cho con biết xuất xứ của giáo lý Tứ y (y pháp bất y
nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh
bất y bất liễu nghĩa kinh), ý nghĩa và phương thức ứng
dụng của giáo lý này trong tu tập.
ĐÁP:
Giáo lý Tứ y, gọi đầy đủ là Tứ y và tứ bất y, tức
bốn điều nên và không nên y cứ, nương tựa. Đây là pháp
phương tiện thù thắng theo quan điểm Phật giáo Bắc truyền,
với mục đích giúp người tu quyết trạch rõ biết pháp nào
nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giải thoát,
giác ngộ.
Tứ
y bao gồm: Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất
y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh. Các kinh
luận Hán tạng đề cập đến Tứ y gồm: Đại Bát Niết
Bàn kinh, q.6; Đại Phương Đẳng Đại Tập kinh, q.29; Đại
Phương Tiện Phật Báo Ân kinh, q.7; Đại Trí Độ luận, q.9
v.v… (Thích Minh Cảnh, Từ điển Phật học Huệ Quang, tr.4904).
Về bản Việt dịch, trong kinh
Đại Bát Niết Bàn, tập 1, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch,
phẩm VIII, Tứ y, NXB Tôn Giáo ấn hành, 2003, trang 186;
giáo lý Tứ y được trình bày chi tiết và cụ thể.
Y
pháp bất y nhân, nghĩa đen là y theo giáo pháp, chẳng y
theo theo người. Theo cách giải thích thông thường, Phật pháp
là chân lý, quý giá và khó gặp, vì thế không nên đối chiếu,
tỵ hiềm nơi tư cách người nói pháp để rồi bỏ lỡ cơ
hội nghe pháp, tự thân mất sự lợi lạc. Cứ y theo giáo
pháp của Phật mà tu hành, người nói ra giáo pháp ấy tốt
hay xấu không quan trọng. Tuy nhiên, kinh Đại Bát Niết Bàn
(Sđd, tr.209) nói cụ thể hơn về vấn đề này, y pháp bất
y nhân có nghĩa là y chỉ vào Pháp tánh tức Phật tánh, Như
Lai vì pháp tánh thường trụ, không y chỉ vào người (nhân)
vì là hữu vi tức vô thường, sanh diệt.
Y
nghĩa bất y ngữ, tạm dịch là y theo nghĩa lý, không y
theo ngôn ngữ văn tự. Phật thuyết pháp với ý nghĩa sâu
xa nhằm biểu đạt và thể nhập chân lý. Ngôn ngữ, văn tự
chỉ là công cụ diễn đạt Trung đạo đệ nhất nghĩa, giúp
người tu nhận ra chân lý để hành trì và thân chứng, bởi
thế không nên bám víu và quá cố chấp vào văn tự, vì “ngôn
dĩ tải đạo” mà thôi.
Y
trí bất y thức, nghĩa là y theo trí tuệ, không y theo vọng
thức phân biệt. Chỉ có trí tuệ mới nhận chân được chân
lý, thực tại còn vọng thức là thấy biết theo nghiệp, có
tính tương đối và đa phần sai lầm. Chỉ có trí tuệ mới
đầy đủ công năng quét sạch phiền não, thanh tịnh ba nghiệp.
Còn thức dẫu thông minh, nhạy bén và lanh lợi đến đâu
đi nữa cũng là sanh diệt, hư vọng và không đủ sức giác
quán để chuyển hóa, diệt trừ phiền não. Vì vậy, “duy
tuệ thị nghiệp” chính là phương châm tu học của hàng
đệ tử Phật.
Y
liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh, có nghĩa là
y theo các kinh điển liễu nghĩa, chẳng y theo các kinh điển
không liễu nghĩa. Theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền,
kinh điển được Phật tuyên thuyết tùy căn cơ chúng sanh
nên có cao thấp, khác biệt. Dù mục tiêu cứu cánh vẫn là
giải thoát sanh tử, song trên tinh thần phương tiện thì những
kinh điển thuyết minh về con đường thể nhập Nhân thừa,
Thiên thừa v.v… được gọi là kinh bất liễu nghĩa (chưa
nói hết ý nghĩa thâm diệu, toàn triệt của giáo pháp). Những
kinh điển chỉ thẳng đến quả vị giải thoát viên mãn (Phật
quả) là kinh liễu nghĩa.[1] Người tu hướng về Vô thượng
Bồ đề, tất nhiên phải y cứ vào kinh liễu nghĩa để hành
trì nhằm thành tựu giác ngộ rốt ráo, thành Phật.
Việc
ứng dụng giáo lý Tứ y vào trong thực tiễn tu tập cực kỳ
quan trọng. Chính giáo lý Tứ y đã vạch ra những yếu tố
quan trọng cần phải nương tựa, y theo và những vấn đề
không nên y cứ, nhằm vượt qua hết thảy chướng ngại để
thành tựu Phật quả. Mặt khác, giáo lý Tứ y là một phương
tiện thù thắng giúp cho người tu vận dụng giáo pháp một
cách thông minh, linh động và nhuần nhuyễn đồng thời khai
thác hết những tinh túy, đặc sắc của giáo lý để ứng
dụng tu tập. Giáo lý Tứ y cũng chỉ là một phương tiện
trong vô vàn phương tiện khác của giáo pháp, vì thế khi ứng
dụng giáo lý Tứ y cũng cần sự linh hoạt, nhất là cần
phải hiểu một cách chính xác (y nghĩa bất y ngữ) vì “y
kinh giải nghĩa tam thế Phật oan”. (Ban Tư Vấn TC. Giác
Ngộ)
Discussion about this post