HỌC HẠNH NGÀI A NAN
Trong Kinh Lăng Nghiêm
Thích Nữ Giác Anh
Kinh Lăng Nghiêm là một
trong những bộ Kinh tinh túy cốt lõi thuộc truyền thống Kinh điển đại thừa Bồ
Tát đạo trong Phật Giáo. Tinh thần Bồ tát là tinh thần cầu thành Phật, phổ độ
chúng sanh, tinh thần ấy không phân biệt giữa hai giới tại gia hay xuất gia. Đã
là Phật tử, tức phải xác định mục đích tấn tu duy nhất, mục đích đó là phát Bồ
đề tâm, hành Bồ tát đạo. Trong lời tựa tán thán Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan
phát nguyện “ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập”, lời phát nguyện đó cũng chính là
lời phát nguyện cho mỗi người Phật tử trên con đường tu tập.
Thuật ngữ “ngũ truợc ác
thế” nghĩa là năm điều ô truợc của thế gian. Đức Phật xác định, cõi này là cõi
truợc, cõi nhơ uế. Sở dĩ nhơ uế là vì nghiệp tánh nhân chủng của chúng sanh nhơ
uế. Tâm nhơ uế nên cảnh nhơ uế. Tâm Phật thanh tịnh nên cảnh Phật thanh tịnh.
Tâm Bồ tát vô phân biệt nên cảnh giới an trụ của Bồ Tát vô phân biệt, và quang
minh thọ luợng của Chư Phật, Bồ Tát cũng thanh tịnh, tự tại, vô phân biệt.
Một cách dễ hình dung
hơn, thử xét nhân quả ngay tại thế gian nơi chúng ta đang sống. Đức Phật dạy,
nhân quả phuớc nghiệp của mỗi người là chánh báo thân thể hoàn cảnh của nguời
là y báo. Nhân ích kỷ, tị hiềm… không quan tâm đến nguời khác thì quả báo
phải là nghèo khổ, thiếu thốn. Nếu nhân rộng luợng, chân thật, biết quên mình
vì nguời, thường đem lợi ích cho mọi người, thì quả báo chắc chắn sẽ giàu sang,
danh vọng… Như vậy từ nhân nghiệp chánh báo giữa nguời nghèo và giàu khác
nhau, nên tất nhiên hoàn cảnh sinh sống, còn gọi là y báo, giữa hai nguời đó
cũng theo đó khác nhau. Cảnh nhà của nguời nghèo lam lũ, rách ruới… Cảnh sống
của nguời giàu là cao sang, cung điện… Tất cả những khác nhau đó không tự
nhiên mà sanh. Trên phương diện nhân quả nghiệp báo, như vậy cho nên sẽ không
có chuyện một nguời kém phước đức thác sanh vào gia đình hoàng tộc, cũng như
không có chuyện một nguời đầy đủ phuớc báu lại sanh vào một gia đình hành khất.
Tất nhiên trừ truờng hợp thị hiện của chư vị Bồ Tát. Như vậy hoàn cảnh nghèo
hay giàu sẽ không tự nó xuất hiện nếu không bắt nguồn từ chánh nhân nghiệp báo
nhân quả mà ra.
Chúng ta đang tu Phật,
nghĩa là đang phát nguyện chuyển cảnh giới từ phàm phu sang cảnh giới giải
thoát. Điều đó chắc chắn phải như vậy. Không ai tu Phật mà chấp nhận trầm luân
mãi trong biển khổ bao giờ. Điều đó vô lý như sự vô lý của người bệnh cứ uống
thuốc mà không muốn hết bệnh vậy. Trở lại việc tu Phật, khi hiểu các pháp đều
do nhân quả nghiệp báo thì “ngũ trược ác thế” đều là trách nhiệm của chính bản thân
mình. Nếu kết quả tu niệm của chúng ta thanh tịnh, trang nghiêm thì hoàn cảnh
xung quanh sẽ theo đó trang nghiêm, thanh tịnh.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
14, Ngài là quốc truởng và cũng là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của nguời dân
Tây Tạng; khi đến bất cứ nơi nào, dù gặp gỡ Phật tử hay người chưa từng biếtđến Phật giáo, Ngài đều có cái nhìn bình đẳng đến hết thảy mọi người. Ngài
thường nhận xét, con người dù có khác biệt về hoàn cảnh văn hóa, lối sống, về
tín nguỡng hay màu da…, nhưng tất cả đều là con nguời, mang thể xác và tâm trí
của một chúng sanh cao cấp. Thân thể vật lý của chúng ta giống nhau, tâm thức
và cảm xúc chúng ta cũng giống nhau. Gặp ai Ngài cũng có cảm tuởng là đang đối
diện với một con nguời như chính Ngài. Trên căn bản đó, Ngài đã đối thoại với
tha nhân bằng một tấm lòng tràn đầy thương yêu và hỷ lạc. Đức Đạt Lai Lạt Ma
với lòng bi mẫn chân thành đã làm rung động trái tim hàng triệu người vốn hoàn
toàn xa lạ với Phật Giáo trên khắp thế giới. Hình ảnh của Ngài là bài học
“ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập” sống động nhất giữa cảnh đời đau khổ
như ngày nay. Phật Giáo trên thế giới nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói
riêng, hơn hai ngàn năm qua đã có rất nhiều, rất nhiều… những trái tim Bồ Tát
từ bi vô lượng,vô biên như thế.
Tuy nhiên, ví như đi biển phải có hải bàn, vào rừng phải biết định hướng; giữa
vòng nghiệp báo phức tạp và đầy nguy hiểm, Đức Thế Tôn trước khi nhập Niết Bàn,
Ngài đã thiết tha căn dặn: “Sau khi Như Lai diệt độ, các con hãy lấy Giới
luật làm Thầy, Giới luật là mạng mạch của Phật Pháp, Giới luật còn thì
Phật Pháp còn”. Đức Phật chế giới luật cho 4 chúng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di. Theo Kinh điển chúng xuất gia thường đi theo
Phật là 1250 vị, tuy nhiên số chúng tại gia thì vô số, không thể nào tính biết
đuợc. Rất ít kinh điển kể lại Đức Phật chỉ thuyết cho hàng xuất gia, mà đa phần
Kinh Phật đều có sự hiện diện cả 2 giới. Kinh Lăng Nghiêm chúng ta trì tụng,
cũng là một trong những Kinh đặc trưng Phật thuyết cho cả hai giới như thế.
Điều đó nói lên rằng, Đức Phật quan tâm đến sự tu tập, hành trì của giới tại
gia không kém, hoặc có phần quan tâm hơn cả giới xuất gia nữa. Đức Phật nhấn
mạnh về Giới cho người xuất gia như thế nào, thì người tại gia cũng cần “lấy
Giới làm Thầy” như thế ấy.
Trong vòng sinh tử luân
hồi, đau khổ của chúng sanh thật không cùng tận. Lỗi lầm của sinh tử là Vô
Minh. Muốn phá Vô Minh, phải có Trí Tuệ, muốn có Trí Tuệ phải có Định lực, muốn
có Định lực, phải có trì Giới. Đó là công thức chung duy nhất cho tất cả Phật
tử. Nguời Phật tử tại gia có 5 giới, 10 giới, xuất gia có cụ túc giới và quan
trọng trên hết là Bồ tát giới. Tuy vậy, dù tại gia hay xuất gia, 5 giới cơ bản
vẫn luôn là thềm thang cho tất cả những bước tiến kế tiếp. Tất cả mọi an lạc,
hạnh phúc cho đến thực chứng giáo pháp, đều lấy đây làm nền tảng. Nguời Phật tử
tu tập Phật Pháp trong thế gian, không thể nào thiếu Giới làm rào cản cho bản
thân, cũng như làm gương cho hết thảy chúng sanh.
Tuy nhiên, để hiểu và
hành đúng Phật Pháp, là một điều không thể trong vòng một kiếp, hai kiếp… có
thể làm được, so với vô số kiếp vô minh của chúng sanh. Nhưng điều đó sẽ không
còn khó khăn nữa, nếu trên đường chúng ta đi được sự gia bị của chư Phật và Bồ
Tát. Nói cách nôm na, là có đủ phước đức. Tổ Ấn Quang dạy, rồng đất không thể
ban mưa, nhưng muốn cầu mưa không thể không cúng rồng đất, một vị Tăng chưa
thanh tịnh không thể khiến ta giải thoát được, nhưng muốn cầu quả giải thoát,
không thể không cúng chư Tăng. Để hiểu Phật Pháp và gìn giữ Giới luật, những
tưởng điều đó mang tính cố gắng của cá nhân; nhưng quả thật, nếu không có đủ
phước báu, không thể hiểu và hành đúng chánh pháp. Cũng như nếu không có sự gia
bị của chư Phật, Bồ tát và Long thần hộ pháp… sẽ không thể nào trì Giới nỗi,
khi toàn thể thân tâm chúng ta đang trong vòng nghiệp báo đau khổ luân hồi.
Truyền thống đẹp của
Phật Giáo Trung Hoa và Việt Nam được gìn giữ đến ngày nay với hai thời công
phu, nhất là thời công phu khuya, mở đầu cho một ngày mới – người Phật tử được
hưng khởi tâm Bồ Đề bằng lời phát nguyện của Ngài A Nan, đó là một truyền thống
đẹp và rất đáng hãnh diện. Nguyện cầu Tam Bảo thường gia hộ truyền thống này
luôn được trân quí và phát huy cho dù trong mọi hoàn cảnh, thời gian nào.
Kỷ niệm mùa
An Cư 2009
Trường hạ Pháp Bảo
Thích Nữ Giác Anh
c
Discussion about this post