-Học-Hội, vì khóa niệm Phật này người ở các nước đã đăng
ký kín chỗ rồi. Họ đi liều như vậy là vì họ chứng kiến cuộc vãng sanh vào ngày
28/3/2002 của bác Nguyễn-Nhất-Quang, người Việt-Nam. Lần đầu tiên trong cuộc đời,
họ chứng kiến một hiện tượng quá linh diệu, quá đỗi ngạc nhiên, quá sức cảm kích.
Bác Nguyễn-Nhất-Quang, sáu mươi ba tuổi, pháp danh là Chúc-Hạ, đã vãng sanh trước
mặt họ. Bác nhờ buông xả rốt ráo và niệm Phật chỉ được vài năm thôi mà viên mãn
đạo quả. Lúc lâm chung có quang minh sáng ngời, hương thơm bay ra. Sau khi ra đi,
người ta tiếp tục hộ niệm tám giờ, nhưng sắc diện vẫn hồng tươi, thân thể vẫn mềm
mại như đang ngủ. Khi hỏa thiêu để lại rất nhiều xá lợi. Những người tới ở nhà
con để tu đều là những người tham dự hộ-niệm.
Niệm Phật
vãng sanh thành Phật, đây là sự thực một trăm phần trăm. Xin cha má phải tin chắc
chuyện này để một đời này thôi sẽ biết thế nào là cảnh giới Tây-phương, sẽ tận
mắt thấy Phật, Phật thực chứ không phải là tượng Phật. Phật dạy, người chí thành
niệm Phật một lòng cầu vãng sanh về Tây-phương, thì “Giả sử đại hỏa mãn tam
thiên, thừa Phật oai đức tất năng siêu”. Tất năng siêu là chắc chắn được vãng
sanh. Quyết lòng trì giữ câu Phật hiệu thì dù cho lửa cháy ngập cả tam thiên đại
thiên thế giới đi nữa, thì riêng mình vẫn có đường siêu thoát. Đây là lời Phật
dạy. Xin cha má vững mạnh tin tưởng quyết chí mà đi, nhất định đừng chần chừ mà
lỡ rơi vào cảnh đoạn trường thì đành chịu thương đau vạn kiếp.
“Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, khi
lòng đã chí thành, tâm đã tha thiết thì tự nhiên có ứng, ví dụ như em Thứ đã có
nhiều cảm ứng không phải thường! Em nó niệm Phật mà nghe được mùi hương thanh lạc
bay ra từ quyển kinh, từ tượng Phật, có lần Phật xuất hiện an ủi… Đây là những
cảm ứng không phải dễ có. Đây đều là do lòng chí thành chí kính.
Tuy nhiên,
hãy nói cho em biết rằng, được cảm ứng rồi thì hãy tinh tấn niệm Phật, hãy cố
giữ tâm thanh-tịnh đừng vọng động, đừng cầu mong cảm ứng tiếp nữa. Một vài lần đầu
thì có thể được, chư Phật, Bồ-tát thấy người có thiện căn tinh tấn tu hành, các
Ngài có thể dùng phương tiện xuất hiện để an ủi, khuyến tấn mình tu hành, thì mình
phải tăng trưởng lòng tin tưởng nhiều hơn nữa vào chư Phật, vào pháp niệm Phật,
giữ chắc một tâm niệm cầu sanh Tịnh-độ, chứ không phải thấy cảm ứng rồi đâm ra
tự kiêu tự mãn, cho mình đã có công phu tốt, hoặc tham đắm vào những điềm lạ thì
không tốt đâu! Vì sao vậy? Vì một khi đã tham đắm hoặc mơ tưởng đến chuyện cảm ứng,
thì tâm không còn thanh-tịnh, lý tưởng tu hành không còn đứng đắn nữa. Một khi
tâm bị dao động thì oan gia, trái chủ dễ dàng lợi dụng để lấy chơn làm giả mà
phá hoại mình.
Học Phật,
ta phải tin Phật, đừng nên nghi ngờ. Ở quê, có người nghi ngờ hỏi rằng, Phật có
vạn đức, vạn năng sao các Ngài không đem hết chúng sanh về Tây-phương có gọn hơn
không? Xin thưa rằng, đâu có đơn giản như vậy. Phật có khả năng cứu độ tất cả
chúng sanh, nhưng vì chúng sanh không muốn được cứu, chẳng lẽ Phật phải bắt cóc
chúng sanh liệng lên đó sao. Làm vậy có khác gì biến cõi Tịnh-độ thành nhà tù,
làm sao còn gọi là Thanh-Lương Cực-lạc được nữa.
Trong
kinh Phật có câu, “Sanh-Phật bình-đẳng”, sanh là chúng sanh, chúng sanh
và Phật bình đẳng nhau. Lý đạo này rất cao, diễn tả những pháp giới bình đẳng
giữa chúng sanh và Phật, tuy hai mà một, tuy một mà hai. “Tuy hai mà một” vì chúng
sanh có Phật tánh, có thể thành Phật. “Tuy một mà hai” vì chúng sanh bổn lai là
Phật, nhưng vì Phật tánh bị chướng ngại mà xa lìa cảnh giới Phật, để chịu đọa lạc
trầm luân.
“Sanh
– Phật bình-đẳng”, chúng sanh và Phật
là hai lực lượng có sức mạnh vô biên như nhau. Phật thì thanh tịnh, bình đẳng,
giác ngộ. Chúng sanh thì tham lam, sân giận, si mê. Phật thì giải thoát rốt ráo,
chúng sanh thì đọa lạc triền miên, hai cái năng lực này có sức mạnh vô biên nhưng
ngược nhau. Bình-đẳng là hiểu theo nghĩa cái tâm tự do hành động. Để dễ hiểu,
con vẽ đồ hình dưới đây:
Hình 1: Sanh Phật bình đẳng.
Phật là đấng giác ngộ, có thể đưa chúng
sanh tới chỗ sáng suốt, trí-huệ. Chúng sanh thì mê muội dẫn dắt con người vào nơi
lầm lạc, tối tăm. Một tâm hồn nương theo Phật thì nhập vào cảnh giới giải thoát
gọi là được “Cứu độ”. Ngược lại, nếu ham thích phàm tục, chạy theo thế
gian thì bị lôi vào vòng chúng sanh, gọi là “Đọa lạc”. Như vậy, một người
được cứu độ hay không là tùy theo cái tâm nó hành động, nói theo nhà Phật gọi là
“Duyên”. Tâm duyên với chúng sanh thì thành chúng sanh, tâm duyên với Phật
thì thành Phật. Cho nên niệm Phật thì thành Phật, không niệm Phật thì thành phàm
phu. Đây là đạo lý “vạn pháp duy tâm”. Cái tâm quyết định tương lai của
một người.
Hình 2: Tâm duyên…
Từ trong
vô lượng kiếp trong quá khứ đến nay cái tâm của chúng ta chìm sâu trong vòng chúng
sanh, đã trải qua nhiều cảnh giới khác nhau rồi, như bị đọa lạc ở địa-ngục, ngạ-quỷ,
súc-sanh, làm người hoặc cũng đã trải qua vài cảnh giới của các cõi trời rồi mà
chúng ta không hay.
Tất cả
những cảnh giới đó, so với cảnh giới của Phật, đều là chúng sanh cả. Một thần
thức trải qua một lần nhập thai, thọ thai, xuất thai thì đều quên tất cả những
gì của quá khứ, thành ra chúng ta không biết sợ, cứ tiếp tục mê muội tạo thêm
nghiệp chướng mới. Giả như ta biết rõ kiếp quá khứ, chắc chắn không ai còn dám
sống hồ đồ nữa đâu. Trong kinh Phật nói, các vị chứng quả A-la-hán, biết được năm
trăm kiếp quá khứ, các Ngài thấy những kiếp bị đọa địa ngục mà sợ đến đổ mồ hôi
máu. Thật không phải đơn giản!
Tâm của
chúng ta vừa có Phật tánh, vừa có chúng sanh tánh, gia nhập vào vòng chúng sanh
thì bình đẳng với chúng sanh, gia nhập với Phật thì bình đẳng với Phật. Như vậy,
cái “Tâm” cũng là một lực lượng tự do, bình đẳng. Vì tâm của chúng ta bị vọng tưởng,
không có định cho nên rất dễ bị cái duyên nó chuyển. Cái duyên mạnh nhất là duyên
chúng sanh, làm cho tâm chúng ta dễ tham đắm vào đó để tiếp tục trôi lăn trong
luân hồi khó được giải thoát. Thật là khổ!
Ở quê
trong những ngày trời mưa, đêm đến thường có loài mối có cánh, bay vào ánh đèn để
chết. Chúng cũng là chúng sanh đó. Đời sống của chúng rất ngắn ngủi, mới nở ra
ban chiều, chui lên khỏi lớp lá mục, chờ trời tối bay vào nhà đâm đầu vào lửa. Đời
sống chỉ trải qua vài tiếng đồng hồ thế mà chúng cũng tranh giành, đánh nhau đến
rụng cánh, sứt chân, trước khi tự sát. Cảnh giới của chúng sanh là vậy đó. Con
người sống bảy, tám mươi tuổi tưởng là dài lắm, nhưng so với pháp thân Phật thì
chẳng khác gì một giấc nghỉ trưa. Ví dụ, như đem thế gian này so sánh với cung
trời Đâu-Suất thôi cũng đủ thấy cách biệt rồi.
Một vị Đẳng
Giác Bồ-tát trước khi xuống trần thị hiện thành Phật, các Ngài tới tu tại nội
viện Đâu-Suất Thiên, ở đó tuổi thọ trung bình bốn ngàn tuổi, một ngày dài bằng
bốn trăm năm ở thế gian. Tính ra 100 năm ở thế gian này chỉ bằng 1/4 ngày ở đó.
Khi ta bắt đầu sinh ra thì các Ngài bắt đầu đi dạo vườn xem hoa, các Ngài chưa
kịp trở vào nhà thì chúng ta đã mãn đời rồi. Thế mà loài người tranh từng miếng
ăn, miếng uống, giành từng chút danh vọng hão huyền. Thấy vậy các Ngài mới thương
hại cho con người sao cứ mãi mê muội trong cảnh đoạn trường mà không chịu tìm lối
thoát thân?
Thưa
cha má, hiểu được nhân sinh là vậy thì mau mau tìm về cảnh Phật là trí huệ nhất.
Vạn pháp duy tâm, chỉ cần đem cái tâm xả bỏ thế gian, thì ta ra khỏi thế gian.
Niệm Phật, tâm ta duyên với Phật, thì ta về với Phật. Người nào biết xả bỏ thế
tình, coi nhẹ tiền bạc, xa lìa danh vọng… niệm Phật thì được siêu vượt tam giới
đi về Tây-phương Cực-lạc trong một đời này mà thôi. Chúng con đã cố gắng quét dọn
sạch sẽ chông gai cho con đường tu hành của cha má phẳng lặng, yên ổn, thì cha
má hãy quyết đi, đừng chần chờ lưỡng lự mà lỡ lọt lại đời sau, liệu còn có cơ
duyên nào thù thắng tương tự để đi nữa không?
Bố-thí,
giúp người, cứ tùy duyên không ai bắt buộc, nhưng đây là cách tu phước và thực
hành sự buông-xả. Bố-thí phá trừ tham, giúp người nghèo khó, dù nhỏ nhưng cũng
an ủi họ được phần nào. Nhìn thấy người ta vui mình cũng vui, mỗi ngày có được
một chút nguồn hạnh phúc như vậy, lâu dần tâm mình sẽ từ bi hỷ xả và sau cùng mình
buông xả được thế tục, tâm hồn thanh thản nhẹ nhàng. Đây là tiên triệu của sự
giải thoát vậy.
Còn phần
con cái, anh chị em nên nghĩ đến chuyện lớn, chuyện giải thoát huệ-mạng của đấng
sanh thành rất là quan trọng. Chúng ta phải cố gắng làm, nhất thiết không thể đem
huệ-mạng của người sanh đẻ ra mình để đổi lấy vài cái danh hão huyền, vài cái lợi
phù phiếm, vô tình hại chết đời cha má qua hàng vạn kiếp, mà mình bị mang tội ác
truyền đời khó rửa sạch. Có thể anh chị em chưa hiểu thấu được cảnh giới, chưa
rõ về luân hồi nhân quả, cho nên không lo sợ chuyện này, chứ thực sự đây là sự
thật.
Hãy tin
Phật, hãy làm theo lời Phật dạy, hãy có tâm chân thành cung kính đối với Phật,
thì sẽ có duyên lành để hiểu ra chân lý. Phụng dưỡng phụ mẫu là tánh đức đầu tiên
của Phật dạy. Người biết phụng dưỡng cha mẹ chắc sẽ được Phật gia trì, nghèo cũng
thành giàu, khổ cũng thành sướng, làm ăn khó cũng thành dễ… Thiện nhân thiện
báo, cái thiện lớn nhất của con cái là phải biết sắp xếp sự phụng dưỡng, biết
niệm Phật hộ niệm cho cha má được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc vậy.
Buông bỏ
thế tình thì thế tình sẽ buông bỏ. Xa lìa trần lao thì trần lao sẽ xa lìa. Từ đó,
khổ ải, phiền não, từ từ nó buông mình ra. Ta sẽ thảnh thơi, an lạc, niệm Phật,
vui trong nguồn đạo.
Nam-mô A-di-đà Phật,
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu ngày 22/11/02).
25 –Lời khuyên song thân
Cha
má kính thương,
Con
vừa mới hay được tin là em Chương, con cô Sáu ở Bình-Dương, thay mặt Cô Sáu cùng
tất cả anh chị em trong gia đình, xuống Sài-Gòn gặp An để bàn việc cấp dưỡng
cho cha má để cha má an tâm tu hành. Nghe được tin này, con vô cùng cảm động và
thật sự tán thán công đức của Cô và tất cả các em. Có lẽ đây là niềm an ủi rất
lớn cho cha má trong tuổi về già. Hay được việc các em ở Bình-Dương đã phát tâm
cúng dường cho cậu mợ Hai an tâm niệm Phật, con lại nghĩ đến một điều khá hay!
Trong thư trước, con nói đến “Phật tại môn
trung, hữu cầu tất ứng”. Con viết vừa xong thư đó thì thì hay được tin này.
Sự ứng cảm của Phật, Bồ-tát đa hình, đa dạng, vô hình, hữu hình, hiện thực, vô
thực… khó có thể lường biết được. Đây là một phước đức mà chỉ có người thực tâm
tu hành mới cảm thọ được. Thưa cha má, cái phước từ đâu mà có? Từ câu Phật hiệu
mà có. Chư Tổ dạy rằng, một lòng nhất tâm niệm Phật, thì một câu Nam-mô A-di-đà
Phật có thể phá được tám mươi ức kiếp nghiệp chướng trọng tội. Nói cách khác, một
câu chí tâm niệm Phật có một công đức, phước báu, lớn bằng tám mươi ức kiếp làm
lành. Đây là một công đức mà chư Phật gọi là “bất khả tư nghì”, nghĩa là
không thể bàn luận được, không thể giải thích được. Ngài Phổ-Hiền Bồ-tát, trong
kinh Niệm-Phật-Ba-La-Mật nói, “Danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật vốn đầy đủ vô lượng,
vô biên, hằng sa công đức…”. Trong nhiều kinh điển, Phật nói danh hiệu
Nam-mô A-di-đà Phật là “Vạn đức hồng danh”. Đã gọi là vô lượng vô biên rồi
thì nó không có giới hạn. Đã không có giới hạn thì làm sao mà giải thích. Chư
Phật, chư Bồ-tát đều tán thán như vậy, trong khi con người vốn đã thiếu phước đức
mà không tin lời Phật dạy thì bao giờ mới có phần thiện lợi.
Người
niệm Phật có hai mươi lăm vị Bồ-tát ngày đêm hộ trì. Các vị Bồ-tát hộ trì người
niệm Phật từ ngày phát tâm cho đến ngày vãng sanh bất thối thành Phật, nếu sự
phát tâm này không thối chuyển. Một khi các Ngài đã gia trì thì người niệm Phật
tự nhiên thấy vạn sự chung quanh hình như có một sự sắp đặt ổn thỏa, thuận lợi
mà mình không hay biết. Chính vì đạo lý này cho nên con mới dám mạnh dạn khuyên
cha má cứ phát tâm niệm Phật đi, còn tất cả mọi chuyện hãy để Phật A-di-đà lo
liệu. Người có phước đức thì giữ vững lòng tin, thẳng đường tiến bước mà thành đạt
đạo quả. Người nào kém phước đức thì cứ chạy lòng vòng, lộn xộn theo sự thường
tình của thế tục, tự lấy sự mê vọng gói kín huệ mạng của mình rồi lăn vào lò lửa.
Giải thoát hay đọa lạc thực sự là có biết đón nhận sự gia trì của Bồ-tát hay không.
Bồ-tát
ở đâu? Xin thưa, ở bất cứ mọi nơi mọi chốn, vô hình hữu hình, người thân
kẻ lạ, người xa kẻ gần… Trong bài kệ tán thán A-di-đà Phật có câu: “Quang
trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên”. Trong ánh sáng của
Phật hóa ra vô số Phật để tiếp dẫn chúng sanh, cũng trong ánh sáng đó lại hóa
ra vô số vô biên Bồ-tát để bảo hộ người niệm Phật an toàn cho đến ngày gặp được
Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tây-phương. Như vậy, người niệm Phật đâu phải chỉ có
hai mươi lăm vị Bồ-tát bảo vệ, mà được vô số Bồ-tát bảo vệ mà mình không hay.
Bồ-tát
sao mà nhiều vậy? Nếu thực tâm niệm Phật thì một ngày nào đó cha má sẽ hiểu thấu
suốt vấn đề này, giờ đây hãy nhìn thẳng vào hiện tượng thực tế chung quanh để lý
giải phần nào. Bồ-tát thì bảo hộ, oan gia thì phá hoại, tất cả đang diễn ra hằng
ngày. Người không tu Phật đạo thì con cái, gia đình, vợ chồng, người thân, hàng
xóm… đều trở thành oan gia trái chủ. Người có học Phật, hiểu đạo, thì tất cả
oan gia, trái chủ đều có thể trở thành những vị có tâm Bồ-tát hộ pháp cho mình.
Đây là sự thật.
Phật
dạy, “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, hiện tượng xảy ra chung
quanh chính là cái gương phản chiếu những gì chúng ta đang làm. Nếu cái tâm biết
tu hành thì hoàn cảnh chung quanh sẽ là đạo tràng tu tập. Ngược lại, nếu cái tâm
tham đắm trần tục thì hoàn cảnh chung quanh là một trường thị phi, tranh đấu không
ngừng. Cái tâm niệm Phật thì người chung quanh là Bồ-tát hộ pháp, cái tâm phàm
phu thì người chung quanh sẽ là kẻ ác hiểm, siểm ngụy. Hoàn cảnh, môi trường, tâm
thái con người, sự sinh hoạt chung quanh… đều hình thành giống như những gì
trong tâm của mình đang nghĩ tưởng tới mà thôi.
Điều
này mới nói thì nghe mơ hồ, viển vông, nhưng nếu quán xét thật kỹ thì chúng ta
mới thấy chí lý. Ví dụ, người hiền thì được nhiều người hiền tiếp cận, gọi là “Đồng
khí tương cầu” người ác tự động lánh xa. Người ác thì chỉ tụ tập với người ác,
gọi là “Đồng ác tương đảng”, người hiền lương họ tự động tránh xa. Cùng chung một
môi trường nhưng có nhiều cảnh giới khác nhau, người ưa ăn nhậu thì kết bạn với
giới nhậu nhẹt, cả ngày say sưa, nói năng xô bồ, bất chấp tôn ti, thượng hạ. Người
tu đạo thì kết bạn với hàng tu nhân, lo trau dồi trí đức, sống cuộc đời an nhiên
tự tại, tâm thái an vui, thanh tịnh.
Cho
nên, cảnh giới sống là sự hình thành bởi chính cái tâm địa của mình. Cùng trong
một môi trường nhưng hoàn cảnh xấu hay tốt tùy theo chính cái tâm của người đó,
xấu thì sống với cảnh giới xấu, tốt thì sống trong cảnh giới tốt. Phật dạy, tất
cả vạn sự vạn vật đều do tâm tưởng hiển hiện ra, gọi là “Nhất thiết pháp
tùng tâm tưởng sanh”. Đây rõ ràng là sự thật chứ đâu có gì là viển vông.
Từ sinh hoạt gần gũi như xã hội, đời sống, tâm lý… cho đến sơn hà, đại địa, vũ
trụ, hư không, pháp giới… cũng cùng một đạo lý. Vì tâm trí của con người quá
nhỏ hẹp nên không nhìn thấy thấu mà thôi!
Vì
sao người không biết đạo thì tất cả người thân kẻ sơ, người thương kẻ ghét, con
cháu trong gia đình… đều sẽ trở thành oan gia trái chủ? Vì họ đang sống để chờ
một ngày nào đó, khi mình lâm chung, sẽ nhận mình vào tam đồ ác đạo, nhất là người
thân yêu. Cái nguyên nhân chính là vì không hiểu đạo, không biết cách cứu độ,
chỉ biết những hành động đày đọa người mình thương. Ví dụ, lúc người thân đang
lâm chung thì kêu réo, khóc than, níu kéo, gây đau đớn, không nỡ để người thân
an lành ra đi… Họ có giữ được chăng? Nhưng kết quả của những hành động này chỉ
là đem “Oan hồn” người thân yêu của mình ném vào cảnh giới khổ hải mà không
hay! Thê thảm thay, càng thương yêu thì càng khóc lớn, càng quý mến thì càng kéo
níu mạnh, càng thân thiết thì càng gây đau đớn nhiều!… Một ngàn người trên thế
gian, có lẽ có tới chín trăm chín mươi chín người lúc lâm chung bị cái tai họa này.
Có nơi, người thân mới tắt hơi, thần thức đang chới với chưa biết nghĩ sao, thì
đã chịu cái nạn bị liệng vào nhà xác, bị bác sĩ mổ banh ruột ra để khám nghiệm,
bị cột chân cột tay cho dễ tẩm liệm…
Kết
quả của hành động phũ phàng này làm cho người ra đi quá buồn tủi, hoặc bị hành
xác quá đau đớn làm cho tâm nổi sân giận đến cực độ, kết quả là thần thức bị
chiêu cảm thẳng vào địa ngục. Thế gian này đã có biết bao nhiêu trường hợp đau
thương như vậy! Còn biết bao nhiêu hình thức khác nữa để làm cho người thân yêu
bị khổ đau. Chúng sanh trên thế gian này từ trước tới giờ vô lượng vô biên, kiểm
lại có được mấy ai thoát khỏi bàn tay đày dọa của người thân yêu? Vậy thì thử hỏi,
nếu không học Phật, có người thân nào mà không trở thành oan gia trái chủ của
người thân đâu?!…
Còn
người tu hành, thì biến “oan-gia, trái-chủ” thành Bồ-tát hộ pháp. Vì người hiểu
được Phật đạo, biết niệm Phật, thì biết định luật nhân quả, hiểu rõ sanh tử luân
hồi, nhờ vậy mà biết làm lành lánh dữ, biết bố thí giúp người, biết khuyên người
tu hành, biết chọn đường “Tịnh-Nghiệp” để đi, biết chuẩn bị ngày vãng sanh. Họ
khuyên người thân niệm Phật, họ dạy con cháu hộ niệm, họ khuyến khích bà con, làng
xóm tu hành… thì đâu còn oan gia, trái chủ nữa. Nói chung, họ biết tu cái nhân
tốt, thì quả báo chắc chắn sẽ tốt. Người ác lánh xa, người hiền tụ về, người thân
hiểu đạo, tất cả đều trở thành một đội ngũ bảo dưỡng họ lúc sống được an lạc, bảo
vệ lúc lâm chung được an toàn vãng sanh, chung quanh đều là những người có tâm
Bồ-tát hộ pháp.
Rõ ràng,
một tâm hồn thiện lành thì biến hoàn cảnh, con người chung quanh đều thiện lành.
“Nhất thiết Pháp tùng tâm tưởng sanh”, phải chăng đã hiển bày rõ rệt. Đạo
lý của Phật thật sự cao siêu mầu nhiệm, nhưng lại có thể đem ứng dụng trong bất
cứ một trường hợp cụ thể nào. Đạo Phật đâu có phải chỉ là thứ triết lý viển vông!
Người
chân thành niệm Phật cầu sanh Cực-lạc thì tự nhiên hưởng được một đại phước báu,
và cái đại lợi sau cùng là sự vãng sanh. Sự gia trì của chư Phật, chư Bồ-tát vô
hình nhưng có thực, đa dạng nhưng cụ thể. Chỉ cần có lòng tin, thành tâm, thanh
tịnh, thì sự gia trì hiện ra trong từng hơi thở, nâng đỡ từng bước chân đi. Cứ
suy gẫm cho thật kỹ thì thấy liền.
Ngày
xưa, khi con chưa biết gì về đạo Phật, con có đầy những tật xấu, đầy cả những tính
ác như: săn bắn, bắt chim, tranh cãi, háo thắng, ham danh, tham tài, sân giận…
đến khi hiểu được giáo lý của Phật rồi thì bây giờ những thứ đó nhất thiết con
không thèm cầu nữa. Khi không tu hành thì lời nói của mình không đáng giá một
xu, khi thành tâm niệm Phật thì một câu nói đơn giản cũng có thể tạo ra ân đức
cứu người, đi tới đâu cũng có thể gieo duyên lành tới đó. Tại sao vậy? Vì Phật
lực gia trì trong từng hơi thở, từng bước chân đi mà!
Khi
cha má không tu học Phật thì phiền não trùng trùng, tâm trí rối bời, lo lắng hết
chuyện này đến chuyện khác, nhưng có giải quyết được gì đâu? Còn từ ngày cha má
tin Phật, bắt đầu niệm Phật thì sao? Đám ruộng đang làm cũng không cần làm nữa,
con heo đang nuôi cũng thả ra đi, tiền bạc muốn lo thì con cái nó lo tính toán
cung cấp… Rồi bây giờ, cả một gia đình của một người em gái, những đứa cháu kêu
bằng cậu ở rất xa, cũng tự nguyện tham gia bảo trợ không cần một điều kiện, chỉ
cần làm sao cho cậu mợ yên tâm tu tịnh. Rõ ràng người thành tâm tu hành thì tự
nhiên có cảm ứng. Có cảm ứng tức là có chư Phật, Bồ-tát gia trì, và mình đang ở
trên con đường thành đạo vậy.
Thưa
cha má, sự cảm ứng này từ đâu ra vậy? Con xin thưa rõ rằng, từ câu niệm
“Nam-mô A-di-đà Phật” đó. Nếu cha má quyết lòng xả bỏ trần lao, vui theo đường đạo,
con nghĩ rằng sự cảm ứng này càng ngày càng lan rộng, sẽ cảm hóa thêm nhiều người.
Ngược lại, nếu như cha má lại quay trở về con đường thế tục, tự mãn trước niềm
tin kính của cháu con, hãnh diện trước những lời tâng bốc của thế gian, thì cái
phước báu này sẽ không còn tồn tại nữa đâu. Nghĩa là, lại phải tiếp tục nuôi
heo, nuôi gà để tạo thêm nghiệp sát, phải trân mình ra cày cấy thửa ruộng để kiếm
vài thúng thóc mà chờ ngày ngã quỵ bên vũng sình lầy. Rồi đau ốm, rồi nghèo nàn,
rồi bù đầu vào những việc phải chẳng, thị phi, rồi đêm đêm than vắn thở dài, rồi
thấy cảnh đời sao toàn là đau khổ!… Nếu biết rằng tất cả vạn sự đều do tâm của
mình mà ra, thì phước và họa đều ở trong tay. “Phước họa tự lâm môn”, nó đến để
đáp ứng cái tâm niệm của mình mà thôi chứ có gì xa lạ đâu.
Thấy
như vậy, cha má nghĩ thử, mình nên chọn con đường nào đây? Chọn con đường trần
tục để trầm luân trong tam đồ ác đạo, nghiệp chướng trùng trùng, phiền não vô tận,
quả nạn chập chùng? Hay chọn con đường an nhàn thanh tịnh, tự tại, an vui với đạo
để giải thoát? Giải thoát cho chính mình, giải thoát cho bà con cả dòng họ, cho
cửu huyền thất tổ, cho chúng sanh…
Phàm
khi làm điều gì hợp theo “Tánh Đức” thì hợp với lẽ đạo, tự nhiên được chư
Phật Bồ-tát gia trì. Ngược lại, điều gì hợp theo “Sắc Tướng” thì hợp với
phàm tục, xa lìa lẽ đạo, chư vị Bồ-tát lánh xa. Con xin đưa ra hai sự việc điển
hình làm ví dụ.
Một
là, đề nghị của em An, các con
cấp dưỡng đầy đủ cho cha má, thiếu cấp thêm, dư phải đem bố thí. Đây là một đề
nghị hợp theo đạo hiếu, họp với lòng nhân, hợp với hạnh Bồ-tát, hợp cho cha má
tu hành, hợp với con cái đáp đền chữ hiếu. Về mặt thế gian thì con cái phụng dưỡng
cụ thể, không viển vông, cha má sẽ an tâm khỏi lo về chuyện sanh sống. Về mặt
xuất thế thì vẹn toàn, vừa tạo duyên cho cha má tu hành, lập hạnh buông xả, tạo
phước đức làm tư lương lót đường vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, còn con cái thì
thực hành được điều quan trọng trong đệ nhứt phước của Phật đưa ra, đó là: “Hiếu
dưỡng phụ mẫu”. Vì lời đề nghị này hợp với Phật pháp, cho nên được chư Bồ-tát
gia trì. Riêng con thì chấp nhận không cần tính toán. Đến nay thì các em ở Bình-Dương
nghe vậy, cũng nhào vô yểm trợ. Sự hỗ trợ này, xét ra, đâu phải là lòng bố thí
người nghèo khó, mà chính là sự cảm ứng của lòng chân thành tu hành đó. Được cái
phước này, cha má phải vững lòng tin hơn nữa vào pháp Phật.
Trong gia đình, giả sử có người nào không tin
thì xin cha má cũng đừng lo, nên lấy câu “Tùy duyên tiêu túc nghiệp, thiết mạc
tạo tân ương” làm tiêu chuẩn, nghĩa là gặp cơ duyên dù xấu hay tốt cũng quyết
lòng làm tiêu mòn nghiệp chướng cho ta, cho người. Ai nghe theo thì tốt, không
nghe theo thì để tùy duyên của họ, riêng chính mình phải buông bỏ hết không thèm
tạo thêm nợ trần mới nữa. Cách giải quyết là, cứ một lòng nhất hướng chuyên niệm
Phật cầu sanh Tịnh-độ, dần dần cái tánh đức của cha má sẽ cảm hóa lòng người. Hơn
nữa hãy tin rằng các vị Thiên-Long, Bát-Bộ, Bồ-tát Hộ-Pháp họ đủ sức lo liệu. Cái
chính yếu vẫn là cha má phải thực tâm niệm Phật cầu về Tây-phương, phải rũ sạch
bụi trần, an nhiên tự tại, an vui tịnh dưỡng tuổi già trong đường chánh đạo là được
mà thôi.
Hai
là, những hành động báo hiếu sôi
nổi trong nhân gian, gây tiếng tăm cho nở mặt với thiên hạ. Đây là hình thức hoàn
toàn chạy theo sắc tướng thế gian, tham luyến danh vọng, không hợp với tánh đức
thanh tịnh, không hợp với người tu hành, chắc chắn sẽ bị chư Hộ-Pháp bỏ rơi. Dù
các Ngài không bao giờ làm hại mình, nhưng tự mình phải lo lấy, tự gây nghiệp
chướng tự thọ nghiệp báo. “Nhất thiết duy tâm tạo”, tâm đang tham đắm thế
tục thì chắc chắn khó có thể tránh khỏi tam đồ, lục đạo.
Những
cách làm này thường thấy ở những giới trung lưu, thượng lưu có tiền có phước báu,
hoặc những kẻ thích danh, ham lợi. Vì không hiểu đạo cho nên vô tình dễ trở thành
oan gia, giết chết người thân trong ác đạo bởi những hành động phàm tục thường
tình như khóc than, kêu réo, níu kéo… Tệ hơn nữa, vì có tiền, quá ham danh,
quá mê muội, nhiều người còn đi tìm bọn người than vay khóc mướn tới làm cho thật
ồn ào náo nhiệt, để quyết lòng đày người thân yêu của mình tới tận cùng địa ngục
mới thôi. Thật đáng thương!
Cha
má ạ, phải tin lời Phật, phải thành kính lạy Phật, phải biết quay về với Phật để
cầu giải thoát. Thật rất thương hại cho những ai đang xa lìa Phật pháp. Thời mạt
pháp này, chúng sanh đau khổ lắm, lý tưởng sống nghèo nàn, hầu hết đều lăn xả vào
vũng bùn tội lỗi tạo nghiệp, nhận cái vô thường làm mục đích, lấy hành động tạo
nghiệp chướng làm nguồn vui, để chờ ngày lãnh nạn!
Tại
sao có người không tin vào Phật pháp? Lý luận thì nhiều quá, nào là khoa học, triết học, văn học, tư tưởng,
kiến giải… Nhưng thực ra, tất cả đều bắt nguồn từ nghiệp chướng quá sâu nặng,
đã kết tập lâu đời lâu kiếp làm chướng ngại cho đường tiến hóa của tâm linh. Phật
dạy rằng, “Ác kiêu giải đãi cập tà kiến, nan tín Như-Lai vi diệu Pháp”, đây
là lý do chính. Nghĩa là, nếu không phải là ác, thì cũng là kiêu gạo, không kiêu
ngạo thì người lười biếng, người chạy theo tri thức thế gian. Như cha má đã biết,
Phật dạy rằng, có ba hạng người niệm Phật không thể vãng sanh, một là tham đắm
phước báu nhân thiên, hai là phân biệt chấp thủ, ba là người thế trí biện thông.
Phạm vào ba trường hợp này thì oan uổng cuộc đời cho họ, mãi mãi bị trầm luân
trong vòng đọa lạc, nếu không tỉnh ngộ khó có ngày thoát thân.
Tham
đắm phước báu nhân thiên thuộc về ác tham. Tiêu chuẩn của thiện là ngũ giới, thập
thiện, trong đó tham, sân, si là cái gốc tam đồ ác đạo. Tu thiện thì tốt, nhưng
làm thiện để cầu phước báu lại rơi vào cái họa khác, họa tam thế oán, càng có
phước báu càng khó tu, càng dễ làm nên tội lỗi và sau cùng bị nạn rất nặng. Cho
nên, bố thí giúp người thì có thể phá được cái tham thô thiển, nhưng coi chừng
lại vướng vào cái tham vi tế. Cái tham thô thiển dễ thấy, dễ bỏ, còn cái tham
vi tế thì nằm sâu trong tâm, nó dấu kín dưới nhiều danh xưng hay đẹp khó ai biết
được, nhiều khi chính đương sự cũng bị gạt luôn, cho nên rất khó tránh. Đây chính
là chủng tử của đọa lạc làm mất vãng sanh. Vì thế, người ham danh vọng, ham được
tiếng khen trong xã hội… thường có cái tâm tà vạy nhiều hơn kẻ lỗ mãng, cái
nghiệp chướng của họ lớn hơn và quả cũng báo xấu hơn! Cha má tuổi già gần ngày
ra đi, muốn được thoát nạn thì bắt buộc phải buông nó xuống.
Vì vậy,
tu hành không phải chỉ là làm thiện. Người đời, vì hiểu chưa thấu cái đạo lý sâu
xa này thành ra thường nhầm lẫn, cứ nói rằng ăn ở hiền lành, không giết hại ai
là đủ rồi, đâu cần gì phải tu hành, đâu cần gì phải niệm Phật. Không ngờ, hầu hết
họ đang đi theo con đường sai lạc mà không hay. Cha má đang tu hành để quyết thành
Phật thì phải chú ý chuyện này. Đời này Chánh – Tà rất khó phân minh. Phật dạy,
chúng sanh trong thời mạt pháp muốn thoát nạn phải nhớ, “y pháp bất y nhân,
y ý bất y ngữ, y liễu pháp bất y bất liễu pháp…”. Nghĩa là, thấy người ta
làm sai, mặc họ! Mình cứ y theo pháp Phật tu hành. Ai nói hay nói giỏi, kệ họ!
Mình cứ theo ý Phật hành trì.
“Liễu
pháp” là pháp giải thoát viên
mãn thành Phật, siêu thoát tam giới lục đạo, còn “bất liễu pháp” là những
giáo thuyết nửa vời, mới nhìn thì hay, nhưng xét kỹ thì rốt cuộc không đi tới đâu
cả. Ví dụ như nhân đạo, thiên đạo, là tu làm lành, lánh dữ, đây là tốt. Nhưng đó
chỉ là bước khởi đầu, chứ không phải là mục đích tối hậu, vì tất cả đều là bất
liễu pháp. Vì sao? Vì đây là thiện nghiệp cầu phước, chứ không phải là tịnh
nghiệp giải thoát.
“Thiện nghiệp” là làm lành để hưởng phước, “Tịnh nghiệp” là làm
lành để đắc đạo, vãng sanh bất thối thành Phật. Người tu hành phải hiểu chính xác,
rõ ràng vấn đề, để nhất định một đời này siêu việt tam giới, thoát ly sinh tử.
Tu thiện nghiệp không giải thoát được, tốt thì có phước trong đời này hoặc đời
sau, không tốt thì ngay đời này được chút ít tiếng khen hão huyền, rồi sau cùng
tiêu tan, nhưng tất cả rốt cuộc cũng theo đường luân hồi. Tu tịnh nghiệp mới được
thoát nạn. Có nhiều chứng minh cụ thể như cụ Triệu-Vinh-Phương 1999, ông Trần-Quang-Việt
2001, ông Nguyễn-Nhất-Quang (Việt-Nam) 2002. Gần hơn nữa là ông bác ở Long-Khánh,
chỉ cần đọc mấy cái thư, làm theo đúng như vậy, một thời gian ngắn được vãng
sanh. Những người tu đúng theo tịnh nghiệp thì “vạn người tu, vạn người đắc”,
không tu theo tịnh nghiệp vạn người tu khó tìm một người đắc. Đây là sự thật.
Thưa
cha má, cùng một cách tu, nhưng biết tu thì giải thoát, không biết tu thì còn
phải chịu trầm luân. Phật dạy, người tham cầu phước báu Nhân-Thiên không thể vãng
sanh. Phước báu Nhân là tu “Nhân đạo”, có chỗ gọi là “Thế đạo”, cầu công
danh lợi lộc, thành hiền nhân quân tử. Phước báu Thiên là tu “Thiên đạo”,
cầu thành Tiên, thành Thần, sinh lên Trời để hưởng phước báu. Ghép chung lại gọi
là tu cầu phước báu nhân thiên hay “Nhân-Thiên thừa”. Tu phước báu nhân-thiên tốt
hơn người không tu, nhưng về lâu dài thì bị tai họa của tam thế oán. Tại sao vậy?
Phật dạy, vì đây chính là phép tu bất liễu giáo, một giáo nghĩa không toàn vẹn,
khuyên người làm lành rồi thả họ giữa đường, mông lung vô định hướng, trước bao
nhiêu cạm bẫy hiểm nghèo của thời mạt pháp. Mong cầu phước là ý nguyện muốn ở
trong tam giới, lục đạo. “Nhất thiết duy tâm tạo”, nguyện ở lại trong lục
đạo thì bắt buộc phải chịu sanh-tử luân-hồi. Cho nên người tu nhân đạo, thiên đạo
không thể được vãng sanh là vì lý do này. Cho nên, tu hành cần phải có trí huệ
mới phân biệt được lợi hại. Nếu mập mờ thì rất dễ lạc đường, thành ra tu hành
suốt đời, suốt kiếp, rốt cuộc cũng hoàn không.
Phật
dạy “Bế tắc chư ác đạo, thông đạt thiện thú môn”. Thông đạt thiện thú môn
là tu thiện, bế tắc chư ác đạo là đóng cửa ba đường ác, đóng tham, sân, si. Phải
đóng ác đạo thì tu thiện mới thật là thiện. Không đóng ác đạo thì tu thiện, nếu
sơ ý, có thể biến thành ác quả. Ví dụ, làm thiện thì tốt, phước thiện tự nhiên
có, còn làm thiện để cầu hưởng phước là không tốt, vì vô tình đã mở đường ác vi
tế trong tâm. Người đời không thông đạo lý này, cứ thấy tu thiện thì tưởng là
hay, nhưng đâu ngờ có thiện môn nhưng khai mở lòng tham vi tế, vô tình “thiện môn”
là cái mồi đặt trong cái bẫy “ác đạo” mà không hay!
Nói
như vậy không có nghĩa bác bỏ sự làm lành. Ngược lại, chúng ta phải tu thiện
nhiều hơn nữa, nhưng xin đừng ngừng lại đây. Ví dụ, như con đang ngày đêm khuyên
cha má tu hành để làm tròn đạo hiếu, đây là tu thiện. Nhưng, nếu có cái tâm niệm
rằng, ngày nay ta làm cho có hiếu với cha mẹ để ngày sau được con cái trả hiếu,
thì tất cả công việc con làm biến thành phước báu hữu lậu của nhân thiên, nói gọn
hơn là tu Thiện-Nghiệp, tu Nhân-Thiên.
Chính cái tâm tham cầu đã biến hẳn cái
thể tính của pháp tu hành. Con cái sau này có trả hiếu hay không chẳng quan hệ
gì lắm đối với việc mình đang làm, chúng nó đến theo cái nghiệp riêng của chúng
nó: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Ngược lại, việc làm giống nhau, nhưng con
chỉ có tâm cứu cha má, làm tròn chữ hiếu. Con không cầu mong được đền đáp cho đời
này, đời sau. Bao nhiêu công đức có được, thành tâm hồi hướng về Tây-phương, hồi
hướng cho tất cả chúng sanh, ai có duyên sẽ hưởng, con chỉ cầu được vãng sanh về
Tây-phương… thì con đang tu Tịnh-Nghiệp. Tu tịnh-nghiệp là tu tâm
thanh tịnh, tâm lượng rộng rãi, mong cho rất nhiều người cùng được có duyên tu
hành, có cơ hội giải thoát. Cho nên, không những con làm mà còn vận động tất cả
mọi người đều lo tròn hiếu thảo, con thành tâm muốn tất cả mọi người đều được
thiện lành, được vãng sanh. Như vậy thiện nghiệp hay tịnh nghiệp chỉ căn cứ vào
tâm tưởng. “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, cùng một việc làm, cùng
một công sức nhưng kết quả lại khác nhau.
Để
cho sự việc cụ thể hơn nữa, cha má đi giúp đỡ người nghèo khó cũng nên tùy duyên,
cái chính là niệm Phật. Giúp người, nếu trong tâm cứ nghĩ để tìm phước, để đời
sau khỏi khổ, thích cho thiên hạ biết việc mình làm… thì cha má không thể vãng
sanh, dù cho có tu tám chín chục năm, tu suốt đời… cũng phải trở lại trong
tam đồ, lục đạo. Vì sao? Phật dạy, “tất cả do tâm mình tạo ra”, tâm niệm
đang ở trong lục đạo luân hồi thì phải ở trong luân hồi, chắc chắn không thể thoát
ly được. Tâm duyên chúng sanh thì phải nhập vào vòng chúng sanh, “Sanh Phật
bình đẳng”, tự ta chọn lựa, tâm mình đã chọn cảnh giới lục đạo thì Phật cũng
không cứu được. Phật dạy, người tham phước nhân thiên không thể vãng sanh. Nói
cách khác, tu “Thế-đạo” và “Thiên-đạo”không được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc
Thế-giới, chắc chắn phải bị lọt lại trong tam đồ lục đạo để chịu nạn.
Ngược
lại, cha má phát tâm bố-thí vì lòng từ bi thương người, không thèm để ý đến tiếng
khen, không cầu phước. Một bát cơm một câu A-di-đà Phật, một đồng bạc một câu
A-di-đà Phật, tâm tâm niệm niệm đều muốn gieo duyên niệm Phật cho tất cả mọi người.
Có cơ hội thì khuyên người niệm Phật, không có cơ hội thì ngày đêm niệm Phật cầu
sanh Cực-lạc. Đem tất cả những công đức đó hồi hướng về Tây-phương để lót đường
vãng sanh. Làm như vậy, gọi là tu tịnh-nghiệp, chắc chắn được vãng sanh. Một đời
này thôi siêu vượt tam-giới, thoát ly sanh-tử luân-hồi, chờ ngày thành Phật tại
Tây-phương Cực-lạc quốc.
Điểm
thứ hai, người phân biệt, chấp
thủ không được vãng sanh. Đây thuộc về kiêu mạn. Trong ba độc tham, sân, si thì
đây thuộc về độc tố ngu si, vì ngu si nên mới tự cao, ngã mạn, khinh người. Kiêu
căng, ngã mạn là do tư tưởng cạn cợt, tâm địa hẹp hòi. Người không mở tâm lượng,
ích kỷ, hẹp hòi, mình niệm Phật mà không muốn người khác niệm… cũng không thể
vãng sanh.
Điểm
cuối cùng, người vì quá thông
minh, hiểu biết chuyện thế gian quá nhiều cũng là một trở ngại lớn cho đường tu
đạo. Đây thuộc về vọng-tưởng, hầu hết kiến thức thế gian thuộc về hữu lậu, căn
cứ trên hiện tượng vô thường, hữu hạn, không thể thấu suốt chân tướng của vũ trụ
nhân sinh. Chấp vào kiến thức thế gian, gọi là thế trí biện thông, khó hiểu thấu
cảnh giới của Phật thành ra vô minh, không tin Phật. Người thông minh mà biết thức
ngộ thì rất dễ khai ngộ Phật pháp. Đáng tiếc, con số này rất hiếm!
Thưa
cha má, học Phật rất dễ mà cũng rất khó. Khó hay dễ đều ở chỗ có lòng tin hay
không. Tin Phật khó lắm! Chỉ có người đã trồng được đầy đủ thiện căn, phước đức,
từ vô lượng kiếp đến nay rồi, cơ duyên thành Phật nay đã đủ rồi, mới có thể tin
được. Cha má đã gặp được pháp môn niệm Phật, đã phát tâm niệm Phật, thì nên tự
biết rằng chính mình đã có cái thiện căn phước đức này, đừng sơ ý bỏ mất cơ hội.
Những
năm trước đây, cứ mỗi lần con về quê thì có ông Mười ghé thăm. Lần này con về
thì ông Mười vĩnh viễn không còn tới thăm nữa! Ông Mười lội ngang qua sông, bị
dòng nước cuốn trôi và nhận thân xác của ông tận dưới đáy rạn cây. Tội nghiệp
quá! Nếu lúc đó ông vớ được một chiếc phao thì may mắn biết bao!
Cha
má ạ, con người suốt trọn cuộc đời thả trôi huệ mạng theo dòng đời chuyển dịch,
thì có khác gì họ đang hụp lặn trong dòng nghiệp lực cuồn cuộn, để chờ ngày bị
dìm chết đâu! Cha má tuổi xế chiều mà gặp được pháp niệm Phật thì đây là một cơ
duyên quá may mắn, giống như người sắp sửa chìm đã vớ được chiếc phao. Nhất định
phải bám chặt chiếc phao đó, đây là cơ hội duy nhất để thoát nạn.
Niệm
được câu Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật” thì có cơ hội được vãng sanh, nhưng phải
nhớ hãy liệng tất cả những gì còn mang trên lưng, trên vai, trên cổ xuống. Tiền
bạc, danh vọng, nhà cửa, sự nghiệp… chỉ là giả tướng, chỉ là số không. Ân tình,
nhơn nghĩa, con cái, họ hàng… chỉ là nghiệp duyên, sinh vì nghiệp, tử theo
nghiệp, để tiếp tục trả cái kiếp vô thường nhân sinh. Vậy thì, phải biết buông
bỏ tất cả để được nhẹ nhàng giải thoát, có tự giải thoát được mới cứu được mình,
cứu được họ. Nếu còn quyến luyến thì gánh nặng này sẽ trì kéo mình lại, làm cho
lật phao, phải buông tay, đành chịu chết chìm trong dòng nghiệp chướng.
Phải
sáng suốt nhận rõ đâu là lợi, đâu là hại, đừng hy sinh vô ích mà hại mình, hại
luôn người thân yêu cha má ạ. Sự vãng sanh của cha má là một đại phúc báu cho
chính cha má, cho con cái, là niềm hy vọng cứu độ rất lớn cho cả một đại gia tộc,
cho vô số chúng sanh nữa chứ không phải thường đâu.
Cho nên, phải quyết lòng tin tưởng,
quyết định buông xả, quyết tâm niệm Phật, quyết chí cầu sanh Tịnh-độ cha má ạ.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu,
9/12/02).
Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và
chúng sanh, Đồng sanh nước Cực Lạc.
– Hết tập một –
– Sách ấn tống để biếu tặng –
(For Free Distribution)
– Không bán –
(Not For Sale)
Tác giả không giữ bản quyền.
(No Copyright).
Discussion about this post