Nguyệt Xứng
GIÁO PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT VỀ NGÃ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp.174-177)
Một người có thể phản đối: Nếu, như ông biện luận, thật tướng của sự vật là sự không sinh khởi của các sự cá nhân hoá Tôi và của tôi (hypostatizations of I and mine) trong quan tâm cá nhân hoặc phi cá nhân bằng cách xem bất kì sự vật, cá nhân hoặc phi cá nhân là thực trong tính đặc thù của nó, vậy thì ông nghĩ sao về các phát biểu sau đây của Đức Phật ?
“Ngã là người chủ của ngã. Có thể có một người chủ nào khác ? Các kẻ trí đạt cõi trời bằng cách kiềm chế cái ngã. Ngã là người chủ của ngã. Có thể có một người chủ nào khác ? Ngã là sự chiếu soi của ngã trong cả tốt và xấu”. Và các tương tự. Điều này chắc chắn mâu thuẫn với ông.
Chúng ta trả lời: Đức Phật có nói như thế và cũng nói “Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi”. Và cũng nói: “Thân không là ngã, ngã cũng không sở hữu thân, ngã không ở trong thân, thân cũng không ở trong ngã. Trong cùng cách nói như thế, thức không là ngã, ngã cũng không sở hữu thức, ngã cũng không ở trong thức, thức cũng không ở trong ngã”. Và cũng nói: “Tất cả các uẩn đều không có ngã”.
Tại sao các kinh này không mâu thuẫn với các kinh được trích dẫn nói ở trước. Bởi vì mục đích của giáo pháp của đức Phật trong các kinh dẫn ở trước phải được thông hiểu. Nó là một quy luật phổ quát là sự phân biệt giữa chân lý cho các người đã liễu nghĩa (nitartha) và cái gì là chân lý chỉ thuần cho người cần giảng giải (neyartha) hiện hữu trong giáo pháp của chư Phật những vị dốc lòng đối với sự thức tỉnh tâm tương tợ hoa sen của toàn thể vạn hữu đang được hướng dẫn, chư Phật như mặt trời không bao giờ lặn tắt và chư vị tuyệt vời trong năng lực tuệ quán và trí tuệ siêu việt và đại bi phổ quát.
XVIII.6 Chư Phật tạm thời sử dụng danh từ ngã và giảng về ý nghĩa của vô ngã. Chư Phật cũng giảng ngã hoặc vô ngã cũng không hiện hữu.
Ý nghĩa là đây. Có các nhân vật (các nhà duy vật hoặc thế luận; materialists or naturalists), ngay dù đã có căn bản trong thế giới của tu tập thế gian, không nhìn thấy một cách đúng đắn mọi sự vật thế gian dù các sự vật này chỉ là các đối tượng mà mọi người có thị kiến bình thường nhìn thấy; đây là bởi vì con mắt của tâm trí họ bị hoàn toàn che phủ bởi một sự đục thấu kính thủy tinh thể mắt chỉ do tri kiến sai lầm, sinh khởi từ ngụy tín, rằng ngã không hiện hữu. Họ quyết định chấp thuận chỉ có các yếu tố được gọi là đất, nước, lửa và khí là tính thật tại. Họ đề khởi (claim) rằng tâm trí riêng chỉ sinh khởi từ thời kì thai nghén của bốn yếu tố, tương tự một thai nhi; ngay cho đến cả thời kì sinh thành của các chất thể như các rễ, củ rễ, cơm chín, và nước làm thành các thức uống say sưa, khí trung tiện, và các thứ . Do thế, bác bỏ một cách hăng hái một khởi đầu và một chấm dứt đối với một đời sống, họ phủ nhận ngã và hiện hữu tương lai. Đời sống này (thế giới; loka) là không thật / bất thực ; đời sống kế tiếp là không thật ; các trái quả chín tới của các hành động tốt và xấu đều là không thật ; không có một sinh thể cá nhân nào được sinh ra, và các thứ . Bởi vì bác bỏ tất cả các điều này, họ quay sang thực hiện các nỗ lực tương tợ các mục tiêu lạc thú và qúy hiếm của cõi trời và đại lạc tối hậu; họ thực hiện một cách mãi mãi không ngừng nghỉ các hành động bất hảo bởi vì tập khí bẩm sinh của họ, và họ với năng lực thân tâm mạnh mẽ phóng vào trong các địa ngục .
Để làm chấm dứt niềm tin của những người như thế rằng ngã không hiện hữu, Chư Phật đôi khi đã duy trì, vì mục đích giảng dạy, rằng ngã hiện hữu. Chư Phật điều chỉnh theo cõi chúng sinh sinh sống trong đó có 8400 tiêu chuẩn về con người (categories of creature) [trong đó có những người không thay đổi đường lối hành động một cách dễ dàng], tận tụy hoàn thành bản nguyện cứu độ toàn thể cõi chúng sinh và lưu xuất với kho báu vĩ đại của đại bi, trí tuệ thực dụng và thông tuệ tối hậu, những vị không có đồng đẳng, nối kết những điều này vào một pháp vị cam lộ /tính bất tử của giáo pháp Phật giáo (creation) [chú thích 6], các vị y sĩ cho đại bệnh phiền não, những vị thầy của nghệ thuật chữa lành, đã sẵn lòng thể hiện từ bi tới những kẻ đang cần sự hướng dẫn bất kể ở trình độ thấp nhất, trung bình, hoặc cao nhất, chư Phật, để làm chấm dứt cho các hạnh bất hảo của những kẻ ở trình độ thấp kém nhất, đã diễn tả các giáo pháp của chư Phật trong các quy định hàng ngày /thế gian. [= thế nên Chư Phật tạm thời nói với thế gian là có ngã]
Sự luận bác về lí thuyết rằng các sự vật có thể là không có nguyên nhân thì đã được nói đến trong Chương “Tác giả và tác hành” của bộ luận này và trong kệ tụng “hoặc là không có nguyên nhân” (Kệ tụng 1) và các chi tiết có thể được tìm thấy trong Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatara). Thế nên không cần thiết luận bác quan điểm đó thêm nữa ở đây.
Tuy vậy, có các kẻ mà, giống như các con chim, bị buộc vào các nối kết lâu dài và mạnh mẽ do quyến luyến với Tôi và cái của tôi, các nối kết sinh khởi từ bảo vệ tính thực tại của ngã. Như thế, mặc dù chúng đã tiến bộ xa và không thực hiện các hành động bất hảo, không có khả năng vượt ngoài trạng thái bị sinh vào ba cõi hiện hữu (dục, sắc, và vô sắc), và không thể tới được thành phố đại lạc của niết bàn là nơi không có tuổi già, cũng không có chết .
Như thế chúng là nhóm trung cấp của những kẻ cần được hướng dẫn, và đối với chúng, chư Phật, trong ý muốn khai thị thuận lợi cho những kẻ cần sự hướng dẫn, cũng đã giảng dạy sự không hiện hữu của ngã để làm suy yếu các quyến luyến tới các tri kiến sai lạc về ngã và để đánh thức sự mong cầu về niết bàn.
Và có những kẻ là những người, nhờ có kỷ luật đức hạnh thuở trước, đã làm hoàn hảo tiềm năng của họ bằng sự tuân thủ vào chân lý diệu nghĩa thâm mật. Đối với những kẻ tín hạnh siêu đẳng (superior followers) như thế, với những kẻ niết bàn thì cận kề, những kẻ không còn quyến luyến vào một ngã, những kẻ có khả năng thâm nhập chân lý ẩn mật trong những diệu ngữ của các thánh giả vô thượng, chư Phật, thấy được giá trị cao quý của những kẻ này, đã dạy: “Không có ngã, bất kỳ ngã là cái gì hiện hữu hoặc không hiện hữu”. Lí thuyết về ngã, và lí thuyết về vô ngã đều đồng thời không là chân lí về các sự vật. Đó là tại sao điều này được giảng dạy: “Không có ngã, dù ngã là bất kỳ cái gì, cũng không có vô ngã dù vô ngã là bất kỳ cái gì”.
“No self whatsoever either exists or does not exist.” Even as the theory of self is not the truth of things, no more is the theory of non-self. That is why it is taught: “There is no self whatsoever, nor is there any non-self whatsoever.”
Như kinh Đại Bảo Tích (Aryaratnakuta) có nói: ‘Có một ngã’, Ca Diếp (Kasyapa), là một giáo điều. ‘Không có ngã’ là một giáo điều đối lập. Cái tránh được hai giáo điều này thì được nói là không có một bản chất tự tính, vượt ngoài thành lập (proof), không tùy thuộc, không thể nhìn thấy, không trú sở, không thể nhận biết theo tâm niệm phân biệt. Ca diếp, nó là trung đạo; nó là cách thức đúng đắn quan liên thật tướng của các sự vật.
As is said in the Aryaratnakuta: ‘ “ There is a self ”, Kasyapa, is one dogma. “ There is no self ” is the opposing dogma. What avoids these two dogmas is said to be without a specific nature, beyond proof, not related, invisible, without an abode, not to be known conceptually. It is, Kasyapa, the middle way ; it is the right way of regarding the true way of things’.
Như được nói trong Vòng bảo châu của Long Thọ (Aryaratnavali) : ‘Và do thế trong thật tướng sự vật cũng không có tri nhận về ngã hoặc vô ngã. Bậc đại thánh đã xoá bỏ các tri kiến sai lầm có nguồn gốc từ ngã và vô ngã. Cái gì được thấy và nghe, và nói một cách khác, là được tri nhận thì bậc thánh không nói là hoặc thật hoặc giả. Từ một tri kiến sẽ sinh khởi cái đối lập của nó và cả hai sẽ không có cái nào là đúng thực’.
Bởi, trong cách này, chư Phật trong giáo pháp hiện hoạt về chân lý, luận bác ngã, vô-ngã và đồng thời cả hai ngã và vô-ngã, căn cứ vào các tập khí/ nết cũ của những kẻ được hướng dẫn, tuỳ theo họ ở trong các nhóm sơ cấp, trung cấp hoặc cao cấp, thế nên các nhà Trung Quán không có sự bất đồng đối với các bản văn giá trị chính xác.
Đó là lí do tại sao đại sư Thánh Thiên (Aryadeva) đã nói: ‘Kẻ nhận biết làm cách nào lúc khởi đầu, ngăn chặn không làm các ác hạnh gây hại, và tiếp đó làm cách nào ngăn chặn ngã gây hại, và sau đó, làm cách nào đặt tất cả các sự vật dưới sự kiểm soát, kẻ đó đã thành tựu trí tuệ ’. Và ngài Long Thọ đã nói: ‘Cũng như khi nhà văn phạm muốn dạy ngôn ngữ, cũng thế đức Phật dạy Chân Lý tùy theo khả năng của những kẻ được hướng dẫn. Với một số kẻ, ngài đã dạy Chân Lý để hướng dẫn họ không làm các ác hạnh. Với một số kẻ, dạy họ lợi ích khi làm thiện hạnh; với một số kẻ, dạy cả hai, lợi ích không làm các ác hạnh, lợi ích làm các thiện hạnh. Và ngoài hai nhóm này, ngài dạy Chân Lý ẩn mật, làm khiếp hãi những kẻ dễ bị sợ hãi, bị che giấu trong sự không có hiện hữu tự tính, và dạy đại bi phổ quát; và với những kẻ khác , ngài đã dạy sự thật chứng giác ngộ. (Ratnavali IV. 94-96)
Có một cách diễn dịch khác về kệ tụng này (XVIII.6). Học phái Số luận (Samkhya) và các học phái khác, sau khi chấp thuận sự chẳng có liên kết tất yếu giữa một tác hành và các hiệu quả của nó trong các thành tố kết hợp mà chúng ở trong giòng chảy liên tục (constant flux), vẫn nói về một ngã. Và các nhà lô ca gia đà / thế luận (lokayatikas; materialists; naturalists), không thấy, trong tri nhận triệt để theo quy luật, một ngã đang hành chuyển, [thế nên] họ nói về một vô ngã. Họ nói, ‘ một cá nhân thì chẳng là cái gì khác hơn là cái ở trong các lãnh vực giác quan. Thưa Đấng Cát Tường, cái gì kẻ học thức diễn tả bằng lời thì chỉ là cái suy luận sai lầm. ’
Cũng như những kẻ mắt lành mạnh không thấy các sợi tóc và các con muỗi, và bất kỳ thứ gì tương tự, mà các kẻ có bệnh mắt thấy, thế nên chư Phật không có bất kỳ cách nào thấy ngã và vô ngã là các sự-sự vật- vật có hiện hữu tự tính trong cách thức người bình thường tưởng tượng chúng. Chư Phật cũng đã dạy, ‘Ngã chẳng hiện hữu, vô ngã cũng chẳng hiện hữu’ (‘Neither self nor non-self exist’ has been taught as well by the Buddhas.)
There is another interpretation of the karika. The Samkhya school and the others , accepting the lack of a necessary connection between and act and its consequences in compound elements which are in constant flux, still talk about a self . And the naturalists (lokayatikas) , not seeing, in rigorous perception, a transmigrating self , talk about a non-self. They say, ‘A person is absolutely nothing more than what is within the sensefields. O blessed one, what the learned talk about is but a faulty inference.
Even as those not sufferingfrom eye disease do not see the hairs and mosquitoes and such things which are perceived by those with eye disease, so the Buddhas in no way whatsoever see self and non-self as self-existing realities in the way the ordinary people imagine them. ‘Neither self nor non-self exist’ has been taught as well by the Buddhas.
Chú thích
1. Các bản dịch kệ tụng XVIII.6
Translated from Sanskrit by Mervyn Sprung, 1979
XVIII.6. Both ‘Self exists’ has been expounded and ‘The self does not exists’ has been taught to. And neither self nor non-self exist’ has been taught as well by Buddhas.
Translated from Sanskrit by K.K. Inada 1970, 1993
XVIII.6 The Buddhas has provisionally employed the term ‘atman’ and instructed on the true idea of ‘anatman’. They have also taught that any (abstract) entity as ‘atman’ or ‘anatman’ does not exist.
——-
Trung Luận. Hán dịch: Cưu ma la thập. Việt dịch: Thích Thiện Siêu
XVIII.6.
Chư Phật hoặc dạy về ngã, hoặc dạy về vô ngã, trong thật tướng các pháp, không có ngã, không có phi ngã
XVIII.6.
Chư Phật hoặc thuyết ngã
Hoặc thuyết ư vô ngã
Chư pháp thực tướng trung
Vô ngã vô phi ngã
2. Để đoạn dứt sự e sợ danh từ VÔ NGÃ của phàm phu,
Đức Như Lai đã giảng trong Kinh Lăng già:
Phật bảo Đại Huệ:
Ta nói Như Lai Tạng chẳng đồng với cái thuyết “Chơn ngã” của ngoại đạo.
Đại Huệ! Ta có lúc nói Không, Vô tướng, Vô nguyện, Như thật tế, Pháp tánh, Pháp thân, Niết Bàn, lìa tự tánh, bất sanh bất diệt, bổn lai tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn v.v… dùng những danh từ này để thuyết Như Lai Tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ VÔ NGÃ của phàm phu, nên nói cảnh giới lìa vọng tưởng, Vô Sở Hữu là Như Lai Tạng.
Đại Huệ! Bậc Bồ Tát vị lai, hiện tại, chẳng nên sanh ngã kiến chấp trước.
Ví như thợ gốm nơi một đống đất dùng phương tiện nhơn công, nước, cây, bánh xe quay để làm ra các món đồ gốm, thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp Vô Ngã lìa tất cả tướng của vọng tưởng, dùng đủ thứ trí huệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai Tạng, hoặc thuyết Vô Ngã.
Do nhân duyên này, nên cái thuyết Như Lai Tạng của ta chẳng đồng với cái thuyết chơn ngã của ngoại đạo.
Vì khai mở cái trói chấp ngã của các ngoại đạo, nên có cái thuyết Như Lai Tạng, khiến họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa giải thoát, mong họ chóng được Vô Thượng Bồ Đề.
Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai Tạng như thế. Nếu chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại đạo.
Cho nên, Đại Huệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo, cần phải y theo pháp Vô Ngã của Như Lai Tạng mà tu học.
( Kinh Lăng già. Bản dịch Thích Duy Lực, trang 67-68)
———————
3. Ngã, và Toàn hảo xác định, trong Vòng hoa quý báu /Luận Bảo hành vương chính (Ratnavali; Precious Garland)
(dịch từ: Nagarjuna’s Precious Garland (Ratnavali) translated by Jeffrey Hopkins. 2007)
(25)
Giáo pháp về toàn hảo xác định (definite goodness)
Chư Tối Thắng thuyết giảng
Vi diệu và chấn động
Kẻ sơ trí thiếu học
(26)
Tôi hiện hữu, tôi sẽ không hiện hữu
Tôi có, tôi sẽ không có
Làm kẻ sơ trí sợ
Làm kẻ trí vô úy
(27)
Ngài cứu độ hữu tình
Nên nói các hữu tình
Sinh khởi ý niệm ngã
và ý niệm ngã sở .
(28)
Ngã, ngã sở hiện hữu
Như tối hậu: đều sai
Vì chúng không an lập
Bởi bản thức thật tướng
(29)
Các uẩn tâm thân sinh
Từ ngã chấp sai lầm
Sao có thể tăng trưởng
Hạt giống giả thành thật?
(30)
Thấy các uẩn không thật
Ngã chấp bị buông bỏ
Do buông bỏ ngã chấp
Các uẩn không sinh nữa.
(31)
Cũng như mọi người nói
Hình của mặt được thấy
Tùy thuộc vào tấm gương
Không hiện hữu là mặt
(32)
Khái niệm ngã hiện hữu
Tùy thuộc vào các uẩn
Nhưng giống hình của mặt
Ngã không thật hiện hữu
(33)
Như không tùy thuộc gương
Hình của mặt không thấy
Niệm ngã không hiện hữu
Mà không tùy các uẩn
(34)
Khi tôn giả A nan
Được nghe nghĩa pháp này
Ngài đạt được pháp nhãn
Và giảng lại chư tăng.
—————————
(25) The doctrines of definite goodness
Are said by the Conquerors
To be deep, subtle and frightening
To the childish, who are not learned.
(26) “I am not, I will not be
I have not, I will not have,”
That frightens all the childish
And extinguishes fear in the wise.
(27) By him who speaks only to help beings,
It was said that all beings
Have arisen from the conception of I
And are enveloped with the conception of mine
(28) “The I exists, the mine exists,”
These are wrong as ultimates,
For the two are not [established]
By a thorough consciousness of reality as it is.
(29) The mental and physical aggregates arise
From the conception of I which is false in fact. (in fact:ultimately)
How could what is grown
From a false seed be true?
(30) Having seen thus the aggregates as untrue,
The conception of I is abandoned,
And due to abandoning the conception of I
The aggregates arise no more.
(31) Just as it is said
That image of one’s face is seen
Depending on a mirror
But does not exist [as a face],
(32) So the conception of I exists
Dependent on the aggregates,
But like the image of one’s face
The I does not at all really exist.
(33) Just as without depending on a mirror
The image of one’s face is not seen,
So too the conception of I does not exist
Without depending on the aggregates.
(34) When the Superior Ananda
Heard what this means,
He attained the eye of doctrine
And repeatedly spoke of it to monastics.
—————————————-
4. Definite Goodness. Sự toàn hảo xác định
Definite: clear and unambiguous : xác định.
Definitive: final and decisive; xác định rốt ráo; rốt ráo và quyết định; minh định rốt ráo
Trong bản dịch ‘Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí’, Definite Goodness đã được dịch là: Tất cả toàn hảo.
01.12.2016, đọc lại Ratnavali (Vòng bảo châu) của Ngài Long Thọ, được biết Definite Goodness = Skt. naihsreyasal, nên xin dịch là: Toàn hảo xác định
————
Skt. naihsreyasa, được Jeffrey Hopkins dịch là Definite Goodness (Toàn hảo xác định) :
*”Như vậy đối với Skt. naihsreyasal, tôi thích dịch theo nguyên văn ” definite goodness” = ” toàn hảo xác định” để truyền đạt ý niệm rằng trạng thái giải thoát không còn sinh tử luân hồi (và đại giải thoát của trạng thái phật) thì vững bền và như vậy không giống như các địa vị cao trong sinh tử luân hồi có thể suy sụp. Cũng vậy, có minh chứng là Vô năng thắng lữ (= Ajitamitra) đọc từ ngữ kết hợp này là toàn hảo một cách xác định ‘definitely good’ , hoặc’ decidedly good’ = toàn hảo một các quyết định, vì khi giải thích kệ tụng 25 ngài nói:
Từ những tu tập này, bạn thành tựu toàn hảo một cách xác định và sự giải thoát có công đức; thế nên, đây là những tu tập về sự toàn hảo xác định; nó đúng là toàn hảo một cách quyết định. ( J. Hopkins. Vòng bảo châu của Long Thọ.p.46)
‘… Thus for naihsreyasaI I prefer the literal translation ” definite goodness” in order to convey the sense that the state of liberation from cyclic existence (as well as the great liberation of Buddhahood ) are stable and thus unlike high status within cyclic existence which can deteriorate. Also , there is evidence that Ajitamitra read the compound as “definitely good” , or “decidedly good”, for in commentary on verse 25 a he says:
From these [practices] one achieves the definitely good and virtuous liberation; therefore, these are [the practices of ] definite goodness; just it is definitely good .
(Jeffrey Hopkins. Nagarjuna ‘s Precious Garland . p.46)
Hopkins cũng không đồng ý với cách dịch là final beatitude (đại lạc tối hậu) , vì beatitude xa nghĩa với goodness .
Naihsreyasa có 2 phương diện — giải thoát luân hồi sinh tử (liberation from cyclic existence) thì không là thành tựu tối hậu (final achievement), và chỉ có đại giải thoát của trạng thái phật (great liberation of Buddhahood) là thành tựu tối hậu duy nhất (the only final achievement) .
——————
5. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về toàn hảo xác định:
Khi chúng ta nói về Phật pháp trong ngữ cảnh này, thuật ngữ Pháp hoặc tâm linh (Dharma or spirituality) là đang nói về sự tịch tĩnh của niết bàn — giải thoát – và về toàn hảo xác định, một thuật ngữ bao gồm cả giải thoát cách tuyệt luân hồi, và vào sự toàn giác của trạng thái phật
(When we speak of Buddhadharma in this context, the term Dharma (or spirituality) refers to the peace of nirvana – liberation – and to definite goodness, a term that encompasses both liberation from samsara as well as the full enlightenment of buddhahood).
Chúng ta sử dụng thuật ngữ toàn hảo xác định bởi vì sự tịch tĩnh của niết bàn thì hoàn toàn tuyệt hảo, thanh tịnh và vĩnh viễn.
(Đạt Lai Lạt Ma. Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí. Bài 1)
————-
6. Pháp vị cam lộ / tính bất tử của giáo pháp Phật giáo
Từ ngữ ‘creation’ trong ngữ cảnh đoạn văn dài ca tụng Chư Phật, được dịch là ‘Pháp vị cam lộ / tính bất tử của giáo pháp Phật giáo’ là vì :
1. căn cứ ngữ cảnh và vị trí ‘creation’: “… tận tụy hoàn thành bản nguyện cứu độ toàn thể cõi chúng sinh và lưu xuất với kho báu vĩ đại của đại bi, trí tuệ thực dụng và tuệ quán tối hậu, những vị không có đồng đẳng, nối kết những điều này vào một pháp vị cam lộ /giáo pháp bất tử Phật (creation) [chú thích 6], các vị y sĩ cho đại bệnh phiền não, những vị thầy của nghệ thuật chữa lành, đã sẵn lòng thể hiện từ bi …”
Như vậy creation có “các vị y sĩ …” là nguyên một mệnh đề giải thích nghĩa đầy đủ hơn cho creation (nghĩa là creation có mệnh đề theo sau là đồng cách (apposition) — (nói về văn phạm).
2. ‘creation’ xuất hiện khi ngài Nguyệt Xứng giảng kệ tụng 6. Ngài Nguyệt Xứng viết tiểu đề “Tính bất tử của giáo pháp Phật giáo” và tiếp theo giới thiệu kệ tụng11 ca tụng pháp vị cam lộ .
Tụng 11
Chư Phật, Thế Giới Đại Thánh Chủ,
Giảng dạy pháp vị cam lộ,
Không một, không khác,
Không phi hiện hữu, và không thường hằng.
Tụng 11, Bản Anh: immortal truth: cam lộ tịnh pháp; cam lộ pháp
Cam lộ pháp (Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch)
Giáo pháp của đức Như lai. Tức pháp vị thanh tịnh, nuôi dưỡng thân tâm chúng sinh, ví như tính chất cam lộ.
Kinh Pháp hoa phẩm Dược thảo dụ (Đại 9, 20 thượng) nói:
“Ta là Thế tôn , chẳng ai sánh kịp, an ẩn chúng sinh, nên hiện ra đời. Vì đại chúng nói Cam lộ tịnh pháp, pháp có một vị, giải thoát Niết bàn”
Thập địa kinh luận quyển 2 (Đại 26, 130 trung) nói:
Như bệnh mong thuốc tốt, như ong nương nơi mật, chúng con cũng như vậy, mong nghe pháp cam lộ”
[Xem: luận Phật địa Q.4; Chú duy ma cật kinh Q.7]
7. Cái ngã thường tại / thường hằng
Có một lời phát biểu phổ biến, ” Một cái ngã thường tại / thường hằng giữa các thành tố của hiện hữu cá nhân [= ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành , thức) thì được nhận biết là một ‘thế giới’ bởi vì thế giới được thành lập trên một niềm tin tưởng như thế “. Cá nhân bình thường này được gọi là một ‘thế giới’ khi mà kẻ đó bị thông hiểu là được đặt căn cứ trên năm thành tố của hiện hữu cá nhân [= ngũ uẩn] .
(Nguyệt Xứng. Minh cú luận)
***
There is a saying, ” A permanent self among the factors of personal existence (skandhas) is known as a ‘world’ (loka) because world is founded on such a belief “. The ordinary person is called a “world” in so far as he is understood to be based on the five factors of personal existence.
(Candrakirti. Prasannapada. Lucid Exposition of the Middle Way . p.230).
———–
Chú thích : dịch Anh Việt — thì THE ( definite articlce) là khó dịch.
Trong câu trên — The ordinary person — được dịch là Cá nhân bình thường này — vì thêm chữ NÀY, thì ngữ cảnh dễ hiểu hơn — nghĩa là Cá nhân bình thường này tức là kẻ tin vào cái ngã thường tại / thường hằng — trong câu trước .
—–
8. Ngài Nguyệt Xứng trong “Luận giải về Bốn trăm tụng của ngài Thánh Thiên” viết:
“Ở đây “ngã” là một hiện hữu có tự tính (svabhava) của các hiện tượng, đó là, không tùy thuộc vào cái khác. Sự phi hiện hữu của ngã này là vô ngã. Vô ngã này được thực chứng theo hai phương diện con người và các hiện tượng (khác) — một vô ngã của các nhân thể và một vô ngã của các hiện tượng (khác) [nhân ngã và pháp ngã].”
(trích theo J.Hopkins. Meditation on Emptiness .trang 637)
9. Bờ này bờ kia
Ngài Nguyệt Xứng viết trong Minh cú luận, trích dẫn Kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã:
“Bất cứ ai muốn trở thành một người đi theo một giác giả hoặc một giác giả, hoặc một pháp vương, mà không trực nhập sự tịch tĩnh này (bát nhã ba la mật), sẽ không thành tựu chi cả: một người mà không nhận ra được các bờ của một con sông sẽ không thể tới được hoặc bờ này hoặc bờ kia”
(“Whoever desires to become a follower of the realized one or a realized one himself, or a monarch of the truth, without attaining this imperturbableness, will achieve nothing: a man who does not discern the banks of a river will not arrive either at this bank or the other.”)
( trích từ trang 174, đoạn 354: Lucid Exposition of The Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from The Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas
Trong Vigrahavyavartani (Hồi tranh luận), Ngài Long Thọ nói Đức Phật giảng tính không, duyên khởi và trung đạo là đồng nghĩa:
Tôi cung kính lễ Đức Phật vị vô thượng, và
Người giảng pháp tối thượng rằng
Tính không, duyên khởi và
Trung đạo có cùng một nghĩa. [71]
I prostrate to the Buddha who is unparalled, and
Who has given the supreme teaching that
Emptiness, dependent origination and
The middle path have the same meaning. [71]
——
10. lokayatikas ( materialist; naturalists): các nhà Thế luận ; Lô ca gia đà
KINH NHẬP LĂNG GIÀ
– Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
– Đời Nguyên Ngụy –
– Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ – Phan Rang
Quyển thứ sáu PHẨM THỨ NĂM: LÔ CA GIA ĐÀ
Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Một thuở, đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói rằng, đủ thứ biện thuyết của Lô Ca Gia Đà, nếu có gần gũi cúng dường người đó thì nhiếp lấy dục thực, chẳng nhiếp lấy pháp thực. Thưa đức Thế Tôn! Vì sao nói rằng, đủ thứ biện thuyết Lô Ca Gia Đà, gần gũi cúng dường, nhiếp lấy dục thực, chẳng nhiếp lấy pháp thực?
Đức Phật dạy rằng:
– Này Đại Tuệ! Lô Ca Gia Đà có đủ thứ biện tài, ngôn từ, câu cú xảo diệu mê hoặc thế gian, chẳng y vào như pháp mà nói, chẳng y vào như nghĩa mà nói, chỉ tùy theo sự ưa thích của tình cảm phàm phu ngu si ở thế gian mà nói việc thế tục, chỉ có ngôn từ khéo léo, chương cú mỹ diệu làm mất đi chính nghĩa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là lỗi của Lô Ca Gia Đà đủ thứ biện tài lạc thuyết.
Này Đại Tuệ! Biện tài như vậy của Lô Ca Gia Đà chỉ nhiếp lấy phàm phu ngu si của thế gian, chẳng phải vào pháp tướng như thật mà nói pháp, tự chẳng giác tri (hay biết) tất cả pháp rơi vào trong nhóm tà kiến nhị biên, tự mất chính đạo, cũng khiến cho người khác mất. Vậy nên họ chẳng thể lìa khỏi các đường, do chẳng thể thấy chỉ là tự tâm phân biệt chấp trước ngoại pháp có tướng. Vậy nên chẳng lìa khỏi hư vọng phân biệt.
Này Đại Tuệ! Vậy nên ta nói, Lô Ca Gia Đà tuy có đủ thứ biện tài xảo diệu ưa nói các pháp nhưng mất chánh lý nên chẳng được ra khỏi sinh già, bịnh chết, ưu bi khổ não… tất cả khổ tụ, do y vào đủ thứ danh tự, chương cú, thí dụ, nói khéo để mê hoặc, lừa dối người
——-
Kinh Nhập Lăng già Bản dịch Sanskrit- English của D.T. Suzuki — bản dịch Việt: Thích chơn Thiện – Trần Tuấn Mẫn 2005 — nói về các nhà Thế luận / Lô ca gia đà — Mục LXXIII pp. 285 – 297
———–
11. Ngũ ngữ của Như Lai
Ngũ ngữ: Chơn ngữ, Thật ngữ, Như ngữ, Bất cuống ngữ, bất dị ngữ.
Phật thuyết chơn ngữ: là nghĩa chung với nhị thừa (có sanh tử để diệt, có Niết Bàn để chứng)
thật ngữ: là nghĩa chung với Bồ tát (nghĩa đại thừa, sanh tử Niết Bàn đều như hoa đốm trên không)
như ngữ: là nghĩa chung với Tam thừa–Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát – (trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả)
bất cuống ngữ: chẳng dối tức là vô hư
bất dị ngữ: thấy trước việc chưa đến nên gọi là bất dị tức là vô thật,
nên Phật nói pháp ấy là vô thật vô hư .
(H T Duy Lực lược giảng)
*
“Those all-beings of whom the Tathagata has spoken , they are indeed no-beings. Why? Because the Tathagata speaks in accordance with reality, speaks the truth, speaks of what is, not otherwise. A Tathagata does not speaks falsely”.
(The Diamond Sutra – Edward Conze translated)
Kinh Kim Cương
Tu-Bồ-Đề! Như Lai là người chơn ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ,bất dị ngữ. Tu-Bồ-Đề! Pháp của Như Lai chứng đắc, ấy là pháp vô thật vô hư.
———————————–
12 . Vô minh
Vô minh: ignorance; fundamental ignorance; Skt. avidya.
Vô minh, cũng gọi là căn bản vô minh là tâm thức nhận biết sai lầm về bản chất của thật tại, thế nên là nguồn của tất cả các phiền não tâm ý và 12 chi tiếp nối của duyên khởi.
Vô minh có hai loại: 1. che lấp (=chướng ngại) quan liên đến những hành động và hậu quả của những hành động. 2. che lấp quan liên đến chân như ( như thị; thật tướng; bản chất của thật tại ;…). (Ignorance is of two types: obscuration with respect to actions and their effects and obcuration with respect to suchness).
Che lấp về bản chất thật tại (như thị, thật tướng) phục vụ trong trạng thái động cơ nguyên nhân (serves as the causal motivation) cho tất cả các tái sinh trong sinh tử lưu chuyển, nhưng quy định khuôn khổ cho động cơ hành vận (in terms of operational motivation) vào thời điểm của hành động.
Che lấp quan liên đến hành động và hậu quả của hành động được đặc biệt định rõ là nguyên nhân của tích tập những hành động hình thành kết qủa sinh vào những cõi chuyển cư xấu ác .
Trong khi đó che lấp quan liên đến bản chất thật tại được đặc biệt định rõ là nguyên nhân của tích tập những hành động hình thành kết quả sinh vào những cõi chuyển cư hạnh phúc.
Trong sự lệ thuộc vào vô minh, những phiền não khác khởi sinh và trong sự lệ thuộc vào các phiền não này mà những hành động nhơ nhuốm bị tích tập.Từ những cái này mà tất cả những đau thương trong sinh tử lưu chuyển sản sinh. Thế nên tất cả những phiền não và những lỗi lầm khởi sinh trong sự lệ thuộc vào vô minh.
[2b] Si, Ngu si.
Si, Ngu si ; delusion; Skt. moha; mudha.
Ngu si. Cũng gọi Si.Vô minh.
Không có trí sáng suốt, ngu tối mê muội, gặp việc không thể phán đoán đúng đắn, là 1 trong 6 phiền não căn bản [tham, sân, si, mạn, nghi, kiến (=ác kiến)].
Kiến chấp có 5 kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.
Si. Đồng nghĩa Vô minh, Vô trí. Ngu si, tên 1 tâm sở, là tác dụng tinh thần của sự ngu muội vô trí, không rõ sự lí.
Theo luận Du già sư địa quyển 86 thì Si còn có các tên gọi khác nữa là: Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Ngu si, Vô minh, Hắc ám,…
[ Phật quang đại từ điển. xb 2000.Thích Quảng Độ dịch.7374 trang]
Si ở trong nhóm 5 phiền não căn bản: tham, sân, si, mạn, nghi . Năm thứ phiền não này thường sai khiến tâm thần hành giả, làm cho trôi nổi, lăn lộn trong ba cõi nên gọi là sử (ngũ độn sử). Trì độn, khó dứt trừ nên gọi là độn sử, tức là phiền não mê lầm với thế giới hiện tượng.
Tham, sân, si, mạn, nghi: attachment, aversion, delusion, pride, doubt.
Si; Ngu si; Ngu si vô trí: delusion
—
13. Ánh sáng
“ chư Phật như mặt trời không bao giờ lặn tắt và chư vị tuyệt vời trong năng lực tuệ quán và trí tuệ siêu việt và đại bi phổ quát.” ( Nguyệt Xứng)
*Ánh sáng vẫn chan hoà vũ trụ :
“ Như vậy ánh sáng là nguồn sống…nếu ánh sáng cho phép chúng ta nhìn thấy thế giới, thì bản thân ánh sáng lại không nhìn thấy được nếu không có các vật trong môi trường chặn đường đi của nó và làm cho nó bộc lộ mình…Tương tự, một nhà thiên văn học nhìn qua cửa sổ của phi thuyền không gian sẽ chỉ thấy không gian sâu thẳm tối đen như mực, mặc dù ánh sáng mặt trời choán đầy xung quanh anh ta. Ánh sáng mặt trời ở đây không đập vào cái gì nên không nhìn thấy được” (Trịnh Xuân Thuận. Những con đường của ánh sáng. Vạt lý và siêu hình học của ánh sáng và bóng tối. p.17)
Vô Minh
Chính sự vô tri / vô minh là bóng tối, vì nó ngăn không cho thấy đạo nghĩa chân thật”. (Thế Thân. Luận Câu Xá. Bản dịch Tuệ Sỹ. trang đầu)
14. Chú thích từ ngữ
elements of existence: các uẩn
The self is the witness of the self in both good and ill: Ngã là sự chiếu soi của ngã trong thiện và ác
They, adjusting to the realm of living beings in which there are 8,400 categories of creature, …
=> creature => creature of habit (often derogative) : a person who cannot easily change the way he/she does things.
derogatory: (formal) that makes someone / something appear poor in quality, bad, important etc : example: ‘Fool’ is a derogatory word
creature of habit: con người tính khí ( người không thể thay đổi đường lối hành động một cách dễ dàng
stem from something: have something as one’s origin
Discussion about this post